Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài :
Hơn thập kỷ kiên định với sự nghiệp đổi mới cơ chế kinh tế do Đảng khởi xướng, Việt Nam đã từng bước nâng cao được vị thế của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng trong quá trình phát triển, hội nhập khu vực và thế giới. Dưới sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trường cùng việc điều tiết vĩ mô của Nhà nước môi trường kinh doanh và đầu tư ngày một thông thoáng, hoàn thiện hơn. Mọi mối quan hệ kinh tế ngày thêm nẩy sinh đa dạng đồng thời đều đượ
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1288 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của các Doanh nghiệp thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c tiền tệ hoá và diễn ra hết sức sôi động trong môi trường cạnh tranh đầy quyết liệt.
Khi nói tới nền kinh tế hàng hoá mà bước phát triển cao là kinh tế thị trường từ một quy luật cơ bản ngự trị trong nó là cạnh tranh và dường như nền kinh tế càng phát triển thì mức độ cạnh tranh cũng ngày một gia tăng. Sự thực, nó đã hết sức sức quyết liệt và nghiệt ngã khi có hỗ trợ đắc lực của “sa lộ” thông tin toàn cầy cùng những tiến bộ khoa học công nghệ mang tính “thần tốc” của thời đại. Theo đó, cuộc chiến thương mại ngày nay không dừng ở sản phẩm, dịch vụ mà quan trọng hơn cả là cạnh tranh tìm kiếm thông tin giá trị sinh lời. ở đó cạnh tranh không đơn thuần với mục đích đào thải, loại trừ theo quy luật tiến hoá “mạnh được yếu thua, khôn sống mống chết” mà còn mang tính thúc đẩy nhau cùng phát triển hơn nữa nhằm đảm bảo lợi ích cho các bên tham gia cạnh tranh.
Trước sức ép cạnh tranh không ngừng gia tăng do cơ cấu thị trường cung đã vượt xa cầu. Để tồn tại và phát triển doanh nghiệp luôn phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt. Trong cuộc chiến không khoan nhượng ấy. Yếu tố quyết định sự thành bại không gì khác ngoài khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó được coi là năng lực tổng hợp mà doanh nghiệp có được từ các lợi thế so sánh. Với doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp thương mại nói riêng sức ép đó không phải là nhỏ khi mà chúng ta thực hiện hội nhập kinh tế cùng lúc với thời kỳ đầu CNH - HĐH nền kinh tế.
Do vậy năng lực cạnh tranh là điều đáng quan ngại không chỉ với doanh nghiệp mà cả với chính phủ. Nó vừa là yêu cầu cấp thiết vừa mang tính chiến lược lâu dài. Vậy nội dung, thước đo của nó là gì cùng nhiều vấn đề khác là câu hỏi cần được giải đáp, đặc biệt hơn là làm thể nào để nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp ? Đây là một vấn đề lớn mà nhiều cuộc hội thảo, công trình nghiên cứu đã đang và sẽ được tiến hành để phục vụ cho quốc tế dân mình.
Trong giai đoạn hiện nay khi mà làn sóng mở cửa hội nhập như yêu cầu tất yếu thì vấn đề cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh khó thú vị với sinh viên khối kinh tế cũng như nhiều người khác có liên quan đến hoạt động kinh tế Thương mại. Nó đã trở nên thường thức trong nhiều doanh nghiệp và việc nghiên cứu một cách cụ thể về thực trạng NLCT của các doanh nghiệp nói chung và DNTMVN nói riêng là điều cần thiết, nên làm. Trên cơ sở đó giúp sinh viên bước đầu đưa ra những nhận định và kiến nghị để hoàn thiện quá trình học đồng thời góp phần hoạch định chiến lược sản phẩm, nâng cao KNCT và vị thế doanh nghiệp trên thương trường. Việc đó có ý nghĩa rất quan trọng với những chủ thể liên quan cũng như những sinh viên đang trong quá trình học tập. Bởi vấn đề không chỉ đơn thuần dừng lại ở giá trị lý luận mà còn là sự kết hợp với giá trị thực tiễn trong suốt quá trình nghiên cứu tìm hiểu.
2. Mục đích nhiệm vụ
+ Góp phần làm sáng tỏ thêm nhận thức đúng đắn về cạnh tranh để từ đó có cơ sở khoa học và chiến lược nâng cao khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp.
+ Nêu lên thực tế môi trường cạnh tranh, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong giai đoạn đầu của mở cửa hội nhập kinh tế khu vực, thế giới.
+ Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháo góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh và củng cố vị thế của các doanh nghiệp ở thị trường nội địa và xa hơn là Ngoại quốc. Thông qua xây dựng chiến lược cạnh tranh các nguồn lực sử dụng tạo lợi thế cạnh tranh trong giai đoạn tới nhằm đảm bảo hội nhập thành công.
3. Đối tượng nghiên cứu : Với khả năng và nguồn tư liệu còn hạn chế nên đề tài đã tiến hành tập trung vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước mà đối tượng chính là doanh nghiệp thương mại (DNTM). Từ đó ước đoán cho khả năng cạnh tranh ở phạm vi rộng hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu :
Đề tài được xử lý phương pháp phân tích tổng hợp lôgích và lịch sử, sự hiểu biết của bản thân cùng quá trình khảo sát phỏng vấn nhanh.
Trong đề tài cũng sử dụng một số tư liệu và các kết quả nghiên cứu, điều tra có liên quan đã được công bố.
5. Kết cấu đề tài :
Ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung của đề tài gồm 3 phần :
Phần 1 : Cơ sở lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Phần 2 : Thực trạng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại.
Phần 3 : Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Phần I
Cơ sở lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế
I. Tổng quan về cạnh tranh
1. Khái niệm, đặc trưng và bản chất của cạnh tranh.
a. Khái niệm : Hiện tượng cạnh tranh được xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Tức là vào khoảng thế kỷ 14 -15, trong cuộc cách mạng tư sản và cách mạng công nghiệp. Nhưng cả một thời gian dài người ta không coi cạnh tranh như một qúa trình, quy luật đồng thời không quan sát và phân tích những tác động của chúng trong nền kinh tế cũng như bản thân mỗi chủ thể. Chỉ khi các khái niệm về giá trị, giá cả được nghiên cứu một cách nghiêm túc thì vấn đề cạnh tranh mới được sự quan tâm của nhiều học giả.
Cho tới nay, cạnh tranh vẫn chưa có được khái niệm chính thức. Tuy vậy, mọi nhà nghiên cứu dường như cũng thống nhất ở chỗ : Cạnh tranh là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Để đơn giản hoá, có thể hiểu cạnh tranh là sự ganh đua giữa một (hoặc một số nhóm) người mà sự nâng cao vi thế của người này sẽ làm giảm vị thế của những người tham gia còn lại. Trong kinh tế khái niệm cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành lấy những nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thương trường. Theo đó, có thể mang lại lợi ích cho người này và thiệt hại cho chủ thể khác. Song xét dưới góc độ lợi ích toàn xã hội cạnh tranh luôn luôn có tác động tích cực. Chẳng hạn : chất lượng hàng hoá tốt hơn, giá cả giảm đi, dịch vụ chu đáo tận tình hơn… Điều này nó giống như quy luật sinh tồn và đào thải tự nhiên, quy luật cạnh tranh là thải loại những thành viên yếu kém trên thị trường để duy trì và phát triển những thành viên tốt nhất và qua đó hỗ trợ đắc lực cho qúa trình phát triển toàn xã hội.
Như vậy, ở thời kỳ nền sản xuất hàng hoá, thị trường chưa hình thành và phát triển thì không thể có hiện tượng cạnh tranh giữa người sản xuất với nhau. Cạnh tranh trong kinh tế bao gồm cả lành mạnh và không lành mạnh.
Cạnh tranh được coi là lành mạnh chỉ khi nó hợp pháp, giữ gìn đạo đức kinh doanh và tập quán kinh doanh bằng chính nội lực, tiềm lực thực có của nhà kinh doanh mà không gây thiệt hại cho người khác. Đối lập với cạnh tranh lành mạnh là cạnh tranh không lành mạnh. Khoản 2 điều 10 công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ định nghĩa : “Bất kỳ hành vi cạnh tranh nào trái các hoạt động thực tiễn trung thực trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại đều bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh”. Tại khoản 3 điều 40 của công ước này đã chi tiết hoá một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh có tính chất điển hình như tạo ra sự nhầm lẫn, lừa dối công chúng, lợi dụng không chính đáng thành quả hoặc giá trị có chức năng quảng cáo, lạm dụng danh tiếng uy tín thương mại của người khác…
Khái niệm về cạnh tranh không lành mạnh có tính chất tương đối và luôn thay đổi do các hành vi cạnh tranh không hề bất biến. Trái lại nó rất đa dạng và phức tạp. ở Việt Nam cạnh tranh không lành mạnh được coi như những hành vi cạnh tranh bất hợp pháp, trái đạo đức xã hội, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước như : làm hàng giả, giả mạo, lừa đảo, vu khống…
b. Đặc trưng của cạnh tranh :
Cạnh tranh là đặc trưng căn bản của sản xuất hàng hoá. Ưu thế cạnh tranh trên thị trường do năng suất, chất lượng, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quyết định. Đặc trưng hàng đầu của cạnh tranh là chất lượng của tiềm lực cạnh tranh và nghệ thuật cạnh tranh trên thị trường.
Chất lượng cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển hoặc phá sản của tất cả những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá. Nó còn có đặc trưng cơ bản là : 1. Có mặt tích cực và tiêu cực ; 2. Luôn có xu hướng độc quyền chiếm lĩnh thị trường thủ tiêu đối phương cạnh tranh ; 3. Cạnh tranh gắn liền với thị trường, biến động trên tất cả các loại thị trường, quy mô cạnh tranh bao trùm cả thị trường nội địa và thị trường nước ngoài.
Cạnh tranh là động lực phát triển sản xuất hàng hoá của nhà kinh doanh, là động lực cho sự phát triển nền kinh tế quốc gia. Nó cũng là động lực quan trọng cho việc hình thành, vận động tiến lên của thị trường - đa dạng hoá các loại thị trường. Chính vì vậy, để có thể cạnh tranh được trên thị trường, các doanh nghiệp và nhà sản xuất kinh doanh dịch vụ đều phải tự mình đổi mới cơ cấu sản xuất, công nghệ đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cũng như phương thức kinh doanh trong quan hệ thương mại.
Cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp có tác dụng tích cực làm tăng lợi nhuận của người điều kiện. Song song với nó chất lượng hàng hoá dịch vụ ngày một tốt hơn, giá cả có xu hướng giảm sẽ đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng và lợi ích của nền kinh tế quốc dân.
Mặc khác, cạnh tranh cũng có mặt tiêu cực, thể hiện ở xu hướng phân hoá các doanh nghiệp, phân hoá giàu nghèo gây ra tình trạng phá sản doanh nghiệp, phân hoá giàu nghèo gây ra tình trạng phá sản doanh nghiệp, nạn thất nghiệp của người lao động. Từ đó nó gây ra những bất ổn định về mặt xã hội, tạo ra sức ép lớn với các chính sách kinh tế và chính sách xã hội, tạo ra sức ép lớn với các chính sách kinh tế và chính sách xã hội của mỗi quốc gia. Cạnh tranh không lành mạnh càng tạo ra nhiều hậu quả tiêu cực. Đối với người tiêu dùng và các đối tác cùng cạnh tranh, đối với cả Nhà nước và xã hội.
Ngoài những đặc trưng chung, cạnh tranh trên từng loại thị trường, trên từng lĩnh vực kinh tế cũng có đặc điểm riêng. Chẳng hạn như cạnh tranh trên thị trường sức lao động vừa tạo động lực để cả cung và cầu về lao động cùng thực hiện quyền tự do mua bán sức lao động vừa tạo ra điều kiện phát triển lao động có hàm lượng chất xám càng cao. Nó thúc đẩy cạnh tranh giữa những người sử dụng lao động với nhau trong cuộc cạnh tranh về sức lao động. Điều đó buộc mỗi nhà doanh nghiệp phải khai thác có hiệu quả sức lao động - một loại hàng hoá đặc biệt để tạo ra nội lực và tiềm lực cạnh tranh của mình trên thị trường. Tương tự vậy cho các thị trường vốn, công nghệ…
c. Bản chất của cạnh tranh :
Theo khái niệm, cạnh tranh được biểu hiện ra bên ngoài là sự ganh đua giữa các chủ thể trong một môi trường nhất định. Cụ thể, trên thị trường mỗi doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh dịch vụ đều hoạt động trong điều kiện cạnh tranh, giành giật với các đối thủ khác nhằm theo đuổi những mục đích nhất định vì lợi nhuận của mình. Và mục đích cuối cùng của cạnh tranh không gì khác là thu được lợi nhuận cao, chiếm lĩnh và mở rộng thị trường qua đó nâng cao uy tín kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, mức độ đạt được mục đích đó còn tùy thuộc vào tiềm lực thực có của chủ thể kinh doanh - Năng lực cạnh tranh. Chúng được định hướng bởi bản chất kinh tế và bản chất xã hội của cạnh tranh.
ở đó, bản chất kinh tế của cạnh tranh thể hiện ở mục đích vì lợi nhuận và mong muốn chi phối thị trường của doanh nghiệp tham gia cạnh tranh. Còn bản chất xã hội của cạnh tranh chính là đạo đức kinh doanh, là uy tín kinh doanh của mỗi chủ thể thực hiện cạnh tranh trong mối quan hệ với người tiêu dùng và các đối thủ khác cũng như giữa doanh nghiệp với những người lao động trực tiếp tạo ra tiềm lực cạnh tranh.
Dưới tác động điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt động cạnh tranh trên thị trường, sự cạnh tranh ở mỗi quốc gia và có bản chất chính trị khác nhau. Nó tùy thuộc vào việc hoạch định và thực thi chính sách kinh tế và chính sách xã hội của từng quốc gia. Suy cho cùng cạnh tranh cũng chỉ vì lợi ích của chính mình.
2. Lý thuyết về cạnh tranh.
a. Trường phái cổ điển :
ý nghĩa của cạnh tranh trước hết được những người theo trường phái cổ điển phát hiện ra thông qua sự biến động giá cả. Theo họ, giá tự nhiên bao gồm lao động chứa trong sản phẩm và địa tô. Khi xuất hiện một sự bất thường nào đó thì giá thị trường có thể chênh lệch với giá tự nhiên trong giai đoạn ngắn. ở trường hợp đó, cạnh tranh tiêu cực để điều chỉnh bên cung và làm cho giá thị trưởng trở lại mức giá tự nhiên. Adam Smith đã tiếp thu những nội dung này và bổ sung thêm vào đó các vấn đề cạnh tranh bên cầu. Như vậy Adam Smith chính là người đầu tiên đưa ra lý thuyết tương đối hoàn chỉnh về cạnh tranh.
Luận thuyết của ông đòi hỏi tự do hành động cho mọi doanh nghiệp và các hộ gia đình - nghĩa là đảm bảo sự tự do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cũng như sự tự do lựa chọn tiêu dùng của hộ gia đình.
Thông qua cơ chế thị trường, việc vận dụng tự do cạnh tranh để theo đuổi lợi ích riêng dẫn đến mỗi chủ thể kinh tế sẽ nhận được những thành quả mà họ đã cống hiến cho thị trường. Như vậy, sự hài hòa về lợi ích riêng được hình thành như thế thông qua sự sắp đặt của “bàn tay vô hình”. Mô hình cạnh tranh của trường phái này có thể được hiểu như một quy trình điều phối không có sự điều tiết của Nhà nước. Mặc dù vậy, mô hình cạnh tranh của họ không đồng nghĩa với chính sách bỏ mặc doanh nhân như nhiều người lầm tưởng mà họ đòi hỏi Nhà nước phải tạo ra và đảm bảo một trật tự pháp luật làm khuôn khổ cho qúa trình cạnh tranh diễn ra.
Sự hài hòa về lợi ích như Adam Smith phỏng đoán đã được trường phái tân cổ điển nghiên cứu. Trên cơ sở đó, họ tìm cách xác định những điều kiện để tồn tại sự tưởng thích giữa lợi ích riêng và lợi ích tổng hợp trong xã hội. Kết quả cố gắng của những nhà kinh tế phái tân cổ điển đã mang lại mô hình cân bằng của cạnh tranh hoàn hảo. Họ đã thay thế và rút gọn việc phân tích trạng thái cân bằng theo lý thuyết giá. Từ những giả thuyết (không mấy thực tế) về cơ cấu và quan hệ trên thị trường, họ đã rút ra những kết luận về giá và khối lượng cân bằng. Vì thế qúa trình cạnh tranh động dẫn dẫn đến cân bằng đã bị việc quan sát tĩnh lấn át.
b. Lý thuyết cạnh tranh không hoàn hảo và cạnh tranh mang tính độc quyền.
Vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX nhiều nhà kinh tế mà nổi trội là E. Chamberlin (người Mỹ) và S.Robinson (Anh) đã nghiên cứu để tìm cách vượt qua sự tách bạch quá rạch ròi giữa hai thái cực là độc quyền và thuần tuý cạnh tranh hoàn hảo. Trọng tâm của việc nghiên cứu này là vấn đề độc quyền nhóm, hàng hoá tạp chủng và bổ sung những hình thái cạnh tranh không bằng giá (VD : qua lĩnh vực phân phối quảng cáo).
Mô hình cạnh tranh không hoàn hảo hoặc cạnh tranh mang tính độc quyền là phạm trù thứ 3 giữa hai cực cạnh tranh hoàn hảo và độc quyền. Sự khác biệt của nó so với hai phạm trù kia là nó thiếu một số nhân tố hoàn hảo hoặc nhân tố độc quyền của thị trường. Khởi đầu phân tích này từ chỗ nhận thấy rằng : Không bao giờ có thể tồn tại cạnh tranh hoàn hảo. Bởi những giả thuyết về sự tồn tại tất cả các nhân tố hoàn hảo của thị trường là điều không tưởng.
Cạnh tranh mang tính độc quyền theo nghĩa rộng là cạnh tranh giữa nhiều đơn vị cung ứng với những hàng hoá khác biệt cạnh tranh lẫn nhau trên những thị trường với một số ít đơn vị cung ứng. Sau khi lý thuyết về hình thái thị trường độc quyền nhóm ra đời và phát triển, đến nay người ta hiểu khái niệm cạnh tranh mang tính độc quyền chỉ theo nghĩa hẹp là : Cạnh tranh giữa nhiều người cung ứng với những hàng hoá khác biệt.
Lý thuyết này ra đời và tạo cơ sở cho các doanh nghiệp có thêm những phương pháp để xây dựng chiến lược Marketing khác nhau, phù hợp với vị thế của mình trên thị trường đồng thời thích nghi với hình thái thị trường hiện hữu.
c. Lý thuyết cạnh tranh hiệu quả.
Nó được hình thành vào đầu những năm 40 của thể kỷ 20. Lý thuyết dựa trên luận điểm lấy “độc trị độc” của nhà kinh tế Mỹ - John Maurice Clack là : những nhân tố không hoàn hảo trên thị trường có thể được sửa chữa bằng những nhân tố không hoàn hảo khác. Chẳng hạn (như) tính không hoàn hảo do có ít người cung ứng (thị trường độc quyền nhóm) sẽ được cải thiện phần nào thông quan nhân tố không hoàn hảo khác vì như thiếu sự tường minh của thị trường và tính tạp chủng của hàng hoá. Bởi vì những nhân tố không hoàn hảo này sẽ làm giảm sự phụ thuộc lẫn nhau trong chính sách giá cả giữa các hãng ở thị trường độc quyền nhóm, tạo điều kiện cho các hoạt động cạnh tranh có kết quả.
Luận điểm của nhà kinh tế học Mỹ gốc áo Schumpeter (1883 - 1857) về cạnh tranh đã ảnh hưởng một cách mạnh mẽ đến sự phát triển tiếp theo của lý thuyết cạnh tranh cũng cho rằng : phải cạnh tranh bằng sản phẩm mới, kỹ thuật công nghệ mới, nguồn cung ứng mới và bằng cả hình thức tổ chức mới. Theo ông đổi mới chính là “sự phá hủy mang tính sáng tạo”.
Clack đã nhanh chóng tiếp thu luận điểm này của Schumpeter và gắn nó với lý thuyết cạnh tranh trong tác phẩm : “Competition is a Dynamie Proces”. Theo đó, việc các siêu lợi nhuận của doanh nghiệp tiên phong trên cơ sở lợi thế so sánh nhất thời vừa là hệ quả, vừa là tiền đề của cạnh tranh. Lợi nhuận này không nên xoá bỏ ngay lập tức mà chỉ nên giảm dần để doanh nghiệp có thể có điều kiện thời gian tạo ra một sự đổi mới, cải tiến khác. Chính vì vậy, theo Clack, sự vận động của cạnh tranh được đo bằng sự giảm giá, tăng chất lượng hàng hoá cũng như việc hợp lý hoá trong sản xuất.
Tóm lại nội dung cơ bản của lý thuyết cạnh tranh hiệu quả là phân biệt rõ những nhân tố không hoàn hảo nào là có lợi và nhân tố nào không có lợi cho chính sách cạnh tranh. Từ đó, giúp các chủ thể kinh tế nhận biết được các điều kiện cần (thiết) và đủ cho tính hiệu quả của cạnh tranh trong nền kinh tế.
II. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế.
Cạnh tranh là hoạt động thực tiễn của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Nó mang tính tất yếu của một quy luật kinh tế, chịu sự chi phối, tác động của nhiều quy luât kinh tế khác. Hơn thế cạnh tranh còn là hoạt động mang tính chủ quan của nhà sản xuất, kinh doanh vừa do bản chất mục đích kinh doanh của bản thân người đó chi phối vừa chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước cạnh tranh cũng chứa đựng trong nó tính hai mặt : Tích cực và tiêu cực đối với nền kinh tế nói chung và với các doanh nghiệp nói riêng trong quá trình phát triển.
1. Đối với doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh trở thành sức ép vô hình nhưng rất mạnh mẽ với mọi doanh nghiệp. Nó sẽ có lợi hơn nếu phía doanh nghiệp biết tiếp nhận một cách chủ động và vận dụng sáng tạo quy luật cạnh tranh vào điều kiện hiện có của mỗi doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu kinh tế cũng như xã hội.
Nhờ có quy luật cạnh tranh mà các doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh có điều kiện để khẳng định mình. Bởi trong môi trường như vậy buộc các doanh nghiệp phải có cách nhìn động cùng một tư duy nhậy bén mới thích ứng được với những biến động thất thường thiếu quy luật của các yếu tố liên quan đặc biệt là phía khách hàng. ở vào thời kỳ mà cung lớn hơn cầu, thậm chí lớn hơn nhiều thì khách hàng càng trở nên quan trọng với mọi nhà kinh doanh. Theo quan điểm của Marketing thì khách hàng sẽ là trung tâm của quá trình kinh doanh. Họ chính là lực lượng quyết định đến lợi nhuận, được thua của doanh nghiệp. Vì vậy “cuộc chiến trong thương mại chính là cuộc chiến để giành lấy khách hàng giữa các đối thủ cạnh tranh mà sự gia tăng lợi ích của người này sẽ làm giảm lợi ích của người còn lại. Bởi vậy, cạnh tranh sẽ hối thúc doanh nghiệp không chỉ định hướng vào khách hàng mà phải định hướng chính xác để nắm bắt kịp thời nhu cầu khách hàng. Trên cơ sở đó sẽ đề ra phương thức phục vụ khách hàng một cách tối ưu. Trước yêu cầu như vậy, doanh nghiệp nào không thực hiện tốt sẽ nắm chắc phần thua trong tay và nếu sai lầm nối tiếp sai lầm thì nguy cơ bị loại thải sẽ thành hiện thực.
Nhưng bí quyết cho cạnh tranh thành công lại nằm ở công nghệ sản xuất kinh doanh. Do đó, cạnh tranh sẽ “dẫn đường” cho doanh nghiệp tìm ra công nghệ hợp lý hơn trong kinh doanh. Công nghệ với các doanh nghiệp sản xuất thuần tuý hay doanh nghiệp thương mại đều ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng của sản phẩm dịch vụ. ở doanh nghiệp sản xuất công nghệ chủ yếu nằm ở máy móc, quy trình sản xuất quản lý. Còn doanh nghiệp Thương mại nó là tập hợp các phương thức chủ yếu nhằm phục vụ nhu cầu khách hàng về hàng hoá dịch vụ và các hoạt động hậu cần trước đó (liên quan). Dù có điểm giống và khác nhau về công nghệ giữa hai loại hình doanh nghiệp nhưng nguyên tắc chung cho lựa chọn công nghệ là phải giảm thiểu chi phí trong khi vẫn phải đáp ứng sản xuất, phục vụ nhu cầu tối đa. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi doanh nghiệp “chịu khổ” đổi mới, tìm và sử dụng những công nghệ tiên tiến phù hợp bằng nhiều cách khác nhau : Mua mới, sáng tạo, cải tiến… Trước sự cạnh tranh gay gắt, một doanh nghiệp giậm chân tại chỗ cũng đồng nghĩa với tụt lùi so với đối thủ. Vì vậy, cạnh tranh với bản chất kinh tế cũng như xã hội của nó đã thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất kinh doanh trên con đường tìm đến tối đa hoá lợi nhuận.
Những tác động tích cực trên có thể được quy về việc thúc đẩy sử dụng có hiệu quả hơn nữa các nguồn lực sẵn và sẽ có của doanh nghiệp (Nhân - tài - vật lực). Để có hiệu quả tối ưu trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để tối thiểu hoá chi phí trong khi doanh thu phải đạt mức cao nhất. Từ yêu cầu trên, mô hình chung đã đặt các doanh nghiệp vào vị trí cạnh tranh lẫn nhau trong việc tìm kiếm sử dụng và bồi dưỡng nguồn lực. Ví dụ : Quá trình tìm và sử dụng nguyên vật liệu cho kinh doanh hay vốn để đầu tư cũng chính là quá trình thiết lập mối quan hệ bạn hàng với mỗi doanh nghiệp. Khi mà cạnh tranh thương mại gay gắt thì độ bền vững của quan hệ này là rất quan trọng, nó quyết định thế ổn định trong kinh doanh của doanh nghiệp. Song song với việc củng cố mối quan hệ bên ngoài theo kiểu liên minh (dọc, ngang) các doanh nghiệp phải quan tâm hơn cả vào nội lực của nó - vốn con người. Bởi mọi nguồn lực đều có hạn chỉ duy nhất sức sáng tạo của con người và vô hạn. Hiểu và khai hoá tốt được yếu tố này mới là sự đảm bảo vững bền cho doanh nghiệp trong quá trình phát triển. Nó thường được thực hiện qua chính sách khuyến khích, đãi ngộ với người lao động. Từ đó làm tăng thêm quan hệ khăng khít vừa mang tính phụ thuộc vừa có xu hướng độc lập giữa chủ và thợ trong một doanh nghiệp. Chính sự cạnh tranh đó đã nâng cao đời sống, điều kiện làm việc của những lao động có kỹ năng tay nghề cao. Đó sẽ là tiền đề cho những sáng kiến, cải tiến mới mang lại hiệu quả cao hơn.
Như vậy có thể nói rằng : sự cạnh tranh cùng với những áp lực vốn có đã mang lại nguồn sinh lực mới cho doanh nghiệp. Rất có thể nó trở thành những ngọn gió lành với nhiều doanh nghiệp. Song cũng không ít nhà kinh doanh ngọn gió ấy chẳng lành chút nào nếu không muốn nói là dữ. Bởi đơn giản cạnh tranh sẽ tất yếu dẫn tới phân cực - những người thành công và những kẻ thất bại. Cho dù thành bại ở mức độ khác nhau, song mỗi chủ thể đều có thêm những kinh nghiệm cho riêng mình trên chặng đường tiếp theo trong nghiệp kinh doanh.
2. Trên phương diện nền kinh tế quốc dân
Cạnh tranh không chỉ tác động đối với các doanh nghiệp mà trên bình diện của nền kinh tế quốc dân nó còn thể hiện vai trò của mình một cách tích cực hơn nhiều thông qua những khía cạnh cơ bản sau :
Đảm bảo điều chỉnh quan hệ giữa cung và cầu : Vẫn biết rằng trạng thái cân bằng tuyệt đối của thị trường chỉ là ảo tưởng ngay cả trong ngắn hạn. Nhưng mục tiêu duy trì trạng thái cân bằng tương đối (cho phép) kiểm soát được cũng không đơn giản chút naò. Ngoài việc điều tiết của chính phủ Nhà nước với bàn tay hữu hình thì sự đóng góp không nhỏ thuộc về bàn tay vô hình mà nổi trội là quy luật cạnh tranh.
Nhờ có quy luật cạnh tranh mà các chủ thể kinh doanh biết ứng xử linh hoạt khi có sự biến động thất thường về cung cầu một loại hàng hoá dịch vụ trong lĩnh vực nào đó. Bởi theo lý thuyết cạnh tranh đã nêu, cũng như trên thực tế hoạt động kinh doanh. Nếu xảy ra hiện tượng cung nhỏ hơn cầu thì tực khắc các chủ thể cung ứng sẽ thể hiện sự năng động của mình bằng việc đầu tư để duy trì thị phần hoặc giãn ra đi tìm thị trường mới (nếu chu kỳ sống sản phẩm vẫn còn) hay mặt hàng mới (khi chu kỳ sống của sản phẩm đó đã tới hạn) để tiếp tục công việc kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận tại những thị trường về mặt lý thuyết các chủ thể đó chỉ có thể đến với những thị trường mà lượng cung nhỏ hơn cầu. Điều này đồng nghĩa với hoạt động điều chỉnh thị trường thiếu hụt cung để cùng lúc đạt được sự cân bằng tương đối giữa cung và cầu trong toàn bộ nền kinh tế.
Việc điều chỉnh hoạt động kinh doanh của các nhà kinh doanh thực ra không nhằm mục đích để cân bằng cung cầu (khi đó lợi nhuận kinh doanh sẽ giảm, thậm chí phải bỏ cuộc) mà vì tối đa hoá lợi nhuận do bản chất kinh tế của cạnh tranh. Để điều này thành hiện thực chắc chắn doanh nghiệp phải tìm đến thị trường có sức lao động. ở đó mức độ cạnh tranh thấp, đối thủ ít , thị trường còn bỏ ngỏ nên chi phí kinh doanh thấp tạo điều kiện nâng cao lợi nhuận. Nhưng rồi cũng đến lúc thị trường sẽ bão hoà cung cầu và quá trình cân bằng lại tiếp tục diễn ra.
Thông qua quá trình cân bằng động đó, người hưởng lợi nhuận hơn cả chính là khách hàng (phía cầu). Có cạnh tranh tự do sẽ hạn chế được độc quyền nhóm cũng như cá nhân trong kinh doanh. Do đó, người tiêu dùng nói chung sẽ tiết kiệm được một khoản chi tài chính nhất định để dùng cho việc khác (tiết kiệm, đầu tư..) và trên tổng thể nền kinh tế sẽ có thêm nguồn lực để thực hiện tái đầu tư sản xuất mở rộng tốt hơn nhằm phục vụ cho chu kỳ cân bằng tiếp sau đó.
Điều tiết việc phân bổ và sử dụng nguồn lực sản xuất hiệu quả hơn : Bản chất kinh tế của cạnh tranh sẽ dẫn nhà kinh doanh tìm và sử dụng nguồn lực tối ưu để tăng hiệu quả kinh tế. Cạnh tranh sẽ điều phối nguồn lực của nền kinh tế từ chỗ dư thừa đến nơi thiếu hụt. Theo đó, doanh nghiệp sẽ định hướng khai thác mở rộng thị trường chưa bão hoà đồng thời sẽ duy trì cơ cấu với những thị trường đi vào ổn định hoạt động này cùng lúc tối ưu hoá lợi ích nhà kinh doanh và giảm thiểu chi phí mua sắm cho người tiêu dùng cả về thời gian và tiền bạc.
Như vậy, quy luật cạnh tranh thực sự là bàn tay vô hình mà hữu hiệu trong việc phân bổ nguồn lực nền kinh tế quốc dân. Cùng với lợi nhuận bình quân (giữa các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau) đã điều chỉnh các doanh nghiệp trong quyết định vào ra thị trường và phát triển thị phần của mình một cách thích hợp. Từ đó nó sẽ gia tăng nguồn lực cần thiết cho những thị trường triển vọng mới và điều chỉnh hợp lý cơ cấu thị trường đã phát triển ổn định trong nền kinh tế.
Cạnh tranh không chỉ điều tiết việc phân bổ sử dụng nguồn lực xã hội một cách hiệu quả mà còn ảnh hưởng tích cực đến quá trình phân phối thu nhập trong xã hội. Thông qua cạnh tranh lành mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh ngày một phát triển hoàn thiện hơn. Hiện tượng độc quyền trong kinh doanh được giảm thiểu. Nhờ đó các doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội tìm kiếm lợi nhuận, cải thiện vị thế doanh nghiệp cũng như nâng cao mức sống của người lao động. Bởi khi đó, quyền lực thị trường và lợi nhuận không còn tập trung vào một hoặc một số ít kẻ quen thao túng thị trường .
Cạnh tranh lành mạnh còn tạo ra cơ hội bình đẳng hơn cho người lao động trong việc tìm kiếm, lựa chọn việc làm và thu nhập. Nhìn chung, sức lao động sẽ được đánh giá đúng mức trong thị trường lao động tự do. Tiền công mà họ nhận được sẽ phản ánh tương đối chính xác giá trị họ bỏ ra mà không chịu sự chi phối, ép buộc nào. Thậm chí họ có quyền lựa chọn việc làm có mức thu nhập cao và môi trường lao động phải đảm bảo…
Theo quan điểm này thì cạnh tranh phần nào đã thực hiện được vai trò với xã hội trong việc chống lại sự phân hoá giàu nghèo. Đồng thời thúc đẩy sự phát triển hơn nữa với người lao động nói riêng và xã hội nói chung.
Ngoài những vai trò kể trên cạnh tranh còn làm lạnh mạnh hoá sự phát triển của hệ thống doanh nghiệp. Đây có thể nói là vai trò khá nổi trội và được thể hiện rõ nét trong thực tế.
Chúng ta đều biết rằng cạnh tranh là sự ganh đua loại trừ nhau theo quy luật của riêng nói nhưng cũng đồng thời thúc đẩy các chủ thể cùng nhau phát triển vươn lên. Trong “cuộc đua” đó nếu doanh nghiệp nào yếu kém đến mức không theo nổi thì tự khắc sẽ bị diệt vong. Khoảng trống đó sẽ giành cho các doanh nghiệp đủ mạnh sử dụng và khai thác nó. Việc hình thành, phát triển rồi diệt vong của một doanh nghiệp là hiện tượng tự nhiên, cũng giống như con người không tránh khỏi vòng đời sinh - lão – bệnh – tử. Doanh nghiệp cũng là một thực thể nên nó cũng có một chu kỳ sống nhất định.
Cạnh tranh sẽ làm cho chu kỳ sống của doanh nghiệp ngắn đi . Điều này đồng nghĩa với việc khai thác tốt hơn quãng đời khoẻ mạnh của doanh nghiệp để phục vụ cho nền kinh tế và mau chóng loại bỏ khi nó đi vào “già yếu”. Vì vậy hệ thống doanh nghiệp sẽ phát triển tốt hơn và nền kinh tế sẽ tập trung được nguồn lực cho đổi mới phát triển mũi nhọn.
III. Năng lực cạnh tranh
1. Khái niệm
Để cạnh tranh có hiệu quả các doanh nghiệp không chỉ dừng ở việc vận dụng những thuyết về lợi thế so sánh với các mô hình của Ricarđo và Reckcher – Ohlin mà trong những năm gần đây người ta còn lưu ý sử dụng khái niệm lợi thế cạnh tranh. Họ coi đây là khái niệm rộng hơn so với khái niệm về lợi thế so sánh trong việc lý giải các hiện tượng và quá trình diễn ra ở Thương mại quốc nội cũng như quốc tế. Lợi thế cạnh tranh chính là sức mạnh tổng hợp của các yếu tố đầu vào và các yếu tố đầu ra của sản phẩm. Đó là chi phí cơ hội thấp, năng suất lao động cao (lợi thế so sánh), chất lượng sản phẩm đảm bảo, nguồn cung cấp ổn định, chi phí vận chuyển và bảo quản thấp, môi trường thương mại thông thoáng, thuận lợi… Từ đó, yêu cầu với mỗi doanh nghiệp phải phát huy được lợi thế cạnh tranh hay nói khác đi là cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình kinh doanh để bảo đảm vị thế và lợi ích của doanh nghiệp trên thị trường.
Mặc dù thuật ngữ “năng lực cạnh tranh” được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực kinh tế cũng như nhiều lĩnh vực khác trong cuộc sống nhưng đến nay vẫn chưa có một sự nhất trí cao trong các học giả và giới chuyên môn về khái niệm và cách thức đo lường, phân tích năng l._.ực cạnh tranh ở cả cấp quốc gia lẫn cấp ngành cũng như doanh nghiệp. Bởi có nhiều cách hiểu khác nhau về năng lực cạnh tranh. Theo nghĩa hẹp, nó được thể hiện qua các chỉ số về tỷ giá thực trong mối quan hệ thương mại còn rộng hơn, nó bao gồm cả khả năng sản xuất hàng hoá và dịch vụ đủ sức đáp ứng đòi hỏi của cạnh tranh. Với Krugmar (1994) thì lại cho rằng khái niệm về năng lực cạnh tranh chỉ phù hợp với cấp độ Công ty, đơn giản là vì nếu một Công ty nào đó không đủ khả năng bù đắp chi phí của mình thì chắc chắn phải từ bỏ kinh doanh hoặc phá sản.
Vậy khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được hiểu như sau : Năng lực cạnh tranh phản ánh mức độ đạt được lợi thế cạnh tranh và các đặc trưng kinh tế khác cuả doanh nghiệp nay so với doanh nghiệp khác. Hay theo diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) thì năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng đạt và duy trì được mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, chiến lược vững bền tương đối và các đặc trưng kinh tế khác.
Như vậy mặc dù thuật ngữ năng lực cạnh tranh được sử dụng phổ biến nhưng nội dung, cách thức nghiên cứu nó cho từng đối tượng khác nhau là không giống nhau. Nó hoàn toàn phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động cụ thể của đối tượng nghiên cứu.
2. Những yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Thương mại
Để đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp thì tiêu chí chung cho các nhà phân tích sẽ định hướng vào năng suất lao động, chi phí đơn vị bình quân, vốn, cấu trúc tổ chức quản lý…gọi chung thành bốn nhóm : sản phẩm, lao động, vốn, công nghệ. Với doanh nghiệp thương mại chuyên hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, dịch vụ, bốn nhóm nhân tố này sẽ đóng vai trò nhất định trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Sản phẩm : Nó nắm vai trò quan trọng vừa là đối tượng, vừa là công cụ phương tiện chính để thực hiện mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Sản phẩm với doanh nghiệp thương mại cũng có thể là hữu hình hoặc vô hình thậm chí cùng lúc có cả hai. Có thể nói, sản phẩm là “chiến sĩ tiên phong” của doanh nghiệp sản phẩm có tốt, có phù hợp với người tiêu dùng thì hàng mới có cơ hội tìm kiếm lợi nhuận. Một doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh tốt phải thể hiện ở sản phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ nhiều, mang lại lợi nhuận cao và ổn định.
Không phải tự nhiên mà yếu tố sản phẩm được xem xét khi phân tích năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Mà vì kinh doanh hiện đại doanh nghiệp phải định kỳ vào khách hàng thoả mãn khách hàng bằng sản phẩm. Nếu không thực hiện được điều này coi như doanh nghiệp bị khách hàng bỏ qua. Lúc đó, chẳng những lợi nhuận không có mà nguy cơ phá sản sẽ đến gần hơn (ngay cả khi các nhân tố khác vẫn dồi dào).
Lao động : Các yếu tố và công nghệ được xem là rất quan trọng với doanh nghiệp dù hoạt động trong sản xuất hay thương mại. Song lao động mới là yếu tố quyết định hoạt động và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi suy cho cùng hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra là do con người và vì con người. Hơn thế học thuyết về giá trị thặng dư của C.Mác đã làm rõ và khẳng định giá trị thặng dư có được là do lao động sống (con người) tạo ra trong quá trình lao động.
Trong doanh nghiệp đánh giá khả năng cạnh tranh trên phương diện lao động, họ có thể xem xét đến trình độ, khả năng nghiệp vụ của nhân viên với doanh nghiệp thương mại thì tỷ lệ lao động trực tiếp và gián tiếp cũng được phân tích đánh giá. Nhưng dù là loại hình doanh nghiệp nào đi nữa thì thước đo cuối cùng chuẩn xác hơn cả vẫn là năng suất lao động. Đó là khả năng thực hiện khối lượng công việc trong một đơn vị thời gian, hay nói khác đi trong cùng một thời gian lao động đó thực hiện được bao nhiêu công việc (ở dạng hiện vật hoặc giá trị bằng tiền). Với doanh nghiệp Thương mại thường được quy về dạng doanh số bán/ một lao động.
Thước đo năng suất lao động của nhân công rất có ý nghĩa trong hoạt động quản trị doanh nghiệp. Nó là cơ sở để thực hiện các chế độ đãi ngộ với người làm công đồng thời là cách thức chủ yếu để hãng thực hiện giảm giá thành nâng cao khả năng cạnh tranh với đối thủ, phục vụ tốt hơn cho khách hàng.
Do vậy, lao động là một vấn đề quan trọng của doanh nghiệp nhưng cũng đầy phức tạp. Việc đánh giá phân tích nó không chỉ dừng ở mặt lượng mà phải quan tâm, chú trọng vào mặt chất. Từ đó mới có đánh giá sát thực để phục vụ cho lợi ích lâu dài của Công ty.
Vốn trong doanh nghiệp : Có lẽ từ rất lâu rồi, giới kinh doanh đã ý thức được tầm quan trọng của vốn đối với hoạt động kinh doanh : “buôn tài không bằng dài vốn” hay Tư bản vẫn thường nói : “Vốn sinh ra lời”gần ấy thôi đã cho ta thấy vẫn ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh như thế nào?
Cũng như lao động, đồng vốn trong doanh nghiệp được xem là cạnh tranh cao chỉ khi nó đạt được hiệu suất cao (một đồng vốn đầu tư sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận) đồng thời quy mô vốn phải đủ mạnh với doanh nghiệp. Các thước đo này đều phải xem xét thực hiện trong thời kỳ chứ nhất thiết không được xét thời điểm. Thậm chí phải đánh giá trong dài hạn để đảm bảo tính chính xác, khách quan và tính lôgíc, biến chứng trong tiến trình phát triển.
Yếu tố vốn được phân tích ở đây sẽ là vốn tài chính của doanh nghiệp (vốn tiền mặt và hiện vật có khả năng chuyển đổi thành tiền). Trong doanh nghiệp Thương mại do đặc thù của lĩnh vực hoạt động nên ở phần sau chỉ d đề cập đén vốn bằng tiền hoặc tài sản chuyển đổi nhanh thành tiền (vốn hàng hoá, hoá đơn quyền thu…)
Vốn thật là quan trọng, song không phải là tất cả. Để sản xuất kinh doanh có kết quả tốt cần phải kết hợp với nhiều yếu tố khác. Trong đó phải kể đến công nghệ : Là tập hợp các tri thức phương pháp quy trình, quy tầm kỹ năng và kỹ xảo được sử dụng trong quá trình tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm vật chất hay tinh thần phục vụ cho nhu cầu của đời sống con người. Hay nó chính là tập hợp các phương pháp nhằm tổ chức hoạt động cung ứng sản phẩm cho khách hàng dựa trên kỹ năng kỹ xảo và cơ sở hạ tầng, thiết bị đang có và sẽ có của một doanh nghiệp.
Yếu tố công nghệ thể hiện khả năng cạnh tranh của nó không chỉ nằm ở mức độ tiên tiến hiện đại của dây truyền tổ chức mà còn ở tính hợp lý thích ứng của nó với các yếu tố khác (nhất là con người). Bởi suy đến cùng thì mọi hoạt động đầu tư đều phải tính đến hiệu quả. Công nghệ kinh doanh của DNTM ngoài cấu trúc tổ chức nhân sự ra còn phải kể tới phương thức, hình thức tổ chức sắp xếp giao dịch và bán sản phẩm. Nó chỉ có khả năng cạnh tranh được với đối thủ khi công nghệ áp dụng phù hợp với hoạt động, đối tượng của doanh nghiệp.
Sơ đồ : Mối quan hệ 4 nhân tố đến năng lực cạnh tranh một doanh nghiệp
NLCT của DN
Lao động
Vốn Sản phẩm
Công nghệ
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Ngoài bốn nhóm yếu tố được xem là nội sinh của năng lực cạnh tranh trong doanh nghiệp được đề cập ở mục II2. Chúng thuộc về chiến lược, cơ cấu tổ chức của Công ty thì còn rất nhiều các tác động từ phía môi trường bên ngoài của Công ty. Chẳng hạn, chính sách, định hướng phát triển vĩ mô của chính phủ nước sở tại, văn hoá truyền thống của thị trường, nhu cầu thị hiếu của khách hàng và đặc biệt là chính sách chiến lược cũng như là số lượng đối thủ cạnh tranh nhà cung ứng của Công ty sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sức cạnh tranh của hãng, đến đầu tư cho cạnh tranh để lôi kéo khách hàng, duy trì và phát triển thị phần.
Về vấn đề này nhà kinh tế học M. Porter đã khẳng định rằng Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện trên chỉ số năng suất. Còn chỉ số này lại phụ thuộc vào trình độ phát triển và tính năng động của các Công ty. Chính vì vậy, năng lực cạnh tranh của một quốc gia hay Công ty phụ thuộc vào các yếu tố nào trong nền kinh tế quốc dân giữ vai trò quyết định cho phép các Công ty sáng tạo và duy trì lợi thế cạnh tranh trên một lĩnh vực cụ thể. Theo đó, M. Porter đã đưa ra một khung khổ các yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh và duy trì năng lực cạnh tranh mà ông gọi là “khối kim cương các lợi thế cạnh tranh”. Trong đó các yếu tố này được ông phân chia một cách tương đối thành 4 nhóm :
Chiến lược, cơ cấu của Công ty và đối thủ cạnh tranh
Các điều kiện về nhân tố sản xuất
Các ngành bổ trợ và các ngành liên quan
Các điều kiện về cầu
Sơ đồ 2 : Khối kim cương các lợi thế cạnh tranh
Nhóm các điều kiện về nhân tố sản xuất thể hiện vị thế của một quốc gia (Công ty) về nguồn lao động có đào tạo, vốn, hạ tầng, tiềm năng khoa học công nghệ…
Nhóm các điều kiện về cầu phản ánh bản chất của nhu cầu thị trường đối với sản phẩm của doanh nghiệp.
Nhóm các yếu tố về các ngành phụ trợ và các ngành có liên quan có khả năng cạnh tranh quốc tế.
Nhóm các yếu tố liên quan đến cơ cấu, chiến lược của Công ty và các đối thủ cạnh tranh.
Ngoài ra, Porter còn nhấn mạnh đến vai trò chất xúc tác của Chính phủ trong việc tạo lập, thúc đẩy và phổ biến điều kiện thuận lợi trong khối “Kim cương”.
4. Sự cần thiết khách quan nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
a. Cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá.
Nó là đặc trưng căn bản của sản xuất hàng hoá, chịu sự chi phối của quan hệ cung cầu về hàng hoá. Khi cung lớn hơn cầu thì cạnh tranh càng gay gắt. Cạnh tranh vận động theo sự biến đổi của quan hệ cung cầu, chịu tác động bởi quy luật giá trị, quy luật hình thành giá cả và các quy luật kinh tế khách quan khác. Dưới tác động của các quy luật đó sự cạnh tranh trên thị trường càng mang tính quy luật. Một mặt, quy luật cạnh tranh không lệ thuộc vào ý muốn chủ quan của người kinh doanh. Cùng với quy luật kinh tế khác quản lý cạnh tranh buộc những hãng kinh doanh phải cạnh tranh với nhau trên thị trường bằng chính tiềm lực thực có của mình để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Quy luật cạnh tranh có tác động trực tiếp vào sự thay đổi tiềm lực nội tại và phương thức cạnh tranh của những doanh nghiệp. Nó buộc họ phải thay đổi công nghệ, giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng khả năng phạm vi tiếp thị, tăng năng suất, đổi mới phương pháp và bí quyết cạnh tranh để tạo thế cũng như lực cạnh tranh tốt hơn các đối thủ.
Vì vậy, không chỉ các doanh nghiệp mà Nhà nước cũng vận dụng quy luật này trong việc hoạch định các chiến lược, chính sách kinh tế - xã hội, xây dựng pháp luật để điều tiết các quan hệ cạnh tranh trong nền kinh tế nhằm đảm bảo lợi ích cho các bên tham gia cũng như người tiêu dùng và toàn xã hội dựa trên tính ưu việt của cạnh tranh. Việc bất chấp quy luật cạnh tranh hoặc vận dụng không đúng từ phía chính phủ đều phải trả giá hoặc là thủ tiêu cạnh tranh, mất động lực phát triển tạo xu thế độc quyền hoặc là tạo môi trường cho cạnh tranh lành mạnh.
Ngoài ra quy luật này còn gắn liền với quy luật phát triển các loại thị trường nội địa với mức độ gắn bó thị trường nôị địa với thị trường khu vực và thế giới. Thị trường phát triển đến đây thị trường cạnh tranh phát triển đến đó. Nó tùy vào điều kiện cạnh tranh do thị trường tạo ra. Mức độ phát triển thực tế trên của từng loại thị trường và khả năng tiếp cận sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện có của Việt Nam mức độ và phạm vi phát triển của thị trường vốn, công nghệ, sức lao động… là khác nhau. Sức cạnh tranh của hàng hoá, doanh nghiệp cũng không giống nhau do khả năng tiếp cận thị trường và năng lực nội tại của doanh nghiệp quy định.
b. Tính tất yếu của nền kinh tế quá độ nhiều thành phần ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI của ĐCSVN đã đề ra chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này phù hợp với luận điểm cho rằng : Trong thời kỳ quá độ lên CNXH tất yếu phải tồn tại nền kinh tế đa thành phần. Hơn thế trong tác phẩm “Bàn về thuế lương thực”, Lênin đã viết : “Danh từ quá độ có nghĩa là gì ? Vận dụng vào kinh tế có phải là trong chế độ hiện nay có những thành phần, bộ phận, những mảnh của CNTB & CNXH không ? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có” (VI. Lênin : toàn tập, NXB Tiến bộ Matxơcơva, t.43, trang 248) .
Vấn đề trong thời kỳ quá độ là phải phát huy và tận dụng tối đa tiềm năng sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế phi XHCN để phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân và phục vụ bước quá độ lên CNXH. Chấp nhận xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần cũng có nghĩa nhiều loại hình sở hữu khác nhau được thừa nhận đặc biệt là sở hữu cá thể. Đây chính là ngọn nguồn của những nỗ lực cạnh tranh, giành giật về lợi ích của mỗi chủ thể sở hữu khác nhau. Qua đó làm gia tăng mức độ cạnh tranh của mọi chủ thể trong cuộc sống. Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh doanh thương mại nó trở nên gay gắt và quyết liệt theo đúng bản chất kinh tế thị trường : “mọi mối quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá”.
c. Trước những hiện thực khách quan đó, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp thương mại Việt Nam nói riêng là hết sức cần thiết. Nó trở thành điều kiện cần và đủ để doanh nghiệp tồn tại, phát triển trong xu thế công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng như tiến trình thương mại hoá khu vực và thế giới. Bởi trên thế giới ngày nay, kinh tế trở nên nổi trội, cuộc chiến để giành thắng lợi trong lĩnh vực kinh tế đang diễn ra quyết liệt. Chiến trường trong chiến tranh kinh tế là thương trường. Chiến tranh thương mại là trận chiến khách hàng. Ai muốn giành quyền kiểm soát thị trường phải thắng đối thủ về chất lượng, giá cả. Ai nắm được nhu cầu khách hàng, sớm đưa ra mặt hàng mới tốt hơn và sử dụng chiến lược tiêu thụ đúng đấn thì người đó sẽ chiến thắng đối thủ (V.I Lênin phần nói về chủ nghĩa Tư bản). Do vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo lập sự thích ứng linh hoạt có điều kiện cho doanh nghiệp để xây dựng vị thế tốt trên thị trường mang ý nghĩa vô cùng to lớn.
Phần 2
Thực trạng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại
I. Chính sách cạnh tranh của Việt Nam
1. Quan điểm về cạnh tranh trong nền kinh tế
Cả thời kỳ dài trước đây, điều kiện vận hành cơ chế quản lý trong bao cấp ở Việt Nam tồn tại dai dẳng. Sự độc quyền tuyệt đối của khu vực kinh tế quốc doanh, không có cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế. Việc sản xuất lưu thông hàng hoá đều được thực hiện theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước và mệnh lệnh hành chính của cơ quan quản lý cấp trên. Hậu quả là nền kinh tế không có động lực phát triển, chỉ chạy theo báo cáo hư danh làm cho cơ chế kinh tế thị trường bị thủ tiêu môi trường vận động.
Kể từ khi đổi mới Việt Nam từng bước thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Đây được xem là động thái tích cực trong việc chấp nhận sự cạnh tranh trong kinh tế của Nhà nước và nhiều chủ thể kinh doanh. Không dừng ở bước khởi đầu đó, Chính phủ đang nỗ lực xây dựng luật khuyến khích cạnh tranh và hạn chế độc quyền, dự định sẽ hoàn thành và áp dụng trong năm 2002. Điều này cho thấy sự thống nhất giữa cơ quan quản lý và chủ thể kinh doanh trong việc “tôn trọng” quy luật cạnh tranh hay cụ thể hơn là cạnh tranh lành mạnh ở lĩnh vực kinh tế.
Theo đối, cạnh tranh đúng pháp luật được xem là động lực để phát triển kinh tế xã hội. Các cá nhân, doanh nghiệp tham gia kinh doanh phải có trách nhiệm xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, ngăn chặn nguy cơ độc quyền bất hợp pháp và giảm thiểu độc quyền hợp pháp. Qua đó tự hoàn thiện mình trước đối thủ cạnh tranh.
Để ủng hộ quan điểm trên phía Chính phủ đã và đang giảm dần lĩnh vực mà Nhà nước nắm giữ độc quyền (do yêu cầu chính trị) đồng thời giám sát chặt chẽ các Công ty có vị thế khống chế thị trường. Đây là việc làm cần thiết trên phương diện kinh tế. Bởi còn độc quyền theo kiểu đó thì sự phát triển kinh tế tiếp tục bị kìm hãm (do không có sân chơi công bằng). Sở dĩ có tiêu cực như vậy là do độc quyền ở Việt Nam không theo quy luật phát triển cơ bản - quá trình tích tụ và phát triển vượt bậc về tiềm lực, năng lực kinh doanh thực sự mà lại theo con đường chính trị thừa nhận, lập ra vì nhiều mục tiêu khác nhau chứ không đơn thuần chỉ mục tiêu kinh tế.
Tuy vậy, ở khía cạnh tích cực thì độc quyền cũng tạo ra động lực nhất định (nếu đó là độc quyền tự nhiên). Bởi hai trạng thái này có sự chuyển hoá lẫn nhau khi đủ điều kiện. Sự độc quyền luôn triệt tiêu nguyên tắc cạnh tranh tự do, công bằng. Song việc phát triển cạnh tranh mạnh mẽ bằng tiềm lực và sức mạnh của mình hoặc do khả năng hạn chế buộc các đối thủ phải hợp tác, liên kết với nhau để tạo ưu thế cạnh tranh đều dẫn đến xu thể độc quyền. Quá trình này thực chất là phá bỏ những hãng độc quyền cũ và xây dựng độc quyền mới bằng con đường cạnh tranh liên kết. Đó cũng là hiện tượng mang tính tất yếu khách quan của quá trình phát triển chinh phục.
Thực hiện chủ trương trên cũng hàm ý chính phủ khuyến khích các chủ thể kinh doanh tham gia cạnh tranh lành mạnh một cách tự do (trong giới hạn pháp luật cho phép) lựa chọn cơ hội một cách bình đẳng trên thị trường. Mọi hoạt động cạnh tranh lành mạnh của họ sẽ được sự bảo trợ của luật pháp. Trái lại họ sẽ phải trả giá không mấy dễ chịu.
Quan niệm cạnh tranh của Việt Nam cũng giống như nhiều nước phát triển khác. Nó cũng hưởng tới bảo vệ cả quyền lợi người tiêu dùng - quyền tự do lựa chọn, quyền khiếu nại với sản phẩm doanh nghiệp thiếu trung thực…Mặc dù hiện tại Việt Nam chưa có được luật bảo vệ người tiêu dùng song nhà nước cũng bước đầu thực thi pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng. Đây là bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh. Bởi muốn khuyến khích cạnh tranh đồng thời chống được độc quyền thì hành động của phía người tiêu dùng sẽ đóng góp phần không nhỏ cùng sự nỗ lực thực sự của nhà kinh doanh chân chính, cơ quan quản lý trong việc tạo lập môi trường (sân chơi) công bằng.
Như vậy xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, chống lại độc quyền là trách nhiệm, quyền lợi không của riêng ai. Nó thành công đến mức nào còn phụ thuộc vào tất cả các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh cũng như mọi người tiêu dùng trong nền kinh tế quốc dân.
2. Mục tiêu chính sách cạnh tranh Việt Nam
Trên cơ sở khuyến khích cạnh tranh lành mạnh chống lại độc quyền và cạnh tranh bất hợp pháp tạo ra “sân chơi” bình đẳng trong kinh doanh Thương mại. Chính phủ cũng mong muốn thực hiện được các mục tiêu kinh tế - chính trị - xã hội một cách tốt hơn.
Trước tiên nhằm tạo cho các doanh nghiệp Việt Nam có được thế và lực đủ sức phát triển và nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của chúng trên thị trường nội địa cũng như quốc tế. Thông qua hàng loạt các chính sách ưu đãi, khuyến khích và làm quen với thách thức cạnh tranh gay gắt trước khi thực hiện hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Đồng thời thực hiện việc cung ứng thoả mãn tốt hơn cho nhu cầu tiêu dùng sản phẩm dịch vụ trong xã hội. Một nền kinh tế muốn phát triển không thể để tồn tại hiện tượng thiểu phát trong chỉ số tiêu dùng. Để GDP gia tăng thì phải đẩy mạnh vòng luân chuyển của vốn hàng hoá và tiền tệ trong quốc gia. Vậy nên chủ trương kích cầu là động thái hướng vào tiêu dùng nhằm nâng cao tỷ trọng thu nhập từ nội địa trong kết cấu GDP. Với tỷ trọng 52% trong năm 2001 chúng ta chưa thể nói chủ động cao trong nền kinh tế do vẫn bị phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu, thị trường xuất khẩu. Trong khi chỉ số tiêu dùng tăng không đáng kể (chưa loại trừ yếu tố phạm phát của giá).
Dù mục đích là nâng cao năng lực cạnh tranh đơn vị hay cung ứng tốt hơn cho người tiêu dùng thì suy cho cùng cũng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế quốc dân Việt Nam. Trên cơ sở tạo dựng môi trường cạnh tranh giúp qúa trình phân bổ các yếu tố của sản xuất hiệu quả hơn đồng thời khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ tổ chức quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh.
Trên cơ sở luật hoá các nội dung để thực thi sẽ tranh thủ được nguồn lực bên ngoài quan trọng - vốn đầu tư nước ngoài. Nó sẽ hỗ trợ tích cực cho qúa trình hội nhập kinh tế cũng như cổ phần hoá của Việt Nam.
II. Năng lực cạnh tranh của DNTMVN trên một số phương diện.
Theo bảng xếp thứ hạng cạnh tranh tổng thể các nền kinh tế của diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), năm 1999 Việt Nam được xếp vị trí 48 trong số 59 quốc gia được khảo sát. Nhưng đến năm 2000 thì vị trí đó không còn nữa, Việt Nam đã phải xếp thứ 53/59. Như vậy, trước ngưỡng cửa hội nhập với sự cạnh tranh gay gắt, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam hiện còn rất yếu kém trong đó sự hiện diện các DNTM.
Hệ thống doanh nghiệp thương mại Việt Nam mới ở giai đoạn đầu làm quen với kinh tế thị trường. Thời gian hình thành và phát triển chưa phải là dài nhưng bản thân nó đã hứng chịu ảnh hưởng không mấy tích cực từ những di họa của cơ chế tập trung xin cho. Các doanh nghiệp (doanh nghiệp Nhà nước) có thói quen kinh doanh theo kiểu cấp - phát - giao - nộp dưới chỉ tiêu, định mức sẵn có nhưng thiếu thực tế của cấp trên. Do vậy, đã mất đi tính linh hoạt, năng động cần thiết của một doanh nghiệp thương mại. Khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường thực sự thì số doanh nghiệp này gặp rất nhiều khó khăn do năng lực thực có yếu kém.
Hàng trục năm qua các doanh nghiệp thương mại đã nỗ lực cao độ để thích ứng với môi trường kinh doanh có cạnh tranh mạnh mẽ. Song năng lực cạnh tranh của họ mới được nâng lên từng bước rất khiêm tốn và vẫn ở mức thấp (so với đối thủ nước ngoài). Điều này được thể hiện ở :
1. Sản phẩm kinh doanh của doanh nghiệp thương mại :
Doanh nghiệp thương mại (DNTM) với tư cách là trung gian, nhịp cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Bởi vậy, hầu hết các sản phẩm đến với người tiêu dùng đều phải qua một số khâu trung gian. Nhờ đó, sản phẩm kinh doanh của DNTM về lý thuyết là rất đa dạng, ở nhiều cấp độ giá trị, chủng loại hác nhau. Nhưng thực tế dễ nhận thấy rằng sản phẩm của DNTM Việt Nam bị xem là nghèo nàn, đơn điệu thậm chí còn lạc hậu (doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm thời trang, điện tử, tin học). Và nữa, tính thiếu đồng bộ cho sản phẩm (với một số sản phẩm yêu cầu các sản phẩm dùng kèm hoặc dịch vụ song hành) đây là điều không nên mắc phải nhưng vì nhiều lý do như nghiên cứu không kỹ, năng lực kinh doanh có hạn, nguồn vốn eo hẹp… mà các doanh nghiệp đã bỏ qua hoặc thờ ơ. Sự thiếu hiểu biết, quan tâm này sẽ làm phương hại đến lợi ích hiện tại cũng như lâu dài của doanh nghiệp do đòi hỏi của người tiêu dùng về tính đồng bộ trong sản phẩm dịch vụ được cung ứng ngày một cao (trong đó tính thuận tiện sẽ được coi trọng hơn cả).
Xét về tổng thể thì sản phẩm của các DNTM mới chỉ dừng ở những loại hàng hoá dịch vụ có giá trị thấp và vừa, quy mô của chúng cũng tương tự. Các doanh nghiệp chủ yếu kinh doanh những sản phẩm hữu hình phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của cuộc sống (ăn, mặc, ở và đi lại) hoặc các dịch vụ vui chơi giải trí mang tính phổ thông (du lịch, nhà hàng). Chỉ có rất ít doanh nghiệp thương mại của Việt Nam kinh doanh những loại sản phẩm công nghệ, trí tuệ cao phục vụ cho sản xuất, phát triển kinh tế quốc dân (dây truyền sản xuất, công nghệ viênc thông, viễn thám…). Sự thiếu vắng cộng với nhỏ lẻ của DNTM tham gia kinh doanh dịch vụ có quy mô lớn đã làm lu mờ hình ảnh DNTM Việt Nam trong lĩnh vực này. Đó là lĩnh vực kinh doanh tài chính, bảo hiểm, tư vấn, bản quyền. Hiện tại nó đã bị các Công ty liên doanh nước ngoài chi phối. Trong các lĩnh vực này phái Việt Nam cũng chỉ có một số ít Công ty độc quyền Nhà nước nắm giữ nhưng năng lực cạnh tranh cũng không mấy khả quan và luôn bị các doanh nghiệp thương mại nước ngoài lần lướt, cạnh tranh.
Dù sao thì nền kinh tế nước ta mới trong giai đoạn đang phát triển nên các DNTM của Việt Nam còn phải học hỏi nhiều nhiều hơn nữa. Do đó khả năng kinh doanh các loại sản phẩm, dịch vụ cao cấp của chúng chưa thể thực hiện tốt được và càng không thể sánh được với những Công ty kinh doanh nước ngoài xuất thân từ nhiều nền kinh tế vượt ta cả thế kỷ phát triển.
Nếu vấn đề chỉ dừng ở đó thì có thể chấp nhận và hy vọng trong tương lai sản phẩm kinh doanh của các Công ty thương mại sẽ phong phú về chủng loại, đa dạng về kiểu dáng… và thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng. Nhưng lại ngặt nỗi, ngay cả những yêu cầu tưởng chừng như đơn giản đó mà sản phẩm thông dụng của đa số doanh nghiệp cũng chưa có đưọc và vẫn phải phấn đấu. Những yếu kém đó phải chăng xuất phát từ việc kinh doanh thiếu bài bản hay sự eo hẹp về nguồn lực mà các doanh nghiệp thương mại phải co về giải quyết vấn đề ngắn hạn có tính chất đối phó để rồi mắc kẹt trong vòng luẩn quẩn của sự yếu kém. Hậu quả là cơ cấu sản phẩm được kinh doanh chưa phải là đa dạng nhưng cũng chẳng được chuyên sâu. Bởi hầu hết các nhà kinh doanh đều say mê với công việc song kiến thức kinh nghiệm lại thiếu hụt nên khả năng dự báo gần như không hiệu quả. Hạn chế này buộc họ phải theo đuổi thị trường và kinh doanh theo kiểu thương vụ nên không hề sản phẩm nào có chút lời đều là đối tượng “đầu tư” của họ. Với cách thức kinh doanh đó, việc thiếu đầu tư tập trung là tất yếu nên tính chuyên hoá thấp.
Cơ cấu sản phẩm đã bị coi là kém hấp dẫn, vấn đề chất lượng sản phẩm cũng chẳng khả quan hơn. Do nghiệp vụ kinh doanh thấp nên các chi phí cho qúa trình kinh doanh nhiều đã đội giá bán lên cao không tương xứng với giá trị thực của sản phẩm. ấy là chưa kể tới một số ít doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh theo lối chụp giật đã bán hàng giả cho người tiêu dùng. Hiện tượng này dù không nhiều nhưng nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh các doanh nghiệp thương mại và càng không có lợi cho qúa trình nâng cao năng lực cạnh tranh về lâu dài.
DNTM tham gia vào qúa trình lưu thông hàng hoá không chỉ đơn giản là thực hiện các nghiệp vụ vận động vật lý và chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá, dịch vụ mà cần phải biết tiếp tục sản xuất trong qúa trình lưu thông để tạo ra giá trị gia tăng va giá trị khách hàng nâng cao khả năng sinh lợi. Về điểm này các doanh nghiệp nước ta đã làm nhưng kết quả không cao. Nó thể hiện ở sự khác nhau không đáng kể giữa sản phẩm kết thúc qúa trình sản xuất và sản phẩm đến tay người tiêu dùng về mặt mẫu mã, bao bì đóng gói. Có chăng cũng chỉ là những thao tác còn lại được bên sản xuất nhượng lại cho DNTM hoàn thành nốt. Sự sáng tạo thực sự của DNTM trong việc tăng giá trị, nâng cao sức hấp dẫn của sản phẩm là rất ít ỏi.
Chính những hạn chế trên cùng với năng lực sản xuất trong nước thấp, khả năng nhập khẩu có giới hạn đã ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ đổi mới sản phẩm, tạo ra yếu tố mới lạ để thu hút khách hàng. Mô hình chung làm cho sản phẩm, dịch vụ của DNTM Việt Nam kém sức thuyết phục. Do đó, khả năng cạnh tranh ở thị trường nội địa thấp và càng khó hơn trên thị trường quốc tế.
Nói vậy không có nghĩa DNTM Việt Nam hoàn toàn lép vế trước đối thủ cạnh tranh. Với những doanh nghiệp định hướng đúng loại sản phẩm có ưu thế họ vẫn cạnh tranh tốt trên thị trường (kể cả thị trường quốc tế). Những sản phẩm có sức cạnh tranh của Việt Nam chủ yếu thuộc về nông - lâm - thủy sản (gạo, cà phê, điều, tâm…) hay các hàng gia công xuất khẩu : giầy dép, may mặc. Trong điều kiện quan hệ thương mại nước ta chưa được mở rộng (chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc - MNF). Các mặt hàng xuất khẩu của ta vào thị trường Mỹ phả chịu thuế suất rất cao. Ví dụ hàng may mặc gấp 2,5 lần, giày dép 35% trong khi các nước khác chỉ chịu 85, - 10% và hàng nông hải sản cũng ở tình trạng tương tự tự do thị trường này áp dụng nhiều hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 - 14000 ; HACCP ; GMP, QS 9000.
Như vậy năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam đứng trên góc độ sản phẩm còn rất thấp và thiếu ổn định. Hiện tại việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nhiều DNTM Việt Nam phải dựa vào một số ít sản phẩm có hàm lượng lao động nhiều, giá trị nhỏ : nông hải sản, hàng gia công. Trong tương lai các doanh nghiệp phải từng bước chuyển sang nhóm sản phẩm có giá trị lớn cùng các dịch vụ thị trường mới đảm bảo cho sự phát triển bền vững và không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bảng : Hệ số lợi thế so sánh một số ngành sản phẩm giữa các nước ASEAN
Nguồn : Báo cáo của World Bank - 1999
Ngành sản phẩm
Inđonêxia
Malayxia
Philippin
Singapore
Thái Lan
Việt Nam
Chế biến thuỷ sản
3,4
0,7
3,7
0,5
8,7
11,3
Xay xát và chế biến lương thực
0,1
0,02
0,1
0,2
3,3
6,6
Chế biến bảo quản rau quả
0,6
0,3
4,5
0,1
3,1
1,5
Đồ uống
0,0
0,1
0,1
0,3
0,1
0,1
Chế biến dầu mỡ động thực vật
2,7
16,2
3,6
1,5
0,7
0,0
Sợi chỉ và vải dệt các loại
1,6
0,4
0,4
0,2
1,2
1,8
Quần áo
2,1
1,4
4,4
0,5
2,2
3,1
Giầy dép và sản phẩm da
4,6
0,3
1,5
0,1
2,9
4,0
2. Vấn đề lao động trong doanh nghiệp thương mại :
Ai cũng cho rằng đây là nhân tố mang lại lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam. Song hiện nay, nó vẫn chỉ ở dạng tiềm năng hoặc chỉ có lợi thế về số lượng do phần lớn là lao động phổ thông. Nhưng kể từ sau khi khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á diễn ra thì lợi thế nhân công rẻ số lượng nhiều của Việt Nam hầu như không còn do bị Phillippine và Inđônêxia cạnh tranh mạnh mẽ, gần đây và tương lai thì nhân công Trung Quốc sẽ là đối thủ cạnh tranh đáng gờm trong khu vực.
Hơn thế, do đặc thù của kinh doanh thương mại nên lao động trong DNTM cũng có những yêu cầu tương đối toàn diện nếu không muốn nói là cao hơn trong kinh doanh sản xuất. Vì vậy, số lượng lao động đông chưa hẳn là lợi thế mang lại sức cạnh tranh cho doanh nghiệp nếu như trình độ lao động chỉ ở mức phổ thông (chưa qua đào tạo chuyên nghiệp - nghiệp vụ). Bởi lao động trong kinh doanh thương mại không chỉ đòi hỏi về chuyên môn mà còn sử dụng nhiều kiến thức xã hội, tâm lý… và khả năng ứng xử, giao tiếp linh hoạt : một kiến thức tổng hợp như vậy sẽ nâng cao đáng kể năng suất lao động trong doanh nghiệp thương mại.
Hiện tại, lực lượng lao động thương mại có thể nói là tạp chủng nhất song các ngành nghề lĩnh vực. Không như những ngành nghiên cứu khoa học và sản xuất thuần túy khác, cơ chế mới mở ra các doanh nghiệp có điều kiện phát triển tựa như “trăm hoa đua nở”. Chúng được “nở” ra bởi nhiều nhiều cá nhân, tổ chức không giống nhau về xuất phát điểm : ngành nghề được đào tạo, khả năng trình độ… Rất nhiều cá nhân tham gia kinh doanh thành công mặc dù họ không được đào tạo chuyên môn cơ bản thậm chí chỉ từ lao động phổ thông mà nên. Nhưng họ cùng mong muốn kinh doanh để kiếm tiền và làm giàu cho bản thân, xã hội.
Thực tế đó, đã phản ánh năng lực nghiệp vụ của đa số lao động thương ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34195.doc