Mở Đầu
Sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập Đảng và nhân dân ta cùng nhau tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế. Tuy nhiên lúc đó nền kinh tế nước ta là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bởi vậy nền kinh tế nước ta không những không phát triển mà còn trượt dài trên con đường suy thoái. Trước tình hình đó tại Đại hội Đảng lần thứ VI tháng 12 năm 1986, Đảng ta đã quyết định đổi mới kinh tế xây dựng n
20 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1357 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & các giải pháp để phát triển Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở việt n, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Một trong những nội dung lớn của sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng là: Xây dựng nhà nước pháp quyền kiểu mới. Đảng ta đã xác định chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, có tác dụng to lớn trong việc động viên nhân dân xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Hiện nay trong các thành phần kinh tế thì kinh tế nhà nước đóng góp vào GDP vẫn luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất. Song trên thực tế kinh tế nhà nước chưa thực sự phát huy hiệu quả trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường.
Các chính sách kinh tế gần đây ở Việt Nam đã ảnh hưởng tích cực tới cấu trúc và sự tăng trưởng kinh tế. Các biện pháp kinh té như kiểm soát lạm phát, giảm dần thiếu hụt ngân sách, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt…kết hợp với các biện pháp tự do hoá như giảm bớt sự can thiệp của chính phủ trung ương đối với các hoạt động kinh tế đã tạo nên những chuyển biến đáng mừng về tốc độ tăng trưởng và ổn định môi trường kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên chưa có tiền lệ nào trong lịch sử về quá độ từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trừơng nên công cuộc đổi mới đang đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn. Nền kinh tế là một cơ chế sống luôn phát triển và đòi hỏi mọi sự quản lý, điều hành phải sáng tạo.
Hi vọng phát triển kinh tế xã hội trong những năm tới của Việt Nam có lẽ sẽ phụ thuộc vào rất nhiều vào việc giải quyết các vấn đề cơ bản mà nội dung của chúng có liên quan đến chính sự tiếp tục quá trình cơ cấu lại nền kinh tế. Vấn đề nổi bật nhất và là mục tiêu số một là xác định vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi Việt nam phải xây dựng mô hình kinh tế sử dụng được những khiếm khuyết của cả hai yếu tố thị trường và sự can thiệp của nhà nước về hai mặt: Tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội.
Nội dung cơ bản
I : Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1 Sự cần thiết khách quan.
1.1 kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường.
- Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ choc kinh tế xã hội ,mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi ,để bán trên thị trường.
- kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá , trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường khác nhau về trình độ phát triển , nhưng về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất .
-Trình độ phát triển của kinh tế thị trường có liên quan mật thiết với các giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất. Về đại thể, kinh tế hàng hoá phát triển qua 3 giai đoạn tương ứng với ba giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất là: Kinh tế hàng hoá giản đơn, kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị trường hiện đại. Kinh tế thị trường chính là cơ chế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường.
- Kinh tế thị trường nói chung có những đặc trưng cơ bản sau:
+Một là chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh
+Hai là, giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và nó có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
+Ba là, nền kinh tế vận động theo những quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… Sự tác động của các quy luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế.
+Bốn là, nếu là nền kinh tế thị trường hiện đại thì còn có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách kinh tế.
Mô hình kinh tế thị trường của nước ta trong thời kì quá độ được xác định là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa (nói khái quát là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ).
1.2. Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
ở nước ta hiện nay có dầy đủ điều kiện tồn tại, phát triển kinh tế thị trường, đó là:
-Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi, mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu . Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển . Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường. Không những vậy, phân công lao động xã hội ở nước ta còn không ngừng phát triển thống nhất trong cả nước và không ngừng mở rộng phát triển phân công lao động hợp tác quốc tế, do vậy phải thông qua quan hệ dòng tiền để thực hiện các quan hệ kinh tế trong nước và quốc tế .
- Tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là:
+sở hữu toàn dân
+ sở hữu tập thể
+ sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân)
+ sở hữu hỗn hợp
Do đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế :
+kinh tế nhà nước
+kinh tế tập thể
+kinh tế cá thể tiểu chủ
+kinh tế tư bản tư nhân
+kinh tế tư bản nhà nước
+kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Vì vậy cũng tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ.
Như vậy sự tồn tại kinh tế thị trường ở nước ta là một tất yếu khách quan.
2. Tác dụng to lớn của sự phát triển kinh tế thị trường.
- Do cạnh tranh, những người sản xuất hàng hoá phải cải tiến kỹ thuật , áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí sản xuất đến mức tối thiểu nhờ đó có thể cạnh tranh được về giá cả, đứng vững trong cạnh tranh. Quá trình đó nâng cao năng suất lao động xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
- Kinh tế hàng hoá kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, tạo ra khối lượng hàng hoá và dịch vụ đa dạng, phong phú.
-Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá, đến lượt nó sự phát triển kinh tế hàng hoá sẽ thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Vì thế phát huy được tiềm năng, lợi thế của từng vùng, cũng như thuận lợi của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
- Sự phát triển của kinh tế thị trường thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, thúc đẩy sản xuất lớn có tính xã hội hoá cao. Bình tuyển được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước .
- Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn. Mhờ phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ thuật, công nghệ của nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua.
II. đặc trưng, bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam .
-Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không phải là nền kinh tế thị trường tự do theo kiểu Tư Bản Chủ Nghĩa, và cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa .
-Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, một mặt vừa có tính chất chung của nền kinh tế thị trường, mặt khác vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của Chủ Nghĩa Xã Hội. Do đó, có thể rút ra những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam như sau:
1.Nền kinh tế thị trường ở nước ta nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội.
-Mục tiêu hàng đầu của việc phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hoá_hiện đại hoá, xây dung cơ sở vật chất _ kỹ thuật của chủ nghĩa xa hội , nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội , cải thiện tong bước đời sống nhân dân, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn lion với xoá đói , giảm nghèo, tăng trưởng kinh tế gắn lion với tiến bộ và công bằng xã hội.
2. Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Nền kinh tế nước ta tồn tại đa dạng hoá loại hình sở hữu. Từ đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ choc sản xuất kinh doanh. Các thành phần kinh tế tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận cần thiết của một nền kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế nhiều thành phần khia thác được mọi nguồn lực kinh tế, nâng cao được hiệu quả kinh tế, phát huy được tiềm năng của các thành phần kinh tế vào phát triển chung nền kinh tế của đất nước nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân. ở nước ta các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần đều phải được bình đẳng với nhau trước pháp luật, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau để phát triển. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
-Cần nhận thức rõ ràng, mỗi thành phần kinh tế có bản chất kinh tế xã hội riêng, chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng, nên bên cạnh sự thống nhất của các thành phần kinh tế, còn có những khác biệt và mâu thuẫnkhiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau. Vì vậy, kinh tế nhà nước cần được xây dung và phát triển có hiệu quả để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình. Đồng thời nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý vĩ mô kinh tế_xã hội để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Nền kinh tế thị trường ở nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng vân động theo yêu cầu của những quy luật vốn có của kinh tế thị trường, như quy luật giá trị, quy luật cung_cầu, quy luật cạnh tranh,…giá cả do thị trường quyết định; thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
- Trong điều kiện ngày nay, hầu như cơ chế thị trường của tất cả các nướcđều có sự quản lý của nhà nước . Nhưng điều khác biệt trong cơ chế vận hành nền kinh tế của nước ta là chỗ nhà nước quản lý nền kinh tế không phải là nhà nước tư sản, mà là nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà nước của dân, do dân và vì dân. Sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm sửa chữa “ những thất bại của thị trường”, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân cơ chế thị trường không thể làm được, đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đặc biệt là bảo đảm công bằng xã hội.
- Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường. Kế hoạch và cơ chế thị trường là hai phương tiện khác nhau để phát triển và điều tiết nền kinh tế. Kế hoạch là sự điều chỉnh có ý thức của chủ thể quản lý đối với nền kinh tế, còn cơ chế thị trường là sự tự điều tiết của bản thân nền kinh tế.
-Thị trường là căn cứ để xây dung và kiểm tra các kế hoạch phát triển kinh tế. Những mục tiêu và biện pháp mà kế hoạch nêu ra muốn được thực hiện có hiệu quả xuất phát từ yêu cầu của thị trường. Mặt khác , muốn cho thị trường phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa thì nó phải được hướng dẫn và điều tiết bởi kế hoạch.
4. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó phân phối theo lao động là chủ yếu.
Mỗi chế độ xã hội có các hình thức phân phối tương ứng với nó. Hình thức phân phối do quan hệ sở hữu quyết định.
-Phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kì quá độ, tồn tại nhiều quan hệ sở hữu. Mà mỗi quan hệ sở hữu có nguyên tắc phân phối tương ứng với nố, vì thế trong thời kỳ quá độ tồn tại cơ cấu đa dạng về hình thức phân phối thu nhập.
-Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, tồn tại các hình thức phân phối theo vốn hây tài sản đóng góp: Phân phối theo giá trị sức lao động (được thực hiện trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân và các doanh nghiệp mà vốn đầu tư là của nước ngoài) phân phối thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội.
- Sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là ở chỗ xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động. Phân phối theo lao động là đặc trưng, bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu . Vì thế phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội .
- Nước ta xây dung và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta lấy phát triển kinh tế thị trường là phương tiện để đạt được mục tiêu cơ bản xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công băng, dân chủ và văn minh Vì vậy mỗi bước tăng trưởng kinh tế ở nước ta phải gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Việc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội và tập thể có ý nghĩa quan trọng để thực hiện mục tiêu đó.
5. Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế mở cửa, hội nhập với kinh tế khu vực và quốc tế
-Do sự tác động của cách mạng khoa học công nghệ, đang diễn ra quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia đều phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước khác để khai thác tiềm năng và thế mạnh trong nước, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dung và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn.
-Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá đa dạng hoá các hình thức đố ngoại, gắn thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, đan tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
-Trong thời gian tới cần tiếp tục mở rộng đa phương hoá , đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại , có bước đi thích hợp hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Phải đẩy mạnh xuất khẩu , coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại, chủ động và tích cực thâm nhập vào thị trường thế giới, chú trọng vào thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, mở rộnh thị phần các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội để mở ra thị trường mới. Cải thiện môi trường đầu tưvà bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
III. Cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1. Sự cần thiết chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
-Do sự nhận thức còn đơn giản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hộ, nên trước đây chúng ta đã thiết lập mô hình kinh tế kế hoạch hoá và cơ chế vận hành nền kinh tế đó là cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp. Mô hình kinh tế đó có những đặc trưng chủ yếu sau đây:
+Thứ nhất: Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới.Do đó hoạt động của các doanh nghiệp chủ yếu phải dựa vào các chỉ tiêu pháp lệnh hoặc là quyết định của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên, từ phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, địa chỉ tiêu thụ sản phẩm, đến việc định giá, sắp xếp bộ máy.
+Thứ hai: Các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh, kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại do các quyết định không đúng gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu.
+Thứ ba: Quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị coi nhẹ, Nhà nước quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ bao cấp, cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu không ràng buộc trách nhiêm vật chất, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
+Thứ tư: Bộ máy quản lý cồng kềnh, kém năng động, đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý nhưng lại cửa quyền quan liêu. Mô hình kinh tế chỉ huy, mà điển hình là nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp… với những đặc trưng nêu trên có những ưu điểm là tập trung được nguồn lực vào những mục tiêu chủ yếu, nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh nên đã kìm hãm tiến bộ khoa học kĩ thuật.
Vì vậy, Đảng ta đã đề ra phương hướng đổi mới kinh tế là chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.Cơ chế thị trường
2.1. Khái niệm và nội dung cơ chế thị trường.
- Trong nền kinh tế thị trường có một loạt những quy luật kinh tế vốn có của nó như quy luật giá trị, quy luật cung_cầu, quy luật cạnh tranh…Các quy luật đó đều biểu hiện sự hoạt động của mình thông qua giá cả thị trường. Nhờ sự vận động giá cả thị trường mà diễn ra một sự thích ứng một cách tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất (tổng cung) với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội (tổng cầu) tức là sự hoạt động của các quy luật đó đã điều tiết nền sản xuất xã hội.
- Vậy cơ chế thị trường là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá, do sự tác động của các quy luật kinh tế khách quab của thị trường, nhằm giảI quyết các vấn đề cơ bản của nền kinh tế : Sản xuất cai gì, cho ai và như thế nào.
-Trong cơ chế thị trường lợi nhuận vừa là động lực vừa là mục đích của các doanh nghiệp.
-Giá cả thị trường là phạm trù trung tâm, là “phương tiện phát tín hiệu” cho các chủ thể kinh tế biết sản xuất cái gì, bao nhiêu và như thế nào. Giá cả thị trường là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường. Giá cả thị trường có các chức năng chủ yếu đó là: chức năng thông tin; phân bbổ các nguồn lực kinh tế; thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật và phân phối lai. Nó được xác định trên cơ sở giá trị hàng hóa, quan hệ cung cầu, cạnh tranh và sức mua của đồng tiền tức là giá cả thị trường. Sự phụ thuộc vào các nhân tố giá trị hàng hóa, quan hệ cung cầu, cạnh tranh và sức mua của đồng tiền là chịu sự tác động của các quy luật của thị trường là giá trị, cung cầu, cạnh tranh và lưu thông tiền tệ.
2.2. Ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường.
* Ưu điểm của cơ chế thị trường.
-Cơ chế thị trường có những ưu điểm và tác dụng mà không có cơ chế nào hoàn toàn thay thế được.
+Thứ nhất: Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế và tạo ra điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Do đó , làm cho nền kinh tế phát triển năng động và có hiệu quả.
+Thứ hai: Cơ chế thị trường có thể thoả mãn nhu cầu cá nhân về hàng nghìn, hàng vạn sản phẩm khác nhau. Nhiệm vụ này nếu để nhà nước làm sẽ phảI thực hiện một khối lượng công việc rất lớn, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao.
+Thứ ba: Cơ chế thị trường kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất. Sức ép cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm chi phí sản xuất cá biệt đến mứctối thiểu bằng cách áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất như : Không ngừng đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, đổi mới sản phẩm, đổi mới tổ choc sản xuất và quản lý kinh doanh nâng cao hiệu quả.
+Thứ tư: Cơ chế thị trường thực hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối ưu. Trong nền kinh tế thị trường việc lưu động, di chuyển, phân phối các yếu tố sản xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của thị trường; chúng sẽ chuyển đến nơi sử dụng với hiệu quả cao nhất , do đó các nguồn lực kinh tế được phân bổ một cách tối ưu.
+Thứ năm:Sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ quan Nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trươcs những điều kiện kinh tế biến đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội với nhu cầu xã hội.
-Nhờ những ưu điểm và tác dụng đó, cơ chế thị trường có thể giảI quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Nó là cơ chế tốt nhất để điều tiết nền kinh tế xã hội.
-Cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế thị trường, tuy nhiên cơ chế thị trường cũng có những khuyết tật vốn có của nó.
*Những khuyết tật của cơ chế thị trường.
+Thứ nhất: Cơ chế thị trường chỉ thực hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo, khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo (Độc quyền), thì hiệu lực của cơ chế thị trường bị giảm và còn gây thiệt hại cho người tiêu ding và xã hội.
+Thứ hai: Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người. Do đó hiệu quả kinh tế – xã hội không được bảo đảm.
+Thứ ba: Phân phối thu nhập không công bằng. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hoá giầu nghèo, sự phân cực của cải, tác động sấu đến đạo đức và tình người…
+Thứ tư: Cơ chế thị trường khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp và lạm phát.
Do cơ chế thị trường có một loạt các khuyết tật vốn có của nó, nên phải có sự can thiệp của nhà nước để sửa xhữa những thất bại của cơ chế thị trường.
3. Sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước
3.1. Vai trò và chức năng kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.
-Như đã phân tích ở trên, cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế hàng hoá một cách hiệu quả, tuy nhiên cơ chế đó cũng có một loạt những khuyết tật. Vì thế ở tất cả các nước có nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết đều có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế. Mặt khác Nhà nước là đại diện của xã hội nên phải quản lý thành phần kinh tế vĩ mô; Nhà nước ta là đại diện sở hữu toàn dân nên phải quản lý thành phần kinh tế nhà nước.
-Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có bản chất khác nhau, do đó mục tiêu xã hội của quản lý cũng khác nhau.
-Nhà nước Việt Nam muốn quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có kết quả trước hết cũng phải dựa trên yêu cầu khách quan của các quy luật của kinh tế thị trường. Do đó, phương pháp quản lý của nhà nước ta về nhiều phương diện cũng có những nét giống như phương pháp quản lý của nhà nước ở các nước tư bản:
+Thừa nhận tính độc lập của các chủ thể kinh tế để họ có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự chịu lỗ lãi
+Xây dựng hệ thống thị trường có tính cạnh tranh, giá cả chủ yếu do thị trường quyết định
+Xây dựng cơ chế điều tiết vĩ mô của nhà nước nhằm hướng dẫn, giám sát hoạt động của các chủ thể kinh tế, hạn chế những khuyết tật của thị trường.
+xây dựng hệ thống pháp luật nhằm tạo ra khuôn khổ cho hoạt động kinh tế.
+Tôn trọng và thực hiện các thông lệ quốc tế trong quan hệ kinh tế quốc tế.
-Tuy nhiên mục đích sự quản lý kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa và sự quản lý kinh tế của nhà nước tư sản có sự khác nhau cơ bản. sự quản lý của nhà nước tư sản đối với nền kinh tế thị trường nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho các tổ chức độ quyền. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế thị trường nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng dân chủ và văn minh; đảm bảo cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
-Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta có những choc năng kinh tế sau đây:
+Một là: Nhà nước bảo đảm sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp đẻ tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế vì ổn định chính trị xã hội là điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế. Nhà nước tạo ra hành lang luật pháp cho hạot động kinh tế bằng cách đặt ra các điều luật cơ bản về quyền sở hữu tàI sanr và hoạt động thị trường, đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ luật pháp nhà nước thiết lập có tác động sâu sắc tới các hành vi kinh tế của họ.
+Hai là:Nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường tăng trưởng ổn định. Nhà nước xây dựng các chiến lược và quy hoạch phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế – xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Nền kinh tế thị trường khó thoát khỏi những chấn động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế và lạm phát, Nhà nước phảI sử dụng chính sách tài chính và chính sách tiền tệ để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế.
+Ba là: Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các doanh nghiệp vì lợi ích hẹp hòi của mình có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người. Vì vậy Nhà nước phải thực hiện những biện pháp nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội. Sự xuất hiện độc quyền cũng làm giảm tính hiệu quả của hoạt động thị trường. Vì vậy nhà nước có nhiệm vụ rất căn bản là bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thị trường.
+Bốn là: Nhà nước cần hạn chế, khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, thực hiện công bằng xã hội. Sự tác động của cơ chế thị trường có thể đưa lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng nó không tự động mang lại những giá trị mà xã hội cố gắng vươn tới, không tự động đưa tới sự phân sự phân phối thu nhập công bằng. Nhà nước thực hiện phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Điều này thể hiện rõ rệt nhất tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
3.2. Nội dung quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
-Những nội dung chủ yếu quản lý kinh tế của Nhà nước ta bao gồm:
+Quyết định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc trước hết vào đường lối và chiến lược phát triển kinh tế. Để xây dựng chiến lược đúng, có căn cứ khoa học, cần phân tích đúng thực trạng kinh tế – xã hội, xác định rõ mục tiêu phát triển, lựa chọn phương án tối ưu.
+Kế hoạch. Kế hoạch nói ở đây là kế hoạch thực hiện mục tiêu của quyết định chiến lược, nó là sự triển khai và cụ thể hoá quyết định chiến lược. Kế hoạch xác định mục tiêu dàI hạn, trung hạn và ngắn hạn, nêu ra các biện pháp và phương thức thực hiện các mục tiêu đó.
+Tổ chức. Tổ chức là một nội dung của quản lý nhằm đảm bảo thực hiện kế hoạch đã định. Nó bao gồm việc bố trí hợp lý cơ cấu, xác định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức và dựa vào yêu cầu cụ thể của các cơ cấu để lựa chọn và bố trí cán bộ thích hợp.
+Chỉ huy và phối hợp. Nền kinh tế là một hệ thống phức tạp, bao gồm nhiều chủ thể khác nhau, vì thế để cho nền kinh tế hoạt động bình thường, có hiệu quả, cần có sự chỉ huy thống nhất (đIều chỉnh từ một trung tâm).
Để nền kinh tế có hiệu quả, phát triển đúng mục tiêu Nhà nước cần phải có chế độ thưởng phạt rõ ràng, hoạt động theo định hướng kế hoạch, làm lợi cho nền kinh tế thì được khuyến khích; ngược lại, làm hại thì phảI ngăn chặn và trừng phạt.
3.3. Các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam
-Hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật là một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, nó tạo ra khuôn khổ pháp luật cho các chủ thể kinh tế hoạt động, phát huy mặt tích cực và hạn chế măt tiêu cực của kinh tế thị trường, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các luật đó đIều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế, buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận sự đIều tiết của Nhà nước.
-Kế hoạch hoá. Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kế hoach kết hợp với thị trường. Kế hoạch và thị trường là hai công cụ quản lý của Nhà nước, chúng được kết hợp chặt chẽ với nhau. Sự điều tiết thị trường là cơ sở phân phối các nguồn lực, còn kế hoạch khắc phục tính tự phát của thị trường, làm cho nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng của kế hoạch.
-Lực lượng kinh tế của Nhà nước. Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và phát triển kinh tế tập thể để chúng dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế, hỗ trợ các thành phần khác của nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Nhờ đó, Nhà nước có sức mạnh vật chất để điều tiết, hướng dẫn nèn kinh tế theo mục tiêu kinh tế – xã hội do kế hoạch đặt ra.
-Nhũng biện pháp kinh tế điều tiết vĩ mô của Nhà nước chủ yếu là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ
+Chính sách tài chính, đặc biệt là ngân sách nhà nước có ảnh huởng quyết định đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế và xã hội. Thông qua việc hình thành và sử dụng ngân sách Nhà nước, Nhà nước điều chỉnh phân bố các nguồn lực kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, đảm bảo công bằng trong phân phối và thực hiện các chức năng của mình. Chính sách thuế đúng đắn không chỉ tạo nguồn thu cho ngân sách, mà còn khuyến khích sản xuất, điều tiết tiêu dùng
+ Chính sách tiền tệ, là một công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu của Nhà nước đối với nền kinh tế. Chính sách tiền tệ phải khống chế được lượng tiền phát hành và tổng quy mô cho tín dụng. Trong chính sách tiền tệ, lãi suất là công cụ quan trọng, là phương tiện điều tiết cung, cầu tiền tệ. Việc thắt chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ, kim chế lạm phát thông qua hoạt động ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế.
+Các công cụ đIều tiết kinh tế đối ngoại .
Để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ, trong đó chủ yếu là thuế xuất – nhập khẩu, đảm bảo tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu…Thông qua các công cụ đó, Nhà nước có thể khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của nước ta.
VI. Thực trạng và các giảI pháp để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam
1.Thực trạng ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0049.doc