Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo Bạch Long Vỹ - Hải Phòng

Tài liệu Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo Bạch Long Vỹ - Hải Phòng: Mở đầu 1-TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI. Đất nước ta sau 20 năm đổi mới đã thu được những thành tựu về kinh tế, chính trị, xã hội. Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tới tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước bình quân trong 5 năm 2001 - 2005 là 7.5%/năm và phát triển tương đối toàn diện. Văn hoá và xã hội có nhiều tiến bộ trên nhiều mặt, việc gắn phát triển kinh tế với các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, nhất là trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm ... Ebook Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo Bạch Long Vỹ - Hải Phòng

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1516 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo Bạch Long Vỹ - Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đáng kể từ 10% năm 2000 xuống còn 7% năm 2005, đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện, tuổi thọ bình quân và dân trí được nâng cao. Chính trị xã hội ổn định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được củng cố và nâng cao nhờ đường lối cải cách đúng đắn của Đảng và nhà nước. Tuy nhiên Việt Nam vẫn còn là một trong những nước nghèo, GDP bình quân đầu người còn thấp dưới mức nghèo khổ theo tiêu chuẩn quốc tế. Trình độ phát triển của ta còn thấp hơn nhiều so với các nước trung bình trong khu vực và trên thế giới. Nền kinh tế đang đứng trước những thách thức trong tiến trình hội nhập và phát triển, các dịch vụ xã hội cơ bản chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân như: thiếu trường học phục vụ cho học sinh, nhiều nơi còn học ca 3; trang thiết bị y tế thiếu, lạc hậu không đáp ứng được nhu cầu chữa bệnh, trình độ của nhân viên y tế cần được đào tạo và nâng cao; các hoạt động văn hoá tinh thần cho nhân dân ở vùng sâu, vùng xa còn thiếu; phúc lợi xã hội chưa giúp đỡ được nhiều cho các đối tượng trẻ mồ côi, trẻ lang thang, người già cô đơn; quy mô dân số còn tiếp tục gia tăng, chất lượng dân số chưa cao, phân bố dân số chưa hợp lý vẫn đang là vấn đề lớn đối với sự phát triển bền vững và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vai trò của nguồn nhân lực trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Nguồn nhân lực là một trong những nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Không có sự đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Hướng tới mục tiêu nói trên, với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta từ 2001 - 2010 mà Nghị quyết đại hội IX đã đề ra là: Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Vì vậy để thực hiện được mục tiêu trên thì trước tiên phải nâng cao chất lượng giáo dục, nâng cao sức khoẻ của người dân để tạo ra một lực lượng khoẻ mạnh về thể chất, tinh thần được trang bị những tri thức phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội, đây là mối quan tâm hàng đầu là phương tiện quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vậy, với thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ vùng sâu vùng xa luôn là vấn đề quan tâm của những nhà hoạch định chính sách, nhà xã hội học, nhà dân số học, nhà quản lý xã hội, y tế.... Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chính sách ưu tiên nhằm nâng cao đời sống, sức khoẻ cho đồng bào các dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa cũng như đẩy mạnh sự phát triển toàn diện của miền núi, hải đảo. Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự phát triển về kinh tế, văn hoá - xã hội tại khu vực này vẫn còn thấp hơn nhiều so với các khu vực khác của cả nước. Mức sống thấp, trình độ dân trí chưa được nâng cao, giao thông đi lại khó khăn, điều kiện chăm sóc y tế và phúc lợi xã hội còn thiếu thốn, là những vấn đề bức xúc đang đòi hỏi sự quan tâm, đầu tư nhiều hơn nữa của chính phủ đối với người dân sống ở những vùng khó khăn này. Tăng cường chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ và trẻ em cả nước nói chung, cho miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa nói riêng đang là một vấn đề ưu tiên trong chiến lược chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Những nỗ lực trong việc triển khai các chiến lược quốc gia cũng như các chương trình y tế đã đem lại những cơ hội khả quan cho việc chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ. Tuy nhiên, trong thực tế, không diễn ra một sự phát triển đồng đều giữa các vùng: miền xuôi và miền núi, nông thôn và thành thị, hải đảo và đất liền. Chăm sóc sức khỏe sinh sản là một trong những mục tiêu và là nội dung công tác quan trọng của Uỷ ban Dân số Gia đình và Trẻ em, hiện nay là chức năng của Tổng cục Dân số- Kế hoạch hóa gia đình- (Bộ Y tế). Đối với chiến lược Dân số- Kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản là một bộ phận tối quan trọng. Nó có vai trò quyết định tới sự thành công hay thất bại của chiến lược quốc gia này. Tuy nhiên, ở mỗi địa phương, ở mỗi vùng và ở mỗi dân tộc khác nhau, công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình cũng khác nhau, vì thế kết quả thu được ở mỗi vùng, mỗi tộc người cũng rất khác nhau. Nhìn chung, ở các vùng đô thị, các tỉnh đồng bằng chăm sóc sức khỏe sinh sản, dân số- kế hoạch hóa gia đình đạt kết quả cao hơn nhiều so với vùng núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa. Ở miền núi và hải đảo, do điều kiện tự nhiên và xã hội có nhiều khó khăn như giao thông đi lại khó khăn, các dịch vụ sức khỏe và thuốc men, trang thiết bị y tế còn thiếu, do trình độ dân trí thấp (đặc biệt là phụ nữ) đã hạn chế những cơ hội chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em. Đặc biệt, là vấn đề chăm sóc sức khoẻ sinh sản đối với phụ nữ ở vùng sâu vùng xa, thực trạng mức sinh cao và phong tục tập quán lạc hậu là những nguyên nhân gây lên tình trạng tử vong của sản phụ và trẻ sơ sinh hoặc là ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ của bà mẹ và trẻ em sau này. Bên cạnh đó ở khu vực này hệ thống chăm sóc chăm sóc y tế và dịch vụ cung cấp các biện pháp tránh thai tại đây còn có một khoảng cách khá xa so với tình hình chung của cả nước. Mục tiêu giảm quy mô dân số của chương trình dân số thực hiện tại nơi này còn gặp nhiều khó khăn, do vậy, những vấn đề liên quan đến nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản đang là vấn đề đòi hỏi phải giải quyết lâu dài. Nhận thức được tầm quan trọng cũng như ý nghĩa của vấn đề xã hội trên, tôi chọn đề tài "Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo Bạch Long Vỹ - Hải Phòng ” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. Với mong muốn tìm hiểu thực trạng sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo và các yếu tố tác động đến đời sống sức khỏe sinh sản ra sao, để đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu , từ đó đưa ra các giải pháp đề xuất và kiến nghị với chính quyền địa phương nhằm tháo gỡ, cải thiện và nâng cao đời sống sức khỏe nhân dân địa phương nói chung và chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ huyện đảo nói riêng. 2. Ý NGHĨA LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI. 2.1. Ý nghĩa lý luận khoa học. Nghiên cứu xã hội học về "Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo Bạch Long Vỹ - Hải Phòng” nhằm tìm hiểu thực trạng chăm sóc sức khỏe cũng như chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ vùng sâu, vùng xa. Tìm hiểu xem mức độ họ nhận thức, thái độ và hành vi của họ với công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, yếu tố nào tác động đến việc chăm sóc sức khỏe sinh sản của họ. Qua đó làm sáng tỏ hơn cho một số lý thuyết xã hội học như lý thuyết hành động xã hội của Max Weber, lý thuyết giới (Thuyết nữ quyền cấp tiến). Đồng thời từ nghiên cứu này có tác dụng đóng góp những tri thức, kinh nghiệm thực tiễn để kiểm nghiệm, minh họa tính tương thích của lý thuyết và thực tiễn xã hội, làm sáng tỏ, củng cố và hoàn thiện thêm một số lĩnh vực nghiên cứu xã hội học và sức khỏe/ sức khỏe sinh sản. 2.2. Ý nghĩa thực tiễn. Nghiên cứu về sức khỏe sinh sản của phụ nữ vùng sâu, vùng xa có một ý nghĩa hết sức thiết thực. Một mặt nó chỉ rõ hiện trạng nhận thức của phụ nữ vùng sâu vùng xa về các vấn đề sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản đã đầy đủ, toàn diện chưa hay hiểu biết chưa đầy đủ, thậm chí còn hiểu sai lệch. Mặt khác, nghiên cứu giúp chỉ rõ các nguồn tiếp cận thông tin và dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ vùng sâu vùng xa thực tế như thế nào. Từ đó đưa ra một số giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo, thay đổi hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản và nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng như dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ vùng sâu, vùng xa. 3- MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. Mục tiêu cụ thể của cuộc nghiên cứu này nhằm: -> Tìm hiểu thực trạng mức độ nhận thức về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo hiện nay như thế nào và từ nhận thức đó họ hành động ra sao, thực trạng hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản của họ có liên quan như thế nào tới sức khỏe sinh sản của họ. -> Tìm hiểu các yếu tố tác động đến việc chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo, nguyện vọng của phụ nữ huyện đảo với công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản ở địa phương, nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản. -> Đưa ra một số giải pháp, khuyến nghị phù hợp giúp nâng cao nhận thức, làm thay đổi hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản theo hướng tích cực, tăng cường nâng cao chất lượng dịch vụ Ytế cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ huyện đảo. 4- ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU. 4.1. Đối tượng nghiên cứu. Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ. 4.2. Khách thể nghiên cứu. Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đã kết hôn và chưa kết hôn. 4.3. Phạm vi nghiên cứu. Về không gian: Huyện đảo Bạch Long Vĩ – Hải Phòng. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 01/ 2008 đến tháng 05/2008. Giới hạn các vấn đề nghiên cứu về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản; do hạn chế về thời gian và nhận thức cho nên trong khuôn khổ khóa luận tốt nghiệp chỉ đề cập nghiên cứu tới một số khía cạnh cơ bản nhất của chăm sóc sức khỏe sinh sản như: nhận thức về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản; nhận thức và sử dụng các biện pháp tránh thai; tình hình chăm sóc thai nghén và sinh đẻ; tình hình trẻ em chết chu sinh; tình hình nạo phá thai và nhiễm khuẩn đường sinh sản. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 5.1 Phương pháp luận. * Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Theo phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng yêu cầu phải nhìn các sự vật hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng. Nghĩa là phải nhìn mọi sự vật, hiện tượng không tồn tại riêng biệt tách rời mà luôn luôn trong mối quan hệ tương tác quyết định lẫn nhau. Trong quá trình xem xét, đánh giá mọi hiện tượng, sự kiện xã hội phải đặt trong mối quan hệ toàn diện với điều kiện kinh tế- xã hội đang vận động, biến đổi trên địa bàn nghiên cứu. Trong đề tài nghiên cứu này, khi tìm hiểu về thực trạng nhận thức và hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ chúng ta phải đặt trong bối cảnh kinh tế- xã hội nước ta ở thời điểm hiện tại. Các giá trị mới của xã hội hiện đại, sự hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, sự toàn cầu hóa đang tác động lên mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có người phụ nữ. * Chủ nghĩa duy vật lịch sử: Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử yêu cầu người nghiên cứu khi nghiên cứu các sự vật, hiện tượng xã hội cần phải đặt trong một giai đoạn lịch sử nhất định, trên quan điểm kế thừa và phát triển. Nghiên cứu này được xuất phát từ thực tế lịch sử xã hội cụ thể ở trong mỗi giai đoạn trong sự phát triển của nó, và thực tế lịch sử này được xem xét như cơ sở mục tiêu, tiêu chuẩn của thông tin thực nghiệm. Nghiên cứu này đặt thực trạng nhận thức và hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ vùng hải đảo trong bối cảnh xã hội Việt Nam đang trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Nền kinh tế thị trường với tác động tích cực làm cho đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta cũng bộc lộ nhiều vấn đề xã hội ảnh hưởng đến công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là nhóm xã hội dễ bị tổn thương như phụ nữ và trẻ em. 5.2 Những phương pháp thu thập thông tin. 5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu. Phân tích tài liệu là phương pháp thu thập thông tin gián tiếp thông qua nguồn tài liệu có sẵn. Những nguồn tài liệu này đã có trước khi nghiên cứu. Để báo cáo thực tập được hoàn thiện đầy đủ nội dung và thông tin phong phú, cá nhân đã khai thác thu thập và xử lý thống kê được từ nhiều nguồn khác nhau. Phương pháp phân tích tài liệu là một phương pháp quan trọng trong nghiên cứu của đề tài. Tài liệu thu thập được từ các báo cáo tổng kết năm của Huyện ủy, Uỷ ban Nhân dân huyện Bạch Long vĩ phản ánh tình hình kinh tế- xã hội của huyện đảo. Ngoài ra, còn sử dụng một số tài liệu của Trung tâm Ytế huyện; số liệu thống kê của Hội liên hiệp phụ nữ huyện trong 03 năm trở lại đây và sử dụng một số tài liệu liên quan tới sức khỏe sinh sản của phụ nữ như Tạp chí xã hội học, Tạp chí dân số và phát triển, tài liệu chuyên ngành dân số, Ytế… Các thông tin trong các tài liệu này được xử lý, phân tích và nêu ra nhằm giải quyết các vấn đề trong giả thuyết nghiên cứu. 5.2.2. Phương pháp quan sát. Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu địa bàn thông qua tri giác trực tiếp về huyện đảo Bạch Long Vĩ, về người phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ để có những thông tin độ chính xác cao, bản thân quan sát ghi nhận đầy đủ qua quan sát thấy được. Những thông tin này được bổ sung làm cho thông tin thu được qua các tài liệu đầy đủ hơn. 5.2.3. Phương pháp tiếp cận phỏng vấn sâu cá nhân. Cuộc nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp phỏng vấn sâu. Những vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu được soạn thảo chi tiết thành một đề cương để người phỏng vấn sử dụng trong quá trình tiến hành các cuộc phỏng vấn. Đây là những phỏng vấn để xem xét nghiên cứu một cách sâu sắc có căn cứ và cũng là để hiểu sâu bản chất nguồn gốc của vấn đề đang nghiên cứu. Phương pháp này phục vụ cho việc khai thác sâu các thông tin định tính như nhận thức và hành vi của phụ nữ về chăm sóc sức khỏe sinh sản, đánh giá của họ về những người xung quanh cũng như thái độ của chị em phụ nữ khi nói đến chuyện chăm sóc sức khỏe sinh sản. Phỏng vấn sâu ở đây đã được tiến hành tới 30 người, gồm: một số cán bộ chủ chốt thuộc các ngành văn hoá, Ytế, giáo dục và xã hội, người đứng đầu các đoàn thể xã hội, chị em phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ trên địa bàn huyện. Phỏng vấn sâu ở đây còn có ý nghĩa minh hoạ và khẳng định kết quả nghiên cứu bởi những thông tin qua phân tích tài liệu, qua quan sát địa bàn huyện đảo trong những năm gần đây. 6- GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU VÀ KHUNG LÝ THUYẾT. 6.1.Giả thuyết nghiên cứu. -> Nhận thức và hành vi của phụ nữ huyện đảo hiện nay về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản có hơn trước nhưng còn sơ sài, chưa đầy đủ. -> Có sự khác biệt về mức độ nhận thức và hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản giữa các nhóm xã hội. -> Các yếu tố điều kiện tự nhiên, kinh tế, phong tục, tập quán có ảnh hưởng lớn tới hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo. 6.2.Khung lý thuyết. Điều kiện kinh tế- xã hội Nhận thức và sử dụng các biện pháp tránh thai Vị trí địa lý Nhận thức về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản Tình hình chăm sóc thai nghén và sinh đẻ Thực trạng chăm sóc SKSS của phụ nữ Trình độ học vấn, tuổi, nghề nghiệp Tình hình nạo phá thai Chất lượng dịch vụ Ytế Tình hình trẻ em chết chu sinh Tình hình nhiễm khuẩn đường sinh sản Phong tục tập quán CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN. 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu. Nghiên cứu về sức khỏe sinh sản, được tiến hành rất sớm trên thế giới, chủ yếu ở các quốc gia phát triển như Mỹ và châu Âu. Ở Việt Nam, do chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn hóa phương Đông, đặc biệt là Nho giáo cho nên các vấn đề về sinh sản, tình dục, quan hệ nam nữ ít được đề cập. Vì vậy, nghiên cứu về sức khỏe sinh sản là lĩnh vực mới được nghiên cứu ở nước ta. Ở Việt Nam, ngay từ những năm 1960, nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của vấn đề dân số trong sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội. Chính phủ Việt Nam đã luôn dành sự quan tâm thích đáng cho công tác Dân số- Kế hoạch hóa gia đình. Đặc biệt từ khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, trên cơ sở đặt “ Công tác Dân số - kế hoạch hóa gia đình là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước”, vấn đề này được coi như một trong những vấn đề kinh tế-xã hội hàng đầu, một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội. Công tác Dân số - kế hoạch hóa gia đình đã huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân và tranh thủ được sự giúp đỡ ngày càng tăng và có hiệu quả của cộng đồng quốc tế. Bằng những giải pháp hữu hiệu, các hoạt động tuyên truyền, giáo dục được mở rộng và từng bước nâng cao chất lượng các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, chú trọng đến các vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo, do đó nhận thức của các tầng lớp nhân dân về kế hoạch hóa gia đình, sức khỏe sinh sản ngày càng được nâng cao, tỷ lệ giảm sinh rất nhanh. Tuy nhiên, những mục tiêu của chương trình Dân số- kế hoạch hóa gia đình mới chỉ chú trọng về số lượng như giảm tỷ lệ sinh, tăng tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai ( chỉ tập trung vào phụ nữ và biện pháp đặt vòng) mà chưa chú trọng vào chất lượng dân số. Vấn đề giáo dục tình dục, tư vấn kế hoạch hóa gia đình chưa được tập trung và đầu tư đúng mức, kỹ năng tư vấn còn đơn giản. Vấn đề sức khỏe sinh sản vị thành niên chưa được chú ý quan tâm đúng mức. Do lối sống truyền thống của người Á Đông và do nhận thức chưa đầy đủ về quy mô gia đình nhỏ, đồng thời cũng do chưa tuyên truyền, phổ biến rộng khắp về tác dụng, tính ưu việt của các biện pháp tránh thai hiện đại như là một phương pháp kế hoạch hóa gia đình . Do đó, Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ phụ nữ nạo phá thai cao nhất thế giới. Các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, nhiễm khuẩn HIV/AIDS còn nhiều tồn tại, ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe bà mẹ trẻ em. Điều đáng lo ngại hiện nay là tình trạng nạo phá thai ở lứa tuổi vị thành niên ngày một phổ biến, tình hình nhiễm khuẩn đường sinh sản và các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục ngày càng tăng… Ngoài những vấn đề nêu trên, vấn đề sức khỏe sinh sản ở Việt nam còn phải đối mặt với vấn đề vô sinh, ung thư vú và ung thư đường sinh sản. Những vấn đề đó cần được các cơ sở y tế quan tâm tạo điều kiện chăm sóc tốt hơn nhằm nâng cao sức khỏe cho phụ nữ. Trong " Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản giai đoạn 2001- 2010" đã đánh giá về tình hình sức khỏe sinh sản, công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản và đưa ra quan điểm, mục tiêu đó là: - Đầu tư cho sức khỏe nói chung và sức khỏe sinh sản cũng là đầu tư cho phát triển. - Đảm bảo sự công bằng, làm cho mọi người đều được tiếp cận với các thông tin và dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản/ kế hoạch hóa gia đình có chất lượng, phù hợp với điều kiện kinh tế của xã hội, đặc biệt chú ý các đối tượng bị thiệt thòi, người nghèo, người có công với nước, các vùng sâu, vùng xa và vùng có nguy cơ cao về môi trường. - Thực hiện bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản, tăng cường vai trò của ngừơi phụ nữ trong quá trình ra quyết định về các vấn đề có liên quan đến chăm sóc sức khỏe sinh sản, đề cao vai trò và trách nhiệm của nam giới trong việc chia sẻ với phụ nữ thực hiện kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc sức khỏe sinh sản. - Dự phòng tích cực và chủ động trong mọi khâu của chăm sóc sức khỏe sinh sản. - Kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc trong chăm sóc sức khỏe sinh sản. - Chăm sóc sức khỏe sinh sản là sự nghiệp chung của toàn xã hội, là trách nhiệm của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng, của các cấp ủy Đảng, chính quyền cũng như của các ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội và nghề nghiệp. Với mục tiêu chung là: Bảo đảm đến năm 2010 tình trạng sức khỏe sinh sản được cải thiện rõ rệt và giảm được sự chênh lệch giữa các vùng và các đối tượng bằng cách đáp ứng tốt hơn những nhu cầu đa dạng về chăm sóc sức khỏe sinh sản ứng với các giai đoạn của cuộc sống và phù hợp với điều kiện của các cộng đồng ở các địa phương, đặc biệt chú ý đến các vùng và đối tượng có khó khăn. Nghiên cứu về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản từ trước tới nay luôn được mọi người quan tâm và coi đó là một việc làm cần thiết. Bởi lẽ, sức khỏe của nhân dân nói chung, người phụ nữ nói riêng là hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng tới mọi yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Sức khỏe là vốn quý nhất của con người, con người lại liên quan chặt chẽ với môi trường. Một môi trường lành mạnh, trong sạch là rất cần thiết cho sức khỏe và hạnh phúc của con người. Phụ nữ có vai trò quan trọng trong mối quan hệ với môi trường và sự phát triển. Phụ nữ không chỉ là người sản xuất ra của cải vật chất của xã hội mà còn là người duy trì cuộc sống của gia đình và xã hội, đồng thời họ còn là những người phải chịu hậu quả của sự suy thoái môi trường và do đó, họ là những thành viên không thể thiếu trong việc quản lý môi trường. Phụ nữ có vai trò là tác nhân quan trọng để đạt được sự phát triển bền vững, nhất là trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Chính vì lẽ đó, các tác giả của cuốn sách “Phụ nữ, sức khỏe và môi trường” (Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường trong phát triển) do nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2001 đã tập trung nghiên cứu vào vấn đề mối liên quan điều kiện, môi trường làm việc với sức khỏe lao động nữ, đặc biệt quan tâm nghiên cứu sức khỏe sinh sản của phụ nữ, nghiên cứu nhận thức, thái độ và hành vi phòng ngừa bảo vệ sức khỏe nói chung, sức khỏe sinh sản nói riêng của phụ nữ. Một công trình nghiên cứu đáng chú ý là “ Phân tích tình hình phụ nữ và trẻ em của UNICEP” đã phản ánh tình hình kinh tế- xã hội của Việt Nam có ảnh hưởng đến hệ thống chăm sóc sức khỏe và tình trạng sức khỏe của phụ nữ và trẻ em việt Nam. Tại Hội nghị Dân số thế giới Cairo (Ai cập) và hội nghị phụ nữ thế giới lần thứ tư được tổ chức ở Bắc kinh (Trung quốc) các đại biểu của nhiều quốc gia đã nhất trí cho rằng bình đẳng giới và vấn đề sức khỏe sinh sản của phụ nữ có mối liên quan mật thiết với nhau. Đây là một trong những vấn đề then chốt để đánh giá những tiến bộ của từng nước đối với vấn đề phụ nữ. Ở Việt Nam, vấn đề này chưa có một nghiên cứu chuyên biệt, các chương trình về kế hoạch hóa gia đình người phụ nữ luôn luôn bị coi là đối tượng chính của công tác này. Vì thế, các số liệu thống kê về công tác kế hoạch hóa gia đình ở Việt Nam đã nảy sinh hàng loạt vấn đề liên quan tới sức khỏe sinh sản của phụ nữ. Với những nội dung trên đã gợi mở hướng nghiên cứu thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo Bạch Long Vĩ- Hải Phòng, và các yếu tố ảnh hưởng đến việc chăm sóc sức khỏe sinh sản của họ. Như vậy, kết quả nghiên cứu đề tài này đối với một huyện đảo cách xa đất liền là rất hữu ích và cần thiết. 2. Một số khái niệm công cụ 2.1 Khái niệm về sức khỏe- sức khỏe sinh sản. * Khái niệm về sức khỏe: Từ xưa tới nay người ta thường quan niệm rằng sức khỏe có nghĩa là cơ thể không có bệnh tật và ngành Ytế là ngành chuyên chữa bệnh. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì sức khỏe bao gồm sự lành mạnh cả về thể xác lẫn tinh thần. Người định nghĩa “ ngày nào cũng tập thể dục thì khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ, như vậy là sức khỏe”. Từ khi tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã nhấn mạnh đến khái niệm sức khỏe và đã đưa ra một định nghĩa về sức khỏe là “ một trạng thái thoải mái, đầy đủ về thể chất, tâm thần và xã hội, sức khỏe không bó hẹp vào nghĩa không có bệnh hay thương tật”. Khái niệm này được xây dựng trên quan điểm dự phòng, sức khỏe là yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới đời sống sinh hoạt, lao động, học tập của con người, ảnh hưởng tới đời sống hoạt động sản xuất vật chất, tinh thần, sản xuất nòi giống của xã hội. Không có sức khỏe thì không thể lao động có năng xuất cao, ngược lại sức khỏe phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nó là khái niệm tổng hợp, đòi hỏi sự tham gia đóng góp của toàn xã hội và sự tham gia của bản thân mỗi cá nhân, của mỗi cộng đồng nhất định. Mỗi cá nhân phải có kiến thức, hiểu biết để hành động và ứng xử hợp lý, tạo ra sức khỏe cho bản thân và gia đình. Tại Hội nghị AlmaAta năm 1978 của tổ chức ytế thế giới, Hội nghị đã đưa ra định nghĩa về sức khỏe như sau: “ Sức khỏe là một tình trạng hoàn toàn thoải mái về thể chất, tâm thần và xã hội biểu hiện không chỉ qua việc không mắc bệnh hoặc không ốm yếu”. * Khái niệm sức khỏe sinh sản: Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển ICPD tại Cairo (Ai cập) năm 1994 đã đưa ra định nghĩa về sức khỏe sinh sản như sau: “ Sức khỏe sinh sản là một tình trạng hoàn chỉnh về thể chất, tinh thần và phúc lợi xã hội mà không chỉ đơn thuần là không có bệnh hoặc tàn tật, trong mọi vấn đề nó liên quan đến hệ thống sinh sản, những chức năng và quá trình của nó. Vì vậy, sức khỏe sinh sản hàm ý là những người có một cuộc sống tình dục thỏa mãn và an toàn và họ có khả năng sinh con cũng như tự do quyết định khoảng cách giữa các đứa con. Hàm ý của điều kiện cuối cùng là phụ nữ và nam giới phải được thông tin, được lựa chọn các phương pháp kế hoạch hóa gia đình an toàn, hiệu quả và có thể chấp nhận được cũng như những phương pháp khác họ lựa chọn sinh sản mà không đi ngược lại luật pháp và quyền có được những dịch vụ chăm sóc sức khỏe thích hợp. Như vậy, nó sẽ làm cho phụ nữ an toàn khi có thai và sinh con, đồng thời tạo cho những cặp vợ chồng một cơ hội tốt nhất để có được những đứa con khỏe mạnh”. (Tạp chí khoa học về phụ nữ. số 4.1996). Theo định nghĩa trên thì sức khỏe sinh sản bao gồm hai khía cạnh, một khía cạnh là những vấn đề liên quan đến hệ thống sinh sản, những chức năng và quá trình của nó như mang thai, sinh con… Mặt khác, sức khỏe sinh sản còn là vấn đề liên quan đến quyền lựa chọn các biện pháp tránh thai, quyền được tiếp cận thông tin với những phương pháp khác mà cả hai lựa chọn. Như vậy, có thể nói khía cạnh thứ nhất hàm ý những vấn đề liên quan đến bản năng sinh học của con người đối với quá trình sinh sản; khía cạnh thứ hai đề cập đến quyền được quyết định của con người đối với quá trình đó. Nội dung chính của sức khỏe sinh sản bao gồm các yếu tố sau: 1.Làm mẹ an toàn 2.Kế hoạch hóa gia đình 3.Nạo hút thai 4.Bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản 5.Các bệnh lây qua đường tình dục 6. Giáo dục tình dục 7.Phát hiện sớm ung thư vú và đường sinh sản 8.Vô sinh 9.Sức khỏe vị thành niên 10.Giáo dục, truyền thông về sức khỏe sinh sản- kế hoạch hóa gia đình Như vậy, sức khỏe sinh sản chỉ là một thành tố trong sức khỏe của con người, song vai trò của nó rất quan trọng, nó không chỉ tác động tới thế hệ hiện tại mà tác động cả tới thế hệ tương lai. Các vấn đề về sức khỏe sinh sản trở nên rất quan trọng đối với người phụ nữ, vì người phụ nữ có vai trò rất quan trọng trong việc tái sản xuất xã hội. Cho nên, những kiến thức về sức khỏe sinh sản không những ảnh hưởng trực tiếp tới bản thân họ mà còn ảnh hưởng tới gia đình và cuộc sống tương lai. 2.2 Khái niệm về chăm sóc sức khỏe- chăm sóc sức khỏe sinh sản. * Khái niệm chăm sóc sức khỏe: Theo Hội nghị y tế thế giới AlmaAta thì chăm sóc sức khỏe là những chăm sóc thiết yếu với kỹ thuật thích hợp được mang tới cho mỗi người trong mọi gia đình, được cộng đồng chấp nhận và tham gia với những chi phí rẻ nhất. Do đó, chăm sóc sức khỏe là sự thường xuyên quan tâm làm một việc nào đó, chăm sóc sức khỏe chính là hoạt động thường xuyên, liên tục để đạt đến một trạng thái hoàn hảo về sức khỏe, đó là sự sảng khoái về thể chất, tinh thần và các quan hệ xã hội. Hoạt động này có thể là tự bản thân chăm sóc hoặc là sự quan tâm, giúp đỡ của người khác. Trong Hội nghị AlmaAta cũng đã nêu ra khái niệm về chăm sóc sức khỏe ban đầu như sau: “ Chăm sóc sức khỏe ban đầu là những sự chăm sóc thiết yếu xây dựng trên những phương pháp và kỹ thuật thực hành, có cơ sở khoa học và chấp nhận được về mặt xã hội; có thể phổ biến rộng rãi cho tất cả các cá nhân và gia đình của cộng đồng xã hội cùng tham gia đầy đủ: với một giá mà cộng đồng nước đó có thể chịu đựng được ở một giai đoạn phát triển của họ và theo tinh thần tự giác, tự nguyện”. * Khái niệm chăm sóc sức khỏe sinh sản: Chăm sóc sức khỏe sinh sản là một tổng thể các biện pháp, kỹ thuật và dịch vụ góp phần nâng cao sức khỏe và hạnh phúc bằng cách phòng ngừa và giải quyết những vấn đề về sức khỏe sinh sản. nó bao gồm : sức khỏe tình dục với mục đích đề cao cuộc sống và các mối quan hệ riêng tư, tư vấn, chăm sóc liên quan đến vấn đề sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Những vấn đề chung áp dụng chuẩn quốc gia về dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản của Bộ Ytế: - Đảm bảo sự chấp nhận của hai bên cung và cầu các tiêu chuẩn quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản. - Thực hiện tốt mối quan hệ giữa người cung cấp dịch vụ và cộng đồng ở các tuyến (Xã, Huyện, Tỉnh, Trung ương). - Đảm bảo đúng về mặt nguyên tắc, yêu cầu, kỹ năng và các bước tư vấn trong chăm sóc sức khỏe sinh sản. - Thực hiện đúng nguyên tắc truyền máu và các dịch vụ thay máu an toàn trong sản phụ khoa. - Hướng dẫn sử dụng kháng sinh an toàn, đảm bảo cung cấp đầy đủ các thuốc thiết yếu ở tất cả các tuyến cũng như các nguyên tắc vô khuẩn trong dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản. Làm mẹ an toàn: Đảm bảo các chuẩn cho Trạm Y tế về chăm sóc sức khỏe sinh sản sản phụ trước, trong và sau khi đẻ, các bất thường trong thai nghén và chuyển dạ. Kế hoạch hóa gia đình: - Đảm bảo 10 quyền cơ bản của khách hàng bao gồm: Quyền được thông tin, tiếp cận dịch vụ và tự do lựa chọn các biện pháp tránh thai, từ chối hoặc chấm dứt biện pháp tránh thai, nhận dịch vụ an toàn, đảm bảo bí mật, kín đáo, được tiếp nhận hoặc thoải mái khi tiếp nhận dich vụ, được tôn trọng, được bày tỏ ý kiến. - Bảo đảm những phẩm chất cần thiết của người tư vấn bao gồm: có kiến thức chuyên môn, tôn trọng, thông cảm, thấu hiểu và thành thật với khách hàng, thông tin rõ ràng, có trọng tâm cho khách hàng. - Cung cấp đủ thông tin về các phương pháp và dụng cụ, thuốc tránh thai, các biện pháp triệt sản nam và nữ. - Đảm bảo chuẩn quốc gia về các phòng kế hoạch hóa gia đình bao gồm: Cơ sở kỹ thuật, nghiệp vụ, dụng cụ, phương tiện, hậu cần, nơi tư vấn. Nhiễm khuẩn đường sinh sản và bệnh lây truyền qua đường tình dục: Đảm bảo các chuẩn về khai thác thông tin tiền sử, bệnh sử, lâm sàng, chẩn đoán, xét nghiệm hỗ trợ đánh giá nguy cơ nhiễm khuẩn, tư vấn về phòng và điều trị. Sức khỏe sinh sản vị thành niên: Đảm bảo các chuẩn về dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản (cả phòng và chữa bệnh) cho vị thành niên (đã kết hôn và chưa kết hôn). Các dịch vụ bao gồm: Tư vấn về sức khỏe sinh sản, về tình dục, các biện pháp tránh thai, thăm khám, chăm sóc sức khỏe vị thành niên mang thai, sinh đẻ, phá thai an toàn và xử lý tốt các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản và lây truyền qua đường tình dục. Phá thai._. an toàn: Đảm bảo chuẩn quốc gia về dịch vụ phá thai an toàn bao gồm: Tư vấn và việc sử dụng các phương pháp kỹ thuật về việc phá thai an toàn. Các chuẩn quốc gia về kiến thức, kỹ năng, trình độ chuyên môn của người tư vấn và cán bộ y tế, điều kiện thuốc men, trang thiết bị kỹ thuật, cơ sở y tế, phòng khám thai và sự phân tuyến phục vụ theo các loại đối tượng khác nhau. 3.Một số lý thuyết xã hội học vận dụng vào đề tài. *Lý thuyết hành động xã hội của Max Weber: Theo MaxWeber: Hành động xã hội là hành động được chủ thể gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan nào đó, là hành động có tính đến hành vi của người khác và khi nó tương quan, định hướng vào hành động của người khác theo ý đã được nhận thức bởi chủ thể hành động trong đường lối, trong quá trình của nó. Có thể thấy hành động xã hội luôn gắn với tính tích cực của các cá nhân. Tính tích cực này lại bị quy định bởi hàng loạt các yếu tố như: nhu cầu, lợi ích, định hướng giá trị của chủ thể. Hành động xã hội còn chịu sự tác động của điều kiện hoàn cảnh bên ngoài, nó có thể được mô hình hóa như sau: Hoàn cảnh Mục đích Công cụ phương tiện Chủ thể Động cơ Nhu cầu Max Weber đã phân biệt 4 loại hành động xã hội như sau: +Hành động duy lý- công cụ: Là hành động được thực hiện với sự cân nhắc, tính toán, lựa chọn công cụ, phương tiện, mục đích sao cho có hiệu quả cao nhất. + Hành động duy lý- giá trị: Là hành động có tính định hướng giá trị, thực hiện vì mục đích tự thân. + Hành động duy cảm (Cảm xúc): Là hành động do các trạng thái cảm xúc hoặc tình cảm bột phát gây ra, mà không có sự cân nhắc, xem xét, phân tích mối quan hệ giữa công cụ, phương tiện và mục đích hành động. + Hành động duy lý theo truyền thống: Là loại hành động tuân thủ những thói quen, nghi lễ, phong tục, tập quán đã được truyền lại từ đời này qua đời khác. Trong xã hội thì các loại hành động xã hội luôn có sự đan xen, không có sự phân biệt rạch ròi cho từng hành động của mỗi chủ thể. Áp dụng lý thuyết hành động xã hội của MaxWeber vào trong vấn đề nghiên cứu Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo Bạch Long Vỹ qua việc phân tích nhận thức, thái độ và một số hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ nhằm giải thích và đánh giá tình hình chăm sóc sức khoẻ của người phụ nữ. Yếu tố nào là chủ yếu tác động, chi phối hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản, đó là các yếu tố quan niệm truyền thống trong xã hội; điều kiện kinh tế xã hội ngày một nâng cao; sự xã hội hóa về Y tế và chăm sóc sức khỏe. * Lý thuyết giới- Thuyết nữ quyền cấp tiến: Khái niệm “giới” là một thuật ngữ xã hội học bắt nguồn từ môn nhân loại học nói đến vai trò trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ, bao gồm việc phân chia lao động, các kiểu phân chia, các nguồn và lợi ích. Giới đề cập đến các quy tắc tiêu chuẩn theo nhóm tập thể chứ không theo thực tế cá nhân. Vai trò giới được xác định theo văn hóa, không theo khía cạnh sinh vật học và có thể thay đổi theo thời gian, theo các xã hội và các vùng địa lý khác nhau. Khi sinh ra chúng ta không mang theo những đặc tính giới mà chúng ta học được những đặc tính giới từ gia đình, xã hội và nền văn hóa của chúng ta. Quan điểm chính của thuyết nữ quyền cấp tiến là: hệ thống nam trị là căn nguyên của áp bức phụ nữ. Đây là hệ thống riêng biệt với các chính quyền kể cả chính quyền tư sản. Phụ nữ là một giai cấp khác với nam giới và chính hệ thống nam trị đã tồn tại từ thời chiếm hữu nô lệ tới nay mặc dù cơ chế chính trị có đổi thay. Vì vậy, phân tích theo kiểu của các nhà nữ quyền tự do và nữ quyền mácxít đều chưa đầy đủ. Theo họ, đây là một hệ thống quyền lực, tôn ti thứ bậc và cạnh tranh. Cần phải xóa bỏ nó mà không thể cải cách vì xét về bản chất nó đã bắt rễ rất sâu vào xã hội. Đặc biệt quyền lực của nó không chỉ trong các cơ cấu pháp lý và chính trị mà còn trong cả các thiết chế xã hội, văn hóa (văn hóa phụ quyền trong gia đình, nhà thờ và viện hàn lâm). Vì vậy, nếu chỉ thủ tiêu xã hội có giai cấp thì vẫn không thủ tiêu được chủ nghĩa nam trị. Họ cho rằng phụ nữ là nhóm bị áp bức đầu tiên và rất sâu sắc nhưng cả nạn nhân lẫn người gây ra đều khó nhận ra vì nó tồn tại không chỉ trong xã hội mà còn trong gia đình, nơi có những quan hệ đặc biệt và thân thiết. Quan điểm của thuyết này là xoay quanh vai trò giới của phụ nữ, đặc biệt là vai trò tái sản xuất và tính dục. Các nhà nữ quyền cấp tiến nghi ngờ cái khái niệm “trật tự tự nhiên” về sinh học giữa nam và nữ khi một số quan điểm cho rằng: do sinh học nên phụ nữ có trách nhiệm sinh sản, phụ nữ phải có những tính cách chịu đựng và giữ gìn nữ tính của họ. Nữ quyền cấp tiến đã phản đối quan điểm: sinh ra là phận gái và phụ nữ không phải chịu mọi sự bất công vì sự khác biệt giới tính bởi lẽ họ không hề được chọn giới tính của mình. Phụ nữ cần vượt qua những hậu quả tiêu cực của sinh học đối với họ. Sự áp bức của nam giới còn tập trung ở chỗ họ kiểm soát thân thể, vai trò tình dục, sinh đẻ và nuôi dưỡng con cái của phụ nữ để phục vụ những nhu cầu, mong muốn và lợi ích của mình (như vấn đề tránh thai, triệt sản, nạo thai). Trong khi đó, nam giới đánh giá thấp những phẩm chất nữ và chính điều này đã sản sinh ra sự áp bức phụ nữ. Các nhà cấp tiến đã tập trung vào các quan hệ tái sản xuất, chứ không phải quan hệ sản xuất là động lực của lịch sử. Từ quan điểm này, các nhà nữ quyền cấp tiến đã cổ vũ cho việc phụ nữ cần chủ động trong đời sống tình dục của mình để được giải phóng.Thông qua chế độ độc thân, tự làm tình hoặc đồng tính. Một phụ nữ có thể được hưởng thụ sự bình đẳng, tự do trong tình dục với những khoái lạc thực sự. Gần đây họ có sự thay đổi, họ cho rằng phụ nữ cũng được tự do tình dục như nam giới và họ phản đối việc kiểm soát thân thể phụ nữ của nam giới (như vấn đề tránh thai, triệt sản, nạo thai). Áp dụng lý thuyết giới- Thuyết nữ quyền cấp tiến vào trong vấn đề nghiên cứu Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo Bạch Long Vỹ qua việc phân tích nhận thức, sự quan tâm của nam giới với vẫn đề chăm sóc sức khỏe sinh sản, nhằm giải thích và đánh giá tình hình thực hiện bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản, tăng cường vai trò của người phụ nữ trong quá trình ra quyết định về các vấn đề có liên quan tới sức khỏe sinh sản, đề cao vai trò trách nhiệm của nam giới trong việc chia sẻ với phụ nữ thực hiện kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc sức khỏe sinh sản. 4. Thực tiễn tình hình chăm sóc sức khỏe sinh sản ở huyện đảo Bạch Long Vĩ. 4.1 Đặc điểm tự nhiên- kinh tế- văn hóa- xã hội của huyện đảo Bạch Long Vỹ. Huyện đảo Bạch Long Vĩ được thành lập theo Nghị định số 15/NĐ-CP/1992 của chính phủ, là huyện trực thuộc Thành phố Hải Phòng, có vị trí địa lí xa nhất trong các đảo ở phía Bắc, nằm ở trung tâm vịnh Bắc bộ cách đất liền một khoảng cách 132 hải lý. Tuy diện tích nhỏ(hơn 2km2) nhưng huyện đảo có tầm quan trọng trong chiến lược biển của Đảng và Nhà nước ta. Qua 15 năm xây dựng và phát triển được sự quan tâm đầu tư đúng mức của Trung ương và Thành phố Hải phòng, Quân và Dân huyện đảo đã đoàn kết phấn đấu xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh tế xã hội phát triển. Đời sống nhân dân dần ổn định, quốc phòng an ninh vững mạnh, bộ máy Đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc hoạt động có hiệu quả tạo môi trường điều kiện thuận lợi thu hút ngư dân hội tụ đến khai thác vùng biển đảo giàu tiềm năng, tạo đà đưa huyện đảo phát triển bền vững, “ Sớm trở thành Trung tâm chế biến dịch vụ hậu cần nghề cá cho các tỉnh ven biển Bắc bộ” trước năm 2020. * Về bộ máy hành chính: Đảng bộ huyện có 120 đảng viên, có 11 chi bộ và 01 đảng bộ trực thuộc. Cán bộ, đảng viên được rèn luyện trong thử thách khó khăn, đoàn kết, vững vàng kiên định hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Đảng bộ huyện luôn được đánh giá là Đảng bộ trong sạch vững mạnh, hoàn thành suất sắc nhiệm vụ. Bộ máy hành chính huyện không phân cấp thành các xã, có 04 khu dân cư và các đơn vị trực thuộc huyện; bộ máy hành chính gọn nhẹ, cán bộ kiêm nhiệm nhiều chức năng. Bao gồm: Khối các phòng ban chuyên môn gồm 07 phòng ban; khối nội chính gồm có Công an, Tòa án, Viện kiểm sát và Đội thi hành án; các đơn vị chuyên ngành như Bưu điện, Hải văn, Hải đăng, Đội thuế, Bảo hiểm xã hội. * Về cơ sở hạ tầng: Được sự quan tâm của chính phủ, Thành phố 15 năm qua, quân và dân huyện đảo đã tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng với tổng vốn đầu tư khoảng trên 400 tỷ đồng. Đến nay, hệ thống đường giao thông nội đảo đã được xây dựng với gần 20 km đường trải nhựa, đường bê tông quanh đảo. Trụ sở, nhà làm việc của các cơ quan đơn vị và nhà ở cho dân ở các khu dân cư. Trạm điện gió Diezen công suất 800 KVA cung cấp điện cho sinh hoạt. Cảng và khu neo đậu tàu hoạt động với khả năng cho trên 300 tàu đánh cá vào tránh gió và tàu trọng tải 400 tấn ra vào bốc dỡ hàng hóa. Khu dịch vụ hậu cần nghề cá với hệ thống cửa hàng bách hóa, kho hàng, xưởng sản xuất nước ngọt, nước đá, cơ sở sửa chữa tàu thuyền, kho xăng dầu. Các công trình: Trạm đèn hải đăng; Bưu điện; Trạm chuyển phát sóng truyền hình; Trung tâm y tế; Trường tiểu học đang phát huy tác dụng phục vụ và nâng cao đời sống của quân và dân trên đảo, ngư dân hoạt động đánh bắt hải sản quanh đảo. * Về Kinh tế: Thực hiện chủ trương của Huyện ủy- Hội đồng nhân dân- Uỷ ban nhân dân, với mục tiêu xây dựng huyện đảo phát triển toàn diện, bền vững, sớm trở thành trung tâm chế biến, dịch vụ hậu cần nghề cá cho các tỉnh ven biển bắc bộ. Từ năm 2005 trở lại đây đã bước đầu hình thành và phát triển các ngành nghề kinh tế, một số cơ sở kinh tế của cá nhân, hộ gia đình được xây dựng tập trung vào các dịch vụ sửa chữa tàu thuyền, sản xuất nước đá, cung cấp nhu yếu phẩm… lao động có đủ việc làm, thu nhập tương đối ổn định; không có hộ gia đình thuộc diện đói nghèo; 100% hộ gia đình có phương tiện nghe nhìn; một số hộ gia đình có thu nhập khá từ việc kết hợp chăn nuôi- trồng trọt- dịch vụ và khai thác thủy sản và đang đầu tư sản xuất dịch vụ. Kinh tế dịch vụ có bước phát triển khá, nhiều loại hình dịch vụ mới xuất hiện, chiếm 71% giá trị sản xuất các ngành kinh tế. Trong đó dịch vụ hậu cần nghề cá là trọng tâm. Do thiên tai, thời tiết khắc nghiệt nên công tác trồng và chăm sóc rừng gặp nhiều khó khăn. Nguồn nước ngọt còn rất khó khăn về mùa khô, chưa đủ đáp ứng cho các tàu vươn khơi và sản xuất dịch vụ. Cảng và khu neo đậu tàu rộng 30,9 ha, hàng năm bình quân có 20 nghìn lượt tàu thuyền vào neo đậu trao đổi hàng hóa và tránh gió bão. * Về Văn hóa- Xã hội: Công tác giáo dục- đào tạo: Đã cải tạo và xây dựng mới Trường tiểu học 2 tầng khang trang, cùng với việc đầu tư các thiết bị theo quy trình xây dựng trường chuẩn quốc gia. 100% trẻ em trong độ tuổi được đi học, học sinh đến tuổi học cấp phổ thông cơ sở trở lên phải về đất liền học nội trú. Năm 2005 huyện đảo được công nhận hoàn thành phổ cập trung học phổ thông và trên đảo không còn người mù chữ. Công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ được quan tâm. Tuy nhiên, do số lượng học sinh các lớp ít, một mặt do trình độ, phương pháp giảng dạy của đội ngũ giáo viên ít được bồi dưỡng nâng cao, cập nhật kịp thời nên công tác giáo dục ở đảo phát sinh nhiều khó khăn mới. Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, công tác dân số gia đình và trẻ em: Trung tâm y tế huyện đảm bảo công tác y tế dự phòng và khám chữa bệnh cho nhân dân, phối hợp tốt với các ngành thực hiện công tác tuyên truyền về chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Đảm bảo 100% trẻ em trong độ tuổi được tiêm phòng 6 bệnh truyền nhiễm và uống vitamin A. Thực hiện chế độ giám sát, phát hiện và tăng cường công tác phòng chống dịch bệnh. Tuy nhiên, nhà nước đã quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng cho y tế nhưng chưa có chính sách thu hút bác sỹ ra đảo công tác. vì vậy, do Y, Bác sĩ còn hạn chế về số lượng và trình độ nên công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân không được cải thiện. Công tác dân số gia đình và trẻ em: Năm 2004 có quyết định thành lập được quan tâm đi vào hoạt động, tháng 7 năm 2007 đã tiếp nhận nhà truyền thông tư vấn và quản lý dữ liệu dân cư, bước đầu đi vào hoạt động nên có nhiều khó khăn và bất cập. Đơn vị tính: Người. Tổng Nam (3344) Nữ (516) 1->14 tuổi Người lớn 1->14 tuổi Trong độ tuổi sinh đẻ 45->54 tuổi 3860 168 3176 184 325 07 (Nguồn: Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em huyện) Từ số liệu dân cư như trên chúng ta thấy: Do đặc thù dân số huyện đảo: dân số ít, không ổn định, dao động tùy theo từng thời điểm, tỷ lệ giữa nam và nữ không tương xứng, số nam giới nhiều hơn nữ giới, số nam giới chủ yếu thuộc các đơn vị lực lượng vũ trang (Biên phòng, Hải quân, Phòng không, Quân sự địa phương) và các cơ quan chuyên ngành đóng quân tại địa phương. Nữ giới chủ yếu ở các khu dân cư, số ít ở các cơ quan hành chính sự nghiệp. Không có người cao tuổi, cho nên tỷ xuất sinh của trẻ em hàng năm cũng mang tính đặc thù. Công tác văn hóa- xã hội: Địa phương đã đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Hoạt động của hệ thống phát thanh, chuyển tiếp truyền hình được duy trì tốt, mặc dù có khó khăn về nguồn điện. Các vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết, nhân dân có đủ việc làm và thu nhập ổn định, không có hộ đói nghèo. Thực hiện tốt các chế độ thăm hỏi động viên và tặng quà các thương bệnh binh và gia đình chính sách. *Về Quốc phòng- An ninh: Tình hình quốc phòng- an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định và giữ vững chủ quyền quốc gia. Các lực lượng vũ trang triển khai nghiêm túc công tác huấn luyện dân quân tự vệ, giáo dục quốc phòng, thực hiện tốt vai trò lực lượng chủ lực trong phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn, phòng chống cháy nổ. Triển khai tốt phong trào toàn dân tham gia phòng chống tội phạm. Nhiều năm không có đơn thư khiếu kiện của nhân dân, các cấp chính quyền đã thường xuyên lắng nghe và kịp thời giải quyết ý kiến, kiến nghị của nhân dân. * Những khó khăn, trở ngại cho quân và dân huyện đảo: Do diện tích toàn huyện nhỏ phần nổi của đảo chỉ có hơn 2 km2, khí hậu khắc nghiệt, nắng nhiều, mưa ít, không có rừng, suối, ao hồ trên đảo. Mặt khác quỹ đất cho phát triển kinh tế hạn chế, việc bố trí mặt bằng cho các dự án sử dụng diện tích lớn có tác động và ảnh hưởng tới môi trường. Đảo xa, điều kiện đi lại rất khó khăn, chưa có tuyến tàu khách Hải Phòng- Bạch Long Vĩ. Việc đi lại của cán bộ và nhân dân phụ thuộc hoàn toàn vào thời tiết do phương tiện chở khách duy nhất hiện nay là tàu cao tốc Bạch Long của Tổng đội Thanh niên xung phong chỉ hoạt động được trong điều kiện thời tiết tốt, sóng và gió cấp 5 trở xuống. Đến nay, Bộ máy chính quyền còn thiếu nhiều phòng ban chức năng để quản lý nhà nước ở một số lĩnh vực, năng lực của cán bộ, công chức còn nhiều hạn chế do thiếu môi trường rèn luyện, do kiêm nhiệm nhiều việc nên chuyên môn không sâu. Các dịch vụ xã hội tuy đã có nhiều cố gắng song dịch vụ điện, nước vẫn còn nhiều vấn đề bất cập ảnh hưởng tới sinh hoạt và sản xuất dịch vụ. Huyện đảo chưa có chi nhánh ngân hàng, kho bạc, dịch vụ điện- thư chuyển tiền. Như vậy, đây là những khó khăn tồn tại trong nhiều năm nay và chưa thể tháo gỡ trong một sớm, một chiều, nó ảnh hưởng rất lớn tới tâm lý, tình cảm của quân và dân huyện đảo và gây e ngại cho các nhà đầu tư có ý định đầu tư phát triển kinh tế tại huyện đảo. Tóm lại, qua một số nét về tình hình kinh tế- xã hội của huyện đảo cho thấy: Tuy đời sống của nhân dân trong những năm vừa qua được nâng lên, nhưng vẫn còn khoảng cách xa với người dân ở đất liền, cơ sở hạ tầng được quan tâm đầu tư xây dựng xong còn nhiều thiếu thốn, làm ảnh hưởng tới tốc độ phát triển kinh tế- xã hội, những khó khăn đó xuất phát từ đặc điểm là một huyện đảo xa đất liền, mới được thành lập, điều kiện kinh tế còn nghèo, lĩnh vực kinh tế cũng còn một số tồn tại hạn chế như việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa còn chậm, chưa bền vững, chưa khai thác hết tiềm năng và lợi thế của huyện đảo, thu nhập của người dân chưa ổn định, trình độ dân trí thấp và không đồng đều. Mặc dù Đảng và nhà nước đã quan tâm đầu tư nhưng việc tổ chức thực hiện còn chậm và chưa đồng bộ, nên ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển chung và việc thực hiện chương trình chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. 4.2 Tình hình chăm sóc sức khỏe sinh sản của huyện đảo Bạch Long Vỹ những năm trước đây. Chúng ta đều biết nâng cao chất lượng dân số là công việc của toàn xã hội, đòi hỏi phải có sự tham gia nỗ lực của các ngành, các cấp. Với chức năng quản lý nhà nước về công tác dân số, gia đình và trẻ em, ngành dân số, gia đình và trẻ em đã chủ động phối hợp với ngành y tế trong công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, đặc biệt tiến hành triển khai kế hoạch hành động thực hiện chiến lược truyền thông giáo dục thay đổi hành vi về dân số, sức khỏe sinh sản/ kế hoạch hóa gia đình giai đoạn 2006-2010. Trong những năm gần đây do đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước ta, sự chỉ đạo cụ thể của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự nỗ lực của toàn bộ hệ thống Y tế và hệ thống Dân số/ Kế hoạch hóa gia đình, sự tham gia tích cực của các ngành, các Đoàn thể xã hội, sự hưởng ứng của nhân dân và sự hỗ trợ quý báu và có hiệu quả về nguồn lực cũng như về kỹ thuật của các nước, các tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ, đã tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức, thái độ và hành vi của người dân trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc sức khỏe sinh sản. Các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ có hiểu biết chung về các biện pháp tránh thai hiện đại rất cao chiếm 99,5%. Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại tăng từ 61% năm 2001 lên 67% năm 2006 (theo điều tra biến động dân số- kế hoạch hóa gia đình 01/04/2006). Đặc biệt nam giới đã tham gia tích cực hơn trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình, cùng chia sẻ, trao đổi với người vợ trong việc thực hiện các biện pháp tránh thai; tỷ lệ sử dụng bao cao su cao. Người cung cấp dịch vụ sức khỏe sinh sản/ kế hoạch hóa gia đình ở các cơ sở y tế được cung cấp kiến thức, kỹ năng truyền thông, tư vấn và bước đầu thực hiện chuẩn quốc gia về dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản nhằm phục vụ tốt hơn người sử dụng dịch vụ. Công tác vận động đã tạo được dư luận xã hội ủng hộ tích cực và thực hiện chính sách dân số- kế hoạch hóa gia đình của Đảng và nhà nước; Tạo được sự cam kết, ủng hộ của Lãnh đạo Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội và những người có uy tín trong cộng đồng. Công tác giáo dục dân số/ sức khỏe sinh sản/ kế hoạch hóa gia đình, trong và ngoài nhà trường cho vị thành niên và thanh niên bước đầu đã giúp các em hiểu biết và có hành vi đúng đắn trong quan hệ tình bạn, tình yêu lành mạnh, tình dục an toàn, phòng ngừa có thai ngoài ý muốn và các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS. Năng lực đội ngũ làm công tác truyền thông dân số, gia đình và trẻ em được nâng cao. Hệ thống tổ chức làm công tác truyền thông dân số đã được củng cố. Các hoạt động truyền thông tập trung vào sức khỏe sinh sản, phù hợp với từng nhóm đối tượng. Sự quan tâm đầu tư của nhà nước cho sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cho nhân dân và lĩnh vực dân số kế hoạch hóa gia đình không ngừng được tăng lên đã tạo điều kiện cho việc củng cố và phát triển mạng lưới cơ sở y tế/ kế hoạch hóa gia đình rộng khắp đến tận các bản làng thôn xóm trong cả nước. Các dịch vụ phòng, chữa bệnh cho bà mẹ trẻ em, chăm sóc trước, trong và sau sinh, các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình,… kể cả do nhà nước và tư nhân cung cấp, được mở rộng và chất lượng ngày càng được nâng cao. Nhờ đó, chúng ta đã được những kết quả đáng khích lệ. Sức khỏe bà mẹ trẻ em quyết định tương lai, hạnh phúc mỗi gia đình và phản ánh trình độ văn hóa, văn minh của xã hội. Việc chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ trẻ em là mối quan tâm thường xuyên của các nhà lãnh đạo của mỗi giai đoạn phát triển, ở huyện Bạch Long Vĩ đã có chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 21- NQ/TU của Ban thường vụ Thành ủy về công tác dân số gia đình và trẻ em trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Nghị quyết số 17/2006/ NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân Thành phố Hải phòng về đẩy mạnh công tác dân số, gia đình và trẻ em giai đoạn 2006- 2010. Với các mục tiêu: Giảm tỷ xuất sinh hàng năm từ 0,05- 0,15 %. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên dưới 1%. Tăng tỷ lệ các cặp vợ chồng áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại lên 80%. Phấn đấu hàng năm giảm từ 3-5% số ca nạo, phá thai, nhất là lứa tuổi vị thành niên. Giảm tỷ lệ tử vong mẹ liên quan tới thai sản còn dưới 50/100.000 trẻ sinh ra sống. Giảm tỷ lệ trẻ sơ sinh dưới 2.500 gr còn dưới 4%. 90-100% nam, nữ thanh niên trước khi kết hôn được trang bị kiến thức về hôn nhân và gia đình. Để đạt được mục tiêu chung về tăng trưởng kinh tế và chăm sóc tốt sức khỏe sinh sản, trong những năm gần đây chính quyền địa phương đã tăng cường chỉ đạo công tác truyền thông giáo dục thay đổi hành vi, bằng mọi biện pháp, mọi kênh thông tin để nâng cao nhận thức, tri thức của nhân dân về vấn đề chăm sóc sức khỏe sinh sản. Giúp cho người dân hiểu biết đúng và tự nguyện thực hiện các vấn đề về dân số và phát triển, về giáo dục giới tính, về gia đình và môi trường. Rà soát lại hệ thống chính sách liên quan tới vấn đề sức khỏe sinh sản để kịp thời bổ xung và đưa vào thực hiện cho phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội ở địa phương, đúng với chính sách, pháp luật của nhà nước về sức khỏe sinh sản. Tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý, để phát triển kinh tế- xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Uỷ ban nhân dân huyện đã chỉ đạo Trung tâm y tế huyện tạo mọi điều kiện thuận lợi để cung cấp, tư vấn về các biện pháp tránh thai giúp cho người dân tự lựa chọn và quyết định về số lượng con, khoảng cách sinh và thời gian sinh con, đảm bảo dịch vụ an toàn, thuận tiện, hiệu quả cao. Tích cực đề ra các giải pháp nâng cao điều kiện sống về kinh tế, văn hóa, xã hội cho các bà mẹ. Tìm giải pháp hữu hiệu nhất để giảm tối thiểu bệnh tật cho chị em phụ nữ ( như sinh đẻ trong độ tuổi thích hợp, giảm số lần có thai, hạn chế có thai ngoài ý muốn và nạo phá thai…). Triển khai thực hiện chương trình lồng ghép giữa chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe trẻ em. Duy trì tỷ lệ 100% trẻ em trong độ tuổi được tiêm chủng mở rộng đầy đủ, phòng chống suy dinh dưỡng. Tổ chức tuyên truyền cho chị em phụ nữ các biện pháp phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản như đảm bảo vệ sinh môi trường, bảo vệ nguồn nước sạch sinh hoạt, các công trình vệ sinh… hàng năm tổ chức khám phụ khoa cho chị em phụ nữ. Các tổ chức đoàn thể xã hội tăng cường việc thông tin, giáo dục về vấn đề tình dục và các biện pháp ngăn chặn các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục như HIV/AIDS. Đoàn thanh niên tích cực thông tin truyền thông sâu rộng cho mọi đối tượng hiểu rõ tầm quan trọng của công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản cho vị thành niên, giúp cho vị thành niên có những hiểu biết đúng đắn về gới tính và tình dục, có những hành vi tình dục lành mạnh, ngăn chặn có thai ngoài ý muốn, nạo phá thai an toàn. Phỏng vấn sâu ông P.N.N - Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện- chủ nhiệm Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em về kết quả thực hiện công tác dân số, gia đình và trẻ em trong những 5 năm qua: đặc biệt là công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em; việc thực hiện chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản ở địa phương cho thấy: “Kết quả đạt được của công tác DS GĐ&TE của huyện đảo không tách rời sự lãnh đạo của Huyện ủy, HĐND,UBND, sự phối hợp chặt chẽ của các ban ngành, đoàn thể trong toàn huyện. Triển khai thực hiện Nghị quyết số 21- NQ/TU (khóa XII) về công tác dân số, gia đình và trẻ em trong thời kỳ CNH-HĐH; Nghị quyết số 17/2006/NQ- HĐND; Chương trình hành động đến năm 2010 theo Quyết định số 2793/ QĐ-UB của ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng. - Tổ chức triển khai các đợt chiến dịch truyền thông lồng ghép dịch vụ SKSS/KHHGĐ tập trung vào các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, nhất là các cặp vợ chồng đã có 2 con, sinh con một bề. - Tăng cường các giải pháp nâng cao chất lượng dân số; nghiên cứu triển khai mô hình cung cấp dịch vụ thông tin và dịch vụ SCSKSS/KHHGĐ, cung cấp các dịch vụ thích hợp, giảm tỷ lệ phá thai ngoài ý muốn. - Tăng cường vận động xây dựng mô hình gia đình ít con, no ấm,bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và phát triển bền vững. Mặc dù, công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ của Huyện đảo Bạch Long Vĩ trong những năm qua còn rất nhiều khó khăn về cán bộ, chuyên môn, trang thiết bị, thuốc men,… nhưng qua việc chăm sóc sức khỏe sinh sản cho nhân dân đã phần nào được cải thiện. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tế thì vẫn còn quá khiêm tốn. Các chương trình về kế hoạch hóa gia đình người phụ nữ luôn được xem là đối tượng chính được vận động tuyên truyền của công tác này, cũng như được bảo vệ, chăm sóc khi mang thai và sinh con. CHƯƠNG II- MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN Ở HUYỆN ĐẢO BẠCH LONG VỸ. I- THỰC TRẠNG CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN Ở HUYỆN ĐẢO BẠCH LONG VỸ. 1. Nhận thức về chăm sóc sức khỏe và chăm sóc sức khỏe sinh sản. Từ trước tới nay, nguyện vọng của con người là sống khỏe mạnh, không bị ốm đau, sống thọ lâu để lao động có kết quả, có mái ấm gia đình hạnh phúc. Ai cũng hiểu sức khỏe là vốn quý nhất. Trước đây, người ta thường quan niệm rằng có sức khỏe có nghĩa là không ốm đau, bệnh tật và việc chăm sóc sức khỏe là công việc của riêng ngành y tế. Nhận thức này xuất phát từ nhận thức của con người, các điều kiện thực tế của xã hội hiện tại. Chỉ lúc nào ốm đau người ta mới thực sự nghĩ tới và lo lắng cho sức khỏe của mình. Khi đi vào tìm hiểu nhận thức của phụ nữ trong chăm sóc sức khỏe và chăm sóc sức khỏe sinh sản, tôi thấy rằng cách xử lý và lựa chọn loại hình dịch vụ y tế của phụ nữ huyện đảo, trong những lúc ốm đau không chỉ phản ánh khả năng thực tế của phụ nữ trong việc chăm sóc sức khỏe, mà còn thể hiện trình độ “ văn hóa y tế”. Trong điều kiện “văn hóa y tế” thấp thì nhu cầu chăm sóc sức khỏe cũng thấp và cách ứng xử của chị em cũng thật đơn giản. Ngược lại, trong điều kiện “ văn hóa y tế” cao thì nhu cầu chữa trị cũng cao và lựa chọn các hình thức phục vụ y tế hợp lý, ngay cả trong điều kiện gia đình có những hạn hẹp về kinh tế. Đối với người phụ nữ Việt Nam, trong những ứng xử với bệnh tật, với sức khỏe của bản thân và gia đình còn bao gồm cả kho tàng kinh nghiệm về phòng bệnh, dưỡng sinh và giải trí,… nhiều kiến thức phòng và chữa bệnh đã trở thành gia truyền hoặc truyền thống. Như chúng ta đã biết, nhận thức về chăm sóc sức khỏe tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể, trước hết là do trình độ học vấn, học vấn giúp cho việc nhận thức các phương pháp hữu hiệu để phòng và có ý thức chữa trị, phát hiện các dấu hiệu bệnh tật cũng như xử lý các tình huống trong việc chăm sóc chữa trị bệnh tật, học vấn cũng là phương tiện quan trọng để tìm hiểu và tiếp thu tri thức về sức khỏe và chăm sóc sức khỏe. Một trong những nguyên nhân của tình trạng thờ ơ, thiếu hụt về kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản là do vấn đề học vấn và dân trí. Qua điều tra nghiên cứu về trình độ học vấn của chị em phụ nữ huyện đảo cho thấy: (xem bảng 1) Bảng 1: Trình độ học vấn của phụ nữ huyện đảo Trình độ học vấn Số người % Mù chữ 0 0 Tiểu học 219 67,4 % Trung học cơ sở 57 17,5 % Trung học phổ thông 32 9,84% THCN và cao đẳng 12 3,6% Đại học- sau đại học 05 1,5%; Tổng 325 100% (Nguồn: Số liệu phòng thống kê huyện) Từ số liệu (bảng 1) cho thấy trình độ học vấn của phụ nữ huyện đảo rất thấp, trong 325 phụ nữ có: 05 người có trình độ học vấn đại học chiếm 1,5%; 12 người có trình độ học vấn Trung học chuyên nghiệp và Cao đẳng chiếm 3,6%; 32 người có trình độ học vấn Trung học phổ thông chiếm 9,84%; 57 người có trình độ học vấn Trung học cơ sở chiếm 17,5 %; 219 người có trình độ học vấn Tiểu học chiếm 67,4 %; Không có người mù chữ. Như vậy trình độ học vấn thấp là nguyên nhân hạn chế sự hiểu biết cần thiết của phụ nữ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản. Bên cạnh đó, nhận thức của người phụ nữ cũng phụ thuộc rất nhiều vào công tác truyền thông giáo dục sức khỏe sinh sản và khả năng tiếp nhận kiến thức chăm sóc sức khỏe của phụ nữ qua các phương tiện giáo dục, tuyên truyền thì lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố và điều kiện xã hội. Ngày nay, cùng với sự biến đổi của xã hội và phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng, người phụ nữ ngày nay đã có thể mở rộng tầm hiểu biết của mình về các vấn đề xã hội. Do đó, nhận thức của họ cũng càng có khuynh hướng tích cực hơn trước theo xu thế phát triển chung của xã hội. Trong thời gian gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng đã có nhiều chương trình hướng dẫn người dân cách phòng ngừa bệnh tật, làm cho chị em phụ nữ nhận thức được nâng lên, dễ dàng lựa chọn những biện pháp có lợi cho sức khỏe của mình. Bên cạnh đó, mức sống hiện nay được cải thiện hơn trước nên họ có cơ hội cải thiện nâng cao chất lượng bữa ăn, có lợi cho sức khỏe. Ở nước ta, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa qua một số công trình nghiên cứu cho thấy: kiến thức về sức khỏe và chăm sóc sức khỏe nói chung còn rất hạn chế; Với Bạch Long Vĩ kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn phụ nữ trong các gia đình của huyện đảo tuy đã được nâng cao nhận thức về vấn đề chăm sóc sức khỏe cho bản thân họ và các thành viên trong gia đình song còn hạn chế. Phỏng vấn sâu đối tượng tại địa bàn nghiên cứu thì kết quả trả lời câu hỏi “ quan niệm của chị về một người có sức khỏe và để có sức khỏe theo chị phải chăm sóc sức khỏe như thế nào” các câu trả lời gần như là giống nhau họ nhận định rằng “ sức khỏe là không ốm đau bệnh tật” “ để có sức khỏe, con người cần phải có chế độ ăn uống hợp lý, chế độ làm việc phù hợp với sức khỏe và giữ gìn vệ sinh thân thể sạch sẽ”. Cơ bản là họ cho là mình đã có sức khỏe tốt và họ cũng cho rằng để chăm sóc sức khỏe cho mình thì tốt nhất là nên phòng bệnh hơn chữa bệnh, nếu không có sức khỏe tốt thì họ không thể đem lại thu nhập cho gia đình và cũng không thể chăm sóc con cái một cách tốt nhất. Bên cạnh đó, vấn đề chăm sóc sức khỏe sinh sản cũng được chị em phụ nữ quan tâm song chưa nhiều. Như chúng ta đã biết hiểu biết đầy đủ các kiến thức về sức khỏe sinh sản là một việc làm hết sức thiết thực và hữu ích đối với mọi người nói chung và đặc biệt là chị em phụ nữ nói riêng. Vì phụ nữ luôn được coi là đối tư._. Kết quả nghiên cứu cho thấy: “Trình độ học vấn nhóm phụ nữ Làng Thanh niên xung phong cao hơn Trình độ học vấn nhóm phụ nữ ở các khu dân cư cho nên trong 45 hộ gia đình Thanh niên xung phong có 23 (51%)hộ sinh con một bề (02 con gái) nhưng không có hộ sinh con thứ ba. Ngược lại, trong 62 hộ gia đình khu dân cư số một có tới 19 (30,6%) hộ có 03 con trở lên, mặc dù đã có đủ số con cả trai và gái, thậm trí có chị vì muốn có con trai, đã đẻ đến con thứ năm”. Những người có trình độ văn hóa thấp cũng gặp những cản trở, ảnh hưởng tới việc tiếp thu những thông tin và kiến thức. Họ cũng bị hạn chế về quan hệ xã hội. Từ chỗ đó họ dễ bị rơi vào tình trạng lệ thuộc trong việc tìm kiếm sự chăm sóc ytế. Trong nghiên cứu tử vong mẹ 2002- Bộ ytế, nhóm mù chữ có tỉ lệ tử vong mẹ cao nhất 17,3%. Qua điều tra nghiên cứu về trình độ học vấn của chị em phụ nữ huyện đảo cho thấy trình độ học vấn của phụ nữ huyện đảo rất thấp, trong 325 phụ nữ có: 05 người có trình độ học vấn đại học chiếm 1,5%; 12 người có trình độ học vấn Trung học chuyên nghiệp và Cao đẳng chiếm 3,6%; 32 người có trình độ học vấn Trung học phổ thông chiếm 9,84%; 57 người có trình độ học vấn Trung học cơ sở chiếm 17,5 %; 219 người có trình độ học vấn Tiểu học chiếm 67,4 %; Không có người mù chữ. Như vậy trình độ học vấn thấp là nguyên nhân hạn chế sự hiểu biết cần thiết của phụ nữ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản. Phỏng vấn sâu Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ huyện cho thấy: “Trình độ học vấn của phụ nữ, Không tính đến phụ nữ ở khối công nhân viên chức; về mặt bằng chung thì trình độ học vấn của phụ nữ ở các khu dân cư là tương đối thấp, rất ít chị em có trình độ phổ thông trung học (cấpIII); chủ yếu là chị em có trình độ tiểu học và trung học cơ sở, không có chị em mù chữ (chương trình xóa mù chữ được thực hiện năm 1995)” Kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể, trước hết đó là trình độ học vấn, học vấn giúp cho việc nhận thức các phương pháp hữu hiệu cho việc phòng bệnh, phát hiện các dấu hiệu và triệu chứng bệnh tật, xử lý tình huống trong chăm sóc sức khỏe sinh sản. học vấn cũng là phương tiện quan trọng để tìm hiểu và tiếp thu tri thức về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản. Vì vậy, Phụ nữ có trình độ học vấn thấp là nguyên nhân chính của tình trạng thờ ơ, thiếu hụt về kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản. Xuất phát từ học vấn thấp kiến thức và hiểu biết chủ yếu bằng kinh nghiệm truyền lại thiếu cơ bản, hệ thống nên họ thường tự ty, an phận thủ thường. Điều này khiến họ khó tiếp nhận những kiến thức mới, phương pháp mới trong khi đó chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản có bước phát triển mới, cao hơn, nhu cầu chăm sóc sức khỏe sinh sản yêu cầu phải có những phương pháp, kỹ thuật mới. 4. Chất lượng dịch vụ Y tế. Qua nghiên cứu, có thể thấy tình hình cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản ở huyện đảo Bạch Long vĩ hiện nay còn nhiều hạn chế. Một số nghiên cứu trước đây về dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản đã đưa ra nhận định những khó khăn của các cơ sở y tế vùng sâu, vùng xa là thiếu cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi, thiếu trang thiết bị thuốc men, thiếu thông tin chuyên ngành phục vụ cho công tác khám chữa bệnh,… những vấn đề này còn làm ảnh hưởng tới công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em tại các địa phương, là nguyên nhân gián tiếp gây ra các ca tử vong mẹ. Về phía cơ sở y tế, nhiều trường hợp tử vong mẹ là do thầy thuốc có trình độ chuyên môn kém, trong khi khám bệnh không phát hiện ra bệnh, không có hướng điều trị đúng hoặc là chẩn đoán sai. Nhiều cơ sở y tế có điều kiện đầy đủ về nhân lực và trình dộ quản lý chuyên môn nhưng do thiếu trang thiết bị thuốc men lên cũng đành bó tay trước một số trường hợp bất thường. * Hệ thống y tế và hoạt động y tế: Cũng tương tự như nhiều vùng sâu, vùng xa trong cả nước, hệ thống y tế của huyện đảo mang tính đặc thù, chỉ có một Trung tâm y tế duy nhất, không có nhân viên y tế hoạt động tại các khu dân cư. Do đó, Trung tâm y tế Huyện là đơn vị có vai trò chính trong việc quản lý và chăm sóc sức khoẻ cho người dân trong Huyện, từ việc tuyên truyền, chăm sóc sức khoẻ ban đầu và sơ cứu, người dân bị bệnh nặng hơn thì chuyển tuyến về đất liền. Hoạt động của Trung tâm y tế huyện được đặt ở gần Uỷ ban nhân dân huyện gần như là trung tâm Đảo, Trung tâm y tế chỉ có một số phòng cơ bản như: Phòng mổ cấp cứu; Phòng tiểu phẫu; Phòng hồi sức cấp cứu; Phòng đỡ đẻ, khám phụ khoa; phòng khám và tiêm thuốc, mới được nâng cấp 20 giường bệnh cho bệnh nhân lưu nội trú. Theo quy định của Bộ y tế và đặc thù của huyện đảo xa đất liền trung tâm y tế huyện là nơi thực hiện việc khám thai và tiêm phòng uốn ván, đỡ đẻ, khám phụ khoa, là nơi tư vấn và cung cấp phương tiện tránh thai (Bao cao su, đặt vòng, thuốc viên tránh thai) cho người dân. Đội ngũ nhân viên y tế là những trợ thủ đắc lực cho chính quyền địa phương trong việc tuyên truyền, vận động vệ sinh môi trường, thực hiện tiêm chủng mở rộng. Kết quả thực hiện chương trình y tế 112 (Quân dân y kết hợp), hoạt động phối hợp của Trung tâm y tế huyện với Bệnh xá Trung đoàn 952 trong công tác khám chữa bệnh cho quân và dân huyện đảo đã tổ chức sơ cứu, cấp cứu và mổ được những ca mổ cấp cứu thông thường (mổ ruột thừa), bệnh nhân nặng thì hồi sức cấp cứu chuyển tuyến về đất liền. Công tác tuyên truyền vận động chăm sóc sức khỏe sinh sản chưa có sự phối hợp vận động, do đặc thù đảo xa lực lượng quân sự 100% là nam giới, không có nữ. Nhìn chung, Trung tâm y tế huyện còn hạn chế, chưa có đủ cơ cấu và đủ nhân lực theo quy định, điểm mạnh của Trung tâm y tế huyện là vị trí ở gần dân nên có thể thực hiện việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho cộng đồng, tuy nhiên, mức độ hiệu quả của hoạt động y tế còn nhiều bất cập do trang thiết bị y tế còn hạn chế, thô sơ, trình độ chuyên môn và tinh thần trách nhiệm của nhân viên y tế cũng còn hạn chế. *Mức độ đáp ứng nhu cầu của người dân: Phỏng vấn sâu Chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ huyện cho thấy: Mức độ đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe sinh sản cho chị em phụ nữ của hệ thống chăm sóc sức khỏe và kế hoạch hóa gia đình ở địa phương: “Hệ thống chăm sóc sức khoẻ sinh sản của y tế còn có khoảng cách quá là xa so với tình hình chung của cả nước, nếu trong đất liền chị em bị vỡ kế hoạch thì chỉ cần một buổi sáng là có thể giải quyết xong nhưng chị em ở đảo nếu gặp bác sỹ tăng cường thì có thể hút điều hòa kinh nguyệt, có chị phải chờ có tàu mới về đất liền được lúc đó thai đã to mới phá rất ảnh hưởng tới tinh thần và sức khỏe”. Mặc dù, các cấp các ngành của Huyện Bạch Long Vĩ đã có nhiều cố gắng trong việc chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho người dân, nhưng họ còn gặp không ít những khó khăn như sau: * Thiếu trang thiết bị y tế: Cơ sở vật chất, trang thiết bị cho Trung tâm y tế huyện có ý nghĩa lớn đối với chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người dân/phụ nữ huyện đảo xa xôi này. Mặc dù, đã được nhà nước và ngành Y tế quan tâm đầu tư nhưng so với nhu cầu công tác hiện nay thì vẫn còn thiếu thốn. Trung tâm y tế còn thiếu phương tiện truyền thông đơn giản như (đài, loa, cát sét, tăng âm,..) Qua khảo sát, tình trạng vừa thừa vừa thiếu dụng cụ, có những loại dụng cụ được cấp quá lâu (15 năm, từ khi thành lập huyện đảo) đã han gỉ nếu sử dụng sẽ không đảm bảo điều kiện vô khuẩn, còn dụng cụ thừa thì do không đủ trình độ chuyên môn để sử dụng (máy siêu âm, máy chụp X quang, máy xét nghiệm), số lượng thuốc nhiều nhưng cũng trong tình trạng quá hạn sử dụng hoặc không thích hợp với mô hình bệnh tật của địa phương (những thuốc kháng sinh thông thường, thuốc chuyên khoa) nhiều nhưng ít được sử dụng đến. Thuốc kháng sinh mới hoặc thuốc chất lượng cao chưa có nhiều chủng loại. Hàng năm, việc bổ sung thêm trang thiết bị và thuốc men không nhiều, người dân mỗi khi ốm đau đến khám có thuốc gì thì cấp bán thuốc ấy. Phỏng vấn sâu Giám đốc Trung tâm y tế huyện, cho thấy: Mức độ đầu tư trang thiết bị y tế phục vụ cho công tác khám chữa bệnh: “Cuối năm 2006, Trung tâm y tế được đầu tư nâng cấp 20 giường bệnh và đầu tư một số trang thiết bị phục vụ cho công tác khám và điều trị cho bệnh nhân, nhưng do nguồn điện cung cấp cho máy hoạt động không đều (đây là khó khăn chung của toàn đảo), việc tiếp cận với các thiết bị y tế chất lượng cao của cán bộ y tế và người dân chưa trở thành thói quen, làm cho công tác khám chữa bệnh còn nhiều bất cập… Chưa có phương tiện truyền thông. Khi thực hiện công tác tuyên truyền vận động, Trung tâm thực hiện việc này phải phụ thuộc vào hệ thống phát thanh của ủy ban nhân dân huyện sắp xếp thời gian và nguồn điện”. *Đội ngũ cán bộ y tế: Biên chế cán bộ của đội bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em/ kế hoạch hóa gia đình và cộng tác viên dân số còn rất thiếu; chưa có cán bộ chuyên trách làm công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em/kế hoạch hóa gia đình, chỉ có một nữ hộ sinh trung học. Không thể đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người dân. Đó là chưa nói đến trình độ chuyên môn thấp của đội ngũ nhân viên y tế. Phỏng vấn sâu Giám đốc Trung tâm y tế huyện, cho thấy tình hình biên chế cán bộ của Trung tâm y tế hiện nay: “Hiện tại lực lượng cán bộ của Trung tâm y tế Huyện chỉ còn 01 Bác sỹ, 01 Y sỹ, 03 Y tá, 01 Nữ hộ sinh. Với đội ngũ nhân viên y tế như vậy để đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân là vô cùng khó khăn”. Bệnh xá Trung đoàn 952 là đơn vị phối kết hợp với Trung tâm y tế huyện cũng chỉ có 02 bác sỹ, 02 y sỹ và đội ngũ y tá sơ cấp của các đại đội trực thuộc tăng cường theo tháng để phục vụ chuyên môn. Thông thường thì một tua trực ngoài thời gian huấn luyện bệnh xá Trung đoàn 952 cũng chỉ có 01 Bác sỹ và 01 y sỹ, họ thay đổi về đất liền học nâng cao trình độ chuyên môn. Họ cũng không có bác sỹ sản khoa mà chỉ có bác sỹ ngoại khoa. Đánh giá về thực trạng hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em và kế hoạch hóa gia đình của địa phương hiện nay: “Tuy hệ thống đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh và đi vào hoạt động nhiều năm, song vẫn còn nhiều nhược điểm và tồn tại. Đội ngũ cán bộ còn thiếu nghiêm trọng, đặc biệt là Bác sỹ sản khoa , trình độ kiến thức, tay nghề chưa đáp ứng được nhu cầu, hệ thống giám sát chất lượng các dịch vụ hoạt động chưa có hiệu lực và ít có khả năng cải thiện tình hình, Dịch vụ kém hấp dẫn với người sử dụng. Trong lĩnh vực hoạt động UBDSGĐ&TE cán bộ 100% kiêm nhiệm chức danh, không có cán bộ chuyên trách và không có cộng tác viên dân số ở cơ sở, cho lên công tác vận động thực hiện kế hoạch hóa gia đình kém hiệu quả”. (Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện- chủ nhiệm ủy ban dân số, gia đình và trẻ em). *Thiếu năng lực chuyên môn: Tuy đã có sự phối kết hợp với bệnh xá Trung đoàn 952 về chuyên môn để chẩn đoán và điều trị những ca bệnh khó, giải quyết những trường hợp cấp cứu nâng cao hiệu quả khám chữa bệnh nhưng những hiểu biết về các lĩnh vực như tai biến do nạo phá thai, nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục,…, cũng như các thao tác kỹ thuật trong nạo, hút thai, khám thai, đỡ đẻ, chăm sóc thai sản và trẻ sơ sinh còn hạn chế. Thiếu cán bộ y tế nhất là bác sỹ có tay nghề cao, chuyên môn của một số cán bộ y tế còn hạn chế, phương tiện để thực hiện thủ thuật chuyên môn chưa được trang bị đủ, chế độ làm việc và phụ cấp, lương chưa thích hợp, dẫn đến hiệu quả việc chăm sóc bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em/ kế hoạch hóa gia đình còn thấp. “Trong công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em/kế hoạch hóa gia đình không thành lập ban(đội) để tổ chức tuyên truyền vận động - Trung tâm giao trách nhiệm đó cho một nữ hộ sinh trung cấp theo dõi, quản lý và tổ chức tuyên truyền vận động”. (Giám đốc Trung tâm y tế huyện) Tình trạng này đã hạn chế lớn đến việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ. *Về chi phí cho chăm sóc sức khoẻ: Trung bình chi phí cho thuốc men (Không kể ốm đau nặng) của một gia đình khoảng 500.000đ/năm. Tuy nhiên con số này có thể thấp hơn thực tế vì người dân ở đây chưa được nhà nước cấp cho thẻ bảo hiểm y tế, khám bệnh vẫn phải mất tiền, khi nào bị ốm nặng thì phải đi vào đất liền chi phí cho khám chữa bệnh ở bệnh viện Thành phố thì càng tốn kém hơn. "Thường là ốm nhẹ thì chỉ khám ở Trung tâm y tế huyện, nhưng ở đó cũng không có nhiều thuốc chất lượng tốt mà không có dịch vụ thuốc chất lượng cao thì bắt buộc chúng tôi phải về đất liền chữa chạy, tốn tiền cũng phải chịu”(Nữ, 32 Tuổi, Kinh doanh dịch vụ, Khu dân cư số 2). Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy chị em phụ nữ huyện đảo rất thiệt thòi về hưởng lợi từ dịch vụ chăm sóc sức khỏe nói chung, sức khỏe sinh sản nói riêng, ít có niềm tin vào hệ thống chăm sóc sức khỏe để chăm sóc sức khỏe cho bản thân và gia đình. 5. Phong tục tập quán. Vấn đề sinh đẻ đối với người Việt nam truyền thống là rất quan trọng, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo. Sự kiện sinh đẻ không chỉ đơn thuần là hành vi tự nhiên sinh học nữa mà đã được (xã hội hóa) đến mức nằm trong sự kiềm tỏa chi phối của cả hệ thống chuẩn mực về hành vi ứng xử. Những tập tục kiêng cữ nhiêu khê đối với trẻ sơ sinh và người mẹ ở các vùng văn hóa khác nhau đã phản ánh thực tế đó. Những tập quán và niềm tin sai lầm , những tập quán kiêng khem quá mức, những hủ tục chăm sóc bà mẹ và trẻ em gây ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe còn tồn tại. Ở một số cộng đồng còn có những chế tài nhất định liên quan tới sự vi phạm các tập tục dù ở mức độ nhẹ (thái độ của các thành viên lớn tuổi hơn trong gia đình và cộng đồng) tạo điều kiện cho việc áp đặt những tập quán này. Những yếu tố khác góp phần áp đặt những tập quán lên thực hành thai nghén, sinh đẻ là sự phụ thuộc, sự thiếu kinh nghiệm, thiếu thông tin và trình độ văn hóa thấp của những phụ nữ trẻ. Niềm tin của cộng đồng đối với chăm sóc y tế. Niềm tin này rất quan trọng đối với những cộng đồng truyền thống, nó gây ra sự thay đổi hành vi trước khi thay đổi nhận thức. Vẫn còn gặp những nghi ngại nhất định về giá trị của vấn đề chăm sóc y tế, khiến cho một số thành viên trong cộng đồng không muốn sử dụng dịch vụ y tế, cho rằng việc thai nghén và sinh đẻ là hoàn toàn tự nhiên, không có gì cần đặc biệt quan tâm. Cùng với các nhân tố kinh tế, các tác động của thể chế và tổ chức xã hội thì văn hóa, phong tục tập quán có một sức mạnh ghê gớm đối với việc chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ trong cộng đồng. Qua nghiên cứu cho thấy, huyện đảo là nơi không còn tác động của văn hóa, phong tục, tập quán đậm nét, nhưng cũng không tránh khỏi những phong tục, tập quán đã trở thành lạc hậu, thành lực cản với tiến bộ xã hội. Có lẽ một trong những trở ngại lớn nhất đối với chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản của huyện đảo áp dụng cho các gia đình, đối với phụ nữ, đó là tập quán sinh sớm, sinh dày và sinh nhiều con của phụ nữ có nguồn gốc xuất thân từ các vùng biển (Quảng Tiến, Quảng Xương- Sầm Sơn- Thanh Hóa và ngư dân vùng Lập Lễ, Phả Lễ- Thủy Nguyên- Hải Phòng) đến định cư tại đảo từ năm 1993. Điều này vừa gây khó khăn cho việc chăm sóc người mẹ, vừa cản trở khả năng chăm sóc trẻ em, kể cả trẻ sơ sinh. Phỏng vấn sâu Chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ huyện cho thấy: “ Những phụ nữ đã sinh con thứ 3 nhiều nhưng chỉ là quá khứ; nhiều nhất là nhóm ngư dân, nhóm phụ nữ đã ở độ tuổi 40 quê vùng biển Sầm Sơn Thanh Hóa; những năm gần đây cũng có phụ nữ sinh con thứ 3 ở độ tuổi 30 nhưng không nhiều, đó là chị em sinh con một bề là gái hoặc là chị em quê ở Thanh Hóa vẫn còn mang phong tục ở quê cũ đến quan niệm đông của không bằng đông con, di cư ra đảo làm kinh tế đến lúc kinh tế khá lên một chút thì muốn sinh thêm con”. Hầu hết các chị phụ nữ từ Thanh Hóa đến định cư đều mong muốn có đông con, càng nhiều con càng tốt, họ quan niệm “Đông của không bằng đông con” hoặc là “Có vàng, vàng chẳng hay phô. Có con, con nói trầm trồ mẹ nghe”. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng đằng sau các mong muốn mang tính đạo đức đó và tập quán thì nhu cầu sâu xa dẫn đến mong muốn có nhiều con là nhằm đáp ứng nhu cầu sức lao động và đặc thù nghề nghiệp của họ là nghề đánh bắt xa bờ rất nguy hiểm tới tính mạng của các ngư dân. Hiện nay, quan niệm“Trọng nam khinh nữ” đã có chuyển biến nhiều nhưng tâm lý cần phải có con trai vẫn còn tồn tại khá dai dẳng trong một bộ phận đáng kể những ngư dân tại địa bàn nghiên cứu. Tâm lý của một số phụ nữ còn nặng nề về giá trị của con trai (khát con trai), còn sợ nếu mình không đẻ được con trai thì chồng sẽ bỏ hoặc lấy thêm vợ lẽ. “nếu không đẻ được con trai thì anh ấy lấy vợ lẽ, cho nên mình phải cố gắng đẻ lấy đứa con trai” (Nữ, 41 tuổi, Khu dân cư số 1, Có 05 con). Nhiều phụ nữ còn cho là không có con trai thì chồng mình ít nhiều cũng bị thua thiệt và kém cỏi. Phỏng vấn sâu (Nữ, 42 tuổi, Khu dân cư số 3, Có 3 con, Nghề ngư. Cho thấy rõ nét tâm lý này. “ Tôi đã có 02 con gái rồi, các cháu lớn về đất liền học đã mấy năm nay, nhà chỉ có hai vợ chồng, nghĩ rằng các cháu là gái sau này đi lấy chồng, mình không thể đến ở nhà chồng với các cháu được, lúc đó mình phải nhờ con rể à, vấn đề là phải có con trai nối dõi tông đường, để còn nhờ cậy lúc về già. Nhiều lúc bố nó cũng khổ với lời nhạo báng của anh em bạn bè, xót xa với lời nhạo báng, đẹp trai nhất nhà, cứ mải làm sau này để con rể đến phá, thế đấy chị ạ,…,vợ chồng tôi cũng bàn bạc đẻ thêm được cháu trai này đây ”. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, Phụ nữ và nam giới đã nhận thức được nên kiêng khem những gì (không quan hệ tình dục sau sinh trong vòng 45 ngày, không dùng các chất kích thích) và nên bồi dưỡng những nguồn thực phẩm giàu chất dinh dưỡng như thế nào. Cho con bú sớm có tác dụng kích thích bài tiết sữa và tận dụng nguồn sữa non giàu dinh dưỡng và sức đề kháng cao cho con. Phần lớn chị em đã nhận thức được việc người mẹ được ăn uống đầy đủ, được nghỉ ngơi, được động viên và chăm sóc của chồng, gia đình. Không nặng nề với tập quán kiêng cữ lạc hậu ở quê quán cũ của mình.“ Những thông tin chăm sóc phụ nữ sau khi sinh con chúng em được biết thông qua bác sỹ sản nói chuyện chuyên đề với chị em phụ nữ”. (Nữ , 26 tuổi , Khu dân cư số 2, Kinh doanh dịch vụ ). Như vậy, vai trò ảnh hưởng của các kênh truyền thông khác nhau có vai trò ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức và hành vi sinh đẻ và nuôi con của phụ nữ. Do điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, điều kiện đi lại không thuận lợi, vì vậy kinh tế và dân trí của người dân ở đảo kém phát triển hơn. công tác y tế chăm sóc sức khoẻ cho người dân gặp nhiều khó khăn và hạn chế. Bên cạch đó, một số phong tục tập quán của bà con ngư dân còn đè nặng tư tưởng của người dân nơi đây. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận. Trong những năm gần đây đời sống của người dân huyện đảo ngày càng ổn định hơn, mức sống có phần khá hơn trước, công tác ytế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ngày một đảm bảo hơn. Tuy nhiên, so với tốc độ phát triển chung của toàn xã hội thì Huyện đảo Bạch Long Vĩ vẫn còn khoảng cách khá xa về điều kiện phát triển kinh tế- xã hội. Qua kết quả nghiên cứu và phân tích ở trên về thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo bạch long vĩ, có thể đưa ra kết luận như sau: Nhận thức của người dân về nội dung và ý nghĩa của sức khỏe sinh sản chưa được đầy đủ, sự thiếu hiểu biết về sức khỏe sinh sản như nạo hút thai, bệnh đường sinh sản, các biện pháp tránh thai, chăm sóc thai nghén, cách đề phòng và các nguy cơ đối với sức khỏe sinh sản của phụ nữ chủ yếu ở mức độ cảm tính sơ sài. Các cấp lãnh đạo chính quyền địa phương tuy đã quan tâm đến công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia đình song vì tiếp nhận được ít những kiến thức và thông tin về sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục nên chưa có quan tâm chỉ đạo đúng mức. Mức sinh tuy đã giảm nhưng chất lượng công tác kế hoạch hóa gia đình còn yếu, thể hiện ở tỷ lệ thất bại trong việc sử dụng các biện pháp tránh thai còn cao, nhiều phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ sinh con thứ 3 trong những năm vừa qua, việc chăm sóc sức khỏe cho vị thành niên chưa làm được bao nhiêu, việc chăm sóc phụ nữ có thai và các bà mẹ còn nhiều thiếu sót, tỷ lệ các bà mẹ được khám thai còn thấp, việc hướng dẫn cho con bú mẹ và cách nuôi con còn hạn chế; tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản khá cao. Công tác thông tin, giáo dục truyền thông và tư vấn về sức khỏe sinh sản còn nhiều thiếu sót về nội dung và loại hình, về kỹ năng giáo dục truyền thông, về tài liệu tuyên truyền vận động cũng như về kinh phí. Người dân ở khu vực vùng sâu, vùng xa, hải đảo có nhu cầu chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em cũng như kế hoạch hóa gia đình rất cao. Tuy nhiên, hoạt động của hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia đình tuy đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh song vẫn còn nhiều nhược điểm và tồn tại, bộc lộ những hạn chế ngày càng rõ rệt. Đội ngũ cán bộ ytế còn thiếu nghiêm trọng, đặc biệt là Bác sỹ sản nhi, Nữ hộ sinh. Trình độ chuyên môn tay nghề của các cán bộ ytế chưa đáp ứng được nhu cầu, lại không được định kỳ cập nhật một cách cần thiết, ít khả năng cải thiện tình hình, đã làm cho dịch vụ này kém hấp dẫn đối với người sử dụng. Trong khi đó mặt bằng dân trí của những người dân thấp hơn các địa phương khác trong đất liền, sống cách biệt và cô lập, ít có điều kiện giao tiếp và tiếp cận với các nguồn thông tin. Việc điều động và tuyển dụng đội ngũ cán bộ ytế ra đảo công tác là không dễ dàng, trong khi khả năng thích ứng với điều kiện kinh tế , chính sách đãi ngộ với bác sỹ có trình độ chuyên môn tay nghề cao chưa được nhà nước quan tâm. Điều này, không đáp ứng được nhu cầu của người dân về khám chữa bệnh cũng như nhu cầu về dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản cho chị em phụ nữ huyện đảo. Trung tâm y tế huyện bạch Long Vĩ còn thiếu kinh phí để duy trì, thuốc và phương tiện chữa bệnh chưa đầy đủ. Mặc dù trong thời gian qua trung tâm y tế đã được nâng cấp và xây mới thêm (dự án bệnh viện 20 giường bệnh cho bệnh nhân lưu trú), tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân tại huyện đảo, một huyện đảo tiền tiêu có kinh tế- xã hội phát triển chưa đủ mạnh ngang tầm với các địa phương trong đất liền. Như vậy, còn nhiều vấn đề bất cập và nan giải về sức khỏe sinh sản đang tồn tại ở khu vực vùng sâu, vùng xa, hải đảo. 2. Giải pháp và Kiến nghị. 2.1. Giải pháp. Lợi ích của vấn đề chăm sóc sức khỏe sinh sản là rất lớn, nó ảnh hưởng tới nhiều vấn đề xã hội như ytế, giáo dục, dân số, tệ nạn xã hội và đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai. Để khắc phục những hạn chế trước đây chúng ta cần phải có những giải pháp tốt: Tạo sự chuyển biến về nhận thức, cũng như sự ủng hộ và cam kết thực hiện các mục tiêu và các nội dung của chăm sóc sức khỏe sinh sản trong mọi tầng lớp nhân dân, trước hết là trong cán bộ lãnh đạo các cấp ở địa phương. Huy động cộng đồng đẩy mạnh truyền thông giáo dục thay đổi hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản, nâng cao kỹ thuật giao tiếp, truyền thông và tăng cường việc tận dụng các dịch vụ thông tin- giáo dục- truyền thông của nhà cung cấp dịchvụ. Duy trì vững chắc xu thế giảm sinh, bảo đảm quyền sinh con và lựa chọ các biện pháp tránh thai có chất lượng của phụ nữ và các cặp vợ chồng. Giảm tỷ lệ có thai ngoài ý muốn. Nâng cao nhận thức và hiểu được vai trò chăm sóc sức khỏe sinh sản cho các bà mẹ trong thời kỳ có thai và sinh đẻ là rất cần thiết. Củng cố niềm tin phù hợp và các chuẩn mực, cũng như góp phần gỡ bỏ các quan niệm sai lầm về sức khỏe sinh sản. Dự phòng có hiệu quả để làm giảm số mắc mới và điều trị tốt các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản và các bệnh lây qua đường tình dục. Cải thiện tình hình sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục của vị thành niên, thông qua việc giáo dục, tư vấn và cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản phù hợp với lứa tuổi. Nâng cao nhận thức của phụ nữ và nam giới về giới tính và tình dục để thực hiện đầy đủ về quyền và trách nhiệm sinh sản, xây dựng quan hệ tình dục an toàn, có trách nhiệm, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau nhằm nâng cao sức khỏe sinh sản và chất lượng cuộc sống.Vận động nam giới vào vào chương trình kế hoạch hóa gia đình và sức khỏe sinh sản nhằm nâng cao nhận thức và sức khỏe cho cả hai giới là việc làm cần thiết. Thay đổi mức độ phân phát dịch vụ bằng cách tăng số lượng phụ nữ và nam giới được phục vụ, tăng chất lượng chăm sóc mà họ được nhận cũng như duy trì tính bền vững của các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản trên địa bàn huyện. 2.2. Kiến nghị. Để góp phần thực hiện thành công những mục tiêu trên nhanh chóng, Tôi xin kiến nghị như sau: Với thực trạng về tình hình sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo, vùng xa như trên thì song song với việc nâng cấp cơ sở y tế và chú trọng hiệu quả của công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân thì các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế- xã hội cho huyện đảo cũng rất cần thiết. Một khi người dân huyện đảo có điều kiện đáp ứng được các nhu cầu cơ bản của cuộc sống thì những điều kiện sức khỏe nói chung của họ sẽ được góp phần cải thiện. Họ có nhiều cơ hội để chi trả các khoản phí tổn nếu phải tiếp cận các cơ sở y tế. Kiến nghị nhà nước quan tâm nhiều hơn đối với hải đảo khi đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn, có chính sách ưu đãi, hỗ trợ tăng nguồn vốn đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế- xã hội. Chính quyền địa phương cần nâng cao nhận thức, hiểu đúng đắn và đầy đủ về nội dung, ý nghĩa cấp thiết cũng như đẩy mạnh sự cam kết chính trị và sự ủng hộ rộng rãi của các cán bộ lãnh đạo chính trị, đoàn thể xã hội (Mặt trận tổ quốc, Hội Phụ nữ , Đoàn thanh niên) và những người có uy tín ảnh hưởng trong xã hội về chăm sóc sức khỏe sinh sản. Chuyển cách tiếp cận kế hoạch hóa gia đình sang cách tiếp cận toàn diện dân số/ sức khỏe sinh sản với ổn định và phát triển bền vững, lồng ghép các vấn đề dân số/ sức khỏe sinh sản vào chương trình phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Có chế độ chính sách đãi ngộ tốt, khuyến khích động viên bác sỹ sản nhi công tác tại đảo lâu dài, tránh hiện tượng thiếu vắng Bác sỹ như hiện nay. Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Tăng cường sự hoạt động của mạng lưới y tế để cải thiện tình trạng chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em và kế hoạch hóa gia đình tiến tới việc xã hội hóa công tác này. Trước mắt cần đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ nhân viên y tế và giám sát họ trong việc chăm sóc và quản lý thai nghén tại địa phương, mở rộng mô hình theo dõi sức khỏe tại nhà, đặc biệt là đối với người mẹ đã có nhiều con hoặc mới mang thai lần đầu, người mẹ có tiền sử sản khoa hoặc nguy cơ cao về thai nghén để theo dõi chặt chẽ sự phát triển của thai và các biến cố của người mẹ từ đó có kế hoạch tham vấn và chuyển tuyến kịp thời. Tuy nhiên, trước mắt với những điều kiện kinh tế chưa phát triển,việc cung cấp bảo hiểm y tế miễn phí cho người dân sinh sống tại huyện đảo có thể là một trong những giải pháp tốt. Tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức cho người dân có trách nhiệm hơn đối với tình trạng sức khỏe của bản thân, đặc biệt là phụ nữ, các bà mẹ mang thai và các thành viên trong gia đình, để chính bản thân họ ý thức được nhu cầu và lợi ích từ việc chăm sóc sức khỏe. Nâng cao năng lực cho phụ nữ. Nâng cao trình độ văn hóa chung và nâng cao kiến thức của phụ nữ về sức khỏe sinh sản, tạo cho họ nhiều nguồn thông tin, những nguồn kiến thức và kinh nghiệm riêng giúp cho họ độc lập hơn trong các quyết định, xây dựng các chuẩn mực mới phù hợp hơn và những thực hành đúng đắn, tránh được những áp đặt của tập quán lạc hậu. Mở rộng và nâng cao chất lượng việc tuyên truyền, giáo dục cho phụ nữ và toàn cộng đồng về chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia đình bên cạnh việc cung cấp đầy đủ, dễ dàng, thuận lợi và an toàn các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản góp phần làm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nhà nước cần tăng cường đầu tư hơn nữa cho phúc lợi công cộng cho huyện đảo. Trong đó chú trọng đầu tư phương tiện giao thông thủy (tàu tải trọng lớn), tăng cường bổ xung nguồn ngân sách nhà nước để tăng chuyến trong tháng tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân giao thương với đất liền, tiếp cận với nguồn thông tin, nâng cao nhận thức và tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng, phù hợp với địa phương góp phần cải thiện điều kiện sống, giảm nhẹ gánh nặng công việc gia đình, đảm bảo sức khỏe cho người phụ nữ, tạo điều kiện nâng cao trình độ dân trí- nên coi huyện đảo Bạch Long Vĩ là vùng ngoại lệ cần thiết trong giai đoạn đầu phát triển, cần phải hỗ trợ về mọi mặt. Chính quyền địa phương có giải pháp tốt phát triển kinh tế huyện đảo nhằm nâng cao đời sống vật chất cho người dân, duy trì mức sống không có hộ đói nghèo góp phần gỡ bỏ những cản trở về kinh tế của những hộ gia đình có mức sống chưa ổn định bền vững trong việc lựa chọn dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, nâng cao các điều kiện chăm sóc đối với người phụ nữ, tạo quyền cho phụ nữ: Thông qua các chương trình phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo của Hội Phụ nữ, để tạo cho phụ nữ một vị thế xã hội mới, tăng vai trò của họ trong gia đình từ đó gỡ bỏ được những cản trở về phong tục tập quán và quan hệ gia đình đang cản trở người phụ nữ thay đổi hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1- Huyện ủy- UBND Huyện Bạch Long Vỹ- Báo cáo thực hiện nhiệm vụ kinh tế- xã hội năm 2005; 2006; 2007. 2- TTYT Huyện- Báo cáo tổng kết năm 2005; 2006; 2007. 3- GS. Phạm Tất Dong - Lê Ngọc Hùng (Chủ biên) - XHH Đại cương – NXB ĐHQG Hà Nội 2001. 4- Phạm Văn Quyết - Nguyễn Quý Thanh- Phương pháp nghiên cứu XHH - NXB ĐHQG Hà Nội ,1997. 5- Điều tra biến động dân số- kế hoạch hóa gia đình 01/04/2006- NXB Thống kê, Hà Nội, 2006. 6- Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản giai đoạn 2001- 2010, Bộ Ytế, Hà Nội- 2001. 7- Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 4,1996. 8- Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường trong phát triển- Phụ nữ, sức khỏe và môi trường. Nhà xuất bản chính trị quốc gia , 2001. 9- Bộ Y tế - Tử vong mẹ Việt Nam 2002. 10- Phân tích tình hình phụ nữ và trẻ em Việt nam, Unicef. 11- Dân số và phát triển ở Việt Nam- Nhà xuất bản thế giới 2004. 12- Lê Ngọc Hùng- Nguyễn Thị Mỹ Lộc- XHH về giới và phát triển- NXB ĐHQG Hà Nội, 2000. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVXHH017.doc
Tài liệu liên quan