LỜI NÓI ĐẦU
Luật doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1999 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2000, là cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp như Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân. Sau khi Luật doanh nghiệp ra đời, Chính phủ, các Bộ, ngành có liên quan đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành… Cùng với Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật hợp tác
69 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực tiễn thi hành Luật doanh nghiệp, những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung (65tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xã, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước..., Luật Doanh nghiệp được ban hành đã đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tại Việt Nam, phục vụ cho nền công nghiệp hoá, hiện đại hóa nước nhà.
Tuy nhiên sau hơn ba năm thi hành, Luật doanh nghiệp cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định; nhiều quy định tỏ ra bất hợp lý, cần phải có những sửa đổi, bổ sung kịp thời; nhiều vấn đề phát sinh cần được nghiên cứu, lý giải để để góp phần xây dựng cơ chế thi hành Luật doanh nghiệp có hiệu quả trong đời sống xã hội. Nói cách khác là sau một thời gian phát huy hiệu lực, bên cạnh những thành tựu rất đáng ghi nhận, thì cũng dần xuất hiện không ít những vấn đề khó khăn cần phải được giải quyết, cả về lý luận cũng như cơ chế thi hành. Việc nghiên cứu về thực tiễn thi hành Luật doanh nghiệp cũng như hướng hoàn thiện đạo luật này trở nên hết sức cấp thiết, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang cố gắng để hội nhập với nền kinh tế thế giới. Vì lý do đó, chúng tôi đã chọn đề tài “Thực tiễn thi hành Luật doanh nghiệp, những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung”.
Do trình độ và thời gian còn nhiều hạn chế, cũng như phạm vi rộng và tính phức tạp của đề tài, luận văn không thể tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự giúp đỡ và ý kiến đóng góp từ các thầy cô giáo và các bạn sinh viên để luận văn được hoàn thiện hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP
1.SỰ RA ĐỜI LUẬT DOANH NGHIỆP
Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ra đời vào giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới (được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1990) đã thể hiện bước đột phá, đánh dấu sự thay đổi trong tư duy kinh tế của Đảng và Nhà nước, tạo cơ sở chính trị, pháp lý cho sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta. Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân quy định các vấn đề pháp lý về tổ chức và hoạt động của hai loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là công ty (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần) và doanh nghiệp tư nhân. Qua gần 10 năm áp dụng, hai đạo luật này đã góp phần to lớn vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN.
Những thành tựu mà hai đạo luật trên đem lại là không thể phủ nhận, song trong quá trình thi hành cũng dần xuất hiện các bất cập lớn cần phải được sửa đổi, bổ sung kịp thời: (i) Thủ tục thành lập doanh nghiệp qua hai giai đoạn thành lập và đăng ký kinh doanh đã tạo ra một quá trình “xin-cho” gây rất nhiều phiền hà cho các nhà đầu tư. Đây chính là một bất cập lớn nhất làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước, với những phiền hà không đáng có gần như là ở tất cả các giai đoạn của quá trình xin cho trên thực tế đã làm nản lòng bất cứ một nhà đầu tư nào; (ii) Các quy định về vốn pháp định, tức mức vốn tối thiểu mà các chủ đầu tư bắt buộc phải có khi muốn thành lập doanh nghiệp tư nhân hay công ty, đã ngăn cản một số lượng đáng kể các chủ đầu tư tham gia vào hoạt động kinh doanh một cách hợp pháp. Mặc dù, mục tiêu của các nhà lập pháp khi đặt ra quy định này nhằm bảo vệ quyền và lợi ich hợp pháp của các chủ nợ, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bền vững nhưng trên thực tế, quy định này đã có những tác dụng theo chiều hướng ngợc lại. Sự can thiệp một cách thái quá của Nhà nước đối với các chủ thể kinh doanh không những không bảo vệ được lợi ích cho các chủ nợ, bảo đảm sự phát triển bền vững của nền kinh tế mà vô hình chung còn góp phần tạo nên những doanh nghiệp ma, nơi mà số vốn thực có thấp hơn vốn pháp định rất nhiều; (iii) Việc quy định một cách thiếu rõ ràng về trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như cơ chế phối hợp giữa các cơ quan này trong 2 đạo luật trên cũng như trong văn bản luật chuyên ngành đã tạo ra một cơ chế quản lý Nhà nước “mạnh ai người nấy được”, không ai đứng ra chịu trách nhiệm khi có những khó khăn, vướng mắc cần được giải quyết; (iv) Bên cạnh đó, trong hơn 10 sau đổi mới, khung khổ pháp lý nói chung và khung khổ pháp lý về doanh nghiệp nói riêng đã không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Bộ luật dân sự, Luật thương mại, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật phá sản doanh nghiệp và các Luật khác về doanh nghiệp như Luật Doanh nghiệp Nhà Nước, Luật Hợp tác xã đã được ban hành. Luật đầu tư nước ngoài cũng đợc sửa đổi bổ sung theo hướng thu hẹp sự khác biệt, tiến tới tiến trình hình thành một khung khổ pháp lý bình đẳng đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam khi tham gia ASEAN, AFTA, APEC, kí kết hiệp định thương mại với Hoa Kỳ và đang tiến hành đàm phán để gia nhập WTO.
Với tính thời sự và tầm quan trọng của công cuộc đổi mới kinh tế mà Đảng và Nhà nước ta đề ra và quan tâm thực hiện, những quy định trong Luật công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân ban hành trước đây tỏ ra không còn thích hợp với nội dung tương ứng của một số Luật khác có liên quan, đặc biệt là Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Bộ luật dân sự, Luật thương mại…
Ngoài ra, cũng phải kể đến trình độ phát triển về kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay đã đạt được mức cao hơn đáng kể so với 10 năm trước đây. Chính sự phát triển đó đã tạo ra lý do chủ yếu thúc đẩy việc ban hành Luật doanh nghiệp trên cơ sở hợp nhất Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Luật Doanh nghiệp có phạm vi điều chỉnh mở rộng hơn, nội dung đầy đủ bao quát hơn, phù hợp hơn với yêu cầu quản lý Nhà nước và yêu cầu đa dạng hoá hình thức kinh doanh, thúc đẩy, huy động nội lực phát triển kinh tế trong giai đoạn mới.
Quan điểm chủ đạo xây dựng Luật doanh nghiệp là nhằm đạt được mục tiêu: “ giải phóng và phát triển mọi lực lượng, mọi tiềm năng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi người, mọi gia đình, mọi doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển, không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm, khắc phục sự giảm sút của khu vực kinh tế này”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương VI lần 1
Để đạt được mục tiêu nói trên, Luật doanh nghiệp đã được xây dựng trên cơ sở bám sát các tư tưởng chỉ đạo sau đây:
Một là, Quán triệt đầy đủ tư tưởng, nội dung, tinh thần của Nghị quyết hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 4 khóa VIII về tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh theo pháp luật.
Hai là, Hiến pháp năm 1992, các Bộ Luật, Luật đã ban hành liên quan đến hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp.
Ba là, Nội dung luật doanh nghiệp trước hết phải xuất phát từ thực tiễn, từ yêu cầu cuộc sống đang đòi hỏi, giải quyết những vướng mắc của đời sống kinh tế đồng thời tạo ra động lực mới thúc đẩy mạnh mẽ sức mạnh nội lực.
Bốn là, Kế thừa những kinh nghiệm quý báu đúc kết được trong quá trình thực hiện Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân, cũng như học tập tham khảo kinh nghiệm của các nước để xây dựng Luật doanh nghiệp hiện đại góp phần thích nghi và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế nước ta vào kinh tế khu vực và thế giới.
Trên tinh thần đó, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá X ngày 12/6/1999, Luật doanh nghiệp đã được thông qua, đánh dấu một bước tiến mới, quan trọng trong quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, thông thoáng hơn để thúc đẩy, khuyến khích các nhà đầu tư phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước, nhằm “góp phần phát huy nội lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, đẩy mạnh công cuộc đổi mới kinh tế, bảo đảm quyền tự do, bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh”. Lời nói đầu - Luật doanh nghiệp
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP
1.PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP
Thay thế Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Doanh nghiệp quy định việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình công ty và doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp Nhà nước sau khi được cổ phần hoá, kể cả trường hợp Nhà nước có cổ phần chi phối tại doanh nghiệp; doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật doanh nghiệp. Điều 1- Luật doanh nghiệp
Theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp thì những loại hình doanh nghiệp sau đây thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành:
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân được thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp;
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân đã thành lập theo quy định của Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ngày 21 tháng 12 năm 1990 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật sửa đổi một số điều của Luật công ty ngày 22 tháng 6 năm 1994;
+ Công ty cổ phần được thành lập từ việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước;
+ Công ty cổ phần được cổ phần hoá doanh nghiệp của Đảng, doanh nghiệp của tổ chức chính trị – xã hội;
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập từ việc chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước;
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập từ việc chuyển đổi doanh nghiệp của Đảng, doanh nghiệp của tổ chức chính trị – xã hội.
Luật doanh nghiệp, cụ thể là các quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị – xã hội đăng ký và hoạt động. Như vậy, Luật doanh nghiệp điều chỉnh phần lớn các loại hình doanh nghiệp thành lập và hoạt động tại Việt Nam (trừ Hợp tác xã, Doanh nghiệp Nhà nước, và Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam). Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật doanh nghiệp và quy định của các luật chuyên ngành về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân, thì áp dụng theo quy định của luật chuyên ngành.
2.ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC QUYỀN THÀNH LẬP, QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP VÀ GÓP VỐN VÀO DOANH NGHIỆP.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp, đối tượng được quyền thành lập, góp vốn và quản lý doanh nghiệp được mở rộng hơn so với Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Trong Luật doanh nghiệp vấn đề người được quyền góp vốn, thành lập và quản lý doanh nghiệp được quy định theo phương pháp loại trừ, theo đó mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền thành lập, quản lý và góp vốn vào doanh nghiệp, trừ trường hợp bị cấm được liệt kê trong Luật (điều 9, điều 10). Cách tiếp cận này của Luật doanh nghiệp tạo lập được các công cụ pháp lý để tập trung huy động vốn kinh doanh. Để huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, Luật doanh nghiệp mở rộng tối đa phạm vi các chủ thể có nguồn lực được đóng góp vào hoạt động kinh doanh.
3. THỦ TỤC THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP.
So với Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Doanh nghiệp đã có bước tiến quan trọng trong các quy định về thủ tục thành lập doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp xoá bỏ thủ tục “xin – cho” trong thành lập doanh nghiệp. Theo quy định của Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân, để thành lập doanh nghiệp, nhà đầu tư phải tiến hành qua hai bước: Bước 1: xin phép thành lập doanh nghiệp ở Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc đơn vị hành chính cấp tương đương, nơi dự định đặt trụ sở chính; Bước 2: xin cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh tại Sở Kế hoạch và Đầu tư. Theo đó, để tiến hành một hoạt động kinh doanh theo hình thức công ty hay doanh nghiệp tư nhân thì nhà đầu tư phải qua hai giai đoạn thủ tục “xin phép thành lập và đăng ký kinh doanh”. Để tiến hành các thủ tục này cần phải có nhiều loại giấy tờ, con dấu khác nhau, do đó nhà đầu tư tốn rất nhiều thời gian cũng như chi phí. Cơ chế xin phép thành lập doanh nghiệp qua thực tiễn thi hành Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân đã bộc lộ sự hạn chế rõ rệt.
Nhằm khắc phục những hạn chế nói trên và thực hiện chủ trương cải cách thủ tục hành chính trong việc thành lập doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp đã hoàn thiện những quy định về thành lập và đăng ký kinh doanh theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính và hồ sơ, đề cao trách nhiệm của người đăng ký kinh doanh trong việc bảo đảm tính chính xác, trung thực. So với Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân, các quy định về thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh của Luật doanh nghiệp đã có những đổi mới cơ bản như: xoá bỏ chế độ xin phép thành lập, chỉ thực hiện việc đăng ký kinh doanh; coi việc thành lập doanh nghiệp là quyền tự do kinh doanh, được pháp luật bảo đảm, góp phần xoá bỏ cơ chế “xin-cho” đang tồn tại khá phổ biến trong đời sống kinh tế-xã hội nước ta. Đây chính là một bước tiến mới trong việc thực hiện nguyên tắc tự do kinh doanh của Luật doanh nghiệp.
Luật doanh nghiệp quán triệt tư tưởng “thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật là quyền của công dân và tổ chức được Nhà nước bảo hộ” đã quy định giản đơn về hồ sơ đăng ký kinh doanh. Ngoại trừ việc thành lập doanh nghiệp kinh doanh một số ngành nghề kinh doanh phải có vốn pháp định và chứng chỉ hành nghề, hồ sơ đăng ký kinh doanh chỉ bao gồm: (i) Đơn đăng ký kinh doanh; (ii) Điều lệ đối với công ty; (iii) Danh sách thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, danh sách thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, danh sách cổ đông cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần.
Bên cạnh việc đơn giản hoá thủ tục thành lập doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp còn bãi bỏ quy định về vốn pháp định đối với doanh nghiệp ở hầu hết các ngành nghề. Theo quy định của Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân, vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập công ty hay doanh nghiệp tư nhân do pháp luật quy định đối với từng ngành, nghề. Với mục đích phát huy nội lực, huy động tối đa nguồn lực trong dân chúng, Luật doanh nghiệp không quy định vốn pháp định là một điều kiện để thành lập doanh nghiệp, trừ các doanh nghiệp kinh doanh ở một số ngành nghề được quy định trong các luật chuyên ngành. Như vậy, theo Luật Doanh nghiệp thì chỉ có một số ngành nghề nhất định mới đòi hỏi có xác nhận vốn pháp định (như kinh doanh vàng, bảo hiểm, tín dụng…).
Ngoài ra Luật doanh nghiệp cũng không yêu cầu nhà đầu tư phải xuất trình phương án kinh doanh và những xác nhận khác về nhân thân của chủ đầu tư như giấy chứng nhận sức khoẻ, hộ khẩu thường trú khi đăng ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp mà chỉ kê khai các thông tin này theo mẫu quy định.
Tóm lại, Luật doanh nghiệp đã thực hiện một cuộc cải cách thủ tục hành chính trong việc thành lập doanh nghiệp theo hướng gộp việc xin phép thành lập và đăng ký kinh doanh thành một, đồng thời chỉ giữ lại những thủ tục, hồ sơ thực sự cần thiết trên cơ sở yêu cầu nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước. Những cải cách đó sẽ giảm bớt được chi phí về thời gian, công sức và tiền bạc cho việc thành lập doanh nghiệp, đồng thời cũng giúp cho doanh nghiệp có được sự chủ động trong hoạt động. Những cải cách đó cũng sẽ tháo bỏ được một cản trở đã tồn tại nhiều năm qua đối với việc thành lập doanh nghiệp, làm cho việc thành lập doanh nghiệp để kinh doanh trở nên hấp dẫn hơn đối với dân chúng và doanh nghiệp, qua đó giúp cho xã hội huy động được nguồn vốn đưa vào phát triển kinh doanh, làm tăng sức cạnh tranh của thị trường để làm cho nền kinh tế phát triển hiệu quả hơn.
4 CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC LẠI DOANH NGHIỆP.
Đây là một nội dung hoàn toàn mới của Luật Doanh nghiệp so với Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Mục đích và ý nghĩa của Luật doanh nghiệp khi quy định về các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong tổ chức vận hành hoạt động kinh doanh. Bởi vì có thể cũng là một loại hình kinh doanh, nhưng tại giai đoạn này thì phù hợp , nhưng sang giai đoạn khác lại không phù hợp nữa. Việc quy định các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp đã tạo ra cơ hội cho các nhà đầu tư có thể thay đổi hình thức kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển kinh tế. Hơn nữa, việc đưa ra một khung pháp lý để tổ chức lại doanh nghiệp nhằm giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, bảo vệ được lợi ích của các bên liên quan như chủ nợ, người lao động, Nhà nước ..
Luật doanh nghiệp đã quy định khá đầy đủ về vấn đề tổ chức lại doanh nghiệp. Các quy định về tổ chức lại doanh nghiệp trong Luật doanh nghiệp được xây dựng trên cơ sở vận dụng những nguyên tắc chung về tổ chức lại pháp nhân đợc quy định trong Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp được đề cập trong Luật doanh nghiệp có nội dung là tổ chức lại công ty, cụ thể như sau:
4.1.Chia doanh nghiệp
Chia doanh nghiệp là biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp được áp dụng cho công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, theo đó công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần được chia thành một số công ty mới cùng loại. Viêc chia công ty do Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc Đại hội đồng cổ đông của công ty quyết định. Quyết định chia công ty phải có các nội dung chủ yếu: tên, trụ sở công ty hiện có, số lượng công ty sẽ thành lập; nguyên tắc và thủ tục chia tài sản công ty; phương án sử dụng lao động, thời hạn và thủ tục chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty bị chia sang công ty mới thành lập; nguyên tắc giải quyết các nghĩa vụ của công ty bị chia, thời hạn chia công ty.
Sau khi xác lập tư cách pháp lý cho các công ty mới (đăng ký kinh doanh), công ty bị chia chấm dứt sự tồn tại. Các công ty mới thành lập phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị chia, trừ trường hợp chủ nợ và các công ty mới thành lập có thoả thuận khác.
4.2.Tách doanh nghiệp
Tách doanh nghiệp là biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp được áp dụng cho công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, theo đó một phần tài sản, quyền và nghĩa vụ của công ty hiện có (công ty bị tách) được tách ra để thành lập một hoặc một số công ty mới cùng loại (công ty được tách) mà không chấm dứt sự tồn tại của công ty bị tách. Việc tách công ty do Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc Đại hội đồng cổ đông của công ty quyết định. Quyết định tách công ty phải có các nội dung chủ yếu : tên, trụ sở công ty bị tách, số lượng công ty được tách; phương án sử dụng lao động; giá trị tài sản, các quyền và nghĩa vụ được chuyển từ công ty bị tách sang công ty được tách, thời hạn thực hiện tách công ty.
Sau khi xác lập tư cách pháp lý cho công ty được tách, công ty bị tách và công ty được tách phải liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị tách phát sinh trước khi tách công ty, trừ trường hợp chủ nợ, ngời có quyền và lợi ích liên quan và công ty bị tách và công ty được tách có thoả thuận khác.
4.3. Hợp nhất doanh nghiệp
Hợp nhất là biện pháp tổ chức lại được áp dụng cho tất cả các loại hình công ty, theo đó hai hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị hợp nhất) hợp nhất thành một công ty mới (gọi là công ty hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị hợp nhất.
Để thực hiện việc hợp nhất, các công ty bị hợp nhất phải thiết lập một hợp đồng gọi là hợp đồng hợp nhất. Hợp đồng hợp nhất phải có các nội dung chủ yếu: tên, địa chỉ trụ sở công ty bị hợp nhất và công ty hợp nhất; thủ tục và điều kiện hợp nhất; phương án sử dụng lao động; thời hạn, thủ tục và điều kiện chuyển đổi tài sản, chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty bị hợp nhất thành vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty hợp nhất; thời hạn thực hiện hợp đồng hợp nhất. Các thành viên, cổ đông của công ty bị hợp nhất thông qua hợp đồng hợp nhất, Điều lệ công ty hợp nhất, thiết lập bộ máy tổ chức quản lý công ty và đăng ký kinh doanh cho công ty hợp nhất. Sau khi đăng ký kinh doanh cho công ty hợp nhất, các công ty bị hợp nhất chấm dứt sự tồn tại, công ty hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của các công ty bị hợp nhất.
4.4. Sáp nhập doanh nghiệp
Sáp nhập là biện pháp tổ chức lại được áp dụng cho tất cả các loại hình công ty, theo đó một hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị sáp nhập) sáp nhập vào một công ty mới (gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.
Để thực hiện việc sáp nhập, các công ty có liên quan (công ty bị sáp nhập và công ty nhận sáp nhập) phải thiết lập một hợp đồng gọi là hợp đồng sáp nhập. Hợp đồng sáp nhập phải có các nội dung chủ yếu: tên, địa chỉ trụ sở công ty bị sáp nhập và công ty nhận sáp nhập; thủ tục và điều kiện sáp nhập; phương án sử dụng lao động; thời hạn, thủ tục và điều kiện chuyển đổi tài sản; chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty bị sáp nhập thành vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty nhận sáp nhập; thời hạn thực hiện hợp đồng sáp nhập. Các thành viên, cổ đông của các công ty có liên quan thông qua hợp đồng sáp nhập, Điều lệ công ty nhận sáp nhập và đăng ký kinh doanh cho công ty nhận sáp nhập. Sau khi đăng ký kinh doanh cho công ty nhận sáp nhập, các công ty bị sáp nhập chấm dứt sự tồn tại, công ty nhận sáp nhập được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của các công ty bị sáp nhập.
4.5. Chuyển đổi doanh nghiệp
Chuyển đổi doanh nghiệp được hiểu là biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp theo đó một doanh nghiệp loại hình này (doanh nghiệp được chuyển đổi) chuyển thành một doanh nghiệp thuộc loại hình khác. Theo Luật doanh nghiệp thì chuyển đổi doanh nghiệp chỉ được áp dụng cho công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, theo đó công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển đổi thành công ty cổ phần hoặc ngược lại.
Để thực hiên việc chuyển đổi công ty, Hội đồng thành viên hoặc Đại hội đồng cổ đông của công ty được chuyển đổi thông qua quyết định chuyển đổi và Điều lệ công ty chuyển đổi. Quyết định chuyển đổi phải có các nội dung: tên, trụ sở công ty được chuyển đổi và công ty chuyển đổi; thời hạn và điều kiện chuyển tài sản, phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty được chuyển đổi thành tài sản, phần vố góp, cổ phần, trái phiếu của công ty chuyển đổi; phương án sử dụng lao động; thời hạn thực hiện chuyển đổi. Công ty chuyển đổi phải được đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền. Sau khi đăng ký kinh doanh cho công ty chuyển đổi, công ty được chuyển đổi chấm dứt tồn tại. Công ty chuyển đổi được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty được chuyển đổi.
5. GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP
Giải thể doanh nghiệp là một trong những thủ tục pháp lý dẫn đến chấm dứt sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp. Các quy định pháp luật về giải thể bao gồm hai nội dung cơ bản là: các trường hợp giải thể và thủ tục giải thể. Về nguyên tắc, quyết định việc giải thể doanh nghiệp thuộc quyền của chủ sở hữu doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp không còn thoả mãn các điều kiện tồn tại theo quy đinh của pháp luật hoặc kinh doanh vi phạm pháp luật, thì bắt buộc doanh nghiệp phải giải thể. Thủ tục giải thể phải tuân thủ các quy đinh của pháp luật để không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của những chủ thể có liên quan, đặc biệt là quyền lợi của chủ nợ và người lao động.
Theo Luật doanh nghiệp, vấn đề giải thể doanh nghiêp tư nhân và công ty được quy định chung. Luật doanh nghiệp có quy định các trường hợp giải thể tự nguyện và các trường hợp giải thể bắt buộc, nhưng chỉ quy định một thủ tục để tiến hành giải thể cho dù là giải thể tự nguyện hay giải thể bắt buộc. Thủ tục giải thể doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp bao gồm các bước cơ bản là: (1)Thông qua quyết định giải thể, (2)Gửi quyết định giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh, các chủ nợ, người có quyền và lợi ích liên quan và đăng báo quyết định giải thể, (3)Tiến hành thanh lý tài sản, thanh toán các khoản nợ và thanh lý các hợp đồng, (4)Cơ quan đăng ký kinh doanh xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh
6. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
Mục tiêu của Luật doanh nghiệp trong việc đưa ra những quy định về quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp là tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc thành lập doanh nghiệp; nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với doanh nghiệp; góp phần ngăn ngừa khả năng một số cán bộ, công chức lợi dụng quyền hạn được giao để sách nhiễu, gây phiền hà cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp.
Luật doanh nghiệp tại Chương VIII có 5 điều quy định về nội dung quản lý Nhà nước với doanh nghiệp: nội dung quản lý Nhà nước với doanh nghiệp (Điều 114); cơ quan quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp (Điều 115); quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp (Điều 116); thanh tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (Điều 117); năm tài chính và báo cáo tài chính của doanh nghiệp (Điều 118), đã quy định rất rõ ràng về trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp.
Về quản lý Nhà nước, Luật doanh nghiệp chú ý đến việc nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nớc đối với doanh nghiệp, cơ chế giám sát hoạt động của các doanh nghiệp sau khi đăng ký kinh doanh, đảm bảo yêu cầu tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp. Một tư tưởng lớn của Luật doanh nghiệp là tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi công dân kinh doanh theo pháp luật, chuyển trọng tâm sự quản lý Nhà nước từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”; tổ chức sự quản lý giám sát của Nhà nước cùng với xã hội, công luận theo nguyên tắc minh bạch, công khai. Luật doanh nghiệp không chỉ tạo điều kiện cho các cơ quan Nhà nước nắm bắt, theo dõi các thông tin về đăng ký kinh doanh để phục vụ công tác quản lý, mà còn cho phép “tổ chức và công dân được yêu cầu cơ quan đăng ký kinh doanh cung cấp thông tin về đăng ký kinh doanh”(Điều 20) của bất kỳ doanh nghiệp nào.
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới tư duy kinh tế, đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực quản lý kinh tế, Luật doanh nghiệp đã xác định rõ mục tiêu quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp là: đặt nền móng cho việc thiết lập một hệ thống cơ quan đăng ký kinh doanh, tập trung thống nhất trong cả nước, có thể đảm nhận chức năng cung cấp thông tin cần thiết về giao dịch kinh doanh cho giới doanh nghiệp.
CHƯƠNG II
THỰC TIỄN THI HÀNH LUẬT DOANH NGHIỆP
THÀNH TỰU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC
Trong hơn 2 năm thi hành Luật doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, cộng đồng doanh nghiệp đã làm được nhiều việc và thu được những kết quả nổi bật trong đổi mới phát triển kinh tế đất nước. Những kết quả quan trọng phải kể đến là:
1.VỀ PHÍA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC,
Trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã ban hành tương đối kịp thời và đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành. Để thi hành Luật doanh nghiệp, ngày 3 tháng 2 năm 2000, Thủ tướng Chính phủ đã ký 3 văn bản quan trọng hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp, đó là: Nghị định số 02/2000/NĐ - CP về đăng ký kinh doanh; Nghị định số 03/2000/ NĐ - CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp; Quyết định 19/2000/QĐ -TTg về bãi bỏ 84 loại giấy phép trái với quy định của Luật doanh nghiệp. Ngày 2/3/2000, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư 03/2000/TT-BKH hướng dẫn về trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh đối với các doanh nghiệp quy đinh tại Luật doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể, ban hành 25 biểu mẫu về kinh doanh và đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước. Như vậy, chỉ sau một tháng, kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực, Chính phủ đã ban hành được các văn bản quan trọng nhất hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp, đảm bảo thực thi những tư tưởng đổi mới chủ yếu của Luật về quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, đảm bảo việc đăng ký kinh doanh được tiến hành thuận lợi. Có thể nói, tuy có chậm hơn so với yêu cầu cuộc sống, song việc hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp đã được tiến hành khẩn trương, nghiêm túc và có nhiều tiến bộ hơn so với một số Luật khác. Thủ tướng Chính phủ đã quan tâm theo dõi và trực tiếp chỉ đạo việc triển khai thi hành Luật doanh nghiệp. Ngày 22/5/2000 tại công văn số 34/CP-ĐMDN về việc thi hành Luật doanh nghiệp, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, cơ quan có liên quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết một số vấn đề vướng mắc trong việc thực hiện Luật doanh nghiệp. Trong quá trình thực hiện Luật doanh nghiệp, Chính phủ tiếp tục xem xét, rà soát, bãi bỏ các loại giấy phép con trái với quy đinh của Luật doanh nghiệp. NĐ 30/CP (có hiệu lực từ ngày 26/8/2000 ra đời, bãi bỏ 61 giấy phép con, và chuyển một số giáy phép này thành điều kiện kinh doanh.
Các Bộ, ngành có liên quan cũng đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Luật. Có thể kể đến ở đây: Quyết định số 47/2000/QĐ-BTC (4/4/2000) về việc bãi bỏ khoản thu lệ phí cấp cấc loại giấy phép trái với quy định của Luật doanh nghiệp ; Quyết định 83/2000/QĐ-BTC (29/5/2000) ban hành mức thu lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Thông tư liên tịch số 05/2000/TTLT-BKH-BTCCBCP (7/6/2000) hướng dẫn việc tổ chức Phòng đăng ký kinh doanh ở cấp tỉnh và huyện.
Dư luận xã hội đã hết sức hoan nghênh một số Bộ, Cơ quan như Bộ xây dựng, Bộ thương mại, Tổng cục Bưu điện đã ban hành kịp thời các quy định hướng dẫn về điều kiện kinh doanh xâ._.y dựng và cấp chứng chỉ hành nghề; Bộ Công an đã kịp thời trình Chính phủ ban hành Nghị định 08/2001/NĐ-CP ngày 22 tháng 1 năm 2000 với nhiều nội dung đổi mới thay thế Nghị định số 17/CP ngày 23 tháng 12 năm 1992. Hai Bộ Giao thông Vận tải và Công nghiệp đã thực hiện Điều 2 Quyết định sô 19/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quyết định bãi bỏ một số giấy phép trái với quy định của Luật doanh nghiệp (Quyết định 2901/2000/QĐ-BGTVT của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ngày 29 tháng 9 năm 2000 và Quyết định 60/2000/QĐ-BCN của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp ngày 20 tháng 10 năm 2000). Tính đến cuối tháng 1 năm 2002, Chính phủ và các cơ quan có liên quan đã ban hành khoảng 47 văn bản hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp. So với nhiều luật khác, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp, được ban hành nhanh hơn, kịp thời hơn, có nội dung hướng dẫn phù hợp với nội dung và tinh thần của Luật doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nhiều Bộ, ngành cũng chủ động bãi bỏ những quy định và giấy phép như Bộ Tài chính tiến hành bãi bỏ trên 700 văn bản, Bộ Thương mại bãi bỏ trên 300 văn bản… Nhờ đó, việc triển khai thực hiện và đưa các quy định của luật vào cuộc sống được thực hiện thông suốt, không bị gián đoạn, hiệu lực của luật nhanh chóng phát huy tác dụng trên diện rộng khắp toàn quốc.
Chính phủ cũng yêu cầu các Bộ, ngành có liên quan vẫn tiếp tục rà soát, bãi bỏ tiếp các loại giấy phép không phù hợp, nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thực sự thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Trên cơ sở đó, Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, một số Bộ có liên quan đã bãi bỏ khoảng 160 loại giấy phép khác nhau.
Xem xét về tiến độ ban hành, nội dung các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp và công tác chỉ đạo thực hiện, có thể rút ra một số nhận xét sau:
(i) Các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp được ban hành tương đối kịp thời, đồng bộ và đầy đủ; về cơ bản, khắc phục được tình trạng Luật chờ Nghị định, Nghị định chờ Thông tư…
(ii) Nội dung các văn bản hướng dẫn, nhất là Nghị định của Chính phủ và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, rõ ràng, nhất quán với nội dung và tinh thần của Luật doanh nghiệp. “Hiện tượng cái phễu” trong hướng dẫn thi hành Luật (Luật thông thoáng, thuận lợi; Nghị định của Chính phủ hạn chế dần; Thông tư và Quyết định của Bộ trưởng tiếp tục hạn chế, thu hẹp nội dung Luật và Nghị định) đã được khắc phục về cơ bản.
(iii) Cùng với những đổi mới trong việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành, công tác chỉ đạo thực hiện cũng đã tập trung, thống nhất, nhất quán và sát với yêu cầu thực tế hơn. Tổ Công tách thi hành Luật doanh nghiệp đã thường xuyên theo dõi tình hình, định kỳ báo cáo với Thủ tướng Chính phủ và Phó Thủ tướng Chính phủ. Nhờ đó, đã kịp thời uốn nắn những biểu hiện sai lệch và giải quyết dựoc một phần không nhỏ các vướng mắc phát sinh trong triển khai thực hiện Luật doanh nghiệp.
(iv) So với các Luật khác thì việc thi hành Luật doanh nghiệp đã thu hút được sự tham gia tích cực của công chúng, của cộng đồng doanh nghiệp và các phương tiện thông tin đại chúng vào việc giám sát theo dõi thực hiện, phát hiện và phản ánh kịp thời các vướng mắc, cản trở đối với việc thi hành luật. Trên thực tế cho thấy đó cúng là một yếu tố quan trọng , có ý nghĩa góp phần làm cho hiệu lực của Luật doanh nghiệp được phát huy nhanh và đầy đủ trong thực tế.
Việc ban hành một loạt các quy định mới và bãi bỏ một số lượng không nhỏ các quy định trái với tinh thần của luật cũng như một loạt các loại giấy phép không còn phù hợp nói trên là khâu đột phá về cải cách hành chính; thể hiện sự thay đổi căn bản về tư duy và phương thức quản lý Nhà nước theo hướng chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm; tách bạch rõ quyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với hoạt động quản lý Nhà nước.
Luật doanh nghiệp được ban hành và triển khai thực hiện có hiệu quả trên thực tế đã mang lại những kết quả to lớn về mặt đối ngoại. Cộng đồng quốc tế và các nhà đầu tư nước ngoài đã có những đánh giá tích cực đối với những cam kết về cải cách kinh tế của Đảng và Nhà nớc. Tổ chức phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP), Ngân hàng thế giới (WB) và nhiều nhà tài trợ đã đánh giá Luật doanh nghiệp như một hình mẫu trong việc thực hiện cải cách thể chế, cần được phát huy và nhân rộng tại nhiều quốc gia đang phát triển khác.
2. VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP
Luật doanh nghiệp ra đời là khâu đột phá trong đổi mới tư duy kinh tế, nhất là tư duy về quyền và nghĩa vụ của công dân, của cơ quan Nhà nước, thúc đẩy xây dựng và thực thi luật pháp theo nguyên tắc “công dân được quyền kinh doanh tất cả các ngành, nghề mà pháp luật không cấm”.
Luật doanh nghiệp tạo ra một bước phát triển mới, thực sự cải cách khâu gia nhập thị trường; tức là tự do thành lập doanh nghiệp với các hình thức khác nhau (với thủ tục thành lập đơn giản ít tốn kém); tự do lựa chọn, thay đổi và bổ sung thêm ngành nghề kinh doanh mới; tự do lựa chọn địa bàn kinh doanh, và mở rộng kinh doanh sang địa bàn, vùng lãnh thổ mới, v.v… Những cản trở đối với các công việc nói trên về cơ bản đã được xoá bỏ. Thời gian trung bình cần thiết để thành lập được doanh nghiệp trước năm 2000 là 90 ngày, thì nay rút xuống còn 7 ngày; nhiều nơi đã rút xuống còn 2 đến 4 ngày, so với thời hạn 15 ngày theo luật định. Tại thành phố Hồ Chí Minh đã thử nghiệm đăng ký kinh doanh qua mạng, rút ngắn thời hạn đăng ký kinh doanh xuống chỉ còn 1 giờ. Chi phí trung bình bằng tiền để thành lập một doanh nghiệp trước đây là hơn 10 triệu đồng (có trường hợp cá biệt là 380 triệu đồng) thì nay giảm xuống còn 500 ngàn đồng.
Thành tựu đạt được từ việc thực hiện Luật Doanh nghiệp còn thể hiện ở chỗ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của người dân được thể chế hoá và đảm bảo tốt hơn; nhờ đó, mọi tổ chức, cá nhân muốn thành lập doanh nghiệp đều thành lập được doanh nghiệp một cách kịp thời và nhanh chóng. Khảo sát thực tế cho thấy không ít người đã có ý định thành lập doanh nghiệp từ 2 - 3 năm trước đây nhưng đã không làm được điều đó; bởi vì, họ không xin được giấy phép thành lập, hoặc khi đã xin được giấy phép thành lập rồi thì lại không xin được các loại giấy phép kinh doanh khác. Luật doanh nghiệp đã trở thành công cụ pháp lý bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp; là yếu tố góp phần củng cố niềm tin của ngời dân vào công cuộc đổi mới. Có thể nói, việc thực hiện Luật doanh nghiệp đã thổi một luồng sinh khí mới vào môi trờng kinh doanh, khơi dậy và thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần kinh doanh, tinh thần tự do sáng tạo và tự chủ trong kinh doanh, làm cho cộng đồng doanh nghiệp tự tin hơn trong hoạt động đầu tư và kinh doanh; tăng thêm sự tin tưởng của nhân dân vào đường lối và chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nước.
Nhân dân nói chung và cộng đồng doanh nghiệp nói riêng đã ủng hộ, hưởng ứng và đón nhận “luồng sinh khí mới” một cách tích cực trên phạm vi toàn quốc. Đa số các doanh nghiệp đã nhận thức được sự thay đổi và quyền kinh doanh và nhanh chóng phát huy sáng kiến, tận dụng các cơ hội kinh doanh, trên nguyên tắc được kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Rõ ràng, Luật doanh nghiệp là một trong các điển hình về “ý Đảng hợp lòng dân”, nhanh chóng phát huy tác dụng trong thực tế cuộc sống. Thực tế cho thấy: Số doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể mới thành lập tăng gấp nhiều lần so với những năm trước đây. Ngay sau khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực, trong năm 2000, đã có hơn 14.417 doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh, gấp khoảng 2,5 lần so với năm 1999. Số doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh ở tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều tăng nhiều so với trước; có những tỉnh như Bắc Giang, Hà Giang, Hà tĩnh, Quảng Bình, Hưng Yên… riêng số doanh nghiệp đăng ký mới trong năm 2000 bằng hoặc gần bằng số doanh nghiệp đăng ký trong suốt 9 năm (1991-1999). Trong số doanh nghiệp mới đăng ký, có khoảng 88% số doanh nghiệp thành lập mới, 9% số doanh nghiệp thành lập bằng chuyển đổi từ hộ kinh doanh cá thể và số còn lại chuyển đổi từ hợp tác xã và các loại hình doanh nghiệp khác. Tiếp đó, trong năm 2001 có 21.040 doanh nghiệp đăng ký thành lập, tăng gần 50% so với năm 2000. Tính tổng số trong 2 năm 2000-2001 đã có 37.457 doanh nghiệp mới dăng ký (gần bằng tổng số doanh nghiệp đăng ký trong suốt 9 năm 1991-1999). Ngoài ra, trong hai năm 2000-2001 còn có thêm gần 300.000 hộ kinh doanh cá thể mới đăng ký kinh doanh. Ba tháng đầu năm 2002, theo thống kê chưa đầy đủ đã có khoảng 4.200 doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh.
Trong 2 năm 2000-2001, các doanh nghiệp đã đăng ký mới và bổ sung tổng cộng gần 55.500 tý đồng vốn (khoảng gần 4 tỷ đô la Mỹ), không thấp hơn số vốn đăng ký đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong cùng thời kỳ. Năm 2000 gần 20.000 tỷ đồng (trong đó, có 14.000 tỷ đồng là vốn mới đăng ký và 6.000 tỷ đồng vốn mới đăng ký bổ sung), cao gấp 3 lần so với năm 1999. Năm 2001 là 35.500 tỷ đồng, trong đó vốn mới đăng ký là 26.500 tỷ đồng, và số vốn đăng ký mới bổ sung là 9.000 tỷ đồng; tăng hơn 1,78 lần so với năm 2000.
Cơ cấu loại hình doanh nghiệp cũng có thay đổi quan trọng. Trong số doanh nghiệp thành lập năm 2000 có: 6412 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 44%), 7304 công ty trách nhiệm hữu hạn (chiếm 51%), 726 công ty cổ phần và 2 công ty hợp danh (trong những năm 1991-1999 Doanh nghiệp tư nhân chiếm khoảng 75% tổng số doanh nghiệp). Số công ty cổ phần mới thành lập trong năm 2000 nhiều hơn số Công ty cổ phần được thành lập trong 9 năm trước đó (không kể doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa).
Doanh nghiệp mở rộng thêm quy mô và địa bàn kinh doanh với nhiều hình thức như mở thêm chi nhánh, văn phòng đại diện, đầu tư thêm vốn, sử dụng thêm lao động, v.v… cũng là hiện tượng mới rõ nét hơn nhiều so với thời kỳ trước đó. Nhờ môi trờng kinh doanh được cải thiện, nhất là không bị ràng buộc, khống chế bất hợp lý của các loại giấy phép, một số doanh nghiệp đã tận dụng hết năng lực sản xuất được xây dựng từ trước, hoặc đầu tư mở rộng thêm quy mô, địa bàn kinh doanh. Riêng trong năm 2000, trong cả nước có hơn 5000 chi nhánh, văn phòng đại diện được thành lập; có hơn 4000 doanh nghiệp đăng ký bổ sung thêm vốn kinh doanh, khoảng hơn 8000 doanh nghiệp đăng ký bổ sung thêm ngành nghề kinh doanh tập trung chủ yếu ở các ngành nghề đã bị bãi bỏ giấy phép. Ví dụ, ở Hà Nội, số doanh nghiệp đăng ký bổ sung ngành nghề kinh doanh trong các ngành, nghề bãi bỏ giấy phép tăng từ 6,7% năm 1999 lên 65% năm 2000. Số lượng lớn doanh nghiệp hiện có mở thêm chi nhánh, văn phòng đại diện, bổ sung thêm vốn, ngành, nghề kinh doanh trong năm 2000 cũng là hiện tượng chưa từng có trước đây ở nước ta.
Xét về khía cạnh pháp lý, với những quy định mới trong Luật Doanh nghiệp, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trở nên ổn định và chắc chắn hơn; không còn bị giới hạn cả về nội dung và thời gian hạn hẹp và cứng nhắc của giấy phép (ví dụ, trước đây có giấy phép quy định doanh nghiệp chỉ được đóng tàu có trọng tải không quá 200 tấn; nếu doanh nghiệp đóng tàu có trọng tải lơn hơn 200 tấn thì bị coi là kinh doanh trái phép; có giấy phép quy định thời hạn 3 tháng như giấy chứng nhận đủ điều kiện phòng cháy, chữa cháy; hay kinh doanh photocopy cứ 2 tháng lại phải gia hạn một lần). Do không còn bị giới hạn phụ thuộc vào nội dung giấy phép, không phải đối mặt với nguy cơ không gia hạn được giấy phép hoặc gia hạn không kịp thời, doanh nghiệp đã được an toàn và yên tâm hơn trong đầu tư mở rộng kinh doanh. Nhờ đó, việc thi hành Luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành đã khích lệ tinh thần kinh doanh, tạo điều kiện và thúc đẩy sự sáng tạo và linh hoạt trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Theo điều tra của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt nam thì việc bãi bỏ 84 loại giấy phép con theo Quyết định số 19/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã tiết kiệm trung bình cho mỗi doanh nghiệp hàng năm khoảng 4,5 triệu đồng và 21 ngày làm việc đối với người điều hành doanh nghiệp (cá biệt có doanh nghiệp tiết kiệm được 50 triệu đồng và 900 ngày công để đi xin phép). Như vậy, đối với khoảng 62 nghìn doanh nghiệp (bao gồm khoảng 45.000 Doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH, Công ty cổ phần, 6000 doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp của Đảng, của tổ chức chính trị - xã hội, hơn 2000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, và gần 9000 hợp tác xã) đang hoạt động (không kể hộ kinh doanh cá thể), riêng về chi phí bằng tiền phải bỏ ra để xin phép (chưa kể chi phí đi lại, ăn ở, chi phí về thời gian) thì việc bãi bỏ 84 loại giấy phép đã giảm được khoảng gần 280 tỷ đồng chi phí kinh doanh.
3, VIỆC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN LUẬT DOANH NGHIỆP ĐÃ GÓP PHẦN BƯỚC ĐẦU THÚC ĐẨY CHUYỀN BIẾN TÍCH CỰC VỀ CƠ CẤU KINH TẾ
Số liệu điều tra 300 doanh nghiệp thành lập trong 6 tháng đầu năm 2000 ở 6 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho thấy khoảng 32% doanh nghiệp kinh doanh các ngành sản xuất, chế biến; 26% kinh doanh dịch vụ thương mại, 15% kinh doanh xây dựng và dịch vụ thương mại; 21% kinh doanh dịch vụ khác, số còn lại đăng ký kinh doanh tổng hợp. Thực tế nói trên có hai điểm đáng chú ý. Một là, số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất có xu hướng tăng lên. Đó là dấu hiệu tích cực chứng tỏ người đầu tư đã tin tưởng, yên tâm hơn về tính ổn định của môi trường kinh doanh ở nước ta. Hai là, số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh các dịch vụ khác ngoài dịch vụ thương mại đã tăng thêm gấp nhiều lần so với trớc. Điều đó chứng tỏ đã có nhiều loại dịch vụ mới xuất hiện trong nền kinh tế, loại hình dịch vụ kinh doanh đã đa dạng hơn nhiều so với trước đây. Ngành nghề kinh doanh đăng ký và được thực hiện trên thực tế đa dạng và phong phú hơn nhiều. Hàng loạt ngành, nghề mới, các sản phẩm và dịch vụ mới xuất hiện (sản phẩm thủ công mỹ nghệ xuất khẩu được làm từ rơm, rạ; đất vi sinh được chế biến từ xơ dừa, dịch vụ điều tra dân sự, dịch vụ tư vấn đòi nợ, v.v…). Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng Tổng cục Thống kê đã tổng kết thực tế đa dạng và ban hành Danh mục hơn 939 loại ngành, nghề kinh doanh trong nền kinh tế.
4. VIỆC THỰC HIỆN LUẬT DOANH NGHIỆP ĐÃ GÓP PHẦN TÍCH CỰC TẠO THÊM VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
Theo báo cáo chưa đầy đủ của của các Sở Kế hoạch và Đầu tư, riêng các doanh nghiệp, các chi nhánh và văn phòng đại diện mới thành lập trong 2 năm qua đã tạo ra được khoảng từ 650.000 đến 750.000 chỗ làm việc mới cho người lao động. Ngoài ra, một số lượng không nhỏ doanh nghiệp đã tăng thêm vốn đầu tư, mở rộng thêm quy mô kinh doanh, và do đó cũng đã thu hút thêm lao động mới. Đó là chưa kể số việc làm mới được tạo ra bởi các hộ kinh doanh cá thể trong cả nước. Số công ăn việc làm mới được tạo ra nhờ tác động trực tiếp của Luật doanh nghiệp đã giải quyết công ăn việc làm cho khoảng gần 1/3 số lao động mới tăng thêm hàng năm trong nên kinh tế. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể đã và đang là nguồn chủ yếu tạo ra chỗ làm việc mới cho người lao động; góp phần không nhỏ vào việc cải thiện mức sống, đồng thời giải quyết các vấn đề bức xúc về xã hội.
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN LUẬT DOANH NGHIỆP
5. VỀ CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP
Luật doanh nghiệp đã góp phần vào việc mở rộng mô hình tổ chức kinh doanh bằng việc quy định thêm mô hình công ty hợp danh và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do một tổ chức làm chủ. Đây là một tiến bộ mới trong việc đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp, góp phần mở rộng quyền tự do kinh doanh của các nhà đầu tư. Tuy nhiên từ thực tiễn thi hành Luật Doanh nghiệp cho thấy:
Thứ nhất, sự quy định về loại hình doanh nghiệp trong Luật doanh nghiệp đang có xu hướng trở thành một “chiếc áo quá chật” so với sự phát triển không ngừng của đời sống kinh tế. Với tính đa dạng vốn có của thị trường, với nhu cầu tích tụ và tập trung tư bản cũng như phân chia rủi ro trong kinh doanh, các nhà đầu tư luôn tìm cho mình những hình thức pháp lý đa dạng để tổ chức và thực hiện việc kinh doanh mà pháp luật cuối cùng phải thừa nhận và trở thành thông lệ của sự điều chỉnh pháp lý. Vì vậy, khi mà các nhà làm luật thừa nhận càng nhiều mô hình tổ chức kinh doanh thì quyền tự do kinh doanh càng được đảm bảo tốt hơn. Theo chúng tôi, việc Luật doanh nghiệp thừa nhận thêm 2 loại hình doanh nghiệp nói trên là một bước tiến rất đáng khích lệ, song cũng cần phải thừa nhận rằng với sự phát triển với tốc độ rất nhanh của thị trường ngày nay thì dường như những mô hình đó là chưa đủ để đáp ứng với đòi hỏi của đời sống kinh tế. Về lý thuyết cũng như thực tiễn trong thương trường còn có thể xuất hiện các loại hình công ty nhiều hơn so với dự liệu của các nhà làm luật như: công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân, công ty hợp vốn đơn giản và đặc biệt là hình thức pháp lý của những tập đoàn kinh doanh .... Điều cần thiết đặt ra là nên chăng Luật doanh nghiệp tìm ra một cơ chế thích hợp để đối phó với sự xuất hiện đa dạng và không ngừng của các loại hình doanh nghiệp trong tương lai hoặc tối thiểu cũng là thừa nhận thêm một số loại hình doanh nghiệp để có thể đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, Luật doanh nghiệp thừa nhận loại hình công ty hợp danh và Công ty TNHH một thành viên. Đây là hai loại hình công ty lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam. Với việc quy định về hai loại hình doanh nghiệp nói trên các nhà làm luật đã hết sức kỳ vọng vào sức sống và tính tích cực của chúng đối với việc phát triển cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế nói chung và việc làm sôi động đời sống cạnh tranh doanh nghiệp nói riêng. Song với một số điều luật của Luật doanh nghiệp cùng các Nghị định hướng dẫn của Chính phủ thì việc phác họa về hai loại hình doanh nghiệp mới mẻ này còn quá sơ sài, chưa giúp các nhà đầu tư có thể hiểu thấu đáo về chúng. Do đó các nhà đầu tư ít quyết định lựa chon kinh doanh dưới hình thức công ty hợp danh và Công ty TNHH một thành viên. Theo số liệu điều tra tại mười sáu tỉnh thành phố trên toàn quốc thì sau gần hai mươi tháng Luật doanh nghiệp có hiệu lực thi hành mới có một công ty hợp danh, một công ty Công ty TNHH một thành viên được đăng ký kinh doanh, điều này chứng tỏ thái độ thăm dò của các nhà đầu tư, mặt khác cho thấy sự thiếu những quy định cụ thể về hai loại hình doanh nghiệp trên. Thực tế cho thấy với một loại hình doanh nghiệp mới bất kỳ thì để thu hút đợc sự chú ý của các nhà đầu tư thì luật quy định về loại hình doanh nghiệp đó không những phải được quy định đầy đủ, cụ thể mà còn phải cho nhà đầu tư thấy được những lợi ích khi đầu tư vào loại hình doanh nghiệp đó, từ đó phát huy hiệu lực thực tế của luật. Có thể nói chính sự sơ sài của các quy định về hai loại hình doanh nghiệp nói trên là một trong những nguyên nhân dẫn đến số lượng các doanh nghiệp này được thành lập trên thực tế còn rất ít.
6. VỀ VẤN ĐỀ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP.
Thứ nhất, việc đăng ký kinh doanh đối với những ngành nghề kinh doanh đòi hỏi phải có vốn pháp định.
Trong hồ sơ đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp tại khoản 4 điều13 Luật doanh nghiệp có qui định: “đối với những doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề đòi hỏi phải có vốn pháp định thì phải có thêm xác nhận về vốn của cơ quan tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật”.
Do chưa có danh mục cụ thể về ngành nghề kinh doanh cần phải có vốn pháp định cũng như chưa có qui định cụ thể cơ quan Nhà nước nào là cơ quan xác nhận về vốn pháp định, điều này gây khó khăn cho các nhà đầu tư khi tiến hành thành lập và đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, việc định giá tài sản (nhất là bất động sản) để xác định vốn pháp định trên thực tế cũng gặp nhiều khó khăn. Hiện tại, nhiều nhà đầu tư có các bất động sản có giá trị lớn muốn đưa vào đầu tư, kinh doanh, nhưng do các bất động sản (nhất là nhà, đất) chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, nên các cơ quan đăng ký kinh doanh không chấp nhận xác nhận giá trị vốn pháp định. Hiện tại, vẫn còn nhiều khó khăn trong việc xác minh khả năng về vốn của doanh nghiệp, các tài sản dưới dạng bất động sản khó được xác nhận khi mà giấy tờ sở hữu chưa được coi là hợp lệ. Trong nhiều trường hợp, điều này không phải do người đầu tư mà chính là do thủ tục xin cấp giấy tờ sở hữu bất động sản không được giải quyết kịp thời.
Thứ hai, việc đăng ký kinh doanh đối với những ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
Khoản 2 Điều 17 Luật Doanh nghiệp quy định: “Doanh nghiệp có quyền hoạt động kinh doanh kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đối với những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì doanh nghiệp được quyền kinh doanh các ngành nghề đó kể từ ngày được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh hoặc có đủ điều kiện kinh doanh theo quy định”.
Việc Nhà nước quy định điều kiện kinh doanh để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh là cần thiết, nhưng vấn đề đặt ra là những ngành nghề nào cần quy định điều kiện kinh doanh, nội dung cụ thể của điều kiện kinh doanh ấy là gì, làm sao có thể quy định rõ ràng (có thể lượng hoá) điều kiện kinh doanh. Công việc nói trên có thể nói là rất cấp thiết trong giai đoạn hiện nay để tạo nên một môi trường đầu tư ổn định. Tuy nhiên trên thực tế, các quy định về điều kiện kinh doanh đối với một số ngành nghề rất thiếu tính hệ thống, được quy định tản mạn trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau và đặc biệt là các cơ quan có thẩm quyền khi ra quyết định về điều kiện kinh doanh cũng chưa dựa trên cơ sở khoa học thuyết phục trong việc áp dụng một điều kiện này hay điều kiện khác. Hiện tượng các điều kiện kinh doanh trong các văn bản khác nhau về cùng một ngành nghề mâu thuẫn, chồng chéo không phải là quá hiếm thấy. Ví dụ, đối với việc kinh doanh chất nổ, có đến ba Nghị định cùng điều chỉnh, mỗi Nghị định quy định lại khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau. Đó là các Nghị định số 27/CP ngày 20 tháng 4 năm 1995 về quản lý, sản xuất, cung ứng và sử dụng vật liệu nổ công nghiệp; Nghị định số 47/CP ngày 12 tháng 8 năm 1996 về quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ và Nghị định số 11/1999/NĐ-CP ngày 3 tháng 3 năm 1999 về hàng hoá cấm kinh doanh, dịch vụ thương mại cấm thực hiện, hàng hóa, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện. Thêm vào đó, theo các Nghị định này thì có tới 4 Bộ đuợc quyền hướng dẫn về điều kiện kinh doanh đối với ngành nghề này, bao gồm Bộ Công an, Bộ Công nghiệp, Bộ Thương mại, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường. Hoặc đối với nghề y học cổ truyền, Bộ Y tế vừa có văn bản điều chỉnh việc hành nghề y học cổ truyền lại vừa có văn bản riêng điều chỉnh việc hành nghề y học tư nhân (Thông tư số 13/1999/TT-BYT ngày 31 tháng 7 năm 1999 của Bộ Y tế hướng dẩn Pháp lệnh hành nghề y, dược tư nhân và Nghị định số 06/CP ngày 29 tháng 1 năm 1994 của Chính phủ về cụ thể hoá một số điều trong Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân thuộc lĩnh vực hành nghề y). Tình trạng ấy làm cho doanh nghiệp gặp không ít khó khăn trong việc chấp hành các quy định của pháp luật. Từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực đén nay, nhiều Bộ, ngành vẫn chưa ban hành được quy đinh về điều kiện kinh doanh đối với ngành nghề thuộc quyền quản lý của mình. Do đó, việc đăng ký kinh doanh trong các ngành nghề này đã bị đình lại vì cơ quan đăng ký kinh doanh phải chờ hướng dẫn của cấp trên. Những bất câp này đã làm cho không ít doanh nghiệp bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh. Thiệt hại này không dễ gì tính được và không ai có thể bồi thường được cho doanh nghiệp.
Thêm vào đó, Nghị định số 30/2000/NĐ-CP ngày 11 tháng 8 năm 2000 về việc bãi bỏ một số loại giấy phép và chuyển một số loại giấy phép thành điều kiện kinh doanh một lần nữa trao thẩm quyền quy định các điều kiện kinh doanh đối với các ngành nghề kinh doanh cho các Bộ quản lý ngành và yêu cầu các Bộ quản lý ngành ban hành các quy định này trước ngày 1 tháng 10 năm 2000. Tuy nhiên, hầu hết các Bộ, ngành đều vẫn chưa thực hiện đúng tiến độ của Chính phủ giao.
Thứ ba, việc đăng ký kinh doanh với các ngành nghề mới.
Với sự sáng tạo không ngừng của con người , nhất là dưới áp lực của cạnh tranh trong nèn kinh tế thị trường, việc phát sinh các ngành nghề kinh doanh mới là một lẽ tất nhiên. Sự nảy sinh và phát triển của những ngành nghề kinh doanh mới chính là biểu hiện của sức phát triển và sức sáng tạo của nền kinh tế thị trường. Vì thế, về mặt pháp luật, viêc ghi nhận tinh thần “doanh nghiệp được làm tất cả những gì pháp luật không cấm” trong Luật doanh nghiệp là hoàn toàn hợp quy luật phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và trước đòi hỏi của việc chuyển sang nền kinh tế tri thức. Khi tinh thần đó đã được pháp luật thừa nhận thì đương nhiên, đối với những ngành, nghề kinh doanh mới, chưa được liệt vào danh mục ngành, nghề bị cấm kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện thì doanh nghiệp được tự do kinh doanh. Tuy nhiên, trong thực tế thi hành Luật doanh nghiệp trong thời gian qua cho thấy, để đảm bảo thực thi tinh thần ấy trên thực tế, công việc không hoàn toàn đơn giản. Hầu hết các cơ quan đăng ký kinh doanh của các địa phwơng đều rất lúng túng và ngần ngại khi phải giải quyết hồ sơ đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành, nghề mới, chưa được liệt kê trong các ngành nghề kinh doanh thông thường đã từng tồn tại ở Việt Nam. Ví dụ, đối với nghề thám tử tư, dịch vụ tâm lý xã hội, dịch vụ tư vấn tình yêu, hôn nhân, gia đình, …Đã có trường hợp trong thực tế, một công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoạt động trong nghề thám tử tư rồi lại bị thu hồi giấy phép. Đó là vụ một Công ty trách nhiệm hữu hạn điều hành và bảo vệ ở Hà Nội. Công ty này đựơc Sở Kế hoạch Đầu tư thành phó Hà nội cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ngày 24 tháng 3 năm 2000 nhưng đến ngày 21 tháng 4 năm 2000 Sở Kế hoạch và Đầu tư đã ra thông báo yêu cầu công ty này ngừng hoạt động để chờ hướng dẫn của Bộ Công an, Sở Kế hoạch Đầu tư Hà Nội cũng đã từ chối việc xem xét cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho các công ty thực hiện dịch vụ thám tử tư. Nguyên nhân của vụ việc này, theo Sở Kế hoạch và Đầu tư là do các ngành nghề chưa có văn bản hướng dẫn thi hành của cấp Trung ương (?).
Thứ tư, những rắc rối mang tính “hậu đăng ký kinh doanh”
Để khai sinh được một doanh nghiệp, công việc không chỉ do cơ quan đăng ký kinh doanh thực hiện là xong. Theo pháp luật hiện hành, sau khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải tiến hành việc đăng ký thuế với cơ quan thuế nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính và phải đợi cơ quan Công an cấp con dấu thì doanh nghiệp mới có thể tiến hành giao dịch được. Rất nhiều doanh nghiệp được cơ quan đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh song vẫn không thể đi vào hoạt động được. Nguyên nhân là do cơ quan thuế chậm làm thủ tục đăng ký thuế và đặc biệt có tình trạng cơ quan công an chậm cấp con dấu cho doanh nghiệp hoạt động.
Theo báo báo điều tra thi hành Luật doanh nghiệp của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (phát hành tháng 12 năm 2000), cho biết, qua thực tế điều tra cho thấy, việc tiến hành thủ tục khắc dấu ỏ một số địa phương vẫn còn rất chậm. Một doanh nghiệp làm công tác tư vấn hỗ trợ thành lập doanh nghiệp cho biết: thực tế việc khắc dấu phải mất tới 21 đến 28 ngày, nếu muốn làm nhanh hơn, thì doanh nghiệp buộc phải có “cách tiếp cận khác”… tương tự như vậy, việc đăng ký mã số thuế cũng còn chậm và nếu muốn được đăng ký thuế ngay thì doanh nghiệp vẫn phải chi cho “khoản tế nhị”.
7. VỀ VẤN ĐỀ GÓP VỐN VÀO DOANH NGHIỆP.
Khoản 4 điều 3 Luật doanh nghiệp quy định: “Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do các thành viên góp để tạo thành vốn của công ty”. Quy định này có thể làm nảy sinh những vướng mắc trong thực tiễn. Theo quan niệm truyền thống thì tài sản là một tập hợp quyền trên vật có hiệu lực chống lại những người khác và các quyền đó có thể định giá được bằng tiền. Bộ luật Dân sự cũng quy định tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản9. Trong khi đó trong nền kinh tế thị trường, hình thức góp vốn vào doanh nghiệp là rất phong phú và đa dạng. Ngoài hình thức góp vốn bằng những tài sản theo cách hiểu truyền thống, còn có những hình thức góp vốn khác mà Luật doanh nghiệp (cũng như các văn bản hướng dẫn) hiện hành chưa có quy định cụ thể, chẳng hạn như hình thức góp vốn bằng các loại dịch vụ tư vấn pháp lý, kinh tế…Người làm viễn thông có thể góp vốn bằng dịch vụ viễn thông, người lái xe có thẻ góp vốn bằng công lao động lái xe trong công ty du lịch…Thành viên công ty có thể góp vốn bằng khả năng ngoại giao, bằng trí tuệ, mối quan hệ, kinh nghiệm kinh doanh của mình thông qua một dịch vụ và cũng có thể góp vốn bằng uy tín của các thành viên công ty mà không nhất thiết phải có tiền mới có thể trở thành thành viên công ty.
8. VỀ VẤN ĐỀ TỔ CHỨC LẠI DOANH NGHIỆP.
Thứ nhất, Luật doanh nghiệp quy định về sáp nhập, hợp nhất, chia, tách công ty với phạm vi rất hạn hẹp. Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ có thể được chia, tách thành các công ty cùng loại; cũng như vậy việc hợp nhất hay sáp nhập công ty cũng chỉ có thể được thực hiện giữa các công ty cùng loại với nhau.
Thứ hai, Luật doanh nghiệp quy định chưa hợp lý về vấn đề chuyển đổi hình thức pháp lý của công ty. Chuyển đổi công ty là một trong những hình thức tổ chức lại công ty. Đây là một vấn đề mới lần đầu tiên được đề cập tới trong Luật doanh nghiệp. Những quy định tổ chức lại doanh nghiệp trong đó có chuyển đổi công ty đã đáp ứng được nhu cầu của các công ty, tạo điều kiện cho các công ty cải tổ, đổi mới lại cơ cấu tổ chức, loại bỏ các doanh nghiệp yếu kém, trì trệ, thua lỗ kéo dài nhằm cơ cấu lại nền kinh tế. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới và phức tạp nên Luật doanh nghiệp mới chỉ quy định về việc chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ phần và ngược lại (Điều 109 Luật doanh nghiệp), chuyển._.đã không hoạt động kinh doanh vì nhiều lý do khác nhau, trong số đó một số ít có biểu hiện lợi dụng kinh doanh để trốn lậu thuế, đã được phát hiện và ngăn chặn. Trên thực tế, nếu tình hình này không được cải thiện thì căn cứ vào những vi phạm nói trên thì vào năm 2002 đại bộ phận số doanh nghiệp thành lập ra trong năm 2000 sẽ bị rút hết chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Tóm lại, những tồn tại trong thi hành Luật doanh nghiệp là không ít và không nhỏ. Một số tồn tại nằm trong nội dung chưa phù hợp của văn bản hướng dẫn, nhưng phần chủ yếu lại ở những bất hợp lý của các văn bản pháp luật có liên quan và trong tư duy, lối làm việc và chế độ trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức có liên quan. Những tồn tại nói trên đã và đang tiếp tục gây cản trở, tốn kém với doanh nghiệp, là yếu tố làm giảm năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta, đòi hỏi cần kiên trì thực hiện Luật doanh nghiệp và những nỗ lực mới trong những năm tiếp theo.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM SỬA ĐỔI, BỔ SUNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG LUẬT DOANH NGHIỆP
I.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT DOANH NGHIỆP
Về quan điểm chỉ đạo, theo chúng tôi việc sửa đổi bổ sung Luật doanh nghiệp cần phải:
Thứ nhất, kiên trì giữ vững, quán triệt những tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu ban đầu của Đảng và Nhà nớc ta khi xây dựng và ban hành Luật doanh nghiệp, thực hiện triệt để nguyên tắc tôn trọng quyền tự do kinh doanh của người dân;
Thứ hai, căn cứ vào những thay đổi cơ bản của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới, đặc biệt chú ý đến yếu tố hội nhập về kinh tế của Việt Nam với các nước trên thế giới;
Thứ ba, thông qua thi hành Luật doanh nghiệp trong thời gian qua để tháo gỡ vướng mắc, đưa ra những thay đổi trong quy định của Luật doanh nghiệp nói riêng và các quy định liên quan nói chung một cách hợp lý và kịp thời với mục đích cuối cùng là phải đưa Luật doanh nghiệp áp dụng có hiệu quả vào việc đổi mới đời sống kinh tế của đất nước, “tiếp tục thực hiện Luật doanh nghiệp, khẩn trương tháo gỡ những trở ngại trong sản xuất kinh doanh.” (Phát biểu của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải kết thúc hội nghị gặp doanh nghiệp tại Hà nội).
Trên tinh thần đó, chúng tôi đề xuất một số ý kiến sau nhằm sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp:
1.VẤN ĐỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH VỚI NGÀNH NGHỀ ĐÒI HỎI PHẢI CÓ VỐN PHÁP ĐỊNH VÀ NGÀNH NGHỀ KINH DOANH CÓ ĐIỀU KIỆN
Thứ nhất, với trường hợp đăng ký kinh doanh đối với những ngành nghề kinh doanh đòi hỏi phải có vốn pháp định. Hiện nay do chưa có văn bản pháp luật quy định thống nhất vấn đề này, dẫn đến việc chưa có danh mục cụ thể về ngành nghề kinh doanh cần phải có vốn pháp định cũng như chưa có qui định cụ thể cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận về vốn pháp định. Thực tế này đang gây khó khăn cho các nhà đầu tư khi tiến hành thành lập và đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp. Theo chúng tôi, do số lượng các ngành nghề kinh doanh cần có vốn pháp định không nhiều và để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có thể dễ dàng trong việc chuẩn bị vốn và lựa chọn ngành nghề kinh doanh, Chính phủ nên ban hành một Nghị định qui định về danh mục các ngành nghề đòi hỏi phải đáp ứng điều kiện về vốn pháp định, mức vốn pháp định cần phải có khi đăng ký kinh doanh mỗi một ngành nghề và trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận vốn pháp định.
Thứ hai, về ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Việc quy định về điều kiện kinh doanh có thể mang lại những kết quả tích cực, nhưng cũng có thể nảy sinh những hệ quả tiêu cực. Về mặt tích cực, việc đặt ra điều kiện kinh doanh là một trong những biện pháp điều tiết nền kinh tế thị tưrờng thường được các Nhà nước sử dụng. Việc đặt ra điều kiện kinh doanh đều nhằm những mục đích nhất định. Mục đích của việc đặt ra điều kiện kinh doanh có thể là để cải thiện chất lượng hàng hoá-dịch vụ do doanh nghiệp cung ứng, thông qua đó, bảo vệ người tiêu dùng. Điều kiện kinh doanh được đặt ra để đáp ứng mục đích này chủ yếu là các điều kiện về vốn, nhân lực và tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá. Việc đặt ra điều kiện kinh doanh cũng có thể là nhằm ngăn chặn, giảm thiểu các tác động tiêu cực do hoạt động của doanh nghiệp gây ra cho môi trường, cộng đồng xung quanh (ngăn chặn, giảm bớt các ngoại ứng tiêu cực). Điều kiện kinh doanh thuộc loại này chính là những điều kiện về vệ sinh, về môi trường. Tuy nhiên, ngoài tác dụng tích cực nêu trên, điều kiện kinh doanh có thể tạo ra những hàng rào bảo hộ sự độc quyền của một số doanh nghiệp Nhà nước, làm hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế, tạo ra những hàng rào ngăn cản sự linh hoạt của các luồng vốn trong nền kinh tế. Vì vậy, nếu lạm dụng điều kiện kinh doanh sẽ có tác hại không nhỏ đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Dưới giác độ pháp lý, điều kiện kinh doanh còn là những giới hạn quyền tự do của doanh nghiệp, là cơ sở để cơ quan đăng ký kinh doanh hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện, doanh nghiệp phải cam kết chấp hành. Điều kiện kinh doanh cũng là cơ sở cho cơ quan Nhà nước thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật của doanh nghiệp.
Việc quy định điều kiện kinh doanh trong một số lĩnh vực là cần thiết. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp cần quy định cụ thể hơn về vấn đề này như: cơ quan ban hành điều kiện kinh doanh cần có luận chứng khoa học cụ thể trước khi ban hành một điều kiện kinh doanh nhất định, yêu cầu của luận chứng là phải trả lời được các câu hỏi như tại sao phải xác định một ngành nghề nào đó cần phải đáp ứng những điều kiện nhất định, nội dung của điều kiện kinh doanh là gì, bằng cách nào Nhà nước giám sát được một cách có hiệu quả đối với các điều kiện kinh doanh đó, cần quy định rõ ràng hơn quyền hạn trách nhiệm của các cơ quan này, tránh sự lạm quyền, gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
Trên thực tế, tầm quan trọng của các quy định về điều kiện kinh doanh là khác nhau, ảnh hưởng của chúng đối với xã hội cũng khác nhau, nên có sự phân biệt cụ thể giữa các điều kiện kinh doanh cần có giấy phép của cơ quan Nhà nước khi tiến hành đăng ký kinh doanh (“tiền kiểm”) và loại điều kiện kinh doanh mà doanh nghiệp chỉ cần phải cam kết duy trì trong suốt quá trình tiến hành hoạt động kinh doanh của mình, việc kiểm tra, xử lý vi phạm sẽ được tiến hành sau khi doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh (“hậu kiểm”).
Với những quy định chặt chẽ như trên và một cơ chế thi hành rõ ràng, minh bạch thì chúng ta vừa không hề buông lỏng quản lý Nhà nước với doanh nghiệp, có thể giám sát một cách tích cực sự thực thi pháp luật của doanh nghiệp đúng theo tinh thần của Luật doanh nghiệp, đồng thời lại không gây cản trở quá trình kinh doanh của các nhà đầu tư.
VẤN ĐỀ GÓP VỐN VÀO DOANH NGHIỆP
Như đã phân tích, Luật doanh nghiệp còn có những hạn chế trong các quy định về hình thức góp vốn vào doanh nghiệp. Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, hình thức góp vốn cần phải đợc quy định rõ ràng và theo hướng mở rộng hơn nữa. Ngoài hình thức góp vốn bằng những tài sản theo cách hiểu truyền thống, nhà đầu tư còn có thể góp vốn bằng dịch vụ, công sức, trí tuệ…. Tuy nhiên, khi thừa nhận các hình thức góp vốn này, cần thiết phải quy định rõ việc định giá phần vốn góp để đảm bảo tính khách quan, công bằng và thoả đáng. Ngoài ra, kinh nghiệm trên thế giới cho thấy hình thức vốn góp còn phụ thuộc vào hình thức doanh nghiệp. Về nguyên tắc, việc định gíá phần vốn góp do các thành viên công ty tự thoả thuận quyết định, phụ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện kinh doanh của mỗi công ty và phụ thuộc vào sự tự nguyện của mỗi thành viên góp vốn đó. Song nên chăng, các nhà làm luật nên đề ra một mức, một ngưỡng chung xác định để các công ty có thể dựa vào đó định giá mức vốn góp bằng các dịch vụ một cách khách quan nhất, thoả đáng nhất, tránh thiệt thòi cho cả công ty và thành viên góp vốn. Từ việc mở rộng đối tượng của vốn góp, Luật doanh nghiệp nên thay đổi quan điểm về việc chuyển giao vốn từ người góp vốn tới công ty. Nếu góp vốn bằng quyền hưởng dụng thì phải bảo đảm cho công ty sử dụng dịch vụ như người mua dịch vụ. Nếu góp phần bằng công sức thì phải đảm bảo cho công ty sử dụng như người thuê mướn lao động… Điều 22 của Luật doanh nghiệp chưa đủ khả năng để đáp ứng các đòi hỏi này.
Về nghĩa vụ góp vốn của thành viên công ty, Khoản 1 điều 27 Luật doanh nghiệp quy định: “trường hợp có thành viên không góp đầy đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết, thì số vốn chưa góp đợc coi là nợ của thành viên đó đối với công ty”. Theo chúng tôi, ngoài việc quy định thành viên đó phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh, cũng cần bổ sung quy định: công ty còn có quyền đòi tiền lãi với khoản chậm đóng góp đó từ ngày đáng lẽ ra phải đóng góp cho tơí khi đã đóng góp xong. Ngoài ra không nên coi phần tài sản chậm đóng góp của thành viên là một loại nợ, bởi vì không thể coi hành vi góp đủ vốn sau đó của thành viên này là hành vi trả nợ, mà trên thực tế đó vẫn là hành vi góp vốn của thành viên này với công ty.
3. VỀ VẤN ĐỀ HỢP ĐỒNG THÀNH LẬP CÔNG TY
Việc cùng góp vốn để thành lập công ty của các thành viên công ty (sáng lập viên) có bản chất của một hợp đồng (hợp đồng thành lập công ty). Hợp đồng thành lập công ty là tiền đề pháp lý cho sự ra đời công ty, cho sự hình thành các quan hệ giữa các thành viên công ty liên quan đến việc thành lập, quản lý công ty mà khi có tranh chấp, toà án có thể căn cứ vào đó để giải quyết. Cũng cần lưu ý, Điều lệ công ty không thay thế được hợp đồng thành lập công ty. Điều lệ của công ty được xem như “hiến pháp” của công ty, là công cụ thể hiện ý chí của công ty, của pháp nhân, một thực thể không phải là thành viên cũng như cả tập thể thành viên công ty. Vì vậy, Điều lệ mới chỉ là cơ sở để giải quyết mối quan hệ giữa công ty và thành viên công ty mà thôi.
Như vậy, hợp đồng thành lập công ty và điều lệ công ty là những công cụ pháp lý khác nhau đảm bảo cho việc tổ chức, vận hành công ty mà pháp luật phải có quy định phân biệt rõ ràng. Luật Doanh nghiệp mới chỉ có quy định về Điều lệ công ty mà chưa có quy định cụ thể về hợp đồng thành lập công ty. Vì vậy, nên chăng Luật doanh nghiệp cần phải quy định về loại hợp đồng này. Hợp đồng thành lập công ty, với bản chất chung của hợp đồng, được thiết lập theo nguyên tắc tự nguyện, có các nội dung cơ bản như: sự thoả thuận, năng lực của những người thành lập công ty (giao kết hợp đồng), mục đích của hợp đồng. Sự thoả thuận này là hợp pháp nếu không có các yếu tố làm cho sự thoả thuận này vô hiệu như: cưỡng bức, lừa dối, nhầm lẫn. Ngoài ra cũng cần quy định về hình thức của hợp đồng, các trường hợp vô hiệu của hợp đồng, thời hiệu khởi kiện…
4. VẤN ĐỀ LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP
Như đã phân tích, với tính đa dạng và năng động vốn có của nền kinh tế thị trường thì sự xuất hiện của các loại hình doanh nghiệp ngoài dự liệu của Luật doanh nghiệp như công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân, công ty hợp vốn đơn giản hay là các tập đoàn kinh doanh sẽ là tất yếu. Trong phần này xin đưa ra kiến nghị về một loại hình doanh nghiệp mà sự đòi hỏi được công nhận về mặt pháp lý của nó đã trở nên khá bức xúc trong thời gian gần đây ở Việt Nam: công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân.
Về bản chất, công ty một chủ nói chung và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân nói riêng không phải là công ty thực sự, bởi lẽ thực chất nó là một doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên từ vài chục năm nay, công ty một chủ đã tồn tại do quá trình phát triển các công ty nảy sinh trường hợp toàn bộ tài sản của công ty đối vốn chuyển vào tay một thành viên duy nhất và công ty đối vốn đó trở thành một người. Trong thực tiễn hoạt động kinh doanh ở nước ta đã xuất hiện trường hợp chuyển dịch sở hữu giữa các thành viên góp vốn. Trong đó có trường hợp hoàn toàn tài sản của công ty chuyển vào tay một thành viên duy nhất, trong điều kiện hoạt động của công ty vẫn tiến hành trôi chảy, vẫn thực hiện tốt mọi quan hệ với khách hàng, bạn hàng và hoàn thành mọi nghĩa vụ đối với Nhà nước và chủ sở hữu công ty cũng chỉ muốn duy trì hình thức công ty mà không muốn thay đổi loại hình doanh nghiệp. Trường hợp này nếu Nhà nước không thừa nhận sự tồn tại về mặt pháp lý của công ty đó thì chủ sở hữu sẽ phải giải thể, lý do giải thể công ty sẽ không hợp lý vì nó làm thiệt hại đến lợi ích của chủ sở hữu, của Nhà nước, các bên có liên quan. Hơn nữa xét về phương diện pháp lý thì đặc trng của công ty đối vốn là sự tách bạch tài sản thuộc sở hữu thành viên với sở hữu của công ty, vì công ty có tư cách pháp nhân độc lập, do vậy, việc công ty một chủ sở hữu hay nhiều chủ sở hữu là điều không quan trọng, điều quan trọng hơn là pháp luật phải tạo ra một cơ chế kiểm soát chặt chẽ , đảm bảo an toàn cho các nhà đầu tư tham gia vào hoạt động của công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân không phải là chưa từng xuất hiện trong đời sống pháp lý của Việt Nam. Nó là một trong những mô hình đã từng được đưa vào dự thảo Luật doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong số các mô hình được dự thảo này xây dựng thì mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân bị phản đối và kết quả là bị loại bỏ khi Quốc hội thông qua Luật doanh nghiệp. Sự phản đối tập trung ở một số điểm chính sau: (i)Tư cách pháp nhân của loại công ty này không thể “đứng vững” vì sự phân định giữa tài sản công ty và tài sản chủ sở hữu khó có thể thực hiện được; (ii) Việc trao quy chế trách nhiệm hữu hạn cho một cá nhân trong môi trường kinh doanh hiện nay cực kỳ nguy hiểm; (iii) Việc cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ là cá nhân tồn tại sẽ có thể dẫn đến “xoá sổ” mô hình doanh nghiệp tư nhân vì trong thực tế sẽ ít ai lựa chọn chế độ trách nhiệm vô hạn về tài sản của doanh nghiệp tư nhân khi có một sự lựa chọn khác an toàn hơn rất nhiều.
Tuy nhiên, cần nhìn nhận rằng các nhà làm luật cũng có những cơ sở hợp lý khi đưa ra mô hình đó vào dự thảo Luật Doanh nghiệp. Cụ thể là:
Thứ nhất, nhu cầu về vốn đầu tư của nền kinh tế Việt nam là rất lớn. Ưu đãi về chế độ trách nhiệm hữu hạn có sức hấp dẫn mạnh mẽ với các nhà đầu tư. Tránh được nỗi lo sợ về chế độ trách nhiệm vô hạn, họ sẽ mạnh rạn rót vốn vào những địa bàn, lĩnh vực hiện đang thiếu vốn đầu tư trầm trọng. Luật doanh nghiệp cũng được xây dựng trên tinh thần: huy động mọi nguồn lực, giải phóng mọi tiềm năng cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Thứ hai, nếu các giới hạn an toàn đặt ra cho Công ty TNHH một thành viên là tổ chức tỏ ra có hiệu quả, chúng ta hoàn toàn có thể cân nhắc áp dụng chúng trong tương lai với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân, dĩ nhiên là với sự bổ sung những quy định nghiêm ngặt, chặt chẽ hơn. Sự độc lập về tài sản của công ty đối với chủ sở hữu có thể được đảm bảo thông qua chế độ tài khoản và các cơ chế tài chính khác của hệ thống ngân hàng. Thông tin công khai, đầy đủ cùng với sự giám sát chặt chẽ và xử lý nghiêm các vi phạm sẽ ngăn chặn cá nhân lợi dụng chế độ trách nhiệm hữu hạn gây thiệt hại cho ngời khác. Khi môi trường kinh doanh, ý thức pháp luật phát triển, hệ thông văn bản và cơ quan quản lý được hoàn thiện, việc loại bỏ các rủi ro của mô hình nói trên không phải là quá khó.
Thứ ba, hai mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ và doanh nghiệp tư nhân vẫn có thể cùng tồn tại. Doanh nghiệp tư nhân có những ưu thế nhất định, ở đó nhà đầu tư có quyền tự do định đoạt một cách tuyệt đối về mọi vấn đề liên quan đến doanh nghiệp. Mặt khác, chế độ trách nhiệm vô hạn tuy bó buộc nhng lại đem đến cho doanh nghiệp khả năng tạo sự yên tâm cho khách hàng khi thiết lập quan hệ với doanh nghiệp. Thêm vào đó, luật có thể bổ sung những ưu đãi cho hình thức này, và ngược lại là những hạn chế đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân, qua đó “điều hoà” những thế mạnh cũng như điểm yếu của cả hai hình thức.
Một giải pháp khác cho công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân có thể xem xét đó là coi chính hình thức này như một ưu đãi cho nhà đầu tư chứ không phải tìm cách hạn chế nó. Theo hướng này, ở một số lĩnh vực hay địa bàn cần khuyến khích đầu tư đặc biệt, cá nhân có thể bỏ vốn đầu tư theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Quy định này là hợp lý và cần thiết, bởi nếu không được đảm bảo bằng chế độ trách nhiệm hữu hạn, nhà đầu tư sẽ không mạnh dạn bỏ vốn kinh doanh vào ngành nghề, lĩnh vực có độ rủi ro cao.
Thứ tư, xét về mặt thực tiễn, mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ là cá nhân đợc pháp luật nhiều nước trên thế giới công nhận. Tại Việt nam, những tiền lệ cho mô hình này đã có. Luật đầu tư nước ngoài đã xây dựng những mô hình doanh nghiệp mà bản chất là công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ. Ngay chính Luật doanh nghiệp cũng gián tiếp nhắc đến vấn đề này. Tại điều 111, khoản 3 Luật doanh nghiệp quy định công ty phải giải thể nếu không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo luật định trong thời hạn sáu tháng liên tục. Điều đố có nghĩa là khi một hay một số thành viên công ty chết, mất tích (không có người thừa kế hoặc người thừa kế không được chấp nhận là thành viên), mất năng lực hành vi dân sự (người giám hộ không được chấp nhận) hay rút vốn, công ty vẫn được phép tồn tại trong vòng 6 tháng với một thành viên duy nhất. Trong nền kinh tế thị trường, đây là một khoảng thời gian không hề ngắn, công ty có thể thực hiện rất nhiều hoạt động và giao dịch khác nhau; làm phát sinh rất nhiều quyền và nghĩa vụ khác nhau. Trong khi chưa có hướng dẫn cụ thể cho tình huống này, việc phủ nhận mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân tỏ ra không thoả đáng. Nếu như trong Luật đầu tư nước ngoài chế độ trách nhiệm hữu hạn của cá nhân chủ doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được coi là một ưu đãi nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, thì việc ngăn cản các nhà đầu tư là cá nhân trong nước thành lập công ty TNHH một thành viên sẽ là sự bất bình đẳng.
5. VẤN ĐỀ CHUYỂN ĐỔI DOANH NGHIỆP
Như đã phân tích việc, những hạn chế của Luật doanh nghiệp trong quy định về vấn đề chuyển đổi doanh nghiệp đã làm hạn chế tính năng động của các doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp chỉ quy định về chuyển đổi công ty mà không quy định về chuyển đổi doanh nghiệp nói chung, và việc chuyển đổi ấy cũng chỉ có thể diễn ra ở hai loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần : “công ty trách nhiệm hữu hạn có thể được chuyển thành công ty cổ phần hoặc ngược lại”. Trong khi đó trên thực tế nhu cầu chuyển đổi doanh nghiệp là rất phong phú, đa dạng. Nhiều trường hợp chuyển đổi doanh nghiệp cần được xem xét bổ sung vào Luật doanh nghiệp, chẳng hạn như: (i) Công ty hợp danh chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn; (ii) Công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển đổi thành công ty hợp danh; (iii) Công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển đổi thành Doanh nghiệp tư nhân; (iv) Công ty cổ phần chuyển đổi thành Doanh nghiệp tư nhân; (v) Công ty cổ phần chuyển đổi thành công ty hợp danh;...
Ngoài ra, Luật doanh nghiệp và các Nghị định của Chính phủ cần phải bổ sung thêm các điều khoản quy định đầy đủ và rõ ràng hơn về thủ tục chuyển đổi các loại hình công ty này mà cụ thể là các vấn đề sau:
+ Cơ quan thông qua quyết định chuyển đổi công ty và Điều lệ công ty chuyển đổi.
+ Công ty có phải làm thủ tục giải thể công ty cũ rồi lại đăng ký kinh doanh công ty mới không hay chỉ cần thông báo quyết định chuyển đổi công ty với cơ quan cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
+ Việc bầu hoặc cử cơ quan quản lý và kiểm soát trong công ty chuyển đổi.
+ Sự thay đổi quyền và nghĩa vụ của công ty chuyển đổi.
+ Sự thay đổi quyền và nghĩa vụ của thành viên công ty chuyển đổi.
6. VẤN ĐỀ GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP
Do có sự khác nhau về tính chất giữa giải thể tự nguyện và giải thể bắt buộc, cần có quy định riêng về thủ tục giải thể đối với trường hợp giải thể bắt buộc. Việc giải thể bắt buộc đối với doanh nghiệp cần thiết có sự can thiệp của Nhà nước, cần có sự quy định cụ thể về tính cưỡng chế Nhà nước trong trường hợp này. Cụ thể, có thể quy định theo hướng: cơ quan ra quyết định giải thể bắt buộc sẽ thành lập tổ thanh lý tài sản để tiến hành thành lý tài sản và thanh lý các khoản nợ của doanh nghiệp.
Ngoài ra, theo quy định của Luật Doanh nghiệp, đối với trường hợp giải thể bắt buộc thì doanh nghiệp buộc phải giải thể trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Như vậy, nếu hết thời hạn 6 tháng mà doanh nghiệp chưa thanh toán hết nợ, không thanh lý được các hợp đồng thì sẽ giải quyết như thế nào. Theo chúng tôi, nên có quy định cụ thể: trong trường hợp doanh nghiệp không đủ tài sản để thanh toán nợ và các nghĩa vụ tài sản khác thì giải quyết theo quy định của Luật Phá sản. Đối với trường hợp giải thể bắt buộc, nếu doanh nghiệp cố tình không thực hiện các nghĩa vụ tài chính của mình, gây khó khăn cho quá trình giải thể, ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ nợ, thì phải có biện pháp cưỡng chế, bắt buộc các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ giải thể.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG LUẬT DOANH NGHIỆP
KHẨN TRƯƠNG XÂY DỰNG MÔ HÌNH HẬU KIỂM PHÙ HỢP
Thực tiễn cho thấy sự phát triển của bất kỳ một nền kinh tế nào cũng chịu sự chi phối và tác động của hai nhân tố: Thị trường và Nhà nước, Nhà nước một mặt đưa ra những cơ sở pháp lý làm nền tảng phát triển kinh tế, tạo công cụ cho doanh nghiệp phát triển, mặt khác thông qua các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, giám sát sự phát triển đó để doanh nghiệp không đi lệch khỏi quỹ đạo, làm hỗn độn thị trường trên nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp, đồng thời tạo môi trờng cạnh tranh lành mạnh cho hoạt động của các doanh nghiệp, tôn trọng và bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, hậu kiểm doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, mà còn có sự tham gia của đông đảo những người có quyền và lợi ích liên quan một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một vấn đề đặt ra là phải làm sao giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước, tăng cờng sự nổ lực đóng góp ý kiến và sự kiểm tra, giám sát của xã hội để hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng đạt được hiệu quả hơn. Kinh nghiệm của nhiều nước đi trước trên thế giới đều cho thấy, một mình Nhà nước không thể gánh nổi trách nhiệm nặng nề là giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Sự giám sát của những thế lực phi Nhà nước là một nguồn tài nguyên vô cùng quí giá cần được khai thác trong cơ chế giám sát của nền kinh tế thị trường hiện đại. Chính vì vậy, mô hình hậu kiểm doanh nghiệp sẽ được thể hiện thông qua các phương thức sau: hậu kiểm doanh nghiệp thông qua sự kiểm tra, giám sát trong nội bộ doanh nghiệp; hậu kiểm doanh nghiệp thông qua sự kiểm tra, giám sát của đối tác đối với doanh nghiệp; hậu kiểm doanh nghiệp thông qua sự kiểm tra, giám sát của đối thủ cạnh tranh; hậu kiểm doanh nghiệp thông qua sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
2. CẦN RA SOÁT CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CUẢ DOANH NGHIỆP ĐỂ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG VÀ HOÀN THIỆN CHO PHÙ HỢP VỚI TINH THẦN CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP
Để Luật doanh nghiệp đi vào cuộc sống , chúng ta không thể chỉ triển khai thi hành Luật doanh nghiệp, mà đi kèm với nó là hàng loạt các văn bản pháp luật khác điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh cuả từng ngành nghề, từng lĩnh vực, các văn bản về kế toán, kiểm toán, phá sản doanh nghiệp, thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp. Trên thực tế, hệ thống các văn bản điều chỉnh hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp ở nước ta hiện nay chưa đồng bộ, chưa nhất quán và chưa ổn định. Bởi vậy, cần thực hiện các công việc sau đây: thứ nhất, rà soát các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đã hết hiệu lực thi hành; kiên quyết và sớm bãi bỏ những văn bản pháp luật có nội dung trái với Luật doanh nghiệp, không còn phù hợp, chồng chéo, mâu thuẫn với nhau, hoặc có sửa đổi, bổ sung cần thiết cho phù hợp với thực tế; thứ hai, xem xét đổi mới quy trình soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cần tiến tới luật hoá tối đa các văn bản pháp luật. Tránh tình trạng một văn bản luật ra đời tuy đã có hiệu lực thi hành nhưng vẵn chưa thi hành được bởi chưa có văn bản hướng dẫn.
Trước mắt, cần sớm ban hành các văn bản sau: Luật cạnh tranh và chống độc quyền làm cơ sở đảm bảo cho sự bình đẳng thực sự của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh; Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
4. TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC CỦA BỘ MÁY HÀNH CHÍNH THỰC THI LUẬT DOANH NGHIỆP.
Cần tăng cường biên chế và trang thiết bị hoạt động của các cơ quan đăng ký kinh doanh và các cơ quan liên quan đến việc thực thi Luật doanh nghiệp (cơ quan khắc dấu, cơ quan đăng ký mã số thuế). Cần dành kinh phí thoả đáng để trang bị hệ thống máy vi tính cho các cơ quan đăng ký kinh doanh, từng bước tiến hành nối mạng thông tin trong toàn quốc về đăng ký kinh doanh.
5. TĂNG CƯỜNG CÁC BIỆN PHÁP HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP TRONG ĐẦU TƯ KINH DOANH.
Để hoạt động đẩu tư sản xuất, kinh doanh đạt được hiệu quả, nhà đầu tư cần nắm bắt được những thông tin cần thiết. Nhà nước cần sớm xác định và công bố chiến lược phát triển quy hoạch kinh tế để các doanh nghiệp được biết nhằm tăng cơ hội tiếp cận thị trường của doanh nghiệp. Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi hơn để doanh nghiệp được hưởng những chính sách ưu đãi và những dịch vụ công của Nhà nước.
KẾT LUẬN
Quyền tự do kinh doanh của công dân là một trong những quyền hiến định cơ bản. Do vậy, Nhà nước không chỉ có nghĩa vụ tôn trọng mà còn phải tạo cơ chế đảm bảo để mọi công dân được thực hiện quyền này một cách đầy đủ. Sự ra đời của Luật doanh nghiệp như một đòi hỏi tất yếu của cuộc sống nói chung và nền kinh tế nói riêng đã đáp ứng mong mỏi của người dân nói chung và cộng đồng các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài nói riêng. Sự ra đời của Luật doanh nghiệp cũng gây ra sự quan tâm chưa từng có của giới thương nhân và của cả cán bộ, công chức Nhà nước. Điều đó là dễ hiểu vì một mặt, Luật này coi trọng quyền lợi của các nhà đầu tư, mặt khác lại có thể hạn chế quyền và lợi ích của một số cơ quan, cán bộ, công chức Nhà nước, điều đó giải thích tại sao việc thi hành Luật doanh nghiệp trên thực tế đã và đang là một quá trình không ít khó khăn, trở ngại. Những vật cản trong đó có có những vật cản có tính chất pháp lý có thể sẽ được tiếp tục tung ra trên con đường mà Luật doanh nghiệp đang đi. Cho nên, để đưa các quy định của Luật doanh nghiệp vào thực tiễn cuộc sống không hề đơn giản, nó đòi hỏi không chỉ phải có hệ thống các quy định rõ ràng, minh bạch mà còn cần xây dựng một cơ chế thi hành đồng bộ, thống nhất. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những điểm mới của Luật doanh nghiệp nói chung và nghiên cứu thực tiễn thi hành những quy định đó trong thực tế nói riêng đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra những giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện Luật doanh nghiệp cũng như một cơ chế đảm bảo thi hành, điều này không chỉ mang ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất to lớn.
Mặc dù mới có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2000, thời gian đó đến nay chưa đủ để có thể có những kết luận chính thức, đầy đủ về tác dụng của Luật doanh nghiệp trong cuộc sống. Hy vọng rằng pháp luật về doanh nghiệp sẽ ngày càng được hoàn thiện và phát huy vai trò tích cực của nó trong việc tạo điều kiện và đẩy mạnh hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp nói chung và của các công ty nói riêng và thực sự là một công cụ để Nhà nước giúp đỡ doanh nghiệp, mang đến cho doanh nghiệp không chỉ là “cái cần câu” mà cả “ao cá” và “mồi câu” nữa. Đó sẽ là một con đường không hề bằng phẳng mà sẽ đòi hỏi sự nỗ lực từ nhìều phía, cả doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước và ngay cả mỗi người dân chúng ta. Chúng ta hoàn toàn có thể tin rằng Luật doanh nghiệp sẽ là một trong những cột mốc đánh dấu sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam nói chung và pháp luật kinh tế Việt Nam nói riêng.
Table of Contents
TÀI LIỆU THAM KHẢO
VĂN BẢN PHÁP LUẬT
Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1992;
Luật Doanh nghiệp tư nhân ngày 21/12/1990;
Luật Công ty ngày 21/12/1990;
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật công ty ngày 22/6/1994;
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Doanh nghiệp tư nhân ngày 22/6/1994;
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 12/1/1996;
Luật khuyến khích đầu tư trong nước ngày 20/5/1998 (sửa đổi);
Luật doanh nghiệp ngày 12/6/1999;
Các Nghị định, thông tư liên quan;
TÀI LIỆU KHÁC
Giáo trình luật kinh tế – Trường đại học luật Hà Nội;
Một số vấn đề về công ty và pháp luật về công ty ở Việt Nam hiện nay – Nguyễn Thị Thu Vân;
Báo cáo tổng kết diễn đàn “Luật doanh nghiệp sau hai năm thực hiện – Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam;
Báo cáo tình hình một năm thi hành Luật doanh nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
Báo cáo đánh giá hai năm thi hành Luật doanh nghiệp – Tổ công tác thi hành Luật doanh nghiệp;
Tình hình thực hiện Luật doanh nghiệp: Kết quả và vấn đề – Viện trưởng viện nghiên cứu QLKTTƯ Lê Đăng Doanh;
Báo cáo ba năm thi hành luật doanh nghiệp – Tổ công tác thi hành Luật doanh nghiệp;
Một số báo và tạp chí có liên quan;
Table of Contents
Lời nói đầu 1
Chương I 2
1.SỰ RA ĐỜI LUẬT DOANH NGHIỆP 2
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP 5
1.Phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 5
2.Đối tượng được quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp và góp vốn vào doanh nghiệp. 6
3. Thủ tục thành lập doanh nghiệp. 6
4 Các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp. 9
4.1.Chia doanh nghiệp 9
4.2.Tách doanh nghiệp 10
4.3. Hợp nhất doanh nghiệp 10
4.4. Sáp nhập doanh nghiệp 11
4.5. Chuyển đổi doanh nghiệp 12
5. Giải thể doanh nghiệp 12
6. Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp 13
Chương II 15
Thực tiễn thi hành Luật doanh nghiệp 15
Thành tựu và những vấn đề đặt ra 15
I. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC 15
1.Về phía các cơ quan Nhà nước, 15
Văn bản pháp luật 64
Tài liệu khác 64
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LKT080.doc