Mục lục
Lời mở đầu
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, qua bao thăng trầm và biến đổi, đường lối đổi mới của Việt Nam đã thực sự đi vào thực thi. Có thể nói, chính sách đổi mới về kinh tế đã thành công trong việc giúp nền kinh tế nước ta vượt qua thời kỳ lạm phát không kiềm chế được và khôi phục cân bằng kinh tế vĩ mô. Kể từ đó, Chính phủ đã chuyển dịch những ưu tiên hàng đầu của mình vào điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế. Đặc biệt, xây dựng và thực hiện có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia, tăng
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1544 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực tiễn thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cường quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, góp phần phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Cách quản lý kinh tế và hoạt động Ngân hàng bằng cơ chế kế hoạch hoá tập trung sẽ được thay thế dần bằng sự vận hành một chính sách tiền tệ linh hoạt dựa trên nền tảng một thị trường tài chính phát triển. Để thực hiện tốt chính sách tiền tệ, chúng ta cần nghiên cứu chính sách tiền tệ trên cơ sở một loạt các vấn đề về lý luận chung, về chính sách tiền tệ, kinh nghiệm chính sách tiền tệ một số nước, thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam. Do đó bài tiểu luận này với những nghiên cứu ban đầu về chính sách tiền tệ xin được đưa ra những tổng kết ban đầu về chính sách tiền tệ và đánh giá về việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong những năm gần đây.
Bài tiểu luận có hai phần:
Phần A: Lý luận chung về chính sách tiền tệ. Phần này nghiên cứu sơ qua về cơ sở, khái niệm, mục tiêu, công cụ chính sách tiền tệ, đồng thời cũng nêu khái quát các con đường tác động của chính sách tiền tệ, sự phối hợp chính sách tiền tệ và tài chính. Đặc biệt, phần này cũng tổng kết kinh nghiệm về việc thực thi chính sách tiền tệ ở một số nước.
Phần B: Thực tiễn thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam. Phần này sẽ khái quát những đặc điểm của chính sách tiền tệ, mục tiêu chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thập kỷ 90. Từ đó đánh giá những thành tựu, tồn tại của chính sách tiền tệ và đề ra những giải pháp định hướng chính sách tiền tệ trong thời gian tới.
Bài viết của em còn nhiều hạn chế, thiếu sót do thời gian không nhiều và tài liệu tham khảo còn hạn chế. Vậy em rất mong được sự hướng dẫn và giúp đỡ của các thầy cô trong bộ môn tiền tệ, đặc biệt là sự hướng dẫn của cô Tô Kim Ngọc để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn, sâu sắc hơn.
Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn các thầy cô đã tận tình giảng dạy trong thời gian vừa qua cũng như sự giúp đỡ tận tâm của cô giáo hướng dẫn.
Tóm tắt nội dung
Chúng ta biết rằng, chính sách tiền tệ bắt đầu thâm nhập vào Việt Nam vào những năm đầu của thập kỷ 90. Do đó, những vấn đề chung về lý luận và thực tiễn về chính sách tiền tệ vẫn còn nhiều mới mẻ.
Bài tiểu luận này nghiên cứu về những vấn đề chung về chính sách tiền tệ và thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam. Trên tinh thần đó, nội dung cơ bản của đề tài nghiên cứu được tóm tắt như sau:
Trước hết, ta bàn về những vấn đề cơ bản về chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ là một bộ phận hợp thành của toàn bộ chính sách kinh tế bao gồm cả chính sách ngân sách, chính sách thu nhập, giá cả và những chính sách cơ cấu.
Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, nó là tổng hoà các mối quan hệ mà NHTW thông qua các hoạt động của mình để tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ nhất định. Việc tác động này được thực hiện qua 3 kênh: Giá cả, tài sản, tín dụng. Mặc dù vậy, để thực hiện có hiệu quả chính sách tiền tệ, người ta thường kết hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài chính để tạo sự phối hợp hài hoà, đạt được hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, trong bài tiểu luận này cũng đề cập đến việc thực hiện chính sách tiền tệ hiệu quả được đúc kết từ các nước có hệ thống Ngân hàng và thị trường tài chính phát triển.
Thứ hai, thực tiễn Việt Nam: Việt Nam chúng ta đang trên con đường đổi mới kinh tế, đặc biệt là cải cách hệ thống Ngân hàng. Do đó, việc thực thi chính sách tiền tệ đóng vai trò quan trọng cùng với công cụ trực tiếp hạn mức tín dụng, trong những năm đầu thập kỷ 90, Việt Nam đã bắt đầu trú trọng nhiều hơn đến việc sử dụng công cụ gián tiếp như: Dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu. Nghiệp vụ thị trường mở cũng vừa mới ra đời. Việt Nam M2- làm mục tiêu trung gian. Qua các công cụ của mình, ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều tiết nhằm ổn định đồng tiền và bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng. Với chính sách tiền tệ như trên, bước đầu Việt Nam đã hạn chế được mức cung tiền, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả. Mặc dù vậy chính sách tiền tệ ở Việt Nam còn tồn tại đó là việc chưa xác định rõ ràng mối liên hệ giữa mục tiêu trung gian (M2) và mục tiêu lãi suất, chính sách về lãi suất còn nhiều bất cập, công cụ còn mang nặng tính hành chính chưa thực tế cho lắm. Nghiệp vụ thị trường mở ra đời chưa phát huy được hiệu quả mạnh mẽ. Trong thời gian cần xây dựng chính sách tiền tệ độc lập, tương đối của ngân hàng Nhà nước, chú trọng phát triển thị trường tài chính.
Trong bài tiểu luận này em xin đưa ra một số nội dung về đề xuất giải pháp về chính sách tiền tệ ở Việt Nam, định hướng tới năm 2005.
Phần A: Những vấn đề chung về chính sách tiền tệ
I. Cơ sở lý luận chung về chính sách tiền tệ:
1. Khái niệm:
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô, mà trong đó NHTW thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát khối lượng tiền cung ứng nhằm đạt các mục tiêu về giá cả và việc làm. Chính sách tiền tệ suy cho cùng là hướng đến mục tiêu đã định ra của một nền kinh tế. Vì vậy, để hiểu rõ tại sao khi NHTW điều tiết mức cung tiền tệ nó thực sự điều tiết kinh tế vĩ mô.
2. Cơ sở của chính sách tiền tệ:
Cơ sở khoa học về mối liên hệ sản lượng, thu nhập và sản lượng cung ứng đã được nhà kinh tế học Milton Friedman rút ra từ thực tiễn khảo sát hơn 80 năm của kinh tế Hoa Kỳ. Milton đã khẳng định: “Sự thay đổi cung ứng tiền có tác động mạnh mẽ đến sản lượng, thu nhập và giá cả trong khoảng thời gian dài hàng năm. Và nó đã tác động nhanh chóng đến lãi suất, tổng cầu (AD) và sản lượng trong thời gian ngắn 1 năm trở lại”.
Qua đồ thị a, ta thấy đường cung (AS) của NHTW là MSo tương ứng với nhu cầu tiền là đường MDo. Tại điểm cân bằng Eo của thị trường tiền tệ, ta có mức cung tiền là Mo, ứng với lãi suất là io. Mức lãi suất io, ta có được mức đầu tư Io, tổng cầu ADo trên các đồ thị sau:
i
i
MS1
MS0
i1
i1
MDo
I0
I0
0
M1
M0
M
0
I1
I0
I
AD
P
AS
AD1
AD0
P1
E1
E0
AD1
P0
AD0
0
Y0
Y1
Y
0
Y0
Y1
Y
b1
b2
Chẳng hạn, để hạn chế lạm phát, NHTW quyết định hạn chế mức cung tiền. Đường MSo sẽ dịch chuyển sang trái đến MS1. Trong khi đó MD0 hầu như không thay đổi trong thời gian ngắn. Điều đó dẫn đến tình trạng cung tiền nhỏ hơn cầu tiền, tiền tệ khan hiếm, lãi suất tăng và hệ quả tất yếu của lãi suất tăng sẽ là đầu tư giảm do chi phí cho việc đầu tư quá cao. Hơn thế nữa, đầu tư lại là một thành phần của tổng cầu.
AD = C + I + G + Nx
Do đó AD giảm, kéo theo sản lượng giảm, sản xuất có chiều hướng bị thu hẹp lại, thất nghiệp tăng, giá cả giảm xuống, nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái.
Ngược lại, khi NHTW thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng làm cho người tiêu dùng và nhà sản xuất có nhiều tiền hoặc không mấy khó khăn tốn kém để có tiền. Điều này sẽ kích thích họ tiêu dùng cho đầu tư. Sự gia tăng tiêu dùng và đầu tư làm cho sản xuất liên tục được mở rộng. Như vậy, việc cung ứng tiền là một sức mạnh đầy quyền lực của NHTW. Điều tiết mức cung tiền đó có nghĩa là NHTW đã bắt đầu điều tiết nền kinh tế bằng cách tạo ra sự biến động về tiền tệ mở rộng hay thu hẹp các nhà quản lý có thể tác động gián tiếp đến các mục tiêu kinh tế và hướng dẫn nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế. Đó chính là bản chất của chính sách tiền tệ.
3. Hệ thống điều tiết vĩ mô của NHTW
Các NHTW của mỗi quốc gia trên thế giới đều hoạt động với một mục tiêu giống nhau trong việc điều tiết kinh tế và mức cung tiền tệ. Hệ thống mối quan hệ giữa các mục tiêu và công cụ để thực hiện mục tiêu đó sẽ được cụ thể hoá bằng sơ đồ dưới đây
Cộng cụ điều tiết NHTW
Mục tiêu hoạt động:
Mục tiêu trung gian:
Mục tiêu cuối cùng:
Nghiệp vụ thị trường mở
Chính sách tái chiết khấu
Dự trữ bắt buộc
Tổng lượng dự trữ
Lãi suất liên ngân hàng
Mức cung tiền
Lãi suất
Sản lượng
Giá cả
Công ăn việc làm
Hoạt động điều tiết
Mục tiêu Trung gian
Mục tiêu
hoạt động
3.1. Công cụ của chính sách tiền tệ :
3.1a) Công cụ trực tiếp
Nếu như công cụ gián tiếp tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ thì công cụ trực tiếp tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông - một trong những mục tiêu trung gian của NHTW, cụ thể là công cụ hạn mức tín dụng. Công cụ này được áp dụng ở nhiều NHTW cho đến nay như NH Nhật bản, Pháp , Hàn quốc..
Khái niệm: Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà các ngân hàng buộc các tổ chức tín dụng phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ quy định cho từng ngân hàng định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể, nhu cầu tài trợ các đối tượng chính sách và phải nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Có thể nói, trong những trường hợp đặc biệt, công cụ trực tiếp này có giá trị hữu ích.
Thứ nhất, trong một nền kinh tế có lạm phát cao, NHTW sẽ kiểm soát các khoản vay lớn của NHTG, hạn chế cho vay tiêu dùng, cho vay trả chậm hoặc cho vay cầm cố. Như vậy, thông qua hạn mức tín dụng, NHTW sẽ khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng.
Thứ hai, trong trường hợp nền kinh tế có thị trường tiền tệ chưa phát triển hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động, với lãi suất hayNHTW không có khả năng khống chế và kiểm soát lượng vốn khả dụng của hệ thống NHTM thì hạn mức tín dụng sẽ là cứu cánh cho NHTW trong việc điều tiết mức cung tiền.
Bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế; hiệu qủa của công cụ này không cao bởi vì nó thiếu linh hoạt và đôi khi đi ngược lại với sự biến động của thị trường tín dụng. Công cụ hạn mức tín dụng có thể đẩy lãi suất lên qúa cao hoặc làm giảm khả năng cạnh tranh của NHTM. Sử dụng nguồn vốn trong trường hợp NHTW cấp vốn theo một định hướng nào đó, không biết cho cụ thể ai vay, chỉ cho vay, ai được vay. Do vậy không tốt đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
3.1.b) Công cụ gián tiếp:
Công cụ gián tiếp hầu như được sử dụng nhiều hơn công cụ hạn mức tín dụng. Đây là nhóm các công cụ tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ. Thông qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến các mục tiêu trung gian là mức cung tiền và lãi suất.
b1) Dự trữ bắt buộc (DTBB)
- Khái niệm: Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NHTW buộc các NHTM giữ không lãi ở NHTW tính theo số dư tiền gửi.
(Điều 9 luật NHNN Việt Nam , dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng gửi tại NHNN để tổng hợp chính sách tiền tệ quốc gia).
+ Cơ chế tác động: dự trữ bắt buộc tác động trực tiếp bởi tỉ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định của NHTW. Nếu NHTW tăng dự trữ bắt buộc, làm giảm khả năng cho vay của NHTM, cung tiền giảm (MS¯)
Thứ hai, vì tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một thành phần của mẫu số của công thức tạo tiền. Vì thế, sự tăng lên của tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm đi số nhân tạo tiền và khả năng tạo ra tiền gửi của hệ thống ngân hàng.
MS = m¯.MB
Nếu cho vay với lãi suất cũ - không thu được lợi nhuận.
Nếu cho vay với lãi suất cao thì không hấp dẫn khách hàng
Do đó hạn chế cho vay, hạn chế khả năng tạo tiền cho nên MS¯
+ Nguyên nhân tác động: dự trữ bắt buộc tuân theo nguyên tắc bình quân. Điều đó có nghĩa là mức dự trữ yêu cầu cho một thời kỳ nào đó - thời kỳ duy trì được xác định căn cứ vào tỷ lệ % quy định trên số dư tiền gửi bình quân ngày giao dịch trong thời kỳ trước. Thời kỳ xác định và thời kỳ duy trì có thể nối tiếp nhau có thể trùng ở một giai đoạn nào đó hoặc trùng khớp nhau.
+ Ưu điểm: Có thể nói, điểm lợi của dự trữ bắt buộc là nó có thể tác động đến tất cả các Ngân hàng như nhau tạo ra sự biến đổi đối với các Ngân hàng và có tác dụng quyền lực đối với mức cung tiền. Sự tác động này làm NHTM không có khả năng chống đỡ được và mục tiêu NHTW đạt được. Bởi lẽ chỉ cần một phần trăm thay đổi của tỷ lệ dự trữ sẽ thay đổi đáng kể và dẫn đến sự thay đổi theo cấp số nhân của khối lượng tiền cung ứng. Kiểm soát NHTM đặc biệt là hoạt động tín dụng của NHTM.
+ Hạn chế: Chính tác động đầy quyền lực của công cụ dự trữ bắt buộc đến mức cung tiền làm cho hoạt động Ngân hàng bất ổn định, chi phí cho sự điều chỉnh để thích ứng với tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới là rất tốn kém. Nếu chỉ muốn có sự thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ mà sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc thì chẳng khác nào dùng “Cái búa tạ để đánh con chuột nhỏ”. Vả lại, việc sử dụng dự trữ bắt buộc gây ảnh hưởng đến lượng vốn khả dụng của hệ thống Ngân hàng. Như vậy vấn đề thanh khoản của Ngân hàng gặp khó khăn hơn. Do đó, ngày nay công cụ dự trữ bắt buộc thường ít được sử dụng và nếu có chăng thường phải được sử dụng với công cụ khác. Tích luỹ được sử dụng với công cụ tái cấp vốn. Chính sách tái cấp vốn là chính sách mà NHTW thực hiện khi cho vay tái cấp vốn đối với các NHTM.
b2. Tái chiết khấu:
- Khái niệm: Đây là một trong những công cụ chủ yếu của NHTW. Chính sách tái chiết khấu là chính sách mà NHTW cho vay ngắn hạn trên cơ sở chiết khấu các chứng từ có giá ngắn hạn, chủ yếu là tín phiếu kho bạc và thương phiếu. Trong công cụ này NHTW sẽ ấn định mức lãi suất tái chiết khấu và tái chiết khấu giá. Lãi suất cho vay chiết khấu được NHTW quyết định trong 2 trường hợp:
Cho vay bình thường đối với ký quỹ khi Ngân hàng trung gian thanh toán.
Cho vay dưới hình thức cứu cánh.
- Cơ chế tác động:
Chính sách tái chiết khấu tác động vào mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ. Thể hiện ở 3 mặt sau:
Xét về sự tác động về mặt lượng: Do NHTW quy định hạn mức, điều kiện của các chứng từ có giá, do vậy trong trường hợp hạn mức tín dụng tăng thì lượng tiền tái chiết khấu sẽ tăng. Theo đó, khả năng cho vay của NHTW sẽ tăng lên. Như vậy sẽ thúc đẩy khả năng mở rộng tiền của hệ thống NHTM, và một khi vốn khả dụng thay đổi, nó làm cho quan hệ cung - cầu vốn và do đó lãi suất thị trường liên ngân hàng thay đổi. Cấp vốn là lãi suất mà NHTW áp dụng để cho vay tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng.
Sự tác động của lãi suất tái chiết khấu: Sẽ có 2 trường hợp khi NHTW tăng lãi suất tái chiết khấu. NHTG không thể vay của NHTW nhiều và dễ dàng như trước. NHTG sẽ phải giảm bớt cho vay để đảm bảo dự trữ trở lại. Như vậy lãi suất cho vay của NHTG tăng, đầu tư giảm, tổng cầu và sản lượng giảm theo. Thêm vào đó, việc tăng lãi suất tái chiết khấu làm cho NHTG biết rằng trong trường hợp vay khẩn cấp NHTW, NHTG phải trả lãi suất rất cao.
Xét về sự tác động hiệu ứng thông báo, sự thay đổi lãi suất chiết khấu được coi như là dấu hiệu định hướng của chính sách tiền tệ của NHTW. Các tuyên bố của NHTW về sự biến động của lãi suất tăng lên hoặc giảm xuống cho ta biết NHTW đang muốn mở rộng hay thắt chặt chính sách tiền tệ. Nhờ vậy, chính sách tái chiết khấu có tác dụng hướng dẫn hành vi thị trường theo định hướng của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, hiệu ứng thông báo chỉ có hiệu quả khi lãi suất chiết khấu phù hợp với lãi suất thị trường. Trong trường hợp lãi suất chiết khấu cao hơn hoặc thấp hơn mức lãi suất thị trường, sự thay đổi lãi suất thực chất là sự “Điều chỉnh kỹ thuật” nhằm phù hợp với lãi suất thị trường.
- Ưu điểm:
Công cụ tái chiết khấu mang tính chất linh hoạt trong những điều kiện nhất định. Đây là chính sách cho vay của NHTW, NHTG nào có nhu cầu và đủ điều kiện về khối lượng cũng như giá trái phiếu đều có thể xin vay.
Công cụ này không bóp méo tính cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng.
Đặc biệt nhất là công cụ tái chiết khấu, NHTW thể hiện rõ là người cho vay cuối cùng, đảm bảo sự ổn định của hệ thống Ngân hàng khi có rủi ro thanh khoản hoặc những vấn đề khó khăn khác.
- Hạn chế:
Công cụ tái chiết khấu vẫn còn mang tính thiếu chủ động, bởi lẽ việc vay NHTW hay không còn phụ thuộc vào nhu cầu vay của NHTG. Lãi suất tái chiết khấu có giảm nhiều để thu hút sự vay tiền của NHTG mà NHTG không có nhu cầu vay thì công cụ này đành bất lực. Điều này có nghĩa là ý định thay đổi lượng tiền và phạm vi tín dụng của NHTW không thực hiện được.
Khi NHTW muốn thu hẹp mức cung tiền, họ chỉ có thể thực hiện khi NHTG trả nợ.
Khi NHTW thay đổi lãi suất hoặc lãi suất chiết khấu có thể gây nên sự suy diễn trong dự đoán của các tổ chức tín dụng làm sai lệch ý định thay đổi lượng tiền của NHTW.
- Những đề nghị cải cách lại:
Với những điểm đó không được thuận lợi, các nhà kinh tế đã có đề nghị cải cách chính sách chiết khấu bằng cách ràng buộc lãi suất chiết khấu với lãi suất thị trường.
Thứ nhất: NHTW có thể điều tiết lãi suất chiết khấu để thực hiện vai trò của người cho vay cuối cùng của mình.
Thứ hai: đại bộ phận các biến động trong khoảng cách giữa lãi suất chiết khấu và lãi suất thị trường sẽ bị loại trừ, làm tan đi một nguồn chính gây ra biến động trong khối lượng các khoản vay chiết khấu.
Thứ ba: nếu lãi suất trừng phạt được sử dụng thì việc quản lí cửa sổ chiết khấu sẽ giản đơn rất nhiều vì các Ngân hàng không tự đi vay từ cửa sổ chiết khấu để thu lợi.
Thứ tư: vì lãi suất chiết khấu có thể tự động thay đổi nên không có những dấu hiệu sai lầm về ý định của NHTW và tác dụng thông báo sẽ mất đi.
b3: Nghiệp vụ thị trường mở:
- Khái niệm: Công cụ nghiệp vụ thị trường mở là công cụ hữu hiệu nhất của chính sách tiền tệ. Nghiệp vụ thị trường mở thể hiện hoạt động của NHTW trên thị trường mở nhằm can thiệp vào dự trữ của NHTM. Hoạt động chủ yếu là mua bán các chứng từ giá, hoán đổi ngoại tệ, huy động tiền gửi với lãi suất cố định phát hành chứng chỉ nợ của NHTW.
- Cơ chế tác động: thông qua 3 con đường:
Thứ nhất: Khi NHTW bán (mua) các chứng khoán của NHTM dù nó trả bằng séc hay tiền mặt, dự trữ của NHTM giảm đi, khi dự trữ của NHTM giảm một lần nữa nó làm giảm khả năng cấp phát tín dụng của các Ngân hàng và như thế cung ứng tiền trong nền kinh tế càng bị thắt chặt hơn nữa.
Thứ hai (lãi suất): Khi vốn khả dụng của từng Ngân hàng cá nhân giảm (tăng) do tác động hoạt động nghiệp vụ thị trường mở mức cung vốn trên thị trường tiền tệ liên Ngân hàng giảm (tăng) với điều kiện các yếu tố liên quan không thay đổi, lãi suất thị trường liên Ngân hàng tăng (giảm). Thông qua giả thuyết dự tính về cấu trúc của lãi suất, ảnh hưởng này được truyền đến các mức lãi suất của các công cụ của thị trường mở và lãi suất trái phiếu. Kết quả là chi phí cơ hội cho người có vốn dư thừa và giá vốn đầu tư đối với người thiếu vốn tăng (giảm) làm giảm nhu cầu đầu tư của xã hội mà do đó mà giảm sản lượng, giá cả và công ăn việc làm.
Thứ ba: hoạt động nghiệp vụ thị trường mở còn ảnh hưởng đến cung - cầu và do đó giá các chứng khoán thuộc phạm vi can thiệp chủ yếu là tín phiếu kho bạc, khi NHTW bán chứng khoán để thu tiền về, lượng chứng khoán tuôn ra thị trường trở lên lớn. Chứng khoán dư thừa làm cho giá của nó hạ. Nên lãi suất chiết khấu tăng buộc lãi suất Ngân hàng tăng lên theo để tránh tình trạng “ Phi trung gian hoá” tức là tình trạng nhân dân và nhà đầu tư rút tiền ra khỏi Ngân hàng đầu tư vào chứng khoán. Lãi suất tăng làm khan hiếm lượng tiền trong lưu thông và một khi lượng tiền khan hiếm làm giảm tỷ giá và giá cả hàng hoá.
- Ưu điểm:
Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ điều tiết các mục tiêu trung gian có hiệu quả.
NHTW có thể chủ động điều tiết về thời gian, khối lượng, giá cả, chủng loại.
Mặc dù nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, những người kinh doanh chứng khoán không bị mua hoặc bán chứng khoán theo một giá trị nhất định, nhưng NHTW có thể thực hiện được yêu cầu của mình bằng việc điều chính giá sao cho hấp dẫn với đối tác.
Nghiệp vụ thị trường mở có thể sử dụng ở bất cứ mức độ nào. Dù NHTW mong muốn mức thay đổi dự trữ hoặc cơ số tiền tệ nhỏ đến như thế nào không thành vấn đề. Nghiệp vụ thị trường mở có thể thực hiện điều mong muốn đó bằng mua hoặc bán ít chứng khoán và ngược lại. Đặc biệt là một khi có sai lầm trong khi sử dụng công cụ này, NHTW có thể đảo ngược việc sử dụng công cụ đó. Nếu NHTW thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh, do nó mua trên thị trường tự do quá nhiều thì nó có thể sữa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở.
- Hạn chế:
Nghiệp vụ thị trường mở có tính hiệu quả cao nhưng không thể sử dụng ở một số nước mà thị trường tài chính chưa thực sự phát triển. Các chứng khoán được mua bán trong nghiệp vụ này là các chứng khoán đã được phát hành và đang lưu thông trên thị trường thứ cấp. Nếu thị trường tiền tệ nói riêng, thị trường thứ cấp nói chung chưa phát triển thì công cụ này không có tính khả thi.
Ngoài ra công cụ này đòi hỏi NHTW phải có khả năng kiểm soát sự biến động và dự đoán sự biến động của lượng vốn khả dụng của hệ thống Ngân hàng: (Mô hình sau)
Không phải lúc nào Ngân hàng mua, bán cũng thực hiện được mục đích của mình.
Thật vậy, khi MB có thể triệt tiêu nhau thì không ảnh hưởng.
Vừa mua và bán không thể tác động đến dự trữ. Khi NHTW mua chứng khoán thì lãi suất giảm, tác động đến đầu tư.
ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ vốn.
Rủi ro trong kinh doanh.
Xu hướng:
- Các quốc gia sẽ hoàn thiện thị trường.
- Hàng hoá đa dạng, phong phú chủng loại.
- Thị trường tài chính, thị trường khác tốt hơn.
- Độ rủi ro trên thị trường giảm xuống.
Điều chỉnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc
Tăng giảm dự trữ bắt buộc
Nghiệp vụ thị trường mở
Kiểm soát tín dụng
Tăng, giảm S, I
Tăng, giảm i thị trường
Thay đổi i
chiết khấu
P
0
E
AS
AD
Q
Tăng giảm mức cung tiền
3.2. Mục tiêu của NHTW:
NHTW đã sử dụng những công cụ của chính sách tiền tệ để kiểm soát mức cung tiền tệ nhằm đạt được mục tiêu điều tiết của mình, trong đó đích cuối cùng là đạt được các vấn đề về sản lượng giá cả, công ăn việc làm của nền kinh tế. Nhưng ở đây, NHTW không thể tác động trực tiếp và ngay lập tức đến các mục tiêu cuối cùng mà ảnh hưởng của chính sách tiền tệ chỉ xuất hiện sau một khoảng thời gian nhất định từ 6 tháng đến 2 năm. Sẽ là quá muộn nếu NHTW đợi các dấu hiệu về giá cả, tỷ giá, thất nghiệp để điều chỉnh các công cụ. Để khắc phục hạn chế này NHTW thường xác định các mục tiêu cần đạt được trước khi đạt được mục tiêu cuối cùng.
3.2.1. Mục tiêu hoạt động:
- Khái niệm: Mục tiêu hoạt động là các chỉ tiêu có ảnh hưởng trực tiếp đến các công cụ của chính sách tiền tệ.
- Các loại mục tiêu hoạt động: Bao gồm:
+ Tổng dự trữ của NHTM.
+ Lãi suất ngắn hạn trên thị trường liên Ngân hàng.
Khi ta sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ sẽ ảnh hưởng ngay đến tổng dự trữ của NHTM hoặc lãi suất liên Ngân hàng. Cụ thể là khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, làm cho vốn của NHTW trên thị trường liên Ngân hàng thu hẹp, từ đó mà lãi suất Ngân hàng tăng lên. Nếu NHTW tăng lãi suất chiết khấu, NHTG phải tự nâng lãi suất lên để tránh tình trạng “Phi trung gian hoá”. Cũng như tránh thiệt hại khi vay NHTW. Đối với nghiệp vụ thị trường mở, khi NHTW bán chứng khoán, dự trữ của NHTM giảm đi, khả năng cấp phát tín dụng của Ngân hàng cũng giảm theo và như thế cung ứng tiền tệ trong nền kinh tế bị thắt chặt. Do đó các chỉ tiêu bị ảnh hưởng trực tiếp bởi công cụ chính sách tiền tệ là tổng dự trữ của NHTM và lãi suất liên Ngân hàng.
- Điều kiện chọn mục tiêu hoạt động:
+ Thứ nhất: Các chỉ tiêu phải đo lường được.
+ Thứ hai: Các chỉ tiêu phải được kiểm soát.
+ Thứ ba: Chỉ tiêu này bị ảnh hưởng trực tiếp bởi công cụ của chính sách tiền tệ. Khi NHTW điều chỉnh những công cụ của chính sách tiền tệ thì mục tiêu hoạt động ngay lập tức bị thay đổi. Sự phản ứng nhanh chóng chính xác của các chỉ tiêu hoạt động mỗi khi NHTW điều chỉnh chính sách tiền tệ giúp cho NHTW có thể kiểm tra tính đúng đắn của các quyết định trong việc điều hành chính sách tiền tệ hàng ngày.
+ Thứ tư, các chỉ tiêu hoạt động phải có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các mục tiêu trung gian. Vì thế, sự lựa chọn mục tiêu hoạt động phụ thuộc vào việc NHTW chọn chỉ tiêu nào làm mục tiêu trung gian: Lãi suất hay tổng lượng tiền.
Như vậy, mục tiêu hoạt động có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Bằng việc đạt được các mục tiêu này, NHTW có thể đạt được mục tiêu trung gian và do đó mục tiêu cuối cùng sau một khoảng thời gian nhất định.
3.2.2. Mục tiêu trung gian:
- Khái niệm: Mục tiêu trung gian là chỉ tiêu được NHTW lựa chọn để đạt được mục đích cuối cùng của chính sách tiền tệ. Mục tiêu trung gian là những biến số không phải là những công cụ thực sự, cũng không phải là mục tiêu cuối cùng của NHTW, nhưng nó là trung gian trong dây chuyền nhân quả của công cụ chính sách tác động đến mục tiêu cuối cùng.
Các loại mục tiêu trung gian: Gồm mức cung tiền, lãi suất thị trường, tỷ giá, khối lượng tín dụng. Nhưng có lẽ mục tiêu phổ biến nhất là mức cung tiền và lãi suất.
* Điều kiện lựa chọn mục tiêu trung gian:
Thứ nhất: tính có thể đo lường được. Việc đo nhanh và đúng một biến số của chỉ tiêu trung gian là cần thiết bởi lẽ các chỉ tiêu này thật sự cần thiết khi nó phản ánh tình trạng của chính sách tiền tệ nhanh hơn mục tiêu cuối cùng. Liệu có lợi gì khi đặt kế hoạch đạt tỷ lệ tăng trưởng 5% của M2 nếu NHTW không có cách nào để đo lường một cách nhanh chóng và chính xác M2. Mặt khác tiêu chuẩn này cho thấy NHTW nên chọn chỉ tiêu cụ thể nào tổng lượng tiền cung ứng và lãi suất.
Thứ hai: Tính có thể kiểm soát được của NHTW. NHTW chỉ có khả năng kiểm soát thật sự một biến số nếu như biến số đó hoạt động như một chỉ tiêu hữu ích. Cụ thể sự trông đợi của các nhà kinh doanh sẽ quyết định đến tổng đầu tư và do đó GDP, nhưng nếu chọn chỉ tiêu này làm mục tiêu trung gian thì ảnh hưởng của NHTW đến mục tiêu này rất ít. Nếu NHTW chọn mục tiêu trung gian mà NHTW có khả năng kiểm soát thì không những ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ mà còn lãng phí những chi tiêu cần thiết để đạt được mục tiêu này.
Thứ ba: mục tiêu trung gian phải có sự liên hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng. Đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất của mục tiêu trung gian. Khả năng có thể đo lường chính xác hoặc khả năng kiểm soát của NHTW sẽ trở nên vô nghĩa nếu các chỉ tiêu được chọn không có ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng hoặc giá cả. Do đó, mức cung tiền hay lãi suất đều có liên quan chặt chẽ với mức tăng trưởng kinh tế.
* Các chỉ tiêu trung gian:
+ Chỉ tiêu mức cung tiền: Cả hai chỉ tiêu mức cung tiền và lãi suất đều thoả mãn các điều kiện trên nhưng NHTW không thể chọn hai chỉ tiêu làm mục tiêu trung gian mà chỉ được chọn một trong hai chỉ tiêu đó căn cứ vào mối liên hệ của các mục tiêu này đến mục tiêu cuối cùng. Bởi lẽ, nếu đạt được các mục tiêu về tổng lượng tiền cung ứng thì phải chấp nhận sự biến động lãi suất và ngược lại. Chẳng hạn NHTW chọn mức cung tiền làm mục tiêu trung gian với tỷ lệ tăng tự định là x%, lãi suất tương ứng là i0. Tuy vậy, nếu MD không ấn định mà dao động giữa MD1 và MD2 thì lãi suất sẽ biến động từ i1 đến i2. Tại đây các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu nắm giữ tiền tệ của công chúng làm cho nhu cầu tiền tệ tăng lên hoặc xuống là tất yếu.
Trong điều kiện cố định mức cung tiền, sự biến động lãi suất là hiển nhiên:
i
MS
i2
MD2
i0
MD0
i1
MD1
0
M0
M
* Đánh giá mục tiêu mức cung tiền:
Mỗi Ngân hàng được quy định một chính sách riêng biệt, lấy mức cung tiền hoặc lấy lãi suất làm mục tiêu trung gian. Vì vậy nếu NHTW chọn mức cung tiền làm căn cứ để đạt được của chính sách tiền tệ thì lúc đó lãi suất sẽ biến động phù hợp với tiêu dùng và đầu tư, vì vậy làm giảm đi sự biến động bất ngờ của tổng cầu. Cụ thể là trong một nền kinh tế mà tổng cầu biến động mạnh, nhu cầu tiền tệ luôn thay đổi thì việc cố định mức cung tiền sẽ làm cho lãi suất thay đổi, điều chỉnh đầu tư và tiêu dùng để tổng cầu biến động phù hợp với nền kinh tế. Điều hạn chế thể hiện ở chỗ mức cung tiền là mục tiêu dài hạn của NHTW cho nên để đạt được mục tiêu này cần thời gian từ 6 tháng đến 2 năm. Do vậy mục tiêu cung ứng tiền tệ không có tác dụng điều chỉnh ngay lập tức mục tiêu cuối cùng của nền kinh tế.
* Chỉ tiêu lãi suất:
Chẳng hạn, với tốc độ tăng là y%, NHTW chọn lãi suất là mục tiêu trung gian, mức cầu tiền tệ tương ứng sẽ là MD0. Trong thực tế, mức cầu tiền sẽ dao động từ MD1 đến MD2. Để đạt được mức lãi suất tại i0, Ngân hàng buộc phải thay đổi mức cung tiền từ MS1 đến MS2 nhằm ngăn cản sự tăng lên hoặc giảm xuống của lãi suất so với i0. Như vậy, để duy trì mục tiêu lãi suất, mức cung tiền và tiền cơ sở sẽ biến động.
i
MS2
MS0
MS1
E0
i0
MS2
MD0
MD1
0
M0
M
* Đánh giá chỉ tiêu lãi suất:
Chúng ta biết rằng, lãi suất có ảnh hưởng quan trọng nhất đối với nhu cầu tiêu dùng và đầu tư.
Nếu lãi suất được chọn làm mục tiêu trung gian và được giữ cho ổn định, nó sẽ loại trừ ảnh hưởng của mức cầu tiền đến nền kinh tế. Như vậy, đối với nền kinh tế có mức cầu tiền biến động mạnh, việc chọn lãi suất làm cho mục tiêu trung gian thì thuận tiện. Tuy nhiên, mục tiêu lãi suất cũng có những hạn chế nhất định.
Thứ nhất, mục tiêu lãi suất cần phải được sử dụng trong một môi trường mà ở đó thị trường tài chính phát triển sở dĩ vậy là vì một chỉ tiêu lãi suất, NHTW sẽ ngăn không cho lãi suất giảm bằng cách bán trái khoán để làm cho giá trái khoán giảm xuống và lãi suất lại tăng lên mức trước đó.Do đó với công cụ của thị trường mở, mục tiêu lãi suất mới thật sự hiệu quả. Với sự biến đổi nhu cầu tiêu dùng đầu tư có thể do nhiều lý do khác (thuế, kỳ vọng) nên lãi suất ổn định có thể làm tăng thêm sự biến động của mức cầu tiền và tổng cầu.
+ Thứ hai, mục tiêu lãi suất không thể duy trì dài hạn được
i danh nghĩa = i thực tế + tỷ lệ lạm phát dự kiến( theo Fisher)
Chỉ khi tỷ lệ lạm phát ổn định, lãi suất không chịu ảnh hưởng của các yếu tố của nền kinh tế thì mới duy trì dài hạn.
Chỉ tiêu tỷ giá; đặc điểm của hệ thống tiền tệ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và trong tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế, đồng ngoại tệ còn chiếm một tỷ lệ đáng kể do đó, tuy các nước hầu hết đều chú trọng đến hai mục tiêu trung gian chủ yếu là lãi suất và mức cung tiền, nhưng ta hãy thử xem sự tác động của tỷ giá đối với mức cung tiền và vai trò của tỷ giá trong việc định hướng chính sách tiền tệ.
Tỷ giá hối đoái: là sự so sánh giá của một đồng tiền này giá của một đồng tiền khác.
Tác động của tỷ giá hối đoái với nền kinh tế:
Xét về mặt ngắn hạn : tỷ giá hối đoái bị ảnh hưởng bởi cung tiền của NHTW. Bằng việc thay đổi cung ứng tiền, NHTW có thể làm thay đổi giá đồng tiền nội địa so với nước ngoài. Hay nói cách khác, chỉ cần ít tiền nước ngoài hơn để đổi lấy một đơn vị tiền nội địa. Cho nên giá trị đồng tiền trong nước giảm đi sự khan hiếm của ngoại tệ._. với giá cao làm cho xuất khẩu trở nên đắt hơn. Nhưng yếu tố này làm giảm nhu cầu về hàng nhập khẩu và tăng nhu cầu về hàng xuất khẩu. Ngược lại khi NHTW thắt chặt tiền tệ đồng tiền trong nước trở nên khan hiếm hơn, vì thế cần phải có nhiều ngoại tệ để trao đổi một đơn vị tiền trong nước. Như vậy, đồng tiền trong nước tăng giá. Nhưng hậu quả là hạn chế xuất khẩu kích thích nhập khẩu. Một khi NHTW can thiệp vào tỷ giá bằng cách điều tiết cung ứng tiền, nó tác động mạnh mẽ đến gia cả, như cầu xuất nhập khẩu và do vậy điều tiết tổng cầu và sản lượng quốc gia.
Xét về mặt dài hạn: tỷ giá được quyết định bởi tiềm lực kinh tế của mỗi nước. Do vậy về mặt dài hạn khi nền kinh tế của một nước tăng trưởng nhanh, nhiều hàng hoá chất lượng cao được sản xuất với giá rẻ hơn trước, chứng tỏ đồng tiền của nước đó lên giá so với đồng tiền của nước khác.
3.2.3. Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ:
Mục tiêu của chính sách tiền tệ hầu như thống nhất ở các nước. Sự điều chỉnh tiền cung ứng nhằm mục tiêu trước hết là ổn định giá trị tiền tệ. Trên cơ sở đó góp phần tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm.
+ Mục tiêu ổn định giá cả: Là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ (mục tiêu dài hạn).
Những bằng chứng thực tế đã nói lên rằng sự phát triển giá cả là có thể dự đoán được khi mà tỷ lệ lạm phát thấp. Trạng thái lạm phát thấp cũng cho phép các gia đình và công ty tiến hành các quyết định kinh tế với thông tin đáng tin cậy hơn. Giá cả ổn định là động lực góp phần phân phối các nguồn lực xã hội một cách hiệu quả nhất.
Đây là lợi ích có tầm quan trọng sống còn đối với sự thịnh vượng kinh tế xã hội trong thời gian dài hạn, là điều kiện thuận lợi cho thị trường tài chính hoạt động một cách trơn tru trong việc dẫn vốn ở khu vực có nguồn vốn nhàn rỗi đến nơi sản xuất có hiệu quả.
Lãi suất thực giảm xuống, điều này khuyến khích người vay tiền đầu tư phát triển kinh tế. Trạng thái ổn định giúp được người vay tránh được rủi ro so với trường hợp mặt bằng giá giảm liên tục không dự tính trước, bởi vì khi mặt bằng giá giảm thì giá trị thực của các công cụ nợ tăng lên, trong khi lãi suất của chúng đã được ấn định cố định trước, điều này làm tăng gánh nặng của nền kinh tế, bởi vì thông thường thường người vay tiền là người gắn liền với sản xuất hơn là người cho vay tiền. Vậy ổn định giá cả là lợi ích của “sự cố kết chính trị của xã hội”. Đây là phương châm hàng đầu của chính sách tiền tệ.
+ Mục tiêu tăng trưởng kinh tế:
Chính sách tiền tệ phải đảm bảo sự phát triển của GDP thực tế. Đó là tỷ lệ tăng trưởng có được sau khi trừ đi tỷ lệ tăng giá cả cùng thời kỳ. Sự tăng trưởng phải được cả về khối lượng, cả về chất lượng. Chất lượng tăng trưởng được thể hiện ở một cơ cấu kinh tế cân đối và khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước tăng lên. Tăng trưởng kinh tế cũng là đồng nghĩa với các mục tiêu kinh tế khác của chính sách tiền tệ: giảm thất nghiệp, tăng GNP, chống suy thoái.
- Mục tiêu công ăn việc làm đầy đủ: Chính sách tiền tệ phải quan tâm đến khả năng tạo công ăn việc làm, giảm đi áp lực xã hội của thất nghiệp. Công ăn việc làm đầy đủ phản ánh sự thịnh vượng của xã hội, sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội, giảm đi Stress (Căng thẳng) cho cá nhân và gia đình họ, giảm tệ nạn xã hội. Mặt khác, việc tăng việc làm cho người lao động, giúp cho Chính phủ giảm đi một khoản trợ cấp không đáng có của ngân sách Nhà nước.
- Mục tiêu tạo cho nền kinh tế một nền tảng tài chính ổn định: Nền tảng tài chính ổn định sẽ là cơ sở để hệ thống Ngân hàng và tổ chức tín dụng có thể hoạt động hiệu quả và hỗ trợ một cách tốt nhất cho tăng trưởng kinh tế cao. Ngoài ra, thông qua chính sách tiền tệ, NHTW định hướng hoạt động của hệ thống tài chính tăng cường hiệu quả của nó, ngăn ngừa rủi ro cho các tổ chức tài chính, cho nên vai trò của chính sách tiền tệ là phục vụ tốt nhất cho nền kinh tế mà không làm tổn thất hay hạn chế khả năng phát triển của hệ thống tài chính.
4. Con đường dẫn truyền tác động của chính sách tiền tệ:
Một chính sách tiền tệ có đúng đắn và thiết thực thế nào đi chăng nữa nhưng nếu không có một cơ chế dẫn truyền hoàn hảo thì có lẽ chính sách đó sẽ không mang hiệu quả đối với nền kinh tế. Trong một hệ thống Ngân hàng hiện đại, chính sách tiền tệ ảnh hưởng đối với các biến số kinh tế qua 3 con đường: Lãi suất, giá tài sản và hoạt động tín dụng Ngân hàng. Kênh dẫn truyền đó được cụ thể hoá qua sơ đồ và chú thích sau (Sơ đồ 1).
Sơ đồ 1
ư X
q ư
C ư
Tiền gửi NH ư
Rủi ro đạo đức
Dòng lưu ngân
Sự tăng
P
¯ tỷ giá
ư P cổ phiếu
T. nhập thường xuyên
Tín dụng
NH
Bảng TKTS của khách hàng
P tài sản
Tín dụng
M ư
NHTW
Im ¯
Iư
Tiền vay ư
Tín dụng ư
I, C ư
Nx ¯
I ư
Y ư
ADư
(Hình 1a)
(1)
(2)
(3)
(a) (b)
(c)
(a)
(b)
Giải thích:
Sơ đồ 1 : Đối với kênh lãi suất, ta thấy khi khối lượng tiền được mở rộng, mức lãi suất thực giảm xuống làm giảm giá của vốn vay. Nhu cầu đầu tư, vì thế tăng lên dẫn đến tăng tổng cầu và tăng sản phẩm.
Sơ đồ 2: Đối với kênh tài sản:
2a. ảnh hưởng của tỷ giá đối với xuất khẩu ròng. Chúng ta biết rằng khi khối lượng tiền cung ứng được mở rộng, lãi suất của nội tệ giảm so với ngoại tệ làm cho giá trị tiền gửi nội tệ thấp hơn giá trị tiền gửi ngoại tệ. Vì thế đồng nội tệ có xu hướng giảm giá so với đồng ngoại tệ. Sự giảm giá của tỷ giá kích thích xuất khẩu làm tăng sản phẩm.
2b. ảnh hưởng của giá cổ phiếu: Khi NHTW mở rộng khối lượng tiền cung ứng, giá cổ phiếu có xu hướng tăng lên làm tăng chỉ số q. Chỉ số q ở đây là chỉ số tobin thể hiện ở tỷ lệ giá cả thị trường của Công ty trên phần giá thay thế tài sản. Nếu nói q tăng lên có nghĩa là giá cả thị trường có xu hướng tăng lên nhiều hơn so với giá tài sản. Do đó, q tăng lên kích thích doanh nghiệp đầu tư mới vào nhà xưởng, thiết bị sản lượng vì thế tăng lên.
2c. ảnh hưởng của thu nhập thường xuyên của công chúng khi khối lượng tiền cung ứng tăng lên làm tăng nguồn thu nhập dài hạn, mà mức tiêu dùng thường xuyên của hộ gia đình phụ thuộc vào mức thu nhập dài hạn. Do đó mức tiêu dùng tăng, sản lượng tăng theo.
Sơ đồ 3 : Đối với kênh tín dụng, ta xét trên hai giác độ:
3a. Xét trên kênh tín dụng ngân hàng. Khi khối lượng tiền cung ứng tăng lên, nhân dân sẽ có xu hướng gửi một phần tiền của mình vào Ngân hàng, cho nên tiền gửi Ngân hàng tăng lên. Từ đó tạo điều kiện cho dự trữ Ngân hàng tăng. Khoản cho vay do đó cũng tăng lên. Đây là điều kiện cốt yếu để thúc đẩy đầu tư, sản lượng cũng tăng lên.
3b. Xét thông qua tác động điều chỉnh của bảng tổng kết tài sản: Khi NHTW thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng làm cho giá trị ròng bảng tổng kết tài sản tăng lên, luồng thu tiền mặt trở nên dễ dàng hơn, tăng tính thanh khoản của bảng tổng kết tài sản và đặc biệt là giảm đi các khoản nợ của doanh nghiệp. Tất cả điều đó làm giảm nguy cơ gây rủi ro cho Ngân hàng, vốn cho vay, do đó mà đầu tư và sản lượng tăng lên.
Chú thích sơ đồ:
I: Đầu tư.
q: chỉ số tobin
C: Tiêu dùng
i: Lãi suất
AD: Tổng cầu
Im: Nhập khẩu
Y: Sản lượng
X : Xuất khẩu
P : Giá
Nx : Xuất khẩu ròng.
5. Hỗn hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài chính:
Là một chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ không phải là cứu cánh cuỗi cùng cho mọi vấn đề liên quan đến kinh tế vĩ mô. Để chính sách tiền tệ hoạt động một cách hiệu quả, người ta sử dụng chính sách tiền tệ cùng với chính sách tài chính. Với hai chính sách này, cùng một lúc có thể vừa tác động đến GNP vừa tác động đến các thành phần của GNP. Nói một cách khác, bằng cách hỗn hợp thuế chi tiêu, cung ứng tiền tệ, Chính phủ có thể làm thay đổi sản lượng tiềm năng dành cho đầu tư, tiêu dùng và chi tiêu Chính phủ.
Ví dụ 1: Muốn tăng thêm khả năng quốc phòng, giữ tổng sản lượng không thay đổi, phải giảm bớt việc xây dựng nhà cửa và các khoản đầu tư khác để tạo ra nguồn vốn và các nguồn tài nguyên cần thiết. Quốc hội và Chính phủ tăng nguồn vốn quốc phòng (G) bằng cách giữ nguyên thuế (T), thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất để thu hẹp đầu tư (I) theo số lượng dự tính. Chính sách này sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách cơ cấu (G - T) ở mức sản lượng tiềm năng.
Ví dụ 2 : Nếu Chính phủ ưu tiên hàng đầu cho đầu tư (I), đẩy mạnh đầu tư và tỷ lệ tăng trưởng của sản lượng tiềm năng và Chính phủ cho rằng việc này cần phải làm, không có gì thay đổi trong GNP với (I) cao hơn ăn lấn vào tiêu dùng của khu vực tư nhân. Chính phủ sẽ xử lý như sau: Thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng để giảm lãi suất và đầu tư; Giữ nguyên chi tiêu quốc phòng (G) ở mức cũ, tăng thuế để giảm thu nhập có thể chi tiêu được của khu vực tư nhân, do đó sẽ hạ thấp tiêu dùng (C), khuyến khích đầu tư bằng cách tăng tiết kiệm công cộng (T - G).
Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của chính sách tiền tệ và chính sách tài chính đối với tổng cầu AD phụ thuộc vào hai yếu tố: độ nhạy cảm của mức cầu tiền tệ với lãi suất và độ nhạy cảm của nhu cầu đầu tư với lãi suất. Một mức cầu tiền tệ ít nhạy cảm với lãi suất và mức cầu đầu tư có mức nhạy cảm cao với lãi suất sẽ làm cho chính sách tiền tệ có hiệu quả. Trong trường hợp này, chỉ cần một sự thay đổi nhỏ trong tổng lượng tiền cung ứng có thể dẫn đến sự biến động mạnh của tổng cầu. Ngược lại, sự thay đổi trong chi tiêu và thay đổi chính sách thuế ảnh hưởng đến tổng cầu mạnh khi mức cầu tiền tệ có mức nhạy cảm cao với lãi suất và mức cầu đầu tư ít nhạy cảm với lãi suất hạn chế tình trạng thoái lui đầu tư.
Như vậy chính sách tiền tệ và chính sách tài chính chỉ phát huy hiệu quả tối đa trong những điều kiện nhất định. Sự kết hợp hài hoà cả hai chính sách vĩ mô nhằm tác động vào tổng cầu sẽ khắc phục những hạn chế của từng chính sách trong điều kiện độ nhạy cảm của mức cầu tiền tệ và mức cầu đầu tư đối với lãi suất không thuận tiện. Nếu tổng cầu tăng lên do ảnh hưởng của lượng tiền cung ứng thì lãi suất sẽ giảm và đầu tư tăng lên. Ngược lại, nếu tổng cầu tăng lên do Chính phủ mở rộng chi tiêu, thì lãi suất sẽ tăng lên và đầu tư sẽ giảm xuống. Do đó, tuỳ theo điều kiện cụ thể, người ta sẽ kết hợp chính sách tiền tệ với chính sách tài chính tạo nên những điều kiện phù hợp với tổng cầu, đến với sản lượng nền kinh tế.
II. Kinh nghiệm ở một số nước:
Những trang lý luận về chính sách tiền tệ đã được các nhà kinh tế đúc kết một cách chặt chẽ và được truyền bá ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, ở một số nước sự vận dụng để điều tiết kinh tế là khác nhau. Do đó, những kinh nghiệm thành bại ở mỗi nước là cả một kho bài học vô cùng quý giá để các quốc gia khác nhìn vào mà học tập. Đặc biệt là đối với những nước đang trên con đường xây dựng một nền kinh tế thị trường như nước ta, thực tiễn các nước là tấm gương giải thích lý thuyết một cách điển hình. Vậy ta hãy xem xét những khía cạnh nổi bật của chính sách tiền tệ của Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản, ba nước được đánh giá là có nền tài chính tiền tệ mạnh nhất trên thế giới trong những thập kỷ qua để tìm cho mình những giải pháp phù hợp trong từng hoàn cảnh cụ thể.
1. Kinh nghiệm của quỹ dự trữ Liên bang Mỹ (Fed)
Ta biết rằng, Fed cũng ấn định các chỉ tiêu tổng lượng tiền tệ và sử dụng lãi suất thị trường giữa các Ngân hàng làm mục tiêu hoạt động của mình. Chính sách tiền tệ của Fed là: Dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở. Nhưng nét đặc trưng cần học tập của Fed là cách thay đổi các mục tiêu hoạt động hoàn hảo để tạo nên những thay đổi trong cung ứng tiền tệ.
Trong những năm 70, cứ 6 tháng một lần, Fed ấn định các chỉ tiêu cho tỷ lệ tăng của các tổng lượng tiền tệ và quy định lãi suất nào của vốn liên bang mà Fed cho rằng là phù hợp với những mục tiêu đó. Các khoảng cách chỉ tiêu cho việc tăng trưởng của tổng lượng tiền tệ của Fed thì rất rộng. Chẳng hạn như khoảng cách của sự tăng trưởng M1 là từ 3 - 6%, M2 từ 4 - 7%. Mà chỉ tiêu lãi suất và tổng lượng tiền tệ không thể dung hoà với nhau, cho nên một khi M1 tăng lên quá nhanh thì Fed chỉ thị ưu tiên cho chỉ tiêu lãi suất vốn liên bang, tìm mọi cách để chi tiêu vốn liên bang nằm trong khoảng cách chỉ tiêu quy định đó. Fed thật sự đã sử dụng chỉ tiêu lãi suất liên bang như một chỉ tiêu hoạt động. Tất cả đều diễn biến tốt đẹp nếu không có sự kiện ngược lại vào cuối năm 1974 khi sự thu hẹp kinh tế không đến nỗi như người ta dự toán. Lãi suất vốn liên bang tụt xuống dữ dội từ 12 xuống còn 5% và đứng mãi ở mức cuối cùng của dãy chỉ tiêu của nó. Trước tình huống đó, Fed đã tiến hành các nghiệp vụ bán trên thị trường mở để giữ cho lãi suất của vốn liên bang khỏi tụt xuống. Tuy nhiên, điều đó làm cho mức tăng trưởng của tiền tệ giảm xuống nhanh chóng, thực sự trở thành số âm vào đầu năm 1975. Rõ ràng đây là một sai lầm nghiêm trọng trong khi nước Mỹ đang thu hẹp nền kinh tế tồi tệ của mình sau chiến tranh. Do đó, trong những năm 80, Fed đã thay đổi chính sách của mình. Chỉ tiêu hoạt động đầu tiên của dự trữ không vay. Chỉ tiêu này tạo ra một sự êm dịu của lãi suất gây nên mối liên hệ với thu nhập quốc dân. Bởi lẽ khi nền kinh tế tăng trưởng, lãi suất tăng, kích thích các Ngân hàng đi vay, như vậy dự trữ đi vay tăng. Để tránh cho dự trữ đi vay tăng vượt mức chỉ tiêu, Fed phải hạ thấp lãi suất bằng cách mua trái khoán trên thị trường tự do để nâng giá trái khoán lên. Do đó, kết quả của chỉ tiêu hoá dự trữ là Fed ngăn không cho dự trữ tăng. Tuy nhiên, việc Fed mua trên thị trường tự do làm tăng cơ số tiền tệ của mình và dẫn đến cung ứng tiền tệ tăng. Do vậy, một lần nữa Fed đã thay đổi chính sách của mình. Các nhà chính sách của Mỹ đã không còn nhấn mạnh đến M1 mà nhằm vào M2 nhiều hơn. Với M1 các nhà chính sách còn thấy nhiều khiếm khuyết không thể điều chỉnh được. Thứ nhất, bước đi nhanh chóng của việc cải cách và tháo gỡ những quy chế tài chính làm cho việc xác định và đo lường tiền tệ khó khăn hơn. Thứ hai, có một sự rạn nứt trong mối quan hệ ổn định của M1 và hoạt động kinh tế. Do đó, Fed thấy về lâu dài M1 không là người dẫn đường đáng tin cậy mà chỉ có M2 mới làm được điều đó.
Như vậy cho thấy, việc xác định mục tiêu hoạt động của Fed rất uyển chuyển phù hợp với từng thời kỳ biến động kinh tế khác nhau của nền kinh tế Mỹ. Đây là điều mà chúng ta phải học tập, tức là không nên quá cứng nhắc trong việc xác định mục tiêu của chính sách tiền tệ mà phải thay đổi một cách phù hợp để nền kinh tế vận động một cách trơn tru và có hiệu quả.
2. Kinh nghiệm của NHTW Đức
So với NHTW các nước trên thế giới, sau Fed, có lẽ, NHTW Đức có thể được coi là Ngân hàng điển hình nhất. Thành công của Fed là việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ một cách có hiệu quả.
Trước hết là công cụ cho vay tái chiết khấu: Không những Đức sử dụng cửa sổ chiết khấu như là phương tiện điều tiết lãi suất và khối lượng tín dụng của các NHTM mà còn là một cửa ngõ, từ đó NHTW Đức trực tiếp rót vốn vào thị trường đầu tư trung hạn và dài hạn. Cụ thể chúng ta biết rằng, những năm cuối thập kỷ 80 ở Đức, lạm phát lên gần như tột đỉnh, xấp xỉ 2 con số và tất cả các công cụ điều tiết được tung ra để chống lạm phát. Lãi suất chiết khấu đã được huy động để tăng lãi suất thị trường nhằm thắt chặt cung ứng tiền tệ và tín dụng. Nhưng khi nhận ra một số dấu hiệu chứng tỏ lạm phát đã được khống chế, để nền kinh tế không bị trì trệ lâu vì chính sách thắt chặt tiền tệ, NHTW đã hạ lãi suất chiết khấu. Đặc biệt là chỉ trong năm 93, lãi suất chiết khấu được hạ 7 lần để hãm tính suy thoái tiềm năng quốc gia. Một quá trình chưa từng có trong lịch sử của hệ thống NHTW. Chính vì vậy, lượng tiền mặt ngoài lưu thông tăng lên đột ngột đã đẩy tổng cầu lên như một cơn sốt. Hệ quả thật ấn tượng. Nền kinh tế đã tăng trưởng trở lại. Qua đó, ta thấy lãi suất chiết khấu là đèn hướng dẫn lượng tín dụng cấp phát từ NHTW đến các NHTM và các lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế Đức. Với việc sử dụng lãi suất một cách khôn ngoan và linh động, Ngân hàng Đức đã gặt hái những thành công rực rỡ trong việc liên tục mở rộng sản lượng, nâng giá DM và kiểm soát lạm phát ở mức ổn định.
Nét đặc trưng thứ hai là việc sử dụng công cụ điều tiết tín dụng Lombard Loans: Ngay từ những ngày đầu hoạt động, những doanh nghiệp của Đức phải chủ yếu dựa vào vốn vay của NHTM và NHTM đến lượt nó lại phụ thuộc chặt chẽ vào vốn cấp từ cửa sổ chiết khấu và cửa ngõ Lombard. Như vậy, cửa ngõ Lombard tăng cường khả năng cho vay của NHTM , nhờ đó sự cải tổ thiết bị công nghệ trở nên dễ dàng hơn, nới rộng đường giới hạn sản lượng tiềm năng của nền kinh tế Đức.
Đối với nghiệp vụ thị trường mở: NHTW Đức vận dụng chính sách khác biệt với NHTW khác và Fed. Nếu các NHTW khác nhằm vào hai mục tiêu chính: 1/ Thắt chặt hoặc nới lỏng tiền mặt ngoài lưu thông; 2/ nới lỏng hoặc thắt chặt dự trữ bắt buộc trong các kho của ngân hàng trung gian. Cả hai đều tác động vào cơ số tiền tệ và nhằm vào hai mục tiêu: giảm hoặc tăng cung ứng tiền mặt; giảm hoặc tăng tín dụng được cấp phát từ hệ thống ngân hàng trung gian. Với NHTW Đức, ngoài mục tiêu phổ biến trên, nghiệp vụ thị trường mở còn tác động tới lượng chiết khấu mà ngân hàng trung gian đầu tư vào cuối mỗi kỳ. Gần như tất cả ngân hàng trung gian đều sử dụng tiền mặt thừa vào cuối mỗi thời điểm để đầu tư vào một loại chứng khoán tiện lợi nhất. Mà chứng khoán là một loại ký quỹ cho NHTW khi ngân hàng trung gian muốn vay tại cửa ngõ Lombard. Kết quả là khi NHTW Đức muốn điều tiết bằng nghiệp vụ thị trường mở, nó đồng thời hỗ trợ cho việc thắt chặt hay nới rộng vốn cấp từ cửa ngõ này. Do đó, nghiệp vụ thị trường mở của NHTW Đức ảnh hưởng đến tín dụng của toàn bộ nền kinh tế.
Cuối cùng là cách quản lý chặt chẽ đối với công cụ dự trữ bắt buộc: thật vậy, nếu ngân hàng trung gian này bị phát hiện là thiếu công cụ dự trữ bắt buộc, nó phải lập tức vay NHTW ở cửa sổ chiết khấu để bù vào khoản thiếu hụt theo quy định với mức lãi suất phạt cao hơn vốn vay từ Lombard đến 3%. Ngoài ra, dự trữ bắt buộc còn được coi như là còi hiệu cho sự tăng hay giảm lượng tín dụng được cấp phát vào nền kinh tế Đức từ hệ thống ngân hàng trung gian. Mỗi khi dự trữ bắt buộc được Đức đưa lên, trong vòng nửa năm sau đó, nguồn cho vay đối với các đơn vị kinh doanh đều giảm. Điều ngược lại, khi dự trữ bắt buộc bắt đầu hạ, tín dụng cấp phát lập tức tăng lên. Sự thay đổi trong dự trữ bắt buộc kéo theo một cách rõ ràng và chắc chắn sự thay đổi của lượng tín dụng được phép cho vay của ngân hàng trung gian qua thừa số tiền tệ. Công cụ điều tiết tỷ lệ dự trữ bắt buộc giống như một chiếc hàn thử biểu đo lường giữa áp suất dự trữ bắt buộc và nhiệt độ tín dụng, phản ánh sự thay đổi của tín dụng một cách rõ nét khi dự trữ bắt buộc thay đổi.
Ngoài ra, với tham vọng giành được quyền lực ở Châu Âu thay cho Hoa Kỳ, người Đức coi xuất khẩu là con đường bành trướng kinh tế nhanh nhất. Chính sách tiền tệ của Đức, vì vậy, phục vụ một cách đắc lực cho công thức xuất khẩu - hướng ngoại - tăng trưởng. Chính vì lý do đó, bằng việc điều tiết cơ số cung ứng DM trên thị trường, NHTW Đức đã điều tiết tỷ giá theo từng mục tiêu bộ phận, theo từng thời điểm trong năm, trong khuôn khổ chiến lược nói trên, tiến tới điều tiết xuất nhập khẩu và sản lượng nền kinh tế Đức.
Có thể nói, kinh nghiệm của Đức để lại một bài học vô cùng quý giá. Đó là sự quan hệ mật thiết giữa việc ổn định mức tăng giá cả, sản lượng thông qua cơ chế tiền tệ và tín dụng. NHTW Đức thật sự là nền tảng của nền kinh tế Đức bằng việc kiểm soát mức cung tiền tệ qua các công cụ hữu hiệu của mình. Tín dụng qua công cụ lãi suất chiết khấu và Lombard diễn xuất những vai rất thành công trong việc thúc đẩy xuất khẩu và đầu tư. Chính sách tỷ giá và điều tiết cơ số tiền tệ là các công cụ gắn bó với nhau để ổn định cán cân thanh toán và phòng ngừa rủi ro. Đặc biệt, riêng đối với Đức, không bao giờ việc cấp tín dụng ưu đãi bị coi là lạc hậu. Bởi lẽ có những khu vực cần được cấp phát tín dụng một cách ưu tiên để phát triển phù hợp với chiến lược chung.
3. Kinh nghiệm của NHTW Nhật
Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế qua đó NHTW muốn xác định các mục tiêu như tiền tệ ổn định, tăng trưởng kinh tế hoặc cân bằng cán cân thanh toán. ở đây NHTW Nhật coi bình ổn giá là mục tiêu quan trọng nhất. Mục tiêu này được thực hiện bằng việc thực hiện các công cụ chính sách như thay đổi mức chiết khấu chính thức, hoạt động chứng khoán và hối phiếu, hoạt động tỷ lệ dự phòng.
Đối với tỷ lệ chiết khấu chính thức:
Tỷ lệ chiết khấu chính thức là tỷ lệ gốc được ngân hàng Nhật áp dụng khi cho các tổ chức tài chính tư nhân vay. Tỷ lệ chiết khấu chính thức có tác dụng hiệu ứng thông báo. Một sự thay đổi trong tỷ lệ chiết khấu được xem như thay đổi trong quan điểm cơ bản về chính sách tiền tệ, ảnh hưởng đến các hoạt động cho vay của các tổ chức tài chính, khoản đầu tư và tiêu thụ của hộ gia đình. Ngân hàng Nhật thực hiện việc cho vay trực tiếp đối với các tổ chức tài chính cần tài trợ ngắn hạn như một phương tiện điều chỉnh tiền tệ. Tỷ lệ chiết khấu chính thức được áp dụng cho việc vay này. Ngân hàng Nhật không cho tất cả các tổ chức tài chính vay. Khoản vay này chỉ thực sự được cấp cho các tổ chức tài chính đủ tiêu chuẩn do ngân hàng Nhật quy định. Có ba loại cho vay của ngân hàng Nhật: chiết khấu tín phiếu thương mại, vay tín phiếu và hệ thống thanh toán tín phiếu nhập khẩu. Việc vay tín phiếu được thực hiện như một phương tiện điều chỉnh tiền tệ của ngân hàng Nhật nhưng việc cấp và rút các khoản vay tự do hơn. Tại Nhật, việc vay bằng tín phiếu được hiểu là có một hệ thống các tổ chức tài chính vay tiền từ ngân hàng Nhật bằng tín phiếu được ngân hàng Nhật công nhận là thế chấp đủ tiêu chuẩn. Cơ sở pháp lý của việc vay ngân hàng Nhật được quy định tại điều 20 Luật ngân hàng Nhật.
Đối với việc quản lý chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhật
Ngân hàng Nhật quản lý chính sách tiền tệ mà không cần bộ trưởng tài chính thông qua. Ngoài ra Lombard, để giảm sự phụ thuộc của các khách hàng là các tổ chức tài chính vào khoản vay của ngân hàng Nhật, ngân hàng Nhật đã lập ra giới hạn tối đa được vay và các nguyên tắc không được phép vượt quá giới hạn này. Mức tín dụng trên được xây dựng trên cơ sở từng quý đối với mỗi ngân hàng. Trong trường hợp khoản vay vượt quá mức trần là không thể tránh khỏi thì khoản vay phải chịu lãi suất 4% trên tỷ lệ chiết khấu. Nhưng trên thực tế không có khoản vay nào vượt quá mức trần. Giới hạn vay hầu hết dựa vào vị thế vốn của các tổ chức tài chính nhưng chi tiết thì không được công bố công khai.
Đối với việc mua bán chứng khoán và tín phiếu:
Hoạt động chứng khoán và tín phiếu khác các giao dịch cho vay bằng đàm phán ở chỗ là những giao dịch của thành viên thuộc nhiều thị trường hoặc hoạt động thị trường mở. Về mặt chức năng, chúng được xem như là phương tiện ra hạn tín dụng hoặc rút tín dụng từ khu vực tư nhân cũng giống như việc cho vay. Ngân hàng Nhật kiểm soát lãi suất trên thị trường tiền tệ bằng cách thay đổi khối lượng và điều kiện thế chấp và hoạt động tín phiếu. Tín phiếu trên thị trường là hối phiếu được rút ra, mua bán và trả cho ngân hàng Nhật. Hệ thống bán tín phiếu là một hệ thống qua đó NHTW phát hành thế chấp nợ và sử dụng chúng như công cụ điều chỉnh tài chính. Ngoài Nhật, các hệ thống tương tự cũng có ở Bồ Đào Nha, Đan Mạch....
Đối với tỷ lệ dự trữ bắt buộc :
Hệ thống yêu cầu dự trữ bắt buộc là một hệ thống mà theo nó các tổ chức tài chính được yêu cầu nhận tiền gửi không lãi suất tại ngân hàng Nhật, trong đó số tiền gửi và các khoản nợ của mình được gọi là dự trữ bắt buộc. Vì các tổ chức tài chính gửi tiền vào tài khoản không hưởng lãi suất do vậy họ chịu các chi phí. Bằng cách thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngân hàng Nhật có thể tác động đến các quan điểm cho vay của các tổ chức tài chính thông qua tác động chi phí.v.v...
Phần B:
Thực tiễn thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
I. Thực tiễn thực thi chính sách tiền tệ của Việt Nam trong thập kỉ 90.
Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam thời gian qua.việc đổi mới cải cách hoạt động Ngân hàng là khâu rất cơ bản, được coi là mũi “Đột phá khẩu” tạo những bước tiến vững chắc đưa nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường. Đặc biệt, điều được quan tâm nhất trong qúa trình đổi mới là làm thế nào để xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ một cách hiệu quả nhất.
Chính sách tiền tệ là một công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô, đóng góp vai trò quan trọng trong điều tiết, quản lí nền kinh tế thị trường. Việc đề ra chính sách tiền tệ là chức năng của ngân hàng Nhà nước, tuy vậy, chính sách tiền tệ là một bộ phận trong chính sách kinh tế Nhà nước nên cần phải gắn liền với việc phảt triển kinh tếvà chính sách kinh tế của Nhà nước. Việc thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả có nhiều đóng góp to lớn trong kiềm chế lạm phát, thúc đẩy nền kinh tế phát triển và tăng trưởng. Nền kinh tế Việt Nam ta những năm 90 có 2 giai đoạn chủ yếu. Với bước đột phá của đường lối đổi mới, giai đoạn thứ nhất 90-95 được coi là giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế, thoát qua cơn thử thách khó khăn của chặng đường đầu của quá trình đổi mới sang kinh tế thị trường. Giai đoạn 1996 -2000 là giai đoạn đầu tư phát triển kinh tế cao, tạo tiền đề vật chất và nền tảng cho bước phát triển lâu bền của nền kinh tế sang thềm thế kỉ 21. Vậy ta thử xem tác động trong từng giai đoạn như thế nào?
1. Nhận định chung.
Vượt qua cơn thử thách khắc nghiệt của những năm cuối thập kỉ 80, Nền kinh tế Việt Nam đã và đang bước sang giai doạn tạo đà phát triểnvới tốc độ cao. Đó là nhờ hàng loạt chính sách đổi mới theo cơ chế thị trường có tác dụng to lớn thu hút lòng tin đối với đầu tư nước ngoài. Liên tục từ năm 1988 đến vay, mọi nỗ lực của chính phủ Việt Nam là làm thế nào để kiềm chế lạm phát ở mức từ 3 con xuống còn một con số. Thành công đáng nói là trong khi lạm phát được kéo xuống nhưng nền kinh tế vẫn tăng trưởng cao, khá ổn định. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình quân tăng hàng năm từ 7 - 8%. Thêm vào đó, lòng tin của nhân dân đối với đồng tiền Việt Nam từng bước được khôi phục, tiền tệ ổn định ngày một khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài. Tỷ lệ tích luỹ đầu tư cả nước năm 1993 tăng đáng kể so với tỷ lệ tích luỹ 11- 12% của những năm trước đây. Có thể nói, chúng ta đã đạt được những thành quả trên là nhờ những nhân tố sau:
Thứ nhất, pháp lệnh ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh ngân hàng thương mại qui định cơ sở cho việc thiết lập ngân hàng hai cấp, tạo nền tảng pháp lí cho hoạt động kinh doanh ngân hàng có hiệu quả.
Thư hai, Ngân hàng Nhà nước thực sự đã tập trung vào điều hành chính sách tiền tệ, nới lỏng cơ chế kiểm soát giá cả, phi tập trung hoá tiến trình đưa ra các quyết định kinh tế , thống nhất điều hành tỷ giá theo quan hệ cung - cầu ngoại tệ, khuyến khích xuất khẩu, đồng thời thi hành chính sách lãi suất “thực dương”, kết hợp thắt chặt đúng mức việc cung ứng tiền trung ương. Các giải pháp tình thế mạnh dạn khởi đầu cùng với việc sử dụng từng bước có hiệu quả các công cụ tài chính đã đem lại những thành quả đáng khích lệ trong việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa hoà nhập với cộng đồng tài chính quốc tế, đổi mới hệ thống thanh toán của Ngân hàng Nhà nước và 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, cho phép mở các chi nhánh và đại diện ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, thúc đẩy hoạt động ngân hàng ngày càng đa dạng và mang tính hội nhập hơn.
Thứ tư, các ngân hàng thương mại đã đổi nới hình thức hoạt động huy động vốn và cho vay vốn theo hướng cơ chế thị trường và kể từ năm 93 trở đi đã có lãi. đem lại hiệu quả cho hoạt động ngân hàng.
Thứ năm, chính phủ luôn chú trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô, quan tâm đến chính sách tiền tệ và giữ lạm phát ở mức thấp.
Các nhân tố trên là những động lực cơ bản tạo ra một hệ thống ngân hàng tuy chưa phát triển hoàn hảo nhưng tương đối ổn định.
Tuy nhiên, sự ổn định này cũng chưa thật vững chắc, vẫn còn một số hạn chế sau đây.
Về phương diện kiểm soát lạm phát, tuy tỷ lệ lạm phát dao động xung quanh 4 - 12%, nhưng ngân hàng Nhà nước chưa có khả năng kiểm soát theo mong muốn. Một khi có những cơn sốc về phía cung, nền kinh tế sẽ vấp phải những vấn đề khó khăn khó tránh khỏi.
Chẳng hạn như năm 1993 ngân hàng Nhà nước dự kiến lạm phát ở mức 10 - 13%, nhưng thực tế chỉ có 5,2%. Sở dĩ như vậy, bởi vì hàng mùa hè của Trung Quốc tràn sang với giá rẻ do chính sách điều tiết tỷ giá của họ. Điều này dẫn đến giảm phát ở nước ta. Nếu năm 1994 chúng ta dự tính lạm phát chỉ ở mức một con số thì tình hình lại ngược lại. Lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu longlàm mất mùa khiến giá cả lương thực và thực phẩm tăng cao. Tỷ lệ lạm phát năm 1994 tăng lên. Do đó, có thể nói, khả năng kiểm soát lạm phát của Nhà nước ta chưa đồng đều, chưa hạn chế được những trở ngại khách quan. Hơn thế nữa, do nền kinh tế bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ của khu vực, chính phủ đã cắt giảm chi tiêu, đưa ra các qui định hạn chế nhập khẩu tạm thời. Tiến hành phá giá đồng tiền Việt Nam khoảng 17% và hạn chế tăng trưởng tiền tệ. Chính vì vậy, nhịp độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây giảm sút nghiêm trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đã giảm từ 8% năm 1990 xuống còn 5,85% năm 1998. Thêm vào đó, tình hình kinh tế hiện nay đang có dấu hiệu mau chóng dần đến thiểu phát khiến cho sự phục hồi kinh tế càng trở nên khó khăn. Hệ thống tiền tệ tín dụng ngân hàng hoạt động không hiệu quả, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế kém. ở các doanh nghiệp sản suất , hàng tồn kho quá nhiều, một bộ phận dân cư còn bị thiếu đói do ảnh hưởng của hạn hán, gây ảnh hưởng xấu đến các vấn đề xã hội.
Có thể nói, nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu và có xuất phát điểm rất thấp so với các nước ngoài. Do đó để tránh tụt hậu, chúng ta phải đề ra những chính sách tiền tệ phù hợp, góp phần ổn định và phát triển kinh tế.
2. Nội dung của chính sách tiền tệ.
2.1 Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước là chính sách mà ngân hàng nhà nước thực hiện cung ứng tiền cho nền kinh tế ở mức kiểm soát được lạm phát, thực hiện một chính sách lãi suất thực dương do ngân hàng nhà nước qui định, giữ một tỷ giá ổn định nhằm kiểm soát được tỷ giá. Trên thực tế thì tỷ giá danh nghĩa ( tỷ giá đồng Việt Nam so với đồng USD) bắt đầu ổn định. Từ năm 1993 trở đi, khi ngân hàng nhà nước mở cửa trung tâm giao dịch tại 2 thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, phản ánh sự vận động của luồng ngoại tệ vào gây nên áp lực tăng giá cho đồng Việt Nam._.Chú trọng đến phần tổng cầu của nền kinh tế thông qua công cụ cung tiền tệ.
2- Chú trọng đến phần tổng cung của nền kinh tế thông qua việc khuyến khích khu vực sản xuất và dịch vụ, mở cửa ngoại thương.
3- Chú trọng theo dõi diễn biến giá cả của hàng hoá dịch vụ và kiểm soát chặt chẽ giá của một số mặt hàng quan trọng.
Kết quả nổi bật là năm 1995 tốc độ tăng trưởng là 9.5%, lạm phát là 12.7%, năm 1996 tốc độ tăng trưởng 9.34% lạm phát là 4.5%. Đến năm 1997, lạm phát là 3.6% tăng trưởng là 8.15%. Lạm phát chỉ ở mức 1 con số, nền kinh tế vẫn giữ ở mức tăng trưởng.
3. Đánh giá chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
3.1 Những thành tựu đạt được.
Với những nỗ lực phi thường của mình, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhớ trong thời kỳ đầu của quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Sự chuyển biến đó cụ thể được thể hiện ở những mặt sau:
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước đã hạn chế cung ứng tiền để kiềm chế lạm phát.
Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện một chính sách lãi suất thực dương, quy định trần lãi suất và tạo nền tảng để tiến tới “tự do hoá lãi suất”.
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách ổn định tỷ giá thực tế.
Thứ tư, theo quyết định của Chính phủ về việc chấm dứt phát hành cho bù đắp bội chi ngân sách, Ngân hàng Nhà nước đã giảm dần đáng kể cung ứng tiền cho bội chi ngân sách.
3.2. Những tồn tại cần khắc phục.
Chúng ta biết rằng việc thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo cơ chế thị trường chỉ được vài năm, do đó bên cạnh những thành tựu đạt được cũng không sao tránh khỏi những vấn đề còn hạn chế mà đỏi hỏi các chuyên gia kinh tế cũng như các nhà chính sách cần nắm bắt để khắc phục và hoàn thiện. Dưới đây là 7 vấn đề cơ bản được đúc kết lại qua thực trạng thực thi chính sách tiền tệ của Việt Nam:
3.2.1. Chưa xác định rõ ràng mối liên hệ giữa mục tiêu trung gian M2 và lãi suất.
Vấn đề về mối quan hệ giữa lãi suất và mục tiêu trung gian M2 là vấn đề cần quan tâm của các nhà làm chính sách tiền tệ ở Việt Nam. Do thị trường tín dụng chưa phát triển nên lãi suất chưa được xác định thông qua cung - cầu M2. Lãi suất do vậy được ấn định trong khi đó Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lại lấy M2 làm mục tiêu trung gian. Từ đó còn cho thấy cần một thời gian dài để phát triển hệ thống ngân hàng và thị trường tiền tệ để có thể đạt được sự tương quan giữa lãi suất và tổng phương tiện thanh toán M2.
3.2.2. Những khó khăn về tín dụng do chính sách lãi suất còn nhiều bất cập.
Trên lĩnh vực tín dụng, tuy Ngân hàng Nhà nước đã nhiều lần đưa quyết định hạ lãi suất, những do khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế cồn thấp, mặt khác, mức lãi suất vẫn còn cao nên đã hạn chế các tổ chức kinh tế đẩy mạnh vay vốn Ngân hàng để mở mang sản xuất kinh doanh.
Về cơ cấu lãi suất, cho đến nay ta chưa khắc phục được sự chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ do mặt bằng lãi suất trong nước cao hơn quốc tế và lãi suất ngoại tệ thì buộc phải theo lãi suất thị trường quốc tế. Do lịch sử để lại, lãi suất cho vay trung và dài hạn của các ngân hàng vẫn thấp hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Thêm vào đó, nguồn vốn trung và dài hạn còn hạn hẹp không khuyến khíc các ngân hàng cho vay trung và dài hạn, đầu tư phát triển, xây dựng cơ sở hạ tầng.
3.2.3. Sự thiếu hiệu quả của công cụ chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ mới được giới thiệu vào Việt Nam từ đầu những năm 90, do đó hiểu quả của chính sách tiền tệ trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng còn rất hạn chế. Các công cụ chủ yếu là các công cụ trực tiếp được ấn định bởi Ngân hàng Nhà nước như: hạn mức tín dụng, lãi suất, tỷ giá. Các công cụ gián tiếp hầu như chưa có hoặc nếu có vẫn chưa hoàn thiện, chưa phát huy đầy đủ hiệu lực tác động và điều tiết vì nền tảng thị trường của các công cụ gián tiếp chưa hình thành. Cụ thể là:
- Dự trữ bắt buộc chưa được thực hiện thành nền nếp trong tất cả tổ chức tín dụng.
- Chưa có nghiệp vụ tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước do thiếu công cụ hối phiếu. Hiện tại Ngân hàng Nhà nước vẫn đang thực hiện tái cấp vốn trên cơ sở các khế ước cho vay của các NHTM.
- Nghiệp vụ thị trường mở vừa mới hình thành còn non trẻ không tránh khỏi sự thụ động trong hoạt động, chưa phát huy được đặc tính ưu việt của mình. Hàng hoá của thị trường mở còn hạn chế về số lượng, chất lượng.
3.2.4. Thị trường tiền tệ còn sơ khai nghèo nàn về công cụ.
Thứ nhất, thị trường nội tệ liên ngân hàng phát triển chậm, chưa có các công cụ làm hàng hoá trao đổi. Số lượng và cường độ giao dịch trên thị trường chưa thường xuyên liên tục, từ đó thị trường chưa phản ánh hết lượng cung cầu thực tế về vốn ngắn hạn của Ngân hàng, chưa cho phép hình thành nên lãi suất thị trường tiền tệ để Ngân hàng Nhà nước có thể tham khảo và tiến hành điều tiết một cách phù hợp.
Thứ hai, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mới ra đời, còn nhỏ bé, số đối tác hoạt động tích cực chưa nhiều, còn có sự trông chờ xuất phát từ doanh vụ Ngân hàng Nhà nước.
Thứ ba, thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc vừa chính thức đi vào hoạt động, bước đầu đạt kết quả nhưng khối lượng còn nhỏ, cần củng cố phát triển để hoạt động diễn ra được thường xuyên hơn, tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước sử dụng công cụ này làm công cụ chính sách tiền tệ.
Thứ tư, chưa có thị trường vốn làm môi trường so sánh giữa lãi suất ngắn hạn và lãi suất trung và dài hạn, theo dõi tác động qua lại giữa thị trường vốn và thị trường tiền tệ phục vụ cho chính sách tiền tệ.
3.2.5. Nguy cơ nguồn vốn ngoại tệ vào.
Nguồn vốn ngoại tệ vào sẽ tăng đầu tư phát triển kinh tế, nhưng đồng thời cũng tăng cung tiền tệ của hệ thống ngân hàng thương mại. Trong trường hợp Ngân hàng Nhà nước quản lý tốt nguồn vốn ngoại tệ vào sẽ tương ứng với 1 - 1 tăng cung đồng tiền nội tệ. Để giảm ảnh hưởng của tăng cung tiền tệ do nguồn vốn nước ngoài vào thì Ngân hàng Nhà nước cần phát triển thị trường tiền tệ và sử dụng nghiệp vụ trung hoà bằng cách cùng đồng thời bán tín phiếu ra.
Việc thống kê, theo dõi các luồng ngoại tệ vào ra thông qua các nguồn khác nhau như xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài trực tiếp, du lịch, vay nợ còn gặp nhiều khó khăn, chưa đầy đủ kịp thời, nên hạn chế việc phân tích đánh giá và xử lí chính sách tiền tệ một cách chính xác và khách quan.
3.2.6. Ngân sách Nhà nước.
Thâm hụt ngân sách Nhà nước còn lớn, xử lý còn gặp khó khăn tác động đến chính sách tiền tệ.
3.2.7. Ngân hàng Nhà nước chưa sẵn sàng đối phó với các cơn lốc kinh tế.
4. Những giải pháp đề xuất đối với chính sách tiền tệ của Việt Nam.
Trên cơ sở những tồn tại của chính sách tiền tệ của Việt Nam, ta cần có những giải pháp phù hợp để khắc phục những khó khăn đó.
Thứ nhất, chính sách tiền tệ phải được xây dựng trên cơ sở tính độc lập tương đối của Ngân hàng Nhà nước. Cụ thể là:
- Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là thành viên của Chính phủ.
- Do Chính phủ chịu trách nhiệm đối với chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, nên Thống đốc Ngân hàng được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền trong việc kiểm soát tăng cung tiền tệ thông qua các công cụ tiền tệ của mình và cung ứng tiền tệ nhằm các mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ hai, chính sách tiền tệ phải được xây dựng trên quan điểm cân đối giữa ổn định kinh tế vĩ mô và đầu tư phát triển kinh tế. Chúng ta biết rằng, mục tiêu phát triển kinh tế trong thời gian tới là tăng trưởng cao nền kinh tế. Trong đó chính sách tiền tệ đóng vai trò là giữ một mức độ ổn định kinh tế. Tuy vậy cần có sự thận trọng và cân nhắc một cách chính xác, xác định rõ ràng mức tăng cung tiền tệ để đảm bảo sự ổn định kinh tế.
Thứ ba, chính sách tiền tệ trên cơ sở xâydựng hoàn thiện chương trình tài chính. Một chương trình tài chính ở đây được hiểu bao gồm một mô hình kinh tế vĩ mô, lấy mục tiêu cân bằng nội (uăng trưởng kinh tế đạt mức tiềm năng của nền kinh tế) vàcân bằng ngoại ( cán cân thanh toán quốc tế bội thu). Một chương trình tài chính với hai mục tiêu trên phải dưa vào khối xơ bản nhất là thiết kế hàm cầu tiền tệ thựcvà trên xơ sở dự doán cầu tiền tệ để xác định mức cung tiền tệ (M2). Mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ xẽ là M2 và tủ giá hối đoái.
Thứ tư, chính sách tiền tệ phải trên cơ sở phát triển của thị trương tài chính.Điều đó thể hiện xây dựng chính sách tiền tệ phải trên cơ xây dựng hệ thống tài chính phát triển bao gồm hệ thống ngân hàng thương mại phát triển an toàn và thị trương tiền tệ, thị trường chứng khoán phát triển. Một thị trương tài chính sâu rộng và cạnh tranh sẽ tạo cho sự phân phối vốn có hiêu quả cho nền kinh tế, đồng thời ngân hàng Nhà nước sẽ có trong tay công cụ gián tiếp linh hoạtđể điều hành chính sách tiền tệ, ví dụ hư nghiệp vụthị trường mở. Qua điểm này gắn với việc tự do hoá thị trường tài chính trong nước và tiến tới giải phóng lãi suất trong nước.
Thứ năm, chính sách tiền tệ phải xây dựng trên cơ sở định hướng tới việc xây dựng và sử dụng các chính sách tiền tệ gián tiếp. Chứng ta biết rằngthời gian trước đây, ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ yếu sử dụng công cụ trực tiếp. Các công cụ này ít nhiều vẫn mang tín hthị động, không phát huy được hiệu quả canh tranh trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Việc xây dựng chính sách tiền tệ phải dần thay thế các công cụ gián tiếp thì các công cu trực tiếp phải có hiệu lực. Có thể tạm phân loại các công cụ như sau:
- Tái cấp vốn của ngân hàng Nhà nước
- Qui định lãi suất trần
- Qui định hạn mức tín dụng của hệ thống ngân hàng
- Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Bán tín phiếu hoặc trái phiếu bắt buộc của ngân hàng Nhà nước.
- Nghiệp vụ thị trường mở.
- Lãi suất tái chiết khấu.
Thứ sáu, chính sách tiền tệ khôn nên tồn tại một cách độc lập mà phải có mối liên hệ cặt chẽ với chính sách tài chính. Chính sách kinh tế vĩ mô đều do hai loại chính sách cơ bản tạo nên: chính sách tiền tệ và tài chính. Một khi ngân sách bành trướng thì chính sách tiền tệ có thể phải thắt chặ, nhưng điều này lại ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của hệ thống ngân hạng. Vì vậy, giải quyết tốt nhất là ngân sách Nhà nước nên gửi tại ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại như các nước vẫn làm. Khi đó ngân hàng Nhà nước mới đủ khả năng điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu mong muốn.
Thứ bảy, chính sách tiền tệ phải được xây dựng trên cơ sở hội nhập vớithị trương tài chính quốc tế. Nền kinh tễ của một nước khôn phải lúc nào thu gọn trong một nước mà luôn phải có sự giao lưu, hội nhập và nhất là đối vỡi xu hướng toàn cầu hoá hiện đại nay. Chính vì vậy, thị trường tài chính sớm muộn gì cũng phải mở cửa với thị trường quốc tế, nhờ đó mới hy vọng thu hút được nguồn tiết kiệm quốc tế. Tỷ giá hối đoái lúc này phải được xác định theo cung cầu thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, và lãi suất phần đông bị ảnh hưởng bởi lãi suất quốc tế. Điều này đặt ra những khó khăn trong việc điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là việc hạn chế tác động của luồng vốn nước ngoài lên tăng cung tiền tệ và quản lý rủi ro đối với khả năng thay đổi hướng đi của vốn hoặc đình chỉ luồng vào vốn. Vì vậy, cần có chính sách tiền tệ tạo lòng tin cho người đầu tư và nước ngoài, đặc biệt là lòng tin đối với tỷ giá hối đoái.
Thứ tám, thị trường tiền tệ phải trên cơ sở chuẩn bị đối phó với các biến động cơn sốc kinh tế tác động đến nền kinh tế trong nước. Sở dĩ như vậy, bởi lẽ ngày nay nước ta là thành viên của khối ASEAN, của khối APEC. Một sự khủng hoảng của các nước thành viên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình nước ta. Do đó chính sách tiền tệ phải đủ mạnh thì mới đối phó được với sự ảnh hưởng của các nước trong khu vực.
II. Nội dung định hướng chính sách tiền tệ đến năm 2005.
Một chính sách tiền tệ có hiệu quả hay không chỉ phụ thuộc vào cách thực hiện chính sách đó mà hiệu quả của chính sách còn tuỳ thuộc vào định hướng ban đầu có tác dụng “dẫn đường chỉ lối” đối với chính sách. Chính vì vậy, để thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, việc làm đầu tiên của các nhà quản lí là làm thế nào vạch ra được những hướng đi đúng và tạo điều kiện để chính sách tiền tệ phát huy được thế mạnh thực sự của mình.
1. Về mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Nếu giai đoạn 1991 - 1995 được coi là giai đoạn kiểm soát lạm phát, giai đoạn 1995 - 2000 là thời kỳ đẩy mạnh tốc độ đưa nền kinh tế sang giai đoạn công nghiệp hoá đất nước, thì giai đoạn 2000 - 2005 được coi là thời kì ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo sự tăng trưởng cao của nền kinh tế. Sở dĩ ta đề cao mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô vì nó bao hàm nghĩa rộng hơn nhiều so với mục tiêu kiểm soát lạm phát và đây chính là mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước. Phải hiểu ổn định kinh tế vĩ mô trước hết là ổn định tiền tệ, cần phải kiểm soát chặt chẽ lạm phát, tăng cường sự ổn định cho đồng tiền, trên cơ sở đó mà huy động nguồn vốn trong và ngoài nước phục vụ cho phát triển kinh tế vững chắc. Hơn thế nữa, ổn định kinh tế có nghĩa là tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức đồng đều trong các năm gần với năng lực của nền kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp thấp, tỷ lệ lạm phát không dao động quá mạnh, cán cân thanh toán quốc tế cân bằng và không có sự dao động lớn của các biến số qua các năm. Đồng thời phải chú ý giải quyết một cách thấu đáo mâu thuẫn giữa hai mục tiêu: lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Đây thực sự là một vấn đề nan giải. Chúng ta biết rằng đặc điểm đặc thù của nền kinh tế kém phát triển đi vào con đường phát triển là nền kinh tế không bào giờ giữ được ổn định cao vì đầu tư gia tăng, khối lượng tiền tệ gia tăng. Hơn thế nữa, nền kinh tế của các nước này còn bị chia cắt bởi nhiều yếu tố, chưa có một cơ cấu hoàn chỉnh như các nước phát triển, vì vậy sự biến động của một đại lượng sẽ gây phản ứng đối với các đại lượng khác. Giả sử chỉ cần tăng một tỷ lệ nhỏ lãi suất là tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể giảm, trong khi đó ở những nước công nghiệp một sự tác động lớn trong lĩnh vực này chưa chắc đã tác động đến lĩnh vực khác. Vì vậy để phát triển kinh tế, một mặt phải đầu tư cao, một mặt phải thường xuyên nâng cao thu nhập dân chúng và đến lượt nó tạo ra nhu cầu sản xuất, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu gia tăng của dân chúng vì vậy kinh tế phải phát triển với tốc độ cao.
Như vậy, mục tiêu của chính sách tiền tệ có hai phương án lựa chọn:
Thứ nhất là giữ cho tỷ lệ lạm phát dưới mức 10% và như vậy sẽ hạn chế đầu tư, tốc độ phát triển kin tế có thể khoảng 6 - 7%. Nền kinh tế sẽ ổn định.
Thứ hai là giữ cho tỷ lệ lạm phát mức 10 - 15%, thậm chí có những năm có thể chấp nhận 17 - 18% và như vậy vốn đầu tư cao khả năng tăng trưởng kinh tế có thể đạt từ 9 - 11%. Nhưng nền kinh tế một lúc nào đó có thể mất ổng định, cần có sự phản ứng tốt của các công cụ chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước, nếu không sẽ có nguy cơ lạm phát ở mức cao 25- 30% làm xói mòn lòng tin đối với người đầu tư trong nước, như vậy luồng vốn có thể chuyển ra ngoài.
Hai phương án đều có ưu và nhược điểm. Nhưng với các quốc gia còn đang phát triển và có nguy cơ tụt hậu thì nên chọn phương án 2. Hàn Quốc cũng chọn phương án 2cho giai đoạn 1960 - 1979, mãi sau năm 1980 mới nhấn mạnh ổn định kinh tế vĩ mô khi nền kinh tế đã công nghiệp hoá xong.
2. Về việc điều hành khối lượng tiền cung ứng.
Khối lượng tiền cunh ứng trong nền kinh tế phải được kiểm soát, điều hành chủ động và có hiệu lực, bám sát các tín hiệu thị trường để vừa đảm bảo cung ứng đủ phương tiện thanh toán cần thiết cho nhu cầu phát triển kinh tế vừa tạo ta sức ép đối với giá cả, thực hiện được mục tiêu ổn định tiền tệ trên cơ sở đảm bảo các cân đối kinh tế vĩ mô. Trong các đại lượng về khối tiền, đại lượng M2 ở Việt Nam được định nghĩa bao gồm tiền mặt ngoài hệ thốn ngân hàng và tiền gửi các loại của công chúng tại các tổ chức tín dụng, có tính cả tiền gửi bằng ngoại tệ - là đại lượng tổng quát nhất biể hiện tổng cung về tiền, cần đượcc theo dõi, dự báo và điều hành sát sao với tính cáchất lượngà mục tiêu trung gian để kiểm soát tiền tệ và lạm phát. Ngoài ra cung ứng tiền còn chú ý đầy đủ hơn các yếu tỗ đặc biệt tác động vào cầu tiền như tình hình đất đai nhà cửa, luồng ngoại tệ từ bê ngoài vào đòi chuyển ta ngoại tệ.
Trong nghiệp vụ có cuả ngân hàng Nhà nước, thời hạn cho vày tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng cần đưởc rút ngắn, tiến tới cho vay trên cơ sở tái chiết khấu hối phiếu thương mại hoặc cầm cố các loại giấy tờ có đủ tiêu chuẩn mà ngân hàng Nhà nước qui định, chú ý đảm bảo vốn đối ứng cho ngoại tệ với định hướng tiếp tục nâng cao ngoại tệ quốc gia.
Ngoài ra, để thực hiện tốt việc cung ứng tiền, ngân hàng Nhà nước cần phải cần phải hoàn thiện và sử dụng có hiệu quả hơn nữa các công cụ của chính sách tiền tệ.Thực hiện có hiệu quả việc chuyển đổi điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước từ công các công cụ tiền tệ trực tiếp sang điều hành bằng các công cụ gián tiếp nghằm giữ ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát phát triển thị trường tiền tệ, tạo điều kiện và cơ sở điều hành chính sách tiền tệ một cách năng động linh hoạt. Cụ thể là:
Thứ nhất, nâng cao hiệu lực của công cụ dự trữ bắt buộc trong việc kiểm soát khả năng cho vay và tạo tiền gửi của các tổ chức tín dụng, xử lí nghiêm các trường hợp không duy trì mức qui định, đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức tín dúng sử dụnglinh hoạt dự trữ của mình tại ngân hàng trung ương.
Thứ hai, duy trì hạn mức tín dụng đối với tổ chức tín dụng nhằm khống chế tổng phương tiện thanh toán trong phạm vi cho phép, hướng các khoản vay vào các mục tiêu có hiệu quả cao, nâng cao chất lượng tín dụng.
Thứ ba, hinh thành và sử dụng công cụ tái chiết khấu của ngân hàng trung ương trên cơ sở đưa hối phiếu thương mại vào sử dụng trong nền kinh tế, thu hẹp dần việc cho vay tái cấp vốn không có đảm bảo bằng giấy có chất lượng cao, thiết lập lãi suất chỉ đạo của ngân hàng Nhà nước có hiệu lực, tham gia ngày cang mạnh vào điều tiết lãi suất trên thị trường, thay thế dần vai trò của biên pháp can thiệp lãi suất trực tiếp.
Thứ tư, nghiên cứu áp dụng phương thức cho vay cầm cố giấy tò có gía với thời gian rất ngắn, lãi suất cao hơn lãi suất tái chiết khấu để xử lí thiếu khả năng thanh toán tạm thời của các tổ chức tín dụng khi hạn mức tái chiết khấu đã sử dụng hết.
Thứ năm, cần đầu tư phát triển mạnh mẽ nghiệp vụ thị trường mở, bắt đầu bằng việc thực hiện thường xuyên tín phiếu kho bạc, phát triển thị trường thứ cấp tín phiếu kho bạc, tiến tới nghiệp vụ thị trương mở đối với các loại giấy tờ có giá khác để mở rộng phạm vi điều tiết;
Thứ sáu, xem xét áp dụng hình thức hợp đông mua bán có thời hạn giữa ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại để nâng cấp nghiệp vụ ngân hàng thương mại đơn thuần thành một công cụ điều tiết ngân hàng trung ương mềm dẻo linh hoat.
3. Về chính sách tín dụng.
Chúng ta biết rằng huy động vốn và cho vay vốn là chức năng của các tổ chức tín dụng. Ngân hàng trung ương chỉ thực hiện việc quản lí nhằm hướng hướng tín dụng vào các mục tiêu chung của phát triển kinh tế, đảm bảo khối lượng và chất lượng huy động vốn, cơ cấu tín dụng hợp lí, an toàn trong hệ thống ngân hàng.
Trước hết, ta xem xét về khía cạnh huy động vốn.
Nhìn chung, khả năng tiết kiệm của nhân dân còn hạn hẹp do thu nhập còn thấp. Tỷ lệ tiền mặt sử dụngcho tiêu dùng hàng ngày chiếm tỷ trọng cao trong chi tiêu, nhưng có xu hướng tăng dần cung tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế. Ngoài ra, kkhối lượngtiền mặt nằm ngoài hệ thống ngân hàng còn tương đối lớn, chiếm kkhoảng 37% trong tổng phương tiện thanh toán, một phần sử dụng cho đầu tư, kinh doanh, nhưng chắc chắn cũng còn một bộ phận nằm trong túi người dân chưa được tận dụng. Vì vậy, phải đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt thông qua tài khoản tại Ngân hàng, tạo thói quen sử dụng các dịch vụ Ngân hàng của tầng lớp dân cư sẽ cho phép tận dụng tốt hơn nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội. Để cải thiện hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt trong lĩnh vực này, các biện pháp hiện đại hoá công nghệ thanh toán và các dịch vụ thanh toán như xây dựng cơ sở hạ tầng tin học cho hệ thống thanh toán, lắp đặt mạng máy gửi, rút tiền tự động, áp dụng thẻ thanh toán, lắp đặt mạng máy gửi, rút tiền tự động, áp dụng thẻ thanh toán điện tử, tiến tới các giao dịch Ngân hàng đóng vai trò quan trọng.
Hơn thế nữa, cần tiếp tục đổi mới phương thức huy động vốn, nhất là vốn trung và dài hạn. Ngay từ thời kỳ đầu, Ngân hàng Nhà nước cũng như các tổ chức tín dụng phải có các biện pháp để tăng trưởng tín dụng, trên cơ sở an toàn và hiệu quả, mở rộng và đa dạng hoá các hình thức đầu tư để tạo sự chu chuyển vốn thông suốt. Cụ thể là phát hành các loại chứng chỉ kỳ phiếu có mục đích, có khả năng chuyển nhương và thanh toán linh hoạt, phổ cập hình thức rút tiền một nơi, thanh toán nhiều nơi, thực hiện cá nhân mở tài khoản, phát triển các hình thức tiết kiệm giáo dục, tiết kiệm bậc thang, phát triển các loại cổ phiếu, trái phiếu cấp mở rộng hoạt động của các Công ty bảo hiểu, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để phát triển một thị trường hấp dẫn sôi động. Đặc biệt, quá trình cổ phần hoá là sự hỗ trợ quan trọng cho thị trường này phát triển. Việc thiết lập sở giao dịch chứng khoán sẽ là bước thúc đẩy tiếp theo giúp cho thị trường trở nên sôi động và có hướng dẫn.
Ngân hàng Nhà nước cần hỗ trợ cho các Ngân hàng thương mại từng bước phát triển việc phát hành trái phiếu của mình ra thị trường vốn quốc tế, mở ra kênh huy động vốn mới tiềm năng dồi dào, đồng thời thúc đẩy các Ngân hàng Việt Nam hoà nhập thị trường tài chính quốc tế.
Thứ hai, về việc cho vay của hệ thống Ngân hàng đối với nền kinh tế.
Phương châm chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước đối với công tác tín dụng của Ngân hàng thương mại là phải mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế, đáp ứng tốt các nhu cầu vay vốn có hiệu quả cao và phục vụ đường lối phát triển kinh tế hợp lý của Nhà nước. Tăng cường cho vay trung, dài hạn và xây dựng cơ bản, góp phần đẩy mạnh tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế. Không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng, giảm tỷ lệ nợ quá hạn, nhất là các khoản nợ quá hạn tồn đọng từ những năm trước đây, nợ khó đòi xuống mức lành mạnh theo tiêu chuẩn quốc tế, tăng nhanh vòng quay và hiệu quả sử dụng vốn của toàn xã hội. Chú ý thích đáng việc cho vay phát triển nông ngư nghiệp cũng như các đối tượng chính sách, góp phần phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng, các địa phương và thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của hệ thống Ngân hàng.
4. Về chính sách quản lý ngoại hối và tỷ giá:
Đặc điểm cơ bản của hệ thống tiền tệ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là trong tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế, đồng thời ngoại tệ còn chiếm một tỷ lệ đáng kể. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để chính sách ngoại hối phải được quản lý tăng cường thu hút đại bộ phận thị trường trong nước vào hệ thống Ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước cần kiểm soát tốt các luồng ngoại tệ ra vào đất nước, thực hiện từng bước việc thanh toán bằng tiền Việt Nam chiếm lĩnh triệt để thị trường trong nước, tiến tới mọi hoạt động giao dịch tín dụng thanh toán có liên quan tới nước ngoài và các đồng tiền nước ngoài đều phải thực hiện theo cơ chế chuyển đổi qua các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ.
Trong chính sách tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo theo hướng tôn trọng quan hệ khách quan giữa cung và cầu ngoại tệ trên thị trường, có điều tiết linh hoạt và mềm dẻo nhằm phục vụ khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, góp phần ổn định mặt bằng giá cả trong nước và tiếp tục tăng cường dự trữ Nhà nước. Cụ thể là:
- Điều chỉnh tỷ giá một cách dần dần, làm như vậy sẽ tránh sự bất ổn định, vừa tránh được những lãng phí tài nguyên không đáng có mà vẫn đáp ứng được những đòi hỏi của sự thay đổi thị trường, đảm bảo được mục tiêu phát triển đất nước.
- Có chính sách lãi suất thích hợp, đảm bảo khoảng cách giữa đồng nội tệ và USD một cách hợp lý, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn.
- Khống chế mức lạm phát trong nước, bởi vì lạm phát có tác động ngược chiều với tỷ giá của đồng nội tệ. Nếu không khống chế được mức lạm phát thì những diễn biến trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái khó có thể kiểm soát được, dẫn đến những diễn biến ngoài mong muốn.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ mà trực tiếp là Ngân hàng Nhà nước trên thị trường ngoại hối. Thông qua cơ chế chính sách, các biện pháp quản lý hành chính của Chính phủ có thể tác động đến hoạt động của thị trường hối đoái, quản ý các nguồn ngoại tệ trôi nổi trên thị trường, chống những hiện tượng đầu cơ, buôn bán trái phép ngoại tệ, góp phần ổn định tỷ giá hối đoái.
5. Về tín dụng đối với ngân sách Nhà nước:
Để kiểm soát lạm phát có hiệu quả và lành mạnh hoá tài chính quốc gia, việc chấm dứt hoàn toàn tín dụng trực tiếp từ Ngân hàng trung ương đối với ngân sách Nhà nước là hết sức cần thiết. Ngay cả khi Ngân hàng Nhà nước làm đại lý cho ngân sách Nhà nước vay vốn trên thị trường cũng cần tránh phát sinh loại tín dụng này vì nó hạn chế hiệu quả của chính sách tiền tệ.
6. Về việc xử lý lãi suất:
Công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá không tránh khỏi việc tập trung nguồn lực vào ngành mũi nhọn, đầu kéo cho nền kinh tế và những khu vực phát triển chiến lược, do vậy trong tình hình nguồn vốn trong nền kinh tế còn hạn hẹp thì việc sử dụng công cụ lãi suất một cách chủ đích là một điều cần thiết. Trong trường hợp này các tác nhân đầu tư có thể tiếp cận đến nguồn tín dụng với lãi suất ưu đãi của các quỹ hỗ trợ đầu tư Nhà nước. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ tín dụng cho các nhà đầu tư kinh doanh tại các vùng khó khăn là tìm cách hạ thấp mức lãi suất, trước mắt giảm lãi suất cho vay trên cơ sở giảm thuế đối với hoạt động Ngân hàng và tiết giảm chi phí hoạt động Ngân hàng, về lâu dài phải dựa trên cơ sở hạ thấp tỷ lệ lạm phát để hạ cả lãi suất huy động và cho vay.
Về cơ cấu lãi suất, phải tiếp tục điều chỉnh tuỳ theo tình hình chấp nhận của thị trường, sao cho lãi suất cho vay trung dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn, khuyến khích Ngân hàng cho vay đẩy mạnh đầu tư phát triển. Mặt khác, chênh lệch lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ cần được xử lý. Hướng của Ngân hàng Nhà nước hiện nay là xoá bỏ dần hình thức cho vay bằng ngoại tệ, thực hiện định hướng chính sách quản lý ngoại hối, trong nước chỉ sử dụng đồng tiền Việt Nam làm phương tiện thanh toán, xoá luôn sự tồn tại đồng thời của hai loại lãi suất khác nhau, chỉ còn một lãi suất tiền gửi và cho vay bằng đồng Việt Nam.
7. Các biện pháp hỗ trợ:
Để thực hiện chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước còn phải thực hiện đồng bộ nhiều chính sách không kém phần quan trọng như:
Một là, củng cố cải tiến bộ máy theo dõi và điều hàng hoáành của Ngân hàng Nhà nước cho gọn nhẹ theo hướng tập trung, bảo đảm tính thống nhất nhanh và nhạy của chính sách.
Hai là, hỗ trợ phát triển các tổ chức tín dụng theo hướng kinh doanh đa năng, mở rộng hệ thống Ngân hàng với cơ cấu hợp lý, cân đối giữa các vùng khu vực, bảo đảm thực hiện tốt mọi ngành, mọi thành phố kinh tế, tạo ra môi trường cạnh tranh có lợi cho những người sử dụng dịch vụ Ngân hàng. Phát triển các hình thức Ngân hàng hợp tác xã gọi là các tổ chức tín dụng nhân dân rộng khắp cả nước, nghiên cứu cho sự ra đời của các định chế tài chính khác như quỹ đầu tư, Công ty thuê tài chính, Công ty kinh doanh môi giới chứng khoán.
Ba là, thực hiện hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng, đặc biệt hiện đại hoá hệ thống thanh toán, đưa vào áp dụng các biện pháp nghiệp vụ và phương pháp điều hành kinh doanh Ngân hàng hiện đại.
Bốn là, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động thanh tra trên cơ sở hoàn thiện cơ chế an toàn hệ thống Ngân hàng, nâng cao năng lực nghiệp vụ thanh tra Ngân hàng.
Năm là, mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức tín dụng quốc tế, Ngân hàng trung ương các nước để tranh thủ sự giúp đỡ về vốn và trợ giúp về kỹ thuật cho nền kinh tế và cho hoạt động Ngân hàng, đồng thời tạo lập các điều kiện và bước đi hợp lý trong quá trình hội nhập của hệ thống Ngân hàng Việt Nam với cộng đồng tài chính quốc tế.
Sáu là, hoàn thành dứt điểm công tác xây dựng các nghị định của Chính phủ, hướng dẫn thi hành Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng, đồng thời hoàn thành hệ thống văn bản hướng dẫn của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước để hai Luật này phát huy hiệu quả trong thựcc tiễn.
Bảy là, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ, trang bị và cập nhật thường xuyên kiến thức mới, đáp ứng đòi hỏi với công việc.
Tám là, tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động Ngân hàng, trọng tâm là xây dựng Bộ luật Ngân hàng.
Đây chính là những việc cần cải cách trong tương lai để việc thực thi chính sách tiền tệ có hiệu quả hơn, góp phần đổi mới hệ thống Ngân hàng.
Kết luận
Chính sách tiền tệ ở Việt Nam mới đi vào hoạt động từ những năm 90. Bên cạnh những thuận lợi đạt được trong việc cải cách hệ thống Ngân hàng, việc thực thi chính sách tiền tệ còn gặp không ít những khó khăn. Đó là do lối suy nghĩ và hoạt động theo cơ chế quan liêu cũ, công cụ chính sách tiền tệ còn mang nặng tính hành chính, các công cụ gián tiếp còn chưa được sử dụng một cách hiệu quả. Cụ thể hơn, những thách thức mà Việt Nam đang đối mặt là chưa có một thanh toán tài chính phát triển. Đó phải chăng là đầu mối cho những bất cập trong việc thực thi chính sách tái chiết khấu chưa thực sự là hiệu ứng thông báo đối với thị trường, thị trường mở còn mới mẻ, chỉ mới đi vào hoạt động. Do đó, vấn đề đặt ra là phát huy nội lực, phát triển sản xuất, tăng khả năng hấp thụ và luân chuyển vốn trong nền kinh tế. Hơn thế nữa, các nhà chính sách Việt Nam cần tạo ra môi trường pháp lý thuật lợi và những điều kiện chủ quan để trong tương lai, Việt Nam có một thị trường tài chính phát triển. Đây chính là tiền đề làm nền tảng để xây dựng và phát triển một chính sách tiền tệ hoàn hảo có tác dụng điều chỉnh và đem lại hiệu quả cho hoạt động Ngân hàng.
Tài liệu tham khảo
Frederid S Mishkin - Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính - 1994.
Lê Vinh Danh : Tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, 1996.
Lê Vinh Danh: Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của Ngân hàng trung ương ở các nước tư bản phát triển.
Tài liệu giảng dạy bộ môn Tiền tệ - Học viện Ngân hàng, 1/2000.
David Begg : Kinh tế học vĩ mô, 1995.
Nguyễn Duệ : Đồng tiền chung châu Âu, 1999.
Tạp chí Ngân hàng các số: 8/1999; 8/2000; 1/2001.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0850.doc