Thực trạng cạnh tranh Một số mặt hàng, lĩnh vực kinh doanh trên thị trường & giải pháp để thắng trong cạnh tranh

Lời Mở Đầu Đất nước ta đang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Các doanh nghiệp trong nước bắt buộc phải cạnh tranh với nhau một cách lành mạnh và cùng phối hợp, liên kết để cạnh tranh với các doanh nghiệp khu vực và trên thế giới. Kinh tế hàng hoá và cạnh tranh thị trường có những quy luật đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải biết và vận dụng “ mẹo cạnh tranh” trong kinh doanh . Không chỉ vậy khi tham gia vào nền kinh tế thị trường doanh ngh

doc13 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1364 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng cạnh tranh Một số mặt hàng, lĩnh vực kinh doanh trên thị trường & giải pháp để thắng trong cạnh tranh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp phải có mục tiêu và chiến lược kinh doanh cụ thể. Tuy nhiên sự sống còn của một doanh nghiệp, công ty không chỉ phụ thuộc vào bản thân doanh nghiệp, công ty đó mà còn bị ảnh hưởng nhiều bởi tình hình hoạt động của doanh nghiệp khác. Rất khó có thể thống kê được trên thế giới hiện nay có bao nhiêu doanh nghiệp công ty lớn, vừa và nhỏ đang tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh; ngay trong một ngành, một lĩnh vực kinh tế cụ thể, số doanh nghịêp tham gia là bao nhiêu cũng khó có thể liệt kê một cách rõ ràng. Để vượt qua và chiến thắng đối thủ của mình trên thương trường các doanh nghiệp phải nghiên cứu và đề ra các biện pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm mà mình đem trao đổi trên thị trường. Tuy rằng vấn đề cạnh tranh không phải là vấn đề mới nhưng nó luôn mang tính thời sự ; cạnh tranh khiến thương trường ngày càng trở nên nóng bỏng hơn. Và đó cũng chính là lí do em chọn đề tài “Thực trạng cạnh tranh một số mặt hàng, lĩnh vực kinh doanh trên thị trường và giải pháp để thắng trong cạnh tranh” cho bài tiểu luận của mình. Bài tiểu luận nhằm phân tích đánh giá sức cạnh tranh của một số mặt hàng, lĩnh vực kinh doanh thông qua thực trạng cạnh tranh của chúng và đưa ra một số giải pháp cụ thể để có thể cải thiện sức cạnh tranh và giành chiến thắng trong cạnh tranh. Kết cấu bài tiểu luận gồm ba chương có nội dung khái quát như sau: Chương I : Những lí luận cơ bản về cạnh tranh Chương II: Thực trạng cạnh tranh một số mặt hàng, lĩnh vực kinh doanh trên thị trường. Chương III: Một số giải pháp để thắng trong cạnh tranh. Chương I: Những lí luận cơ bản về cạnh tranh 1. Khái niệm, nội dung, và mục đích của cạnh tranh. Thế giới ngày nay coi “ Thương trường là chiến trường”, ở đó tuy không có súng đạn, bom mìn nhưng các tình huống cạnh tranh diễn ra gay go ác liệt, một mất một còn. Ai đi đúng quy luật thì trở thành triệu phú, tỷ phú và ngược lại nếu vận dụng sai lầm hoặc bất chấp quy luật thì phá sản là điều không thể tránh khỏi. Nguyên tắc “kinh doanh như đánh trận” với các mưu kế “ hoà khí sinh tài, biết người biết ta, biết lui để tiến, tránh chỗ mạnh để đánh chỗ yếu” và nhất là “ thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hoà” mãi mãi là những bài học ngàn đời cho ai muốn dấn thân vào sự nghiệp làm giàu. Một xã hội cũng như một quốc gia muốn phát triển ngày một cao hơn thì cần phải có sự cạnh tranh. Cạnh tranh là quy luật của nền kinh tế thị trường bởi lẽ từ xưa đến nay không có cái gì là từ khi sinh ra đến khi "chết" tồn tại độc lập và lúc nào cũng như vậy cả. Tất cả đều phải trải qua quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ tích luỹ về lượng đến sự thay đổi về chất, từ chất đến chất mới, đó là quá trình đấu tranh giải quyết những mâu thuẫn nội tại trên bước đường phát triển.Mà cạnh tranh cũng nằm trong đó, nếu không có sự cạnh tranh thì đất nước cũng như nền kinh tế của đất nước đó không phát triển, vẫn mãi chỉ là một xã hội với nền kinh tế tự cấp tự túc. Cạnh tranh làm cho xã hội phát triển hơn bởi lẽ nó thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy các doanh nghiệp, các công ty hay các quốc gia phải liên tục cải tiến máy móc thiết bị, công nghệ với mục đích giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra lợi nhuận, xây dựng thương hiệu từ đó để tạo vị thế của mình trên thương trường. Không chỉ vậy cạnh tranh còn giúp cho các doanh nghiệp xác định được những loại hàng hoá và những loại dịch vụ nào cần được sản xuất, cũng như các cầu thủ bóng đá tranh quyền ném biên hay các vận động viên bóng rổ tranh quyền ném bóng. Các doanh nghiệp cạnh tranh nhau khách hàng, những ai có khả năng cạnh tranh hơn thì sẽ là người chiến thắng. Mà chiến lược để đi đến thành công gồm các yếu tố sau: Chất lượng cao hơn, giá cả hợp lí hơn, dịch vụ đặc trưng hoặc độc đáo hơn theo một kiểu cách nào đó. Do vậy cạnh tranh trên thị trường có nghĩa là tìm kiếm mọi cách để thu hút đựơc những khách hàng sung túc để có doanh thu ổn định. Khi nói về kinh tế thị trường, từ cạnh tranh được dùng để mô tả sự tồn tại có tính ganh đua của các loại hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Phát triển thị trường cạnh tranh là một thị trường mà ở đó có nhiều người mua và có nhiều người bán một nguồn lực một hàng hoá hoặc một dịch vụ đem trao đổi trên thị trường tới mức không có một ai đủ lớn để có thể tác động lên giá cả. Vậy ta nên hiểu “cạnh tranh là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp, công ty, quốc gia hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường nhằm giành cho mình lượng cầu tối ưu trên một lượng cung nhất định để có thể tối đa hoá lợi nhuận”. Cạnh tranh trong kinh tế là cuộc chạy đua“Marathon kinh tế” nhưng không có đích cuối cùng, ai cũng cảm nhận thấy đích người đó trở thành nhịp cầu cho các đối thủ khác vươn lên phía trước. 2. Tính hai mặt của cạnh tranh. Trong nền kinh tế cạnh tranh có cả thị trường trao đổi các nguồn lực về lao động, tài nguyên tự nhiên, vốn cũng như các thị trường trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Đó chính là một trong những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường. Chúng ta khuyến khích các thị trường cạnh tranh bởi vì chúng ta cảm thấy người sản xuất sẽ cung cấp cho chúng ta những hàng hoá và dịch vụ có chất lượng ngày càng cao hơn với mức giá ngày càng thấp hơn họ ở thế cạnh tranh. Một ưu điểm khác của cạnh tranh là sản phẩm dồi dào, sản phẩm nhiều đến nỗi mà người tiêu dùng nào cũng có thể chọn lựa theo sở thích của mình. Nếu bạn không thích sản phẩm của nhà sản xuất này bạn có thể mua sản phẩm cùng loại của bất kì nhà sản xuất nào khác. Trên thị trường số người mua và người bán thường xuyên thay đổi, khi có nhiều người mua và bán thì không ai trong số họ có thể một mình kiểm soát được cầu hoặc cung để có thể làm ảnh hưởng đến giá cả thị trường. Các thị trường nông sản như lúa, gạo, đường, sữa là những ví dụ dễ thấy, không có nhà sản xuất nào có quyền lực kinh tế nhiều hơn người khác. Khi số người mua hoặc bán giảm đi thì thật dễ dàng cho một hoặc số ít nhà sản xuất giành được quyền kiểm soát thị trường và sử dụng quyền lực kinh tế của mình. Khi chỉ có một số ít người mua và người bán thì thị trường được gọi là ít có tính cạnh tranh. Bên cạnh mặt tích cực thì cạnh tranh cũng cõ những tiêu cực bởi cạnh tranh nhiều khi dẫn đến sự ghen ghét của những kẻ thu được ít lợi nhuận hơn hoặc thất thế trong kinh doanh đối với những doanh nghiệp có doanh thu lớn và ổn định hơn. Họ sẽ tìm mọi thủ đoạn để thu được lợi nhuận như hoặc hơn đối phương, như làm hàng giả, giả nhãn mác, tuyên truyền không tốt về đối thủ... và từ cạnh tranh đã trở thành cạnh tranh không lành mạnh. như vậy “ Cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của các doanh nghịêp, công ty này gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác làm giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường liên quan hoặc gây thiệt hại đến lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Chương II: Thực trạng cạnh tranh trong một số mặt hàng, lĩnh vực kinh doanh. Trong những năm tới, Việt Nam sẽ đẩy mạnh quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới với việc thực thi các cam kết về khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA), Hiệp định Thương Mại Việt Nam- Hoa Kì và đàm phán để gia nhập tổ chức thương mại thế giới(WTO). Để thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế trong giai đoạn tới và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập thì một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định là nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp, hàng hoá, dịch vụ ở nước ta. Nhận thức được tính cấp thiết và tầm quan trọng điều này đối với nước ta trong điều kiện hội nhập, Đảng và chính phủ đã đề ra nhiều chủ trương nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và chủ động hội nhập. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII(1996) đã xác định “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới” là một trong những định hướng chung cho việc nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta như duy trì ổn định vĩ mô, hoàn thiện hệ thống pháp lí, chuyển dịch cơ cấu đầu tư, thúc đẩy phát triển thương mại và thị trường nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp...Nghị quyết số 07-NQ/TW(11/01) về hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã khẳng định một trong những biện pháp then chốt đảm bảo thành công trong hội nhập kinh tế là nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và hiệu quả của doanh nghiệp. Nhờ những chủ trương nói trên và sự nỗ lực của các doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta ngày càng được phát huy, một số ngành, doanh nghiệp đã bắt đầu vươn lên cạnh tranh với hàng nhập ngoại, người tiêu dùng được tiếp cận các hàng hoá và dịch vụ với chủng loại đa dạng và chất lượng tốt hơn. Đến nay, hàng hoá Việt Nam đã được biết ở nhiều khu vực thị trường thế giới, trong đó có nhiều mặt hàng đã cạnh tranh được với sản phẩm cùng loại của các nước. Một trong những thành tựu nền kinh tế Việt Nam những năm gần đây là có nhiều hàng đạt chất lượng cao, bền vững và hiệu quả không thua kém hàng ngoại nhập mà giá lại thấp hơn so với những mặt hàng cùng loại do nước ngoài sản xuất như các loại sản phẩm sơn Bạch tuyết, nệm mút KymDan, bia Sài gòn, dép nhựa Biti’s, xi măng Hoàng Thạch, phích nước Rạng Đông...Điều này làm cho người tiêu dùng phấn khởi, yên tâm và tự hào. Đây là động lực rất quan trọng để kích thích các nhà sản xuất không ngừng hoàn thiện nâng cao chất lượng sản phẩm.. tăng khả năng cạnh tranh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách mạnh mẽ, bền vững. Hay như công ty Satimex cách đây hơn 3 năm khi thị trường hàng xuất khẩu đồ gỗ bị rớt giá liên tục họ đã mạnh dạn tổ chức cho hơn 100 kĩ thuật viên đi học tập kinh nghiệm sản xuất tiên tiến tại Nhật Bản, đầu tư cải tiến công nghệ và phương thức quản lí, nhờ đó sản phẩm của nhà máy đã cạnh tranh được với sản phẩm của Trung Quốc và Malaysia. Cùng với Satimex công ty bánh kẹo cổ phần Kinh Đô vừa đầu tư 4,5 tỉ USD, lắp đặt 3 dây chuyền sản xuất mới và dự kiến sắp tới sẽ vận hành thêm 1 dàn máy sản xuất bánh kẹo cao cấp theo tiêu chuẩn châu Âu, Trong những năm qua, các doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của thương hiệu như một công cụ cạnh tranh. Các vụ làm hàng giả, hàng nhái sản phẩm thuốc lá Vinataba, Càfê Trung nguyên, mì Vifon, nước mắm Phú Quốc ở thị trường trong và ngoài nước là bài học xương máu cho các doanh nghiệp Việt Nam về việc coi nhẹ thương hiệu. Qua cuộc điều tra 50 khách hàng tại thành phố Hồ Chí Minh có tới 61% rất quan tâm đến nhãn hiệu sản phẩm, 78% cho rằng nhãn hiệu liên quan đến tín nhiệm và thói quen mua hàng và 61% coi nhãn hiệu đồng nghĩa với chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên để giữ được thương hiệu của mình, các doanh nghiệp cần liên tục đa dạng hoá sản phẩm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, đẩy mạnh công tác tiếp thị và mở rộng mạng lưới phân phối hàng hoá. Sữa Vinamilk, giày dép Biti’s, bóng đèn Điện Quang, bánh kẹo Kinh Đô là những doanh nghiệp làm tốt các công tác này. Nhờ đó trong nhiều năm liền, sản phẩm của các doanh nghiệp này luôn được người tiêu dùng tín nhiệm và đã có mặt tại một số nước trong khu vực. Trong năm 2002, mặc dù bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động bất lợi, một số mặt hàng của ta vẫn bám trụ được ở các thị trường truyền thống và tăng kim ngạch tại thị trường mới, đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ với tổng kim ngạch 2 tỷ USD, gấp 2 lần so với năm 2001. Bên cạnh những mặt hàng truyền thống đã xuất hiện các hàng có lợi thế cạnh tranh trong tương lai như công nghệ phần mềm, hàng điện tử. Điều này thể hiện ở việc gia tăng sức mua của hàng hoá dịch vụ Việt Nam các năm 2001,2002. Xét về các tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất lượng, tổ chức tiêu thụ và uy tín của doanh nghiệp, sức cạnh tranh của một số mặt hàng cũng như lĩnh vực kinh doanh của Việt Nam cũng thấp hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới và đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các nước trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc và Thái Lan, việc phát triển các mặt hàng mới đang gặp phải những khó khăn rất lớn về vốn, công nghệ, định hướng thị trường tiêu thụ. Mặt tồn tại của hàng hoá do Vịêt Nam sản xuất có không ít những sản phẩm giá thành cao mà chất lượng kém, không ổn định, nhiều khi mang tính chất như một thủ đoạn lừa dối khách hàng. Những lô sản xuất lần đầu thì chất lượng không kém gì hàng ngoại nhập nhưng những lô hàng về sau chất lượng kém dần, hư hỏng nhanh, điều này khiến không ít người tiêu dùng vẫn chưa tin vào chất lượng hàng sản xuất trong nước, mặc dù trong tâm người Việt Nam rất muốn dùng hàng Việt Nam. Điển hình của mặt trái nêu trên phải kể đến những sản phẩm sinh ra từ ngành công nghiệp luyện kim, ngành cơ khí chế tạo. chúng ta dễ dàng nhận thấy điều này thông qua một số mặt hàng mà trong tiêu dùng, sinh hoạt hàng ngày moi người thường gặp như một số linh kiện ốc, vít (thuộc loại sản phẩm giản đơn) trong xe máy, trong đồ dùng sinh hoạt, dùng khoảng 3 đến vài tháng thì hoen gỉ, bị cháy gai, bị xước các chấu vặn; đến các sản phẩm công nghệ cao nhiều như máy móc, động cơ do Việt Nam chế tạo không bền, hay hư hỏng tốn kém nhiên liệu, xe máy lắp ráp trong nước chất lượng chưa ổn định. Có một số loại mặt hàng chất lượng không cao bằng hàng ngoại nhập nhưng giá thành lại cao hơn, ví dụ vải, đường, xe gắn máy của Trung Quốc ...Phải nói thật rằng không có ít những sản phẩm, hàng hoá mà chúng ta chưa thể sản xuất được hoặc nếu có sản xuất ra thì chất lượng kém không đủ sức cạnh tranh trên thị trường như động cơ xe gắn máy, động cơ xe ôtô, thiết bị linh kiện dùng trong xử lí kỹ thuật cao... Nếu chúng ta cứ thả nổi tình trạng trên thì nền kinh tế Việt Nam sẽ đi về đâu? Đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập AFTA càng đặt ra vấn đề cạnh tranh khốc liệt hơn nữa giữa hàng hoá sản xuất trong nước với hàng ngoại nhập. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do từ trước tới nay chúng ta hay khen nhiều, nói nhiều mà chưa thực sự chú trọng đi sâu vào hiệu quả, chất lượng công việc đảm nhận sâu sắc hơn sự yếu kém về trình độ kỹ thuật, quản lý để có giải pháp khắc phục tốt. Một nguyên nhân tiêu cực nữa là có tiền lệ chi phần trăm cho các bên liên quan đến công trình trong xây dựng cơ bản đã tồn tại dai dẳng và ngày càng diễn biến phức tạp dẫn đến chất lượng công trình kém, không ít đường xá, cầu cống, các trụ sở công mới xây dựng, được nghiệm thu, một thời gian đã bị hư hỏng... Sự quản lý, kiểm tra, giám sát, chất lượng sản phẩm đầu ra cũng có những lỏng lẻo, tắc trách. Chính vì lí do này mà tỉ lệ giá trị gia tăng trong xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam thấp. Điều này dẫn tới tình hình là trong xu thế giảm giá hàng xuất khẩu công nghiệp của thế giới, các doanh nghiệp của ta giữ được thị trường trong nước và mở rộng thị trường là rất khó khăn. Thứ 2 chi phí trung gian cao(giá xăng dầu, giá điện, cước phí bưu điện, vận tải, xếp dỡ, giá sử dụng đất, tiền công và thuế),và có xu hướng gia tăng ở mức cao hơn các nước trong khu vực. Thứ 3, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam hiện đang phải đối mặt với tình trạng công nghệ, máy móc lạc hậu làm cho chi phí đầu vào lớn, năng suất lao động, chất lượng sản phẩm thấp. Thứ tư, có sự khác biệt giữa các doanh nghiệp về khả năng tiếp cận các nguồn lực. Nhiều doanh ngiệp đặc biệt là các doanh ngiệp vừa và nhỏ về khả năng tiếp cận thị trường, thông tin, nguồn vốn, lao động, các dịch vụ hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu. Thứ năm kinh nghiệm về kinh doanh, năng lực quản lí, sự hiểu biết về thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém, chất lượng lao động chưa cao, chưa có tính chuyên nghiệp. Trong bối cảnh thế giới đang có sự chuyển dịch cơ cấu hướng về những ngành sản xuất có hàm lượng tri thức cao, có thể nói sự yếu kém này là nguyên nhân chính gây nên tình trạng cạnh tranh yếu kém về các mặt hàng, lĩnh vực kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam ngay cả trên thị trường trong nước. Thứ sáu, sự yếu kém về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn thể hiện ở chỗ các doanh nghiệp chưa thực sự chủ động trong việc điều chỉnh chiến lược kinh doanh dài hạn, ổn định, phù hợp với điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt của thị trường, mà phần lớn mới chỉ có chiên lược kinh doanh ngắn hạn, thậm chí là kế hoạch kinh doanh theo từng thương vụ của các mặt hàng, lĩnh vực kinh doanh. Tâm lí thụ động, ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước ở một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp còn rất nặng nề. Việc đầu tư cho nghiên cứu, triển khai thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp quá ít, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang tạm yên tâm với cách làm gia công cho các doanh nghiệp nước ngoài. Cuối cùng, môi trường kinh doanh trong những năm gần đây tuy đã được cải thiện đáng kể nhưng vẫn còn một số bất cập về khung khổ pháp kí và thể chế, về cấu trúc thị trường và hành vi cạnh tranh. Đến nay nước ta vẫn chưa xây dựng xong Luật Cạnh tranh và Chống Độc quyền, mức bảo hộ và độc quyền ở một số lĩnh vực kinh doanh còn lớn, chưa có biện pháp hữu hiệu để khắc phục các hành vi gian lận trên thị trường. Nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn của đảng, chính phủ ban hành nhưng khả năng thực thi còn hạn chế. Bộ máy điều hành ở một số bộ và địa phương còn yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Do hạn chế về nội lực nêu trên nên khi tham gia vào cạnh tranh quốc tế, các doanh nghiệp của nước ta đang đứng trước những thách thức to lớn. Trước tình hình đó, để nâng cao sức cạnh tranh cho các mặt hàng, lĩnh vực kinh doanh và để chiến thắng trong cạnh tranh thì các doanh nghiệp phải thực hiện những biện pháp gì? CHương III. Một số biện pháp để thắng trong cạnh tranh. Để nâng cao sức cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và làm đòn bẩy để chiến thắng trong cạnh tranh trước mắt các doanh nghiệp phải tập trung vào một số biện pháp sau: Đối với nhà nước: Trước hết,xây dựng môi trường pháp lí rõ ràng, nhất quán, ổn định nhằm tạo một môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, loại bỏ độc quyền và chống các hành vi gian lận thương mại. Sau đó, cần có chính sách toàn diện tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, trong đó cần đặc biệt chú trọng chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tạo điều kiện, và nới lỏng quy định về điều kiện kinh doanh. Mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, trước hết là trong lĩnh vực xác định giá, quảng cáo, quản lí tài chính tiền lương, quản lí nhân sự, chế độ khuyến khích...Mở rộng cạnh tranh trong xây dựng và cung cấp các dịch vụ hạ tầng. Đồng thời có chính sách chọn lọc củng cố một số doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế kĩ thuật then chốt có đủ sức cạnh tranh với đối tác nước ngoài. Không chỉ vậy cần phải đẩy mạnh xúc tiến thương mại ở cấp chính phủ, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xúa tiến ở thị trường ngoài nước để có định hướng chiến lược lâu dài cho các doanh nghiệp. Xây dựng chiến lược xuất khẩu hướng vào những ngành công nghệ cao, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu của các ngành hàng. Bên cạnh đó, cần phải xây dựng chiến lược đào tạo dài hạn để có một lực lượng lao động và cán bộ quản lí có trình độ cao thích ứng với đòi hỏi của quá trình hội nhập. Cuối cùng là phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cạnh tranh. Mở các khoá đào tạo ngắn hạn cho doanh nghiệp và công chức nhà nước. Sử dụng công cụ phương tiện thông tin đại chúng để giáo dục, tuyên truyền nhằm ngăn chặn các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và giám sát các hành vi lạm dụng ưu thế trên thị trường. Đối với doanh nghiệp: Trước hết các doanh nghiệp cần phải nhận thức được những cơ hội và thách thức trong qúa trình hội nhập, đặc biệt là áp lực cạnh tranh ngày càng khốc liệt khi nước ta mở cửa thị trường, trước hết là đối với (AFTA)và thực hiện Hiệp định thương mại với Hoa Kì. và xây dựng chiến lược phát triển ổn định lâu dài thích ứng với điều kiện thị trường nhiều biến động, giảm ưu tiên mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận trong ngắn hạn mà dành thời gian để đầu tư củng cố vị thế(xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm...)nhằm từng bước tạo uy tín của mình trên thị trường quốc tế. Hơn thế doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lược về sản phẩm, khai thác có hiệu quả các lợi thế so sánh quốc gia trong lựa chọn sản phẩm kinh doanh, chú trọng đến khâu nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, hiện đại hoá khâu thiết kế sản phẩm, chọn lựa hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến phù hợp với doanh nghiệp để nâng cao chất lượng sản phẩm. Làm tốt công tác ghiên cứu thị trường, phát triển mạng lưới tiêu thụ, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống phân phối, nắm bắt và phản ứng kịp thời trước các thay đổi của đối thủ cạnh tranh trên thị trường, phát hiện những thị trường mới. Bên cạnh đó là việc nâng cao trình độ, năng lực kinh doanh, điều hành, quản lí doanh nghiệp, trình độ tay nghề của người lao động, trình độ kiến thức về tiếp thị, tiếp thu khoa học kỹ thuật, trình độ công nghệ thông tin, chú trọng đến những sáng kiến cải tiến của người lao động ở các khâu khác nhau trong hoạt động của doanh nghiệp. Và đặc biệt cần phải tăng cường vai trò của các hiệp hội ngành hàng, củng cố tổ chức này ngang tầm với những đòi hỏi của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập. Các hiệp hội sẽ là người liên kết các doanh nghiệp với nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp trong cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài từ việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp về các mặt hàng, lĩnh vực kinh doanh với nhau.Qua đó ta rút ra được những biện pháp chính sau đây: Một là: cần phải nghiên cứu thị trường và xây dựng chiến lược mặt hàng kinh doanh. Hai là: xây dựng và hoàn thiện chiến lược cạnh tranh. Ba là các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu đối thủ cạnh tranh về sức mạnh(quy mô), phương thức kinh doanh, thủ đoạn kinh doanh. Bốn là cần phải có các biện pháp bảo đảm chất lượng hàng hoá.Năm là thực hiện các biện pháp giảm chi phí sản xuất và lưu thông. Và cuối cùng là cần phải tăng cường quảng cáo(bằng mọi cách và trên mọi phương tiện) Kết luận Trong bối cảnh hiện nay, việc quốc tế hoá nền kinh tế quốc gia buộc các nhà lãnh đạo phải quan tâm đến khái niệm cạnh tranh. Đặc biệt là các doanh nghiệp Việt Nam. Như đã nêu ở trên cạnh tranh khiến cho thương trường càng ngày càng trở nên nóng bỏng hơn, nó làm cho xã hội phát triển hơn bởi lẽ nó thúc đẩy sản xuất, buộc các doanh nghiệp, công ty phải đổi mới thiết bị kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm.... với mục đích phục vụ lợi ích của khách hàng, và cũng là để nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên trường quốc tế, bởi khách hàng là người quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp qua việc tiêu thụ các sản phẩm của doanh nghiệp đó. Các doanh nghiệp không chỉ sản xuất hàng hoá để tiêu thụ trong nước mà cần phải mang hàng hoá đó sang các thị trường khác để tiêu thụ, đặc biệt là các thị trường khó tính như Hoa Kì, Nhật Bản, Châu Âu. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, xây dựng thương hiệu nhằm nâng cao sức cạnh tranh của mình ở cả thị trường trong và ngoài nước bởi hai yếu tố này quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Tài liệu tham khảo 1. Sách thương mại 2. Thời báo kinh tế Sài Gòn 3. Tạp chí Thương mại 4. Chiến lược cạnh tranh 5. Kinh doanh trong nền kinh tế thế giới Mục lục Lời mở đầu 1 Chương I: Những lý luận cơ bản về cạnh tranh 2 1. Khái niệm, nội dung và mục đích của cạnh tranh 2 2. Tính hai mặt của cạnh tranh 3 Chương II: Thực trạng cạnh tranh một số mặt hàng, lĩnh vực kinh doanh 4 Chương III: Một số biện pháp để thắng trong cạnh tranh 9 Đối với Nhà nước 9 Đối với doanh nghiệp 9 Kết luận 11 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0091.doc