Thực tiễn về hoạt động tham gia đấu thầu của Công ty TNHH Xây dựng VINAUST

phần mở đầu Nước ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ chúng ta cần phải thực hiện là xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, tạo tiền đề cho các bước phát triển tiếp theo của đất nước. Để có được hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn thiện phải tiến hành xây dựng các công trình giao thông, nhà xưởng, kho tàng, bến bãi, cơ sở vật chất kỹ thuật ... Vì vậy, trong giao đoạn hiện nay chúng ta có thể khẳng định rằng mọi hoạt động sản xuất - xây lắp có tầm quan trọng to lớn tron

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực tiễn về hoạt động tham gia đấu thầu của Công ty TNHH Xây dựng VINAUST, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống trong hoạt động sản xuất xây lắp nhằm nâng cao hiệu quả các công trình dự án. Để tạo ra được sự cạnh tranh trong hoạt động sản xuất - xây dựng. Nhà nước đã có nhiều biện pháp tiến hành, nhưng một công cụ hiệu quả nhất mà cơ sở pháp lý cho chế độ đấu thầu, ngày 16/7/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định 42/CP về việc Ban hành Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng, đến ngày 23/8/1997 Chính phủ ban hành Nghị định 92/CP về việc sửa đổi bổ sung một số điều trong Điều lệ quản lý và xây dựng ban hành kèm Nghị định 42/CP. Song song với Nghị định 42/CP ngày 16/7/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP về việc Ban hành Quy chế đấu thầu và được sửa đổi một số điều trong Nghị định 93/CP ngày 23/8/1997. Hoạt động này của Nhà nước rất phù hợp với yêu cầu hiện nay của ngành xây dựng nói riêng và yêu cầu của xu hướng phát triển kinh tế nói chung. Chế độ dấu thầu cho các nhà đầu tư trong nước và quốc tế tham gia vào đầu tư, tạo ra cơ sở pháp lý cho các hoạt động đấu thầu. Chế độ đấu thầu quy định hoạt động tổ chức lựa chọn nhà thầu, tham gia đấu thầu. Nhà thầu được chọn phải là nhà thầu tiêu biểu nhất, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của bên mời thầu. Như vậy, chế độ đấu thầu đã tạo được tính cạnh tranh trong hoạt động kinh tế, đem lại lợi ích cho sản xuất, cho xã hội, hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Để có cái nhìn hoàn chỉnh và toàn diện hơn về chế độ đấu thầu, trong bài viết này em xin đề cập tới khía cạnh pháp lý của chế độ đấu thầu và thực hiện tham gia đấu thầu ở Công trình nhà 9 Tầng - ĐHKT. Chương I cơ sở pháp lý của hoạt động đấu thầu I. tính tất yếu của hoạt động đấu thầu xây lắp 1. Khái niệm "Đấu thầu" Nhằm tạo ra tính đúng đắn, khách quan, công bằng, đồng thời đảm bảo được tính cạnh tranh trong các hoạt động tuyển chọn tư vấn, mua sắm vật tư thiết bị và thi công xây lắp đê triển khai được các dự án đầu tư thì cần phải tiến hành đấu thầu. Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu của bên mời thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu. Thực chất của hoạt động đấu thầu đó là sự cạnh tranh giữa các nhà cung ứng hàng hoá hay dịch vụ. Trong hoạt động đấu thầu thì bên mua (nhà đầu tư) là có một người, còn bên bán (các nhà thầu) là có nhiều người. Tất cả các nhà thầu đều muốn bán được hàng hoá của mình, nhưng người mua chỉ có một và chỉ mua được hàng của một người. Vì vậy tất cả những người bán đều cạnh tranh với nhau để được người mua lựa chọn. Trên ưu thế của mình, người mua sẽ lựa chọn hàng hoá, dịch vụ mà họ cho là tốt nhất. Sự cạnh tranh của người bán làm cho giá cả của hàng hoá, dịch vụ rẻ hơn và chất lượng cao hơn. Tuy nhiên, phải có người đứng ra tổ chức hoạt động cạnh tranh giữa các nhà thầu và hoạt động này được gọi là hoạt động đấu thầu giữa các nhà thầu. Thông qua đấu thầu, nhà đầu tư có thể lựa chọn được nhà thầu có khả năng thoả mãn tốt nhất các điều kiện về kỹ thuật,về tài chính, về tiến độ, thời gian thi công, thời gian thực hiện cung ứng vật tư, về trình độ tư vấn. Một hoạt động cũng tạo ra sự cạnh tranh giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động kinh tế, có nhiều điểm giống với hoạt động đấu thầu, nhưng bản chất của nó lại ngược lại với hoạt động đấu thầu. Đó là “Đấu giá”. Đấu giá là một phương thức đặc biệt trong hoạt động kinh tế, được tổ chức công khai tại một nơi nhất định. Tại đó, khi xem xét trước hàng hoá, người mua tự do cạnh tranh giá với nhau và cuối cùng hàng sẽ được bán cho ai trả giá cao nhất. Bản chất của hoạt động đấu giá đó là một quan hệ mua bán mà trong đó người bán chỉ có một mà người mua lại rất nhiều. Tất cả mọi người mua đều muốn mua được hàng của người bán, nhưng khả năng cung ứng lại có hạn, do đó người bán chỉ bán được cho một người mua. Mọi người mua đều mong muốn có được hàng, do vậy họ cạnh tranh giá với nhau, tăng giá của hàng hoá lên. Ai trả giá cao nhất, người đó sẽ mua được hàng. Do ưu điểm của đấu giá là có sự cạnh tranh giữa những người mua, cho nên người bán sẽ thu được một số tiền cao nhất từ việc bán đấu giá hàng hoá của mình. Đối tượng được áp dụng đấu giá là những hàng hoá khó tiêu lượng hay khó tiêu chuẩn hoá như đồ cổ, tranh cổ, tượng, những vật quý hiếm, những vật mang tính lịch sử hay gắn liền với một nhân vật nổi tiếng nào đó, những hàng hoá có tính năng đặc biệt... Mục tiêu của đấu giá là bán được hàng hoá giá cao nhất thông qua sự cạnh tranh giữa những người mua. Hình thức đấu giá có hai loại hình: một là phương thức nâng giá: Người bán sẽ đưa ra một mức giá sẵn, sau đó những người mua cạnh tranh giá với nhau bằng cách nâng giá lên; Hai là phương thức hạ giá: Người bán sẽ đưa ra một mức giá trần, sau đó sẽ hạ dần mức giá đó xuống cho tới khi có người mua hàng. Từ hai khái niệm “Đấu thầu” và “đấu giá” ở trên, ta có thể so sánh những điểm cơ bản của hai khái niệm này: Đấu thầu và đấu giá có điểm chung là cùng tạo ra sự cạnh tranh cho các chủ thể tham gia nhằm mục đích thu lợi nhuận cao nhất cho người tổ chức. Tuy nhiên, chúng ta có một điểm cơ bản trái ngược hẳn nhau, đó là đấu thầu cạnh tranh của những người bán còn đấu giá là sự cạnh tranh của những người mua. Hơn thế nữa, đấu thầu chỉ có một người mua và đấu giá chỉ có một người bán. Ta thấy rằng: Sự cạnh tranh và bên tham gia trong đấu thầu và đấu giá là trái ngược hẳn nhau. Mặt khác, đối tượng của đấu thầu là những hoạt động tuyển chọn tư vấn, mua sắm vật tư thiết bị, xây lắp - là những hoạt động có tính chất phức tạp đối với những yêu cầu về kỹ thuật, về tài chính, ...Đối tượng của đấu giá là những đồ vật đặc biệt được đem bán - đối tượng này phải có một tính chất đặc biệt. Trình tự thực hiện của đấu thầu và đấu giá cũng khác nhau. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, đấu thầu và đấu giá đã đem lại lợi ích và hiệu quả cao hơn cho xã hội. Đối với đấu thầu, tuỳ theo tính chất của từng giai đoạn đầu tư, thực hiện dự án mà hình thành các loại hoạt động đấu thầu. Đó là các loại đấu thầu tuyển chọn tư vấn và xây dựng, đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị và đấu thầu xây lắp. + Đấu thầu tuyển chọn tư vấn là quá trình lựa chọn chuyên gia hay tổ chức tư vấn đáp ứng được yêu cầu tư vấn về các loại công việc theo yêu cầu của bên mời thầu. Các loại công việc đó là: Chuẩn bị đầu tư (Bao gồm: Lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi; Thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi); Tư vấn thực hiện đầu tư ( Bao gồm: Lập thiết kế, tổng dự toán và dự toán; Thẩm định thiết kế và tổng dự toán; Lập hồ sơ mời thầu; Phân tích đánh giá hồ sơ dự thầu; Giám sát thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị); Các tư vấn khác ( Bao gồm: Vận hành trong thời gian đầu; Thực hiện chương trình đào tạo, chuyển giao công nghệ và quản lý dự án). + Đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị là quá trình lựa chọn nhà cung ứng vật tư thiết bị đáp ứng được yêu cầu của bên mời thầu và điều kiện tài chính, các thông số kỹ thuật của vật tư thiết bị, thời gian cung ứng; Trên cơ sở hồ sơ dự thầu, bên mời thầu sẽ đánh giá và cho điểm đối với chỉ tiêu về năng lực về kinh nghiệm của nhà thầu, về kỹ thuật, về khả năng tài chính, giá cả và thời gian thực hiện dự án phù hợp với hồ sơ mời thầu. + Đấu thầu xây lắp là quá trình lựa chọn nhà thầu xây dựng có khả năng đáp ứng được yêu cầu của bên mời thầu và các loại chỉ tiêu của lĩnh vực xây lắp. Người trúng thầu là nhà thầu xây lắp có khả năng cao nhất, thoả mãn tốt nhất các điều kiện kỹ thuật của công trình, đồng thời cũng thoả mãn các điều kiện khác do bên mời thầu đặt ra. Nếu phân loại đấu thầu theo lĩnh vực hoạt động thì có 3 loại đấu thầu, đó là: Đấu thầu xây dựng, đấu thầu hàng hoá và đấu thầu mua sắm công cộng. + Đấu thầu xây dựng được quy định trong Nghị định 43/CP và 93/CP của Chính phủ ngày 16/7/1996 và ngày 23/8/1997. Bao gồm đấu thầu tuyển chọn tư vấn, đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị và đầu tư xây lắp. + Đấu thầu hàng hoá được Luật thương mại điều chỉnh do Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 10/5/1997. Đấu thầu hàng hoá là việc mua hàng thông qua mời thầu nhằm đáp ứng được yêu cầu về giá cả, điều kiện kinh tế - kỹ thuật do bên mời thầu đặt ra. Đấu thầu hàng hoá là thực chất tạo ra sự cạnh tranh giữa những người bán một loại hàng hoá cho người chủ sở hữu vốn. Đối tượng của đấu thầu hàng hoá chính là những hàng hoá được các nhà cung ứng cạnh tranh với nhau để bán được. Những hàng hoá được đấu thầu này là những hàng hoá mang tính thương mại, có nghĩa là được thông qua đấu thầu để thu lời. Đấu thầu hàng hoá khác với đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị là đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị về để phục vụ cho sản xuất - xây dựng mặc dù vật tư thiết bị cũng là hàng hoá. Về biện pháp đảm bảo tham gia đấu thầu thì đấu thầu hàng hoá sử dụng biện pháp ký quỹ dự thầu, trong khi đó đấu thầu xây dựng lại sử dụng biện pháp bảo lãnh dự thầu. Ký quỹ dự thầu là bên dự thầu phải nộp một khoản tiền nhất định do bên mời thầu quy định nhưng không quá 30% tổng giá trị ước tính của hàng hoá đấu thầu vào một tài khoản phong toả tại một Ngân hàng do bên mời quy định. Sau khi xét thầu của hoạt động đấu thầu hàng hoá, một hợp đồng mua bán hàng hoá sẽ được lập giữa bên mở thầu (người mua) và bên trúng thầu (người bán). + Đấu thầu mua sắm công cộng là quá trình lựa chọn nhà thầu có khả năng cung ứng hàng hoá, máy móc, thiết bị... cho bên mở thầu nguồn vốn để mua sắm công cộng là vốn Ngân sách nhà nước cấp vì vậy nguồn vốn này thuộc sở hữu của Nhà nước. Giá trị của hàng hoá, thiết bị, máy móc, từ 50 triệu đồng thời trở lên được mua sắm bằng nguồn vốn Ngân sách sẽ được tổ chức đấu thầu. Trong quan hệ mua sắm công cộng, chủ đầu tư là Nhà nước, người mời thầu là tổ chức được Nhà nước uỷ quyền hay giao vốn cho, các nhà thầu là những người có hàng hoá thiết bị, máy móc và mong muốn được bán cho bên mời thầu. Phân loại đấu thầu theo phạm vi lãnh thổ thì có 2 loại đấu thầu. Đó là đấu thầu trong nước và đấu thầu quốc tế. Tuy nhiên, cả 2 loại đấu thầu này đều được tổ chức tại Việt nam. + Đấu thầu trong nước là quá trình lựa chọn nhà thầu trong nước đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu. Đấu thầu trong nước là hoạt động tổ chức cạnh tranh cho những nhà thầu trong phạm vi quốc gia, các nhà thầu nước ngoài sẽ không được tham gia. Đây là hoạt động đấu thầu hạn chế sự cạnh tranh vì không cho phép các nhà thầu tham gia, nhưng đồng thời nó lại hỗ trợ, khuyến khích các nhà thầu trong nước. + Đấu thầu quốc tế là hoạt động lựa chọn nhà thầu mà trong đó cả nhà thầu trong nước và quốc tế tham gia nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của bên mời thầu. Đấu thầu quốc tế nhằm tạo ra sự cạnh tranh cao nhất giữa các nhà thầu trong nước và nhà thầu quốc tế. Loại đấu thầu này sẽ thúc đẩy sự cạnh tranh mạnh mẽ hơn, nếu nhà thầu nào yếu kém thì sẽ thua trong cuộc đua. Mặc dù vậy, trong hoạt động đấu thầu quốc tế được tổ chức tại Việt nam, Nhà nước ta vẫn có chính sách ưu tiên cho các nhà thầu trong nước. 2. Tính tất yếu của hoạt động đấu thầu Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật là những thành tựu kinh tế. Chúng ta đã đạt được những kết quả to lớn trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Những thành tựu kinh tế đã đạt được do chúng ta có đường lối phương hướng đúng đắn. Bên cạnh những thành công đã đạt được, chúng ta cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo ra môi trường kinh tế ổn định, an toàn hấp dẫn. Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, chúng ta công nhận sự bình đẳng của các thành phần kinh tế, điều này được hiến pháp nước ta quy định: “mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật”. Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, nếu có đủ điều kiện thì mọi thành phần kinh tế đều được tham gia vào. Để nâng cao hiệu quả, chất lượng công trình, tạo ra tính cạnh tranh và cũng chính là thừa nhận sự công bằng, sự bình đẳng của các thành phần kinh tế, các chủ đầu tư phải tổ chức đấu thầu những dự án, công trình theo quy định của pháp luật. Mặt khác trong nền kinh tế thị trường, nhà nước có vai trò quản lý nền kinh tế ở góc độ vĩ mô, không can thiệp sâu vào nền kinh tế, còn các chủ thể kinh tế tự do hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, tự do tìm kiếm, thoả thuận về công việc, tự do ký kết các hợp đồng kinh tế theo chế độ hợp đồng kinh tế hiện hành và hoạt động trên được nhà nước coi là một phần tất yếu của nền kinh tế. Vì vậy, cần phải tiến hành đấu thầu để bên có hàng bán (bên mời thầu) và người mua hàng (nhà thầu) có thể tự do lựa chọn đối tác của mình cho phù hợp. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các đơn vị kinh tế thực hiện nhiệm vụ theo chỉ tiêu pháp lệnh, ký kết hợp đồng theo chỉ tiêu pháp lệnh. Công việc của họ là do nhà nước giao cho và họ buộc phải thực hiện. Cơ chế này được gọi là cơ chế “giao - nhận”. Các đơn vị kinh tế không có quyền tự tìm kiếm công việc, không được tự thoả thuận và ký kết hợp đồng. Vì vậy trong cơ chế này không thể tồn tại được chế độ đấu thầu. Bởi vì nếu có hoạt động đấu thầu là có sự tự do tìm kiếm công việc, tự do ký kết và thực hiện các hợp đồng. Và như vậy là có mâu thuẫn với nguyên tắc chung của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Cơ chế “giao - nhận” trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung có nhiều điểm giống với hình thức “chỉ định thầu” trong chế độ đấu thầu. Chỉ định đấu thầu có nhiều hạn chế là đáp ứng được yêu cầu về tính cạnh tranh, tính công bằng, bình đẳng nên không có sự rộng rãi. Chỉ định thầu là hình thức chủ đầu tư giao một công việc nào đó cho nhà thầu và gần giống với việc Nhà nước giao chỉ tiêu pháp lệnh cho một đơn vị kinh tế. Vì vậy trong nền kinh tế thị trường phải tổ chức đấu thầu chứ không thể áp dụng hình thức chỉ định thầu một cách rộng rãi được. Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, yêu cầu của các dự án công trình ngày càng hiện đại, thẩm mĩ, vì vậy vấn đề đặt ra là các nhà đầu tư phải có đủ năng lực về kỹ thuật, về công nghệ tiên tiến mới có thể đáp ứng được. Sự lựa chọn nhà thầu đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của trình độ khoa học kỹ thuật hiện nay là tất yếu khách quan. Hoạt động đấu thầu thống nhất quản lý các nguồn vốn đầu tư trong cả nước thông qua quy định của Nhà nước về quy mô của dự án là bao nhiêu thì phải đấu thầu. Nó tạo ra một cơ sở pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động của các chủ thể trong phạm vi điều chỉnh Quy chế đấu thầu. Thông qua chế độ đấu thầu, các chủ thể sẽ căn cứ để xác định hành vi của mình trong khuôn khổ pháp luật. Chế độ đấu thầu quy định các mối quan hệ ràng buộc giữa chủ đầu tư, nhà thầu và nhà nước, tạo ra quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia. Chế độ đấu thầu do Nhà nước ban hành đưa ra các chỉ dẫn, trình tư, thủ tục của hoạt động đấu thầu. Thông qua đó, hoạt động của các chủ thể nhanh chóng, hiệu quả và đúng pháp luật. Nguồn vốn đầu tư vào nước ta một phần là đầu tư trong nước, phần còn lại là đầu tư nước ngoài. Đối với đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư mong muốn vốn của họ phải được sử dụng hiệu quả, đúng mục đích. Vì vậy, đấu thầu là hoạt động tất yếu xảy ra để lựa chọn nhà thầu tốt nhất. Đối với nguồn vốn ODA, nhà đầu tư quốc tế yêu cầu phải đấu thầu quốc tế để lựa chọn được nhà thầu mang tầm cỡ quốc tế và có năng lực nhất. Hoạt động kinh tế được điều chỉnh bởi các quy luật kinh tế, trong đó có “quy luật cạnh tranh”. Mọi hoạt động kinh tế đều mang tính cạnh tranh. Cạnh tranh làm cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn, mạnh mẽ hơn, nó thúc đẩy các nhà sản xuất - kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá của họ, và vô hình chung, cạnh tranh đã đưa lại lợi ích lớn hơn cho xã hội. Hoạt động đấu thầu chính là hình thức tổ chức cạnh tranh cho các nhà thầu. Nhà thầu nào mạnh nhất, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của bên mời thầu, nhà thầu đó sẽ thắng. Sự cạnh tranh giữa các nhà thầu đã tạo ra chất lượng công trình xây lắp, vật tư thiết bị được cung ứng tốt hơn, bền hơn, rẻ hơn, tiến độ thực hiện nhanh hơn, khẩn trương hơn, trình độ tư vấn cao hơn. Tất cả các lý do trên có thể giúp ta khẳng định chắc chắn rằng đấu thầu là một hoạt động tất yếu ỏ nước ta trong giai đoạn hiện nay. 3. Phạm vi áp dụng của Quy chế đấu thầu Không phải cho tới bây giờ chúng ta mới nhận thức được tính tất yếu và tầm quan trọng của chế độ đấu thầu. Từ những năm đầu thập kỷ 90, các nhà hoạch định chính sách đã hình thành ý tưởng thiết lập ra một Quy chế điều chỉnh hoạt động xây lắp. Văn bản rất sớm mà Nhà nước ta ban hành để điều chỉnh lĩnh vực hoạt động này là Quy chế đấu thầu xây lắp ngày 30/4/1994 của Bộ trưởng Bộ Xây Dựng. Song song với quy chế đấu thầu xây lắp là nghị định của Chính phủ số 177 - CP ngày 20/10/1994 về việc ban hành điều lệ Quản lý đầu tư và xây dựng. Đây là hai văn bản của Nhà nước ta đã vạch ra bước ngoặt trong quá trình đầu tư và xây dựng. Tuy nhiên, là những văn bản điều chỉnh một lĩnh vực hoạt động mới mẻ - hoạt động đấu thầu - nên còn nhiều hạn chế vì vậy hai văn bản này đã được thay đổi bổ xung vào năm 1996. Sau khi Quy chế đấu thầu xây lắp và điều lệ Quản lý đầu tư và xây dựng được ban hành đã có tác dụng to lớn trong lĩnh vực đầu tư xây dựng. Tuy nhiên, do yêu cầu phát triển và tình hình mới của lĩnh vực quản lý đầu tư, xây dựng nên cần phải sửa đổi, bổ sung các văn bản điều chỉnh chế độ đấu thầu và quản lý xây dựng. Cho tới ngày 16/7/1996, Chính phủ thay thế quy chế đấu thầu xây lắp thành Quy chế đấu thầu (Ban hành kèm theo Nghị định 43/CP ngày 16/7/1996 của chính phủ) và Nghị định 177/CP về quản lý đầu tư và xây dựng được sửa đổi, bổ sung thành điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng được sửa đổi,(Ban hành kèm theo Nghị định 43/CP này 16/7/1996 của chính phủ). Quy chế đấu thầu mà chính phủ ban hành trong Nghị định 43/CP rộng hơn so với Quy chế đấu thầu xây lắp trong Nghị định 177/CP, đối tượng của Quy chế đấu thầu bao gồm cả đấu thầu tuyển chọn tư vấn, đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị và đấu thầu xây lắp, 3 loại đấu thầu này hoàn thành một quá trình đầu tư hoàn chỉnh. Còn quy chế đấu thầu xây lắp trong Nghị định 177/CP chỉ điều chỉnh một giai đoạn trong quá trình đầu tư - đó là xây lắp, do đó nó chưa đáp ứng được yêu cầu hiện nay của quá trình đầu tư. Do chức năng nhiệm vụ của các cơ quan chủ quản trong lĩnh vực Quản lý đầu tư và xây dựng thay đổi bởi sự phân công lại trách nhiệm, nhiệm vụ và sự sát nhập, thay đổi của các cơ quan này đến năm 1996, Nghị định 177/CP Nghị định 42/CP cho phù hợp với tình hình hiện tại. Mặt khác do tính chất của quá trình đầu tư, tính chất của dự án, công trình cũng thay đổi, do đó có thể khẳng định việc sửa đổi Nghị định 177/CP là cần thiết và Nghị định 42/CP ban hành sẽ điều chỉnh sát sao hơn công tác quản lý đầu tư và xây dựng. Tới tháng 8/1997, Chính phủ lại sửa đổi bổ xung Nghị định 42/CP và 43/CP ngày 16/7/1996, nội dung sửa đổi bổ sung được thể hiện trong hai Nghị định 92/CP và 93/CP ngày 23/8/1997. Nghị định 92/CP sửa đổi bổ sung một số chức năng, trách nhiệm của cơ quan chủ quản và trách nhiệm của các chủ thể tham gia. Về hoạt động để quản lý cũng được sửa đổi bổ sung như: kế hoạch hoá đầu tư, nội dung báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, nội dung thực hiện dự án đầu tư... Về quy mô của dự án đầu tư cũng được sửa đổi bổ xung theo chiều hướng tăng quy mô của dự án đầu tư lên theo các nhóm A,B,C. Nghị định 93/CP sửa đổi một số bước trong trình tự đấu thầu: hình thức lựa chọn nhà thầu và phương pháp áp dụng, tài liệu đấu thầu (thuyết minh và sửa đổi), thời hạn nộp thầu, mở thầu - xếp hạng nhà thầu - công bố kết quả trúng thầu... Ngoài ra còn bổ sung sửa đổi trách nhiệm và quyền hạn của người có thẩm quyền quyết định đầu tư, phê duyệt và uỷ quyền phê duyệt đấu thầu... Như vậy hệ thống văn bản điều chỉnh chế độ đấu thầu của ta cơ bản là có 6 văn bản chính và được ban hành thành 3 đợt: Đợt 1 năm 1994 gồm Quy chế đấu thầu xây lắp và Nghị định177/CP; Đợt 2 năm 1996 gồm Nghị định 42/CP và 43/CP; Đợt 3 năm 1997 gồm Nghị định 92/CP và 93/CP. Ngoài ra còn có các văn bản khác như thông tư 02 Liên bộ - Bộ kế hoạch và đầu tư - Bộ xây dựng - Bộ thương mại hướng dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu được ban hành ngày 25/2/1997; Thông tư số 12BKH - QLKT - Hướng dẫn quy chế đấu thầu theo hình thức BOT. Về phạm vi áp dụng của quy chế đấu thầu. Dùng để lựa chọn nhà thầu cho các dự án đầu tư tại việt nam và phải được tổ chức đấu thầu tại Việt nam, có phạm vi áp dụng bao gồm: a. Các dự án đầu tư được người có thẩm quyền quyết định đầu tư phê duyệt theo Điều lệ Quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 42/CP của chính phủ ngày 16/7/1996 là những dự án do nhà nước cân đối vốn đầu tư, những dự án do Nhà nước bảo lãnh vốn, những dự án thuộc các doanh nghiệp nhà nước và những dự án sử dụng các nguồn vốn ODA theo Nghị định 20/CP của chính phủ ngày 15/3/1994. b. Các dự án đầu tư liên doanh của các doanh nghiệp Nhà nước Việt nam, có mức vốn pháp định từ 30% trở lên là những dự án đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép đầu tư theo quy định hiện hành. c. Đấu thầu để lựa chọn đối tác dự án liên doanh và hợp tác kinh doanh, dự án 100% vốn nước ngoài , dự án thực hiện theo phương thức BOT hoặc BT được áp dụng theo các quy định riêng. d. Các dự án ngoài những dự án nói trên, tuy không bắt buộc đấu thầu nhưng chủ thầu tự quyết định tổ chức đấu thầu và Nhà nước khuyến khích áp dụng quy chế đấu thầu. e. Đối với dự án có sử dụng vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế hoặc nước ngoài, cơ quan được giao trách nhiệm đàm phán ký kết hiệp định phải trình thủ tướng chính phủ xem xét quyết định những quy định khác với quy chế đấu thầu trước khi ký. II trình tự đấu thầu 1. Hình thức lựa chọn nhà thầu Trong hoạt động đấu thầu, tuỳ theo tính chất của từng dự án mà có các hình thức lựa chọn nhà thầu khác nhau. Đó là hình thức: Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu. a. Đấu thầu rộng rãi. Hình thức đấu thầu này được khuyến khích áp dụng nhằm đạt được tính cạnh tranh cao trên cơ sở tham gia của nhiều nhà thầu. Tuy nhiên, hình thức đấu thầu này được áp dụng tuỳ theo từng dự án cụ thể trong phạm vi một địa phương, một vùng, liên vùng, toàn quốc hoặc quốc tế. Khi tổ chức đấu thầu rộng rãi, vấn đề quan trọng là thông tin. Mọi nhà thầu đều phải biết được những thông tin về dự án mời thầu. Thông tin rộng khắp và đầy đủ thì số lượng nhà thầu tham gia càng đông và kết quả đấu thầu sẽ tốt hơn. b. Đấu thầu hạn chế Hình thức đấu thầu này được áp dụng trong những trường hợp sau: - Chỉ có một nửa nhà thầu đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu nhưng tối thiểu phải có 3 nhà thầu có khả năng tham gia. - Các nguồn vốn có yêu cầu tiến hành đấu thầu hạn chế. - Do yêu cầu về tiến độ thực hiện dự án được người quyết định đầu tư chấp nhận. c. Hình thức chỉ định thầu: Chỉ định thầu được áp dụng đối với những dự án sau đây: - Dự án có tính chất nghiên cứu, thử nghiệm. - Dự án có tính chất cấp bách do thiên tai, dịch hoạ. - Dự án có tính chất bí mật quốc gia, an ninh quốc phòng. - Dự án có giá trị nhỏ dưới 500 triệu đồng. - Một số dự án đặc biệt được thủ tướng Chính phủ cho phép. Vì hình thức chỉ định thầu không tạo ra được tính cạnh tranh giữa các nhà thầu, cho nên khuyến khích các dự án đầu tư không sử dụng vốn nhà nước tổ chức đấu thầu và khuyến khích các dự án được phép chỉ định thầu chuyển sang hình thức đấu thầu toàn bộ hoặc từng phần dự án khi có điều kiện. Trước khi phê duyệt các dự án đấu thầu các dự án thuộc nhóm B, nếu giá thầu có giá trị trên 50 triệu đồng cần áp dụng hình thức chỉ định thầu thì người có thẩm quyền quyết định dự án phải có báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép. 2. Trình tự thực hiện đấu thầu A. điều kiện tổ chức đấu thầu Một dự án để được đấu thầu thì phải có đầy đủ các yêu cầu theo quy định của Điều lệ Quản lý đầu tư và xây dựng. Điều kiện đó về chủ đầu tư, về dự án đầu tư. Chủ đầu tư muốn dự án của mình được đấu thầu thì phải có đủ điều kiện về tài chính, giấy phép hành nghề, năng lực cần thiết đối với lĩnh vực mình tham gia và có quyết định tổ chức đấu thầu của cơ quan có thẩm quyền. Đối với một dự án muốn được đấu thầu thì ngoài điều kiện về chủ đầu tư ra, dự án còn phải đạt được các điều kiện theo quy định của pháp luật về: Quyết định đầu tư và cấp giấy phép đầu tư; địa điểm xây dựng và giấy phép xây dựng. Các dự án đầu tư sử dụng vốn Nhà nước phải có quyết định đầu tư của người có thẩm quyền trước khi thực hiện đầu tư. Đối với giấy phép đầu tư, Bộ trưởng Bộ kế hoạch và đầu tư, các uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, sở kế hoạch và đầu tư cấp giấy phép đầu tư cho các dự án theo phân cấp của Chính phủ. Nội dung giấy phép đầu tư do Bộ kế hoạch và đầu tư quy định. Dự án xây dựng muốn tiến hành được phải có một địa điểm nhất định. Chủ đầu tư phải lập hồ sơ xin giao đất hoặc thuê đất và chủ đầu tư phải nộp tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất theo quy định của pháp luật. Sau khi được giao đất hoặc thuê đất, chủ đầu tư tiến hành giải phóng mặt bằng và tiến hành đền bù (nếu có) chủ đầu tư có thể yêu cầu các cơ quan chức năng hỗ trợ để giải quyết việc giải phóng mặt bằng. Các cấp chính quyền tại địa phương chứng có trách nhiệm tạo điều kiện cho chủ đầu tư chuẩn bị mặt bằng xây dựng để đáp ứng yêu cầu chuẩn bị tổ chức đầu tư. Dự án có đủ các điều kiện ở trên, để được đấu thầu cần phải được cấp giấy phép xây dựng. Trừ một số dự án dặc biệt mà phát luật quy định không cần phải có giấy phép xây dựng, ngoài ra thì các dự án đều phải có giấy phép xây dựng mới được tiến hành đấu thầu. Thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng thuộc: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương (có thể uỷ quyền cho Giám đốc sở xây dựng hay kiến trúc sư trưởng); Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Ban quản lý khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung do thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập. Thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng được chính phủ phân cấp cho những người được quy định ở trên theo phạm vi quản lý ( khoản 2 Điều 28 - Nghị định 42/CP). Ngoài các điều kiện ở trên thì trước đó dự án đã phải được tiến hành thẩm định nghiên cứu tính khả thi, khả thi, thẩm định và phê duyệt thiết kế kỹ thuật. B. chuẩn bị đấu thầu. 1. Kế hoạch đấu thầu 1.1 phân chia gói thầu Gói thầu là căn cứ để tổ chức đấu thầu và xét thầu. Việc phân chia dự án thành gói thầu phải hợp lý, trước hết phải căn cứ vào công nghệ, tính chất hoặc trình tự thực hiện dự án. gói thầu phải được phân chia theo quy mô hợp lý đảm bảo tính đồng bộ của dự án. Không được phân chia gói thầu quá nhỏ làm giảm tính hợp lý của dự án (trừ trường hợp đặc biệt). - Giá dự kiến của gói thầu không vượt quá dự toán (nếu gói thầu là một hạng mục) và tổng giá trị của gói thầu không được vượt quá tổng mức đầu tư hoặc tổng dự toán đã được phê duyệt. - Đối với tuyển chọn tư vấn, giá trị của dự kiến của gói thầu căn cứ theo mức ước tính so với tổng mức đầu tư đã được phê duyệt. 1.2. Phương thức thực hiện hợp đồng(mục 1.2 - Phần 2 - Thông tư 02) Phương thức thực hiện hợp đồng được lựa chọn phải căn cứ theo tính chất, quy mô, thời gian thực hiện... Của từng gói thầu. a. Hợp đồng chọn gói (theo giá khoán gọn). Đối với các gói thầu có điều kiện xác định chính xác khối lượng, số lượng, giá cả tại thời điểm đấu thầu thì phải áp dụng theo phương thức hợp đồng trọn gói. Trong quá trình thực hiện không được thay đổi giá cả đã thoả thuận trong hợp đồng. Đối với các phát sinh không phải do nhà thầu gây ra thì phải được người có thẩm quyền quyết định đầu tư hoặc cấp được uỷ quyền phê duyệt bằng văn bản. b. Hợp đồng có điều chỉnh giá. + Phạm vi áp dụng: - Những gói thầu bao gồm những phần việc hoặc hạng mục không có điều kiện xác định chính xác khối lượng hoặc số lượng tại thời điểm đấu thầu. - Những gói thầu có thời gian thực hiện ít nhất trên 12 tháng và có biến động về giá đối với 3 yếu tố chủ yếu là nguyên vật liệu, thiết bị và lao động. + Nguyên tắc áp dụng: - Bên mời thầu chỉ được áp dụng phương thức hợp đồng có điều chỉnh giá đối với những gói thầu đã đuợc phê duyệt trong kế hoạch đấu thầu hoặc đã được người có thẩm quyền quyết định đầu tư phê duyệt. - Chỉ áp dụng đối với những khối lượng hoặc số lượng phát sinh(Tăng hoặc giảm) không phải do nhà thầu gây ra, được các bên liên quan xác nhận và được người có thẩm quyền quyết định đầu tư cho phép. Những khối lượng hoặc số lượng phát sinh do nhà thầu gây ra thì không được xem xét. - Giá trị điều chỉnh của hợp đồng không được vượt tổng mức dự toán hoặc dự toán đã được phê duyệt. Giá trị điều chỉnh của toàn bộ dự án không được vượt tổng mức đầu tư đã được phê duyệt. + Điều kiện và công thức điều chỉnh: Trong hồ sơ mời thầu phải quy định cụ thể về điều kiện để được điều chỉnh giá, các phần việc hoặc hạng mục được điều chỉnh giá, giới hạn điều chỉnh và công thức điều chỉnh. c. Hợp đồng chìa khoá trao tay Đối với những dự án thực hiện theo hình thức đấu thầu toàn bộ dự án nếu chủ đầu tư không có khả năng quản lý thì được áp dụng phương thức hợp đồng chìa khoá trao tay, nhưng phải được người có thẩm quyền quyết định chủ đầu tư cho phép. Tuy theo điều kiện và tính chất cụ thể của từng loại dự án, chủ đầu tư có thể áp dụng theo hợp đồng trọn gói hay hợp đồng điều chỉnh giá. 1.3 Phạm vi thời gian kế hoạch đấu thầu Bên cạnh kế hoạch đấu thầu tổng thể của toàn bộ dự án, đối với các dự án có thời gian thực hiện các công việc đấu thầu trên 24 tháng (2 năm) cần lần lượt xác định kế hoạch đấu thầu chi tiết cho một năm hoặc tối đa là 2 năm một để làm cơ sở trình duyệt. 1.4 Trình duyệt kế hoạch đấu thầu Kế hoạch đấu thầu do bên mời thầu lập phải được người có thẩm quyền quyết định đầu tư phê duyệt. + Đối với dự án có sử dụng vốn Nhà nước: người có thẩm quyền quyết định đầu tư được quy định tại mục 1 Điều 7 của Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng. Riêng đối với các nhóm thầu thuộc dự án nhóm A thực hiện theo điều 42 của Quy chế đấu thầu. + Đối với dự án liên doanh ( trong đó có doanh nghiệp Nhà nước việt nam có mức góp vốn pháp định từ 30% trở lên); Kế hoạch đấu thầu do hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh phê duyệt trên cơ sở có ý kiến thoả thuận bằng văn bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 2. Nhân sự 2.1 Bên mời thầu Bên mời thầu có thể là chủ đầu tư hoặc đại diện hợp pháp của chủ đầu tư có trách nhiệm thực hiện các hoạt động đấu thầu. 2.2. Tổ chuyên gia hoặc tư vấn giúp viêc cho bên mời thầu Đối với dự án không có đấu thầu tuyển chọn tư vấn thì chỉ có tổ chuyên gia hoặc tư vấn giúp việc cho bên mời thầu. Trường hợp có yêu cầu phải thuê tư vấn (thay cho chỉ định tổ chuyên gia giúp v._.iệc) để thực hiện các công việc của tổ chuyên gia hoặc tư vấn, nếu có chi phí từ 500 triệu đồng trở lên, bên mời thầu phải tổ chức đấu thầu theo các quy định của quy chế đấu thầu về hoạt động đấu thầu tuyển chọn tư vấn. a. Chỉ định tổ chuyên gia hoặc thuê tư vấn Tổ chuyên gia hoặc tư vấn giúp việc cho bên mời thầu được thành lập hoặc thuê, có nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn sau: + Đối với các gói thầu thuộc dự án nhóm A, B trong đó bên mời thầu là các ban quản lý dự án hoặc tổ chức chuyên trách về dự án đầu tư và xây dựng thì bên mời thầu có trách nhiệm chỉ định tổ chuyên gia hoặc thuê tư vấn giúp việc đấu thầu. - Các chuyên gia được người có thẩm quyền quyết định đầu tư mời để tư vấn về việc đánh giá kết quả lựa chọn nhà thầu (thẩm định kết quả do bên mời thầu trình) phải thực hiện đúng theo trách nhiệm và quyền hạn của tư vấn được quy định tại điều 41 của Quy chế đấu thầu. + Đối với các gói thầu thuộc dự án nhóm C và một số gói thầu có quy mô nhỏ dưới 10 tỷ đồng thuộc các dự án nhóm A, B trong đó bên mời thầu là cơ quan hành chính sự nghiệp hoặc tổ chức ít có kinh nghiệm về quản lý đầu tư và xây dựng thì người có thẩm quyền quyết định đầu tư có trách nhiệm hướng dẫn bên mời thầu thành lập tổ chuyên gia giúp việc đấu thầu ( bao gồm cả chuyên gia do cấp quyết định đầu tư mời ) để tiến hành tổ chức đấu thầu và đánh giá, xếp hạng các nhà thầu. b. Cơ cấu tổ chuyên gia - tư vấn + Thành viên(hoặc nhóm thành viên) chịu trách nhiệm về các vấn đề kỹ thuật - công nghệ. + Thành viên (hoặc nhóm thành viên) chịu trách nhiệm về các vấn đề tài chính. + Thành viên (hoặc nhóm thành viên) chịu trách nhiệm về các vấn đề pháp lý và các vấn đề khác (nếu cần). Bên mời thầu cử một tổ trưởng để điều hành công việc của tổ, tổng hợp và chuẩn bị báo cáo đánh giá. c. Các yêu cầu lựa chọn chuyên gia + Có trình độ chuyên môn liên quan đến gói thầu. + Am hiểu về nội dung cụ thể của gói thầu . + Có kinh nghiệm trong công tác quản lý thực tế hoặc nghiên cứu. + Am hiểu quy trình tổ chức đánh giá, xét chọn kết quả đấu thầu. + Thành viên tổ chuyên gia tư vấn không được tham gia thẩm định kết quả đấu thầu. d. Trách nhiệm của các thành viên chuyên gia hoặc tư vấn - Thực hiện nhiệm vụ của mình được quy định tại điểm 1 Điều 40 của Quy chế đấu thầu và có quyền phát biểu trung thực khách quan ý kiến của mình bằng văn bản với chủ đầu tư trong quá trình phân tích, đánh giá, xếp hạng các nhà thầu. - Các chuyên gia được người có thẩm quyền quyết định đầu tư mời để tư vấn về việc chọn nhà thầu phải có ý kiến chính thức bằng văn bản và phải chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về sự chính xác trung thực và khách quan của các nội dung đánh giá đó. - Phải tôn trọng các nội dung và yêu cầu cụ thể nêu trong hồ sơ mời thầu và các tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu đã được người có thẩm quyền quyết định đầu tư hoặc cấp được uỷ quyền phê duyệt. - Tuyệt đối không được tiết lộ các thông tin có liên quan đến quá trình đấu thầu và xét thầu dưới bất kỳ hình thức nào. - Việc đánh giá, xếp hạng các nhà thầu phải thực sự khách quan xác định thứ hạng trên cơ sở đánh giá tổng hợp các tiêu chuẩn, có phân tích xác đáng từng tiêu chí trong mỗi tiêu chuẩn với sự thống nhất ý kiến của các chuyên gia. Trường hợp trong quá trình đánh giá xếp hạng các nhà thầu, ý kiến của các chuyên gia không hoàn toàn thống nhất về một số nội dung quan trọng thì người có thẩm quyền quyết định đầu tư phải tổ chức thẩm định, kiểm tra để làm sáng tỏ. - Không được cộng tác với nhà thầu dưới bất kỳ hình thức nào. Mọi thành viên của tổ chuyên gia hoặc tư vấn giúp việc nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo Điều 45 của Quy chế đấu thầu. 3. Chuẩn bị hồ sơ mời thầu Nội dung của hồ sơ mời thầu tuỳ theo từng loại đấu thầu 3.1. Nội dung hồ sơ mời thầu tuyển chọn tư vấn bao gồm: - Thông báo mời thầu; - Chỉ dẫn đối với nhà thầu; - Các yêu cầu về công nghệ, vật tư thiết bị và tính năng kĩ thuật; - Biểu giá; - Điều kiện chung và điều kiện cụ thể của từng hợp đồng; - Bảo lãnh dự thầu; - Mẫu thoả thuận hợp đồng; - Bảo lãnh thực hiện hợp đồng. 3.3. Nội dung hồ sơ mời thầu xây lắp bao gồm: - Thư mời thầu (nếu có sơ tuyển), hoặc thông báo mời thầu(nếu không có sơ tuyển); - Mẫu đơn dự thầu; - Chỉ dẫn đối với nhà thầu; - Hồ sơ thiết kế kỹ thuật kèm theo bản tiên lượng và chỉ dẫn kỹ thuật; - Tiến độ thi công; - Các điều kiện tài chính, thương mại, tỷ giá ngoại tệ (nếu có) phương thức thanh toán: - Điều kiện chung và điều kiện cụ thể của hợp đồng; - Bảo lãnh dự thầu; - Mẫu thoả thuận hợp đồng; Bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Đối với dự thầu xây lắp cần đặc biệt lưu ý: Hồ sơ thiết kế và bảng tiên lượng phải được xác định từ thiết kế kỹ thuật thi công (trường hợp thiết kế một bước) hoặc thiết kế bản vẽ thi công (trường hợp thiết kế hai bước); những chỉ dẫn kỹ thuật phải hết sức cụ thể và rõ ràng. Riêng đối với các dự án có quy mô lớn, khi tổ chức đấu thầu chưa có thiết kế bản vẽ thi công thì bản tiên lượng có thể được xác định từ thiết kế kỹ thuật. Những trường hợp khác với những quy định trên nếu được người có thẩm quyền quyết định đầu tư cho phép, bên mời thầu phải ước tính một bản tiên lượng thống nhất để làm căn cứ đấu thầu. Trong trường hợp các công trình do nước ngoài thiết kế thì hồ sơ thiết kế phải đặt ở mức cho phép xác định được khối lượng thi công công trình. 4. Tiêu chuẩn đánh giá 4.1. Đấu thầu tuyển chọn tư vấn Việc đánh giá hồ sơ dự thầu tư vấn được tiến hành theo hai bước: Bước1: Đánh giá hồ sơ đề xuất kỹ thuật; Bước 2: Đánh giá hồ sơ đề xuất tài chính và hợp đồng. Đánh giá hồ sơ kỹ thuật được tiến hành trên 3 cơ sở tiêu chuẩn sau: - Kinh nghiệm; - Giải pháp và phương pháp luận; - Nhân sự. Nhân sự được đề xuất để thực hiện dịch vụ tư vấn được coi là quan trọng nhất. Các nhân sự cần có quá trình làm việc và kinh nghiệm rõ ràng phù hợp với yêu cầu của gói thầu. Đối với cố vấn trưởng (đội trưởng) phải đảm bảo yêu cầu số năm đã công tác thuộc chuyên ngành phù hợp với gói thầu. Các thành viên phải cam kết (có chữ ký) có đủ quỹ thời gian để thực hiện gói thầu theo tiến độ đề ra. Trong trường hợp đấu thầu quốc tế, công ty tư vấn nước ngoài phải có cam kết bằng văn bản với công ty tư vấn Việt nam; có ưu tiên cho các đề xuất sử dụng nhiều tư vấn trong nước. Các cam kết trên phải được thể hiện trong hợp đồng. 4.2 Đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị Tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu: a. Năng lực và kinh nghiệm b. Kỹ thuật. c. Tài chính và giá cả. d. Thời gian và tiến độ thực hiện. e. Chuyển giao công nghệ. f. Đào tạo. g. Tiêu chuẩn khác (nếu có) Cần xây dựng thang điểm (theo hệ thống 100 hoặc1000 điểm) để đánh giá chi tiết đối với từng tiêu chuẩn, trong đó 3 tiêu chuẩn chính là: (1) Năng lực và kinh nghiệm; (2) Kỹ thuật; (3) Tài chính và giá cả phải có tỉ lệ điểm từ 65% trở lên. Đối với trường hợp đã qua bước sơ tuyển, khuyến khích đánh giá hồ sơ dự thầu theo phương pháp giá quy đổi trên cùng một mặt bằng. Trong trường hợp đấu thầu quốc tế, ngoài các yêu cầu trên, nhà thầu nước ngoài phải có văn bản cam kết liên doanh với các nhà thầu Việt nam hoặc cam kết sử dụng vật tư thiết bị phù hợp có khả năng sản xuất và gia công tại Việt nam đáp ứng yêu cầu hồ sơ mời thầu (chất lượng, giá cả ). Các cam kết trên phải được thực hiện trong hợp đồng. 4.3. Đấu thầu xây lắp 4.3.1. Sơ tuyển nhà thầu Để lựa chọn nhà thầu có đủ năng lực và tư cách tham dự đấu thầu, bên mời thầu đánh giá hồ sơ dự sơ tuyển đối với các gói thầu quy định tại mục 3, phần thứ nhất của Thông tư Liên Bộ - Bộ kế hoạch và đầu tư - Bộ xây dựng - Bộ thương mại hướng dẫn thực hiện quy chế đấu thầu số 2/TTLB ngày 25/2/1997, theo 3 yếu tố sau: a. Năng lực về kỹ thuật. b. Năng lực về tài chính. c. Kinh nghiệm. Cần xây dựng hệ thống thang điểm để đánh giá 3 yếu tố trên và căn cứ tính chất của mỗi gói thầu để xác định tỷ trọng của từng yếu tố. Các nhà thầu phải đạt ít nhất 60% tổng số điểm chuẩn về kỹ thuật mới được chọn để dự thầu. 4.3.2. Tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu a. Tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng. b. Tiêu chuẩn kinh nghiệm nhà thầu. c. Tiêu chuẩn tài chính và giá cả. d. Tiêu chuẩn tiến độ thi công. Cần xây dựng thang điểm (theo hệ thống 100 hoặc 1000 điểm) để đánh giá chi tiết đối với từng tiêu chuẩn, trong đó 3 tiêu chuẩn chính là: (1) Kinh nghiệm; (2) Kỹ thuật; (3) Tài chính và giá cả phải có tỷ lệ điểm từ 65% tổng số điểm trở lên. Đối với trường hợp đã qua bước sơ tuyển, khuyến khích đánh giá hồ sơ dự thầu theo phương pháp giá quy đổi trên cùng một mặt bằng. Trong trường hợp đấu thầu quốc tế, ngoài các yêu cầu trên, nhà thầu nước ngoài phải có văn bản cam kết liên doanh với các nhà thầu Việt nam. Nội dung cam kết bao gồm: cam kết sử dụng thầu phụ xây lắp trong nước; cam kết sử dụng vật tư thiết bị phù hợp có khả năng sản xuất trong nước đáp ứng hồ sơ mời thầu (chất lượng, giá cả); xác định tỷ lệ % khối lượng công việc và giá cả sẽ giao cho nhà thầu Việt nam thực hiện. Các cam kết trên phải được thể hiện trong hợp đồng. C. mời thầu 1. Thông báo mời thầu Thông báo mời thầu được áp dụng trong trường hợp đấu thầu rộng rãi. Nội dung thông báo mời thầu cần được phát hành rộng rãi nhằm cung cấp thông tin ban đầu cho các nhà thầu chuẩn bị tham gia đấu thầu cụ thể. Đối với các gói thầu có sơ tuyển, trước khi đấu thầu chính thức bên mời thầu cần tổ chức thông báo sơ tuyển. Mẫu thông báo sơ tuyển và thông báo mời thầu được quy định cụ thể trong các phụ lục kèm theo quy chế đấu thầu. Bên mời thầu phải tiến hành thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng tuỳ theo quy mô và tính chất của gói thầu (báo phổ biến hàng ngày, phương tiện nghe nhìn... ) nhưng tối thiểu phải đảm bảo 3 kỳ liên tục. Trong trường hợp áp dụng hình thức đấu thầu quốc tế, ngoài quy định trên, bên mời thầu còn phải thông báo ít nhất trên một tờ báo tiếng anh được phát hành rộng rãi ở Việt nam. 2. Gửi thư mời thầu Đối với hình thức đấu thầu hạn chế, bên mời thầu cần gửi thư mời thầu trực tiếp đến từng nhà trong danh sách mời thầu đã được duyệt. Mẫu thư mời thầu đối với từng lĩnh vực cụ thể được quy định trong các phụ lục kèm theo của quy chế đấu thầu. Nội dung thư mời thầu phải phản ánh được thực tế của dự án đối với mời thầu, thời hạn nộp hồ sơ dự thầu, thời hạn mở thầu ... đây là những thông tin cơ bản ban đầu, giúp cho nhà thầu có thể nắm được khái quát tình hình của dự án để có thể chuẩn bị dự thầu. 3. Nộp đơn dự thầu và bảo lãnh dự thầu Sau khi nhà thầu nhận được thông báo mời thầu hay thư mời thầu thì để tham gia đấu thầu, nhà thầu cần phải lập bộ hồ sơ dự thầu theo đúng quy định pháp luật và đúng yêu cầu của bên mời thầu. Hồ sơ dự thầu sau khi được lập sẽ được gửi đi dự thầu. Bên dự thầu phải nộp hồ sơ dự thầu (trong đó có đơn dự thầu) đúng thời hạn mà thông báo mời thầu hay thư mời thầu đã nêu. Nếu hồ sơ dự thầu nộp không đúng thời hạn nộp thầu thì hồ sơ dự thầu đó sẽ bị coi là vô hiệu và nhà thầu đó sẽ không được tham gia dự thầu. Có thể song song với hoạt động nộp đơn dự thầu là thủ tục bảo lãnh dự thầu. bảo lãnh dự thầu cũng có thể được thực hiện sau khi nộp đơn dự thầu. Bảo lãnh dự thầu phải được tiến hành đúng với quy định về thời hạn, số tiền, địa điểm... mà bên mời thầu bảo lãnh dự thầu là việc nhà thầu sẽ nộp một khoản tiền nhất định cho bên mở thầu hay nộp vào một tài khoản được quy định sẵn ở một ngân hàng bên mời thầu yêu cầu. Số tiền bảo lãnh nhiều hay ít tuỳ theo yêu cầu của bên mời thầu và tuỳ theo tư cách của nhà thầu. Nhưng thông thường số tiền bảo lãnh dự thầu bằng từ 1 đến 3% giá trị dự án. Đồng tiền trong bảo lãnh dự thầu có thể là đồng tiền sử dụng trong hồ sơ dự thầu hoặc đồng tiền chuyển đổi tự do khác được bên mời thầu chấp nhận dưới những hình thức sau: + Bảo lãnh ngân hàng hoặc thư tín dụng không huỷ ngang được phát hành bởi một Ngân hàng mà bên mời thầu đồng ý hay một ngân hàng đóng tại nước bên mời thầu (nếu là đấu thầu quốc tế ) hoặc Ngân hàng nước ngoài được bên mời thầu chấp nhận theo mẫu đã nêu trong phần phụ lục của quy chế đấu thầu và có giá trị 30 ngày sau khi hết hiệu lực của hồ sơ dự thầu. + Tiền mặt hoặc tiền séc Nếu nhà thầu không nộp bảo lãnh dự thầu như đã quy định trong hồ sơ mời thầu, thì hồ sơ dự thầu sẽ bị loại. Bảo lãnh dự thầu không áp dụng trong trường hợp chỉ định thầu. Về thời hạn nộp thầu thì bên mời thầu phải ghi rõ thời hạn nộp thầu và thời hạn có hiệu lực của hồ sơ dự thầu. Thời hạn nộp thầu sẽ tuỳ thuộc vào quy mô và sự phức tạp của gói thầu nhưng tối đa không quá 60 ngày đối với đấu thầu tuyển chọn tư vấn và mua sắm vật tư thiết bị, 90 ngày đối với đấu thầu xây dựng kể từ ngày phát hành hồ sơ mời thầu. Trong trường hợp đặc biệt bên mời thầu cần sửa đổi một số nội dung trong hồ sơ mời thầu khi chưa hết hạn nộp thầu, có thể tham gia thời hạn nộp thầu. Bên mời thầu phải gửi nội dung sửa đổi bằng văn bản đến tất cả các nhà thầu tham gia trước khi hết thời hạn nộp thầu đã quy định ít nhất 10 ngày để nhà thầu có điều kiện hoàn chỉnh thêm hồ sơ dự thầu. Thời hạn có hiệu lực của hồ sơ dự thầu là thời hạn kể từ ngày hết thời hạn nộp thầu đến ngày công bố kết quả trúng thầu. Trường hợp phải kéo dài thời hạn có hiệu lực của hồ sơ dự thầu. Nếu nhà thầu không chấp nhận thì vẫn được hoàn trả tiền bảo lãnh dự thầu. d. mở thầu Việc mở thầu sẽ được tiến hành đối với những hồ sơ dự thầu nộp đúng hạn. Những hồ sơ dự thầu nộp đúng hạn sẽ được bên mời thầu tiếp nhận và quản lý theo chế độ quản lý hồ sơ mật. Việc mở thầu được tiền hành công khai theo ngày, giờ và địa điểm ghi trong hồ sơ mời thầu. Khi mở thầu phải có đại diện cơ quan hành chính Nhà nước sở tại (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) chứng kiến và ký xác nhận. Đại diện của bên mời thầu và các nhà thầu tham dự phải ký vào biên bản mở thầu. Biên bản mở thầu ghi rõ tên gói thầu, ngày, giờ, địa điểm mở thầu, tên và địa điểm các nhà thầu, giá bỏ thầu(trừ đấu thầu tuyển chọn tư vấn, bảo lãnh dự thầu, các văn bản sửa đổi và bổ sung, các chi tiết khác). Việc mở thầu đối với một gói thầu dặc biệt (dự án thuộc lĩnh vực an ninh, quốc phòng ), bên mời thầu chỉ mời hạn chế một số các đại diện tham gia buổi mở thầu. Khuyến khích mở thầu ngay sau khi đóng thầu nhưng không quá 48 giờ (không kể ngày nghỉ theo quy định của Nhà nước ) kể từ thời điểm hết hạn nộp thầu. Trường hợp mở thầu sau thời hạn quy định trên, phải được người có thẩm quyền chấp nhận. 1. Chuẩn bị mở thầu - Bên mở thầu có trách nhiệm chuẩn bị các công việc sau: a. Mời đại biểu tham dự để chứng kiến - Đại diện cơ quan quản lý ngành có liên quan. - Đại diện cấp chính quyền sở tại (đối với những gói thầu quan trọng được thực hiện ở địa phương). - Đại diện cơ quan tài trợ vốn (nếu có) - Đại diện của từng nhà thầu (nếu có). b. Chuẩn bị các phương tiện phù hợp để thông báo đầy đủ và chính xác các số liệu của hồ sơ dự thầu. c. Chuẩn bị các hồ sơ dự thầu để mở theo thứ tự do bên mời thầu quy định. 2. Trình tự mở thầu 2.1. Thông báo thành phần tham dự. 2.2. Thông báo số lượng và tên nhà thầu có hồ sơ dự thầu đã nộp. 2.3 Kiểm tra niêm phong các hồ sơ dự thầu. 2.4. Mở lần lượt các phong bì đựng hồ sơ dự thầu theo thứ tự đã quy định, đọc và ghi lại những thông tin chủ yếu sau: - Tên nhà thầu. - Số lượng bản chính, bản sao. - Tổng giá dự thầu (nếu có). - Tỷ lệ giảm giá và các điều kiện áp dụng giảm giá. - Bảo lãnh dự thầu và giá trị bảo lãnh dự thầu (nếu có). - Những vấn đề khác. 2.5. Ký nhận hồ sơ dự thầu (nội dung chi tiết do bên mời thầu quy định) 2.6. Thông qua biên bản mở thầu. 2.7. Đại diện bên mời thầu và nhà thầu (nếu có) và một số đại diện khác(đại diện cơ quan quản lý và cơ quan hành chính Nhà nước) ký xác nhận vào biên bản mở thầu. 2. Bên mời thầu có trách nhiệm tổ chức quản lý các hồ sơ dự thầu theo quy chế bảo mật của Nhà nước. E. đánh giá hồ sơ dự thầu xây lắp Việc đánh giá hồ sơ dự thầu về xây lắp được tiến hành theo 3 bước chủ yếu: - Đánh giá sơ bộ hồ sơ dự thầu. - Đánh giá chi tiết hồ sơ dự thầu. - Đánh giá tổng hợp và xếp hạng dự thầu 1. Đánh giá sơ bộ hồ sơ dự thầu 1.1 Xem xét tính hợp lệ của hồ sơ dự thầu a. Đối với các gói thầu đã tiến hành sơ tuyển, cần kiểm tra các thông tin cập nhật mà nhà thầu kê khai ở thời điểm sơ tuyển để tiếp tục xem xét về khả năng đáp ứng về năng lực tài chính và kỹ thuật. Mọi thông tin cập nhật không thống nhất với hồ sơ dự thầu để được kiểm tra và xem xét. Kiểm tra số lượng hồ sơ dự thầu của nhà thầu, kiểm tra chữ ký và bảo lãnh dự thầu. b. Đối với các gói thầu không tiến hành sơ tuyển, cần kiểm tra tư cách và năng lực nhà thầu: + Kiểm tra giấy phép kinh doanh hoặc chứng từ chỉ hành nghề. + Kiểm tra năng lực về kỹ thuật và tài chính, kinh nghiệm của các nhà thầu theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu + Kiểm tra số lượng hồ sơ dự thầu của nhà thầu. Kiểm tra tính pháp lý của chữ ký xác nhận trong hồ sơ dự thầu, bão lãnh dự thầu. 1.2. Xem xét sự đáp ứng cơ bản của hồ sơ dự thầu Hồ sơ dự thầu đáp ứng cơ ban là hồ sơ phù hợp với các yêu cầu, điều kiện và đặc điểm kỹ thuật của hồ sơ mời thầu, không có những sai lệch hoặc hạn chế về tài chính làm ảnh hưởng lớn tới quy mô, chất lượng hoặc việc thực hiện công trình ; hạn chế quyền hạn của bên mời thầu hoặc nghĩa vụ của nhà thầu. Việc xác định một hồ sơ dự thầu không hợp lệ hoặc không đaps ứng cơ bản phải được tiến hành một cách khách quan đúng yêu cầu của hồ sơ mời thầu. 1.3. Làm rõ hồ sơ dự thầu (nếu cần) 1.4. Loại bỏ hồ sơ dự thầu không hợp lệ hoặc không đáp ứng cơ bản. 2. Đánh giá chi tiết hồ sơ dự thầu. 2.1. Sửa chữa các lỗi số học. Các hồ sơ dự thầu được xác định là hợp lệ và đáp ứng cơ bản sẽ được bên mời thầu kiểm tra các lỗi số học. Bên mời thầu sửa lại các lỗi số học (nếu có cho chuẩn xác và thô. Báo cáo kịp thời nhà thầu). Trường hợp có sai lệch giữa giá trị viết bằng số và chữ thì giá trị viết bằng chữ sẽ là cơ sở pháp lý. Nếu có sai lệch giữa đơn giá và tổng giá cho do nhận đơn giá với khối lượng thì đơn giá dự thầu sẽ là cơ sở pháp lý. Giá dự thầu nêu trong hồ sơ dự thầu sẽ được bên mời thầu điều chỉnh lại theo đúng thủ tục nêu trên. Nếu nhà thầu không chấp nhận thì hồ sơ đự thầu đó sẽ bị loại và nhà thầu đó sẽ không được nhận lại tiền bảo lãnh dự thầu. 2.2. Điều chỉnh những sai lệch Trong trường hợp hồ sơ dự thầu có những sai lệch không cơ bản (không quá 10% tổng giá trị dự thầu) so với các yêu cầu của hồ sơ mời thầu, bên mời thầu phải tiến hành điều chỉnh bổ sung giá dự thầu để so sánh các hồ sơ dự thầu trên cùng một mặt bằng. 2.3. Chuyển đổi giá dự thầu sang một loại tiền chung (chỉ áp dụng trong trường hợp đấu thầu quốc tế). a. Sau khi hồ sơ dự thầu được kiểm tra, sửa đổi các lỗi số học và hiệu chỉnh các sai lệch bên mời thầu phải chuyển đổi giá dự thầu từ các loại tiền khác nhau trong các hồ sơ dự thầu (nếu có) sang một đồng chung để làm căn cứ đánh giá và so sánh các hồ sơ dự thầu. b. Tỷ giá hối đoái của đồng tiền dùng để chuyển đổi là tỷ giá được quy định tại thời điểm mở thầu do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố. c. Bên mời thầu phải đảm bảo tính chính xác việc chuyển đổi sang một đồng tiền chung nhằm bảo đảm tính khách quan, công bằng cho các nhà thầu. 2.4. Đánh giá theo các tiêu chuẩn xét thầu đã được phê duyệt. Sau khi hiện các sai sót về số học về số học và xác định các sai lệch cũng như chuyển đổi giá dự thầu sang một đồng tiền chung (nếu có), các hồ sơ dự thầu được đánh giá theo từng tiêu chuẩn với những nội dung chủ yếu sau: a. Tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng: Cần xem xét các nội dung sau: - Mức độ đáp ứng của hồ sơ dự thầu so với yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng vật tư, thiết bị nêu trong hồ sơ thiết kế và chỉ dẫn kỹ thuật. - Sơ đồ tổ chức hiện trường. - Bố trí nhân lực tại hiện trường, kèm theo danh sách cán bộ chủ chốt, trình độ, thâm niên công tác, nhiệm vụ dự kiến được giao, kinh nghiệm có liên quan. - Khả năng hợp tác liên doanh, liên kết với tổ chức xây dựng của Việt Nam (trường hợp đấu thầu quốc tế). - Tính hợp lý và khả thi của các giải pháp kỹ thuật, biện pháp tổ chức thi công. - Các biện pháp đảm bảo điều kiệnvệ sinh môi trường và các điều kiện an toàn khác phòng cháy, nổ, an toàn lao động... - Sự phù hợp của thiết bị thi công (về số lượng, chủng loại, công xuất sử dụng, tiến độ huy động cho công trình... ) b. Tiêu chuẩn kinh nghiệm nhà thầu: được đánh giá trên các phương diện. - Thời gian hoạt động trong lĩnh vực xây lắp đó. - Số dự án đã trúng thầu và đã thực hiện được. - Các loại hình xây lắp có thể làm được và đã qua thực nghiệm. - Các loại máy móc và công nghệ đã được tiến hành trước đó... c. Tiêu chuẩn tiến độ thi công - Xem xét mức độ đảm bảo tổng tiến độ quy định trong hồ sơ mời thầu. - Xem xét hợp lý về tiến độ hoàn thành giữa caca hạng mục phần việc của công trình có liên quan. d. Tiêu chuẩn tài chính, giá cả * Tiêu chuẩn tài chính: + Xem xét khả năng tài chính trong 3 năm gần đây về tổng số tài sản có, tài sản lưu động, tổng số nợ phải trả, nợ phải trả trong kỳ, nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn kinh doanh. + Xem xét khả năng tín dụng của nhà thầu. + Danh mục và tổng giá trị các hợp đồng đang thi công, giá trị công trình dở dang, ngày hoàn thành các phần việc của hợp đồng. * Tiêu chuẩn giá cả: Tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng gói thầu, giá trúng thầu không được vượt giá xét thầu đã được quyết định. Trong quá trình đánh giá, cần có những biện pháp cụ thể để loại trừ trường hợp phá giá trong đấu thầu. Việc xác định của giá dự thầu được căn cứ vào nội dung sau: + Phù hợp về cơ cấu giá xây lắp các hạng mục về phê duỵệt của gói thầu. + Phù hợp về một đơn giá của những khối lượng xây lắp chủ yếu của gói thầu nhằm bảo đảm chất lượng công việc và sự hợp lý của đơn giá so với mặt bằng giá cả chung. 3. Đánh giá tổng hợp các tiêu chuẩn và xếp hạng nhà thầu. Tuỳ theo yêu cầu và điều kiện cụ thể của từng công trình, việc đánh giá tổng hợp các tiêu chuẩn có thể áp dụng theo phương pháp giá quy đổi trên cùng một mặt bằng hoặc theo hệ thống đã được phê duyệt. Điểm chuẩn của các tiêu chuẩn và các tiêu chí cấu thành tiêu chuẩn được xác định trong hệ thống thang điểm do người có thẩm quyền quyết định đầu tư hoặc cấp được uỷ quyền phê duyệt trước thời điểm mở thầu. Sau khi đánh giá tổng hợp các tiêu chuẩn theo phương pháp giá quy đổi hoặc hệ thống thang điểm nêu trên, các hồ sơ dự thầu được xếp hạng thứ tự để có căn cứ trình người có thẩm quyền quyết định đầu tư xem xét phê duyệt nhà thầu trúng thầu. 4. Nhà thầu xét thầu: 4.1. Thành phần Hội đồng xét thầu: Công trình do cấp nào phê duyệt luận chứng kinh tế thì cấp đó quyết định thành lập Hội đồng xét tầu và chỉ định Chủ tịch Hội đồng xét thầu. Thành phần Hội đồng bao gồm: - Đại diện của cấp xét duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật công trình. - Đại diện chủ quản đầu tư (nếu công trình do Thủ tướng xét duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật); - Chủ đầu tư; - Đại diện bộ hoặc Sở quản lý xây dựng chuyên ngành (tuỳ theo công trình đấu thấu do Trung ương hay địa phương quản lý). - Đại diện cơ quan Ngân hàng (nếu công trình thuộc nguồn vốn vay). - Đại diện cơ quan Kế toán và Tài chính (đối với công trình thuộc nguồn vốn Ngân sách). Các cơ quan nói trên chỉ được cử một thành viên chính thức trong Hội đồng xét thầu. Khi cần thiết, Hội đồng xét thầu có thể mời cơ quan tư vấn hoặc các chuyên gia kinh tế - kỹ thuật chuyên ngành không thuộc các đơn vị dự thầu làm tư vấn. 4.2. Chức năng của Hội đồng xét thầu: Hội đồng xét thầu là tổ chức tư vấn giúp Chủ đầu tư tổ chức mở thầu và xét chọn đơn vị trúng thầu để trình cấp có thẩm quyền quyết định. Hội đồng xét thầu dựa trên kiến thức, kinh ngiệm của các thành viên và bảng điểm cho các tiêu thức được đánh giá để xem xét và lựa chọn ra nhà thầu có khả năng nhất, đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của Chủ đầu tư. Từ việc xem xét năng lực thực tế của các nhà thầu trên nhiều khía cạnh, Hội đồng xét thầu sẽ báo cáo, kiến nghị với người có thẩm quyền quyết định đầu tư xem xét và quyết định đơn vị trúng thầu. III. Ký kết và thực hiện hợp đồng sau khi trúng thầu. 1. Đặc điểm của Hội đồng sản xuất - xây lắp. Hợp đồng sản xuất - xây lắp được ký kết bởi hai hay nhiều bên. Trong đó, một (hau nhiều bên) yêu cầu một (hay nhiều bên) kia sản xuất, lắp ráp những sản phẩm công trình theo thiết kế mà hai phía đã thỏa thuận trước. Từ hợp đồng sản xuất - xây lắp đã làm hình thành lên hai loại chủ thể: thứ nhất là người yêu cầu cần thực hiện các công việc liên quan tới hoạt động sản xuất - xây lắp và thứ hai là người thực hiện công việc sản xuất - xây lắp theo sự thoả thuận. Nếu mỗi loại chủ thể bao gồm nhiều đơn vị tham gia thì giữa các đơn vị này phải có sự thoả thuận thống nhất về trách nhệm, quyền lợi, để cùng tạo ra một chủ thể hơn nhất trong quan hệ hợp đồng. Hợp đồng sản xuất - xây lắp là sự thoả thuận thống nhất giữa hai bên, không bên nào được ép bên nào, trong đó phía chủ đầu tư cung cấp tiền, vật tư thiết bị ... theo thoả thuận cho người sản xuất - xây lắp để tạo ra hay gia công, lắp ráp công trình theo yêu cầu của chủ đầu tư. Chủ đầu tư phải là người có tư cách, khả năng và được phép thực hiện đầu tư. Nhà sản xuất - xây lắp là người có năng lực về kỹ thụât, về tài chính... phù hợp với yêu cầu của hợp đồng xây lắp và đồng thời phải được phép hoạt động trong lĩnh vực sản xuất - xây lắp. Hợp đồng sản xuất - xây lắp bao gồm những công đoạn thực hiện các công việc mang tính kỹ thuật. Nó có thể là hoạt động sản xuất, gia công, chế biến, lắp ráp, xây dựng ... nhằm biến các vật tư thiết bị, nguyên vật liệu, sản phẩm dời dạc thành một sản phẩm, một công trình hoàn chỉnh thông qua hoạt động thể lực và trí lực của con người. Hợp đồng sản xuất - xây lắp có nguồn gốc từ hoạt động đấu thầu được ký kết giữa bên mời thầu và nhà thầu trúng thầu sau khi Hội đồng xét thầu báo cáo, đề nghị và được người có thẩm quyền quyết định đầu tư chấp nhận. Các điều khoản của Hợp đồng sản xuất - xây lắp phải phù hợp với hồ sơ của quá trình đấu thầu, nó là biểu hiện của hoạt động đấu thầu bằng văn bản, là kết quả của quá trình đấu thầu. Việc giao kết hợp đồng sản xuất - xây lắp phải phù hợp với quy định chung của pháp luật về giao kết hợp đồng. Hợp đồng sản xuất - xây lắp và các loại hợp đồng khác có một số điểm giống nhau. Song chúng có sự khác nhau về cơ bản. Hợp đồnh sản xuất - xây lắp có đối tượng là các công việc liên quan tới quá trình sản xuất, gia công chế biến, xây lắp. Các loại hợp đồng khác thì đối tượng lại khác. Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá thì đối tượng là hàng hoá được trao đổi từ người này sang người khác thông qua thoả thuận mua bán. Đối với Hợp đồng tư vấn thì đối tượng là hoạt động cung cấp các thông tin chính xác, hợp lý, hiệu quả. Đối với Hợp đồng vận chuyển hàng hoá, đối tượng là hoạt động vận chuyển hàng hoá từ một nơi đến một nơi quy định Về nội dung giao kết và trình tự giao kết các loại hợp đồng cũng có nhiều điểm khác nhau. Nội dung giao kết của mỗi loại hợp đồng cần hướng vào những điểm quan trọng là khác nhau giữa các loại hợp đồng cần hướng vào những điểm quan trọng khác là khác nhau giữa các loại hợp đồng. Đối với hợp đồng sản xuất - xây lắp thì tiêu chuẩn kỹ thuật, công nghệ thực hiện. Hợp đồng mua bán hàng hoá điểm được nhấn mạnh là tài chính và độ thoả dụng của hàng hoá. Hợp đồng tư vấn tiêu chuẩn được nhấn mạnh là tiêu chuẩn kinh nghiệm, khả năng cung cấp thông tin ... Trình tự ký kết các loại hợp đồng trên cũng có nhiều khác nhau. Tuỳ theo từng loại đối tượng điều chỉnh của các loại Hợp đồng mà hình thành lên các trình tự giao kết. 2. Trình tự ký kết hợp đồng xây lắp sau khi trúng thầu: Trong thời hạn 30 ngày sau khi nhận được thông báo trúng thầu đơn vị trung thầu phải gửi giấy bảo lãnh thực hiện hợp đồng và ký vào bản hợp đồng rồi giử lại cho chủ đầu tư. Chủ đầu tư chỉ ký hợp đồng sau khi nhận được giấy bảo lãnh thực hiện hợp đồng của đơn vị trúng thầu. Việc ký kết hợp đồng xây lắp được tiến hành theo trình tự sau: - Hai bên hẹn nhau một ngày nhất định dể ký hợp đồng, hay bên mời thàu gửi cho nhà thầu trúng thầu lịch biểu nêu rõ yêu cầu về thời gian thương thảo, nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng và ký kết hợp đồng. - Hai bên gặp nhau trao đổi thoả thuận các điều khoản trong Hợp đồng, nhưng dựa theo hồ sơ đấu thầu, không được ký các điều khoản trái với hồ sơ đâu thầu. - Thống nhất nội dung hợp đồng và ký kết. Nội dung Hợp đồng cũng có thể được soạn thảo và được gửi cho các nhà thầu trong hồ sơ mời thầu. Hợp đồng có thể ký kết ngay khi công bố nhà thầu trúng thầu. Đối với những nhà thầu không trúng thầu, bên mời thầu sau khi công bố người trúng thầu sẽ trả lại tiền bảo lãnh dự thầu cho các dự thầu không trúng thầu. IV. Trách nhiệm pháp lý của các bên trong hoạt động đấu thầu. 1. Những hành vi vi phạm chế độ đấu thầu: Mọi hành vi thực hiện sai quy chế đấu thầu, biểu hiện dưới hành vi vi phạm của một tập thể hay cá nhân đều là hành vi vi phạm pháp luật đấu thầu. Những hành vi vi phạm này được biểu hiện dưới hình thức tiết lộ bí mật hồ sơ, tài liện và thông tin, thông đồng, móc ngoặc, hối lộ ... trong quá trình đấu thầu đều được có là hành động gây thiệt hại về kinh tế và đều bị xử lý. Nếu bên mời thầu thiếu trách nhiệm trong bảo quản hồ sơ mời thầu và hồ sơ dự thầu theo chế độ bảo mật thông tin do Nhà nước quy định với lỗi vô ý hay cố ý đều bị coi là vi phạm và đều bị xử lý. 2. Hình thức áp dựng trách nhiệm pháp lý: Nếu nhà thầu vi phạm sẽ bị loại khỏi danh sách dự thầu và không được nhận lại bảo lãnh dự thầu. Trường hợp phát hiện có hiện tượng thông đồng ép giá, thông đồng tiết lộ bí mật, thông đồng xét thầu ..., ngoài việc tịnh thu bảo lãnh dự thầu (nếu có), nhà thầu nào trong 3 năm liên tục. Liên Bộ kế hoạch và Đầu tư - xây dựng - Thương mại sẽ xác định những trường hợp nói trên và thông báo cho các bên mời thầu và các cơ quan liên quan biết để quán triệt. Nếu bên mời thầu vi phạm, kết quả đấu thầu sẽ bị huỷ bỏ, cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư sẽ chỉ đạo tổ chức đấu thầu lại. Bên mời thầu phải bồi thường những cho phí cho các nhà thầu, thành viên các tổ chức chuyên môn giúp việc đấu thầu nếu vi phạm sẽ bị loại khỏi danh sách tổ chức chuyên môn này và bị xử lý theo pháp luật. Trường hợp kết quả đấu thầu bị người có thẩm quyền quyết định đầu tư huỷ bỏ hoặc phải tổ chức đấu thầu lại do lỗi của bên mời thầu vi phạm. Quy chế đấu th._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0099.doc
Tài liệu liên quan