Tiểu luận triết học Mác Lênin
(phần chủ nghĩa duy vật biện chứng)
ô Cơ sở lý luận : Thực tiễn là gì ? Vai trò của thực tiễn trong nhận thức. Ý nghĩa phương pháp luận trong học tập và rèn luyện của Sinh viên hiện nay.
Sinh viên : Phạm Sỹ Nguyên
Lớp : AT5C
Giáo viên hướng dẫn : Đỗ Minh Sơn
Hà Nội, ngày 12/12/2008
I. Thực tiễn là gì ?
Phạm trù thực tiễn
Các nhà duy vật trước Mác đã có công lao lớn trong việc phát triển thế giới quan duy vật và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn
14 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 7870 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Thực tiễn là gì ? Vai trò của thực tiễn trong nhận thức. Ý nghĩa phương pháp luận trong học tập và rèn luyện của Sinh viên., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giáo và thuyết không thể biết. Tuy nhiên, lý luận của họ còn nhiều khuyết điểm, mà trong đó khuyết điểm lớn nhất là không thấy được hoạt động có tính lịch sử - xã hội đối với nhận thức, do đó chủ nghĩa duy vật của họ mang tính chất trực quan. Mác đã chỉ rõ: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay – kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác được của con người là thực tiễn”.
Phơbách, nhà triết học duy vật lớn nhất trước Mác, tuy có đề cập đến thực tiễn, song ông không thấy được thực tiễn như là hoạt động vật chất cảm tính, có tính năng động của con người. Do đó, ông đã coi thường hoạt động thực tiễn, xem thực tiễn là cái gì có tính chất con buôn bẩn thỉu, ông không hiểu được vai trò, ý nghĩa của thực tiễn đối với việc nhận thức và cải tạo thế giới. Đối với ông chỉ có hoạt động đích thực lý luận mới là quan trọng, mới là hoạt động đích thực của con người.
Các nhà duy tâm tuy đã thấy được mặt năng động, sáng tạo trong hoạt động của con người nhưng lại phát triển lên một cách trừu tượng, thái quá. Vì vậy, chủ nghĩa duy tâm cũng chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần chứ không hiểu nó như là hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảm tính của con người. Khi đề cập đến “ý niệm thực tiễn”, Hêghen, nhà triết học duy tâm lớn nhất trước Mác đã có tư tưởng hợp lý sâu sắc là: bằng thực tiễn, chủ thể tự “nhân đôi” mình, đối tượng hoá bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài. Song do quan điểm duy tâm nên ông chỉ giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở hoạt động tư tưởng. Đối với Hêghen, thực tiễn là “suy lý lôgic“.
Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong quan điểm của các nhà triết học trước mình về thực tiễn, Mác và Ăngghen đã đem lại một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Các ông không những trực tiếp tham gia vào hoạt động thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản mà còn dựa trên thực tiễn thực tiễn xã hội để khái quát, phát triển lý luận cách mạng. Nhờ đó, làm cho lý luận gắn bó chặt chẽ với thực tiễn, trở thành vũ khí nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận của mình, Mác và Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng. Lênin nhận xét rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
Ở đây, cần khẳng định rằng, phạm trù thực tiễn không chỉ là phạm trù của lý luận nhận thức mácxít, mà còn là phạm trù xuyên suốt của triết học mácxít, của toàn bộ lý luận chủ nghĩa Mác nói chung.
Vậy thực tiễn là gì?
Thực tiễn là những hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích, có tính lịch sử xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động của con người, mà chỉ là những hoạt động vật chất để phân biệt với hoạt động tinh thần, hoạt động lý luận, hay nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động cảm tính của con người. Trong hoạt động thực tiễn, con người phải sử dụng các phương tiện, công cụ vật chất, sức mạnh vật chất của mình tác động vào tự nhiên, xã hội để cải tạo làm biến đổi chúng phù hợp với nhu cầu của mình. Bằng hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi bản than sự vật trong hiện thực, từ đó làm cơ sở để biến đổi bản than sự vật trong hiện thực, từ đó làm cơ sở để biến đổi hình ảnh của sự vật trong nhận thức. Do đó, hoạt động thực tiễn là hoạt động có tính năng động, sang tạo, là hoạt động đối tượng hoá, là quá trình chuyển hoá cái tinh thần thành cái vật chất. Hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể, trong đó, chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể; trên cơ sở đó nhận thức khách thể. Vì vậy, thực tiễn trở thành mắt khâu trung gian nối liền nhận thức con người với thế giới bên ngoài.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, là hoạt động đặc trưng cho con người. Nếu động vật chỉ hoạt động theo bản năng, nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con người nhờ vào thực tiễn – như hoạt động có ý thức, có mục đích của mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và để làm chủ thế giới. Con người không thể thỏa mãn với những gì mà tự nhiên cung cấp cho mình dưới dạng có sẵn. Con người phải tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống mình. Để lao động và lao động có hiệu quả, con người phải biết chế tạo công cụ và sử dụng công cụ lao động. Bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động sản xuất, con người tạo nên những vật phẩm vốn không có sẵn trong tự nhiên. Không có hoạt động đó, con người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy, có thể nói rằng, thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên chủ yếu của mối quan hệ giữa con người với thế giới.
Tuy trình độ và các hình thức của hoạt động thực tiễn thay đổi qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội nhưng thực tiễn luôn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người. Thực tiễn là hoạt động có tính chất loài (loài người). Hoạt động đó không thể được tiến hành chỉ bằng vài cá nhân riêng lẻ, mà phải bằng hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội. Do đó, về nội dung cũng như về phương thức thực hiện, thực tiễn có tính lịch sử - xã hội. Thực tiễn cũng có quá trình vận động và phát triển của nó, trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên, trình độ làm chủ xã hội của con người.
Thực tiễn có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố và nhiều dạng hoạt động. Bất kỳ quá trình hoạt động thực tiễn nào cũng gồm những yếu tố như nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện và kết quả. Các yếu tố đó có lien hệ với nhau, quy định lẫn nhau mà nếu thiếu chúng thì hoạt động thực tiễn không thể diễn ra được.
Thực tiễn gồm những dạng cơ bản và những dạng không cơ bản. Dạng cơ bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất. Đây là dạng hoạt động thực tiễn nguyên thủy nhất và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người và quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn; nó tạo thành cơ sở của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống của con người, giúp con người thoát khỏi giới hạn tồn tại của động vật. Một dạng cơ bản khác của thực tiễn là hoạt động chính trị - xã hội nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, chế độ xã hội. Ngoài ra, với sự ra đời và phát triển của khoa học, một dạng cơ bản khác của thực tiễn cũng xuất hiện – đó là hoạt động thực nghiệm khoa học. Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng trở nên quan trọng do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại.
Trên cơ sở những dạng cơ bản, những dạng không cơ bản của thực tiễn được hình thành. Đó là mặt thực tiễn của các hoạt động trong một số lĩnh vực như đạo đức, nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo… Sở dĩ gọi là “không cơ bản” không phải vì những dạng này kém quan trọng mà chỉ vì chúng được hình thành và phát triển từ những dạng cơ bản, chúng là dạng thực tiễn phát sinh.
II. Vai trò của thực tiễn trong nhận thức.
Là cơ sở động lực của nhận thức do yêu cầu sự phát triển sản xuất vật chất cải tiến xã hội thì buộc con người phải nhận thức thế giới xung quanh
Thông qua hoạt động thực tiễn con người làm cho sự vật bộc lộ thuộc tính nó để con người nhận thức. Vậy thực tiễn đem lại tài liệu cho nhận thức
Thông qua hoạt động thực tiễn làm giác quan con người phát triển và hoàn thiện. Thực tiễn là mục đích quá trình nhận thức
Nhu cầu thực tiễn dẫn đến hình thành và phát triển ngành khoa học biến tri thức khoa học thành phương tiện vật chất hùng mạnh giúp con người trong hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Thực tiễn giúp con người cải tạo thế giới
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Muốn kiểm tra tri thức ta dựa trên thực tiễn. Nếu tri thức phù hợp hiện thực khách quan là chân lý còn không phù hợp là sai lầm
Tiêu chuẩn chân lý là thực tiễn vừa có tính tương đối và tuyệt đối. Tuyệt đối ở chỗ thực tiễn ở 1 thời điểm nhất định ở giai đoạn nhất định hoàn toàn phù hợp với tri thức là có được. Tính tương đối là thực tiễn luôn vận động và biến đổi không ngừng vì vậy khi chúng ta nhận thức được tính tương đối và tuyệt đối, thực tiễn là tiêu chuẩn
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn bắt nguồn từ mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan. Con người luôn luôn tác động tích cực vào thế giới khách quan – tự nhiên và xã hội, cải biến thế giới khách quan bằng thực tiễn. Trong quá trình đó, sự phát triển nhận thức của con người và sự biến đổi thế giới khách quan là hai mặt thống nhất. Điều đó quy định sự thống nhất biện chứng giữa lý luận với thực tiễn trong hoạt động sinh tồn của cá nhận và cộng đồng.
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và của lý luận nhận thức mácxít nói riêng. Quán triệt mối quan hệ đó có ý nghĩa quan trọng đối với nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn cách mạng.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình con người phản ánh một cách biện chứng thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử - xã hội. Quá trình nhận thức diễn ra không giản đơn, thụ động, máy móc, nhận thức không có sẵn, bất di bất dịch, mà là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người một cách năng động, sáng tạo, biện chứng. Đó là quá trình đi từ không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ nông đến sâu, từ không đầy đủ và không chính xác đến đầy đủ hơn và chính xác hơn.
Quá trình nhận thức của con người và loài người nói chung trải qua hai giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính. Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động hiện thực khách quan vào các giác quan của con người. Nhận thức cảm tính gồm các hình thức là cảm giác, tri giác và biểu tượng. Nhận thức lý tính hay tư duy trừu tượng, khái quát và gián tiếp hiện thực. Nhận thức lý tính được hình thành từ những tài liệu do nhận thức cảm tính đem lại và được thể hiện dưới các hình thức là khái niệm, phán đoán và suy luận. Nếu nhận thức cảm tính mới dừng lại ở cái bề ngoài, chưa phân biệt được cái riêng và cái chung, bản chất và hiện tượng… thì nhận thức lý tính có thể giúp ta đi sâu vào những mối liên hệ bản chất, phổ biến, tất nhiên, bên trong của sự vật, do đó nhận thức được sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn.
Sự phát triển của nhận thức loài người tất yếu dẫn đến sự xuất hiện của lý luận. Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, đồng thời thể hiện như là trình độ cao của nhận thức. Theo Hồ Chí Minh: Lý luận “là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích lũy lại trong quá trình lịch sử”.
Xét về mặt bản chất, lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế giới khách quan. Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn mà trong mối liên hệ với thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại nhau, trong đó, thực tiễn giữ vai trò quyết định. Lênin nhận xét rằng “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, nà cả của tính hiện thực thực tiếp”.
Vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ thực tiễn là cơ sở, mục đích và động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức nói chung trong đó có lý luận. Ăngghen nhận xét rằng: “Từ trước tới nay khoa học tự nhiên cũng như triết học đã hoàn toàn coi thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tư duy của họ. Hai môn ấy một mặt chỉ biết có tự nhiên, mặt khác chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên”.
Con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới mà nhận thức, lý luận ở con người mới được hình thành và phát triển. Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để cho con người nhận thức chúng. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa… để phát triển thành lý tính, xây dựng thành lý luận, khoa học phản ánh bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thê giới. Do đó, có thể nói, thực tiễn cung cấp những tài liệu cho nhận thức, không có lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với người này hay người kia, thế hệ này hay thế hệ khác, dù ở giai đoạn cảm tính hat lý tính, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Trong quá trình tồn tại, con người không được thế giới đáp ứng thỏa mãn, nên con người phải cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn của mình, và chính trong quá trình biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn còn đề ra nhu cầu nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức, lý luận. Nhu cầu, thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, thúc đẩy sự ra đời phát triển của các ngành khoa học.
Như vậy, trong quá trình hoạt động thực tiễn, trí tuệ con người được phát triển, được nâng cao dần cho đến lúc có lý luận, khoa học. Song bản thân lý luận, khoa học không có mục đích tự thân. Lý luận, khoa học ra đời chính vì và chủ yếu vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người. Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận thức, lý luận sau khi ra đời phải quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn, phải biến thành hành động thực tiễn của quần chúng. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn phục vụ mục tiêu phát triển nói chung.
Ngày nay, công cuộc đổi mới xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ và phức tạp, đòi hỏi lý luận phải đi sâu nghiên cứu để đáp ứng những yêu cầu đó. Chẳng hạn, đó là những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên ở nước ta, về kinh tế thị trường, về hoàn chỉnh hệ thống quan điểm đổi mới, … Qua việc làm sáng tỏ những vấn đề trên, chắc chắn lý luận sẽ góp phần đắc lực vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận còn thể hiện ở chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Chỉ có lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận được tri thức đạt được là đúng hay sai, là chân lý hay sai lầm. Thực tiễn sẽ nghiêm khắc chứng minh chân lý, bác bỏ sai lầm.
Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận đối với hoạt động thực tiễn của con người. Do đó, mọi lý luận phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm. Chính vì thế mà C.Mác nói: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý …”. Thông qua thực tiễn, những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung hoặc nhận thức lại. Giá trị của lý luận nhất thiết phải được chứng minh trong hoạt động thực tiễn.
Tuy nhiên cần phải hiểu tiêu chuẩn thực tiễn một cách biện chứng, tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối (hay tính xác định) vừa có tính tương đối (hay tính không xác định). Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm nghiệm chân lý, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý. Nhưng tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng nguyên một chỗ mà biến đổi và phát triển; thực tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi con người nên không tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan. Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người trở thành những chân lý vĩnh viễn, tuyệt đích cuối cùng. Trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tin tức đạt được trước kia và hiện nay vẫn phải thường xuyên chịu kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo. Vì vậy, những tri thức được thực tiễn chứng minh ở một giai đoạn lịch sử nhất định phải tiếp tục được thực hiện bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn thiện hơn. Việc quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp chúng ta tránh khỏi những cực đoan sai lầm như chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ hoặc chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối.
Sự phân tích trên đây về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, “học đi đôi với hành”. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu, chủ nghĩa xét lại.
Tuy thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận, nhưng không phải mọi thực tiễn đều là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận khi thực tiễn đạt đến tính toàn vẹn của nó. Tính toàn vẹn của thực tiễn là thực tiễn đã trải qua quá trình tồn tại, vận động, phát triển và chuyển hóa. Đó là chu kỳ tất yếu của thực tiễn. Thực tiễn có nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một giai đoạn nào đó, một bộ phận nào đó của thực tiễn thì lý luận có thể xa rời thực tiễn. Do đó, chỉ những lý luận nào phản ánh được tính toàn vẹn của thực tiễn thì mới đạt đến chân lý. Chính vì vậy mà V.I Lênin cho rằng: “Thực tiễn của con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần được in vào ý thức của con người bằng những hình tượng lôgic. Những hình tượng này có tính vững chắc của một thiên kiến, có một tính chất công lý, chính vì sự lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần ấy”.
Quá trình phát triển nhận thức của con người nhất thiết dẫn đến sự hình thành lý luận. Đó không chỉ là sự tổng kết, khái quát từ lịch sử nhận thức mà còn từ nhu cầu của thực tiễn. Thực tiễn phong phú, đa dạng, luôn vận động và biến đổi, nhưng để hình thành lý luận, trước hết, lý luận phải đáp ứng thực tiễn. Con người nhận thức hiện thực khách quan để giải quyết những vấn đề con người quan tâm. Năng lực của con người ngày càng được nâng cao chính nhờ khả năng thông qua hoạt động phản ánh, khái quát thành tri thức lý luận. Trong sự vô cùng, vô tận của hiện thực khách quan, con người không hề choáng ngợp mà bằng mọi biện pháp để nhận thức theo định hướng mục đích. Thông qua tính mục đích đó mà lý luận được hình thành. Loài người có khả năng trở thành chủ thể nhận thức để phản ánh sự vô tận của hiện thực khách quan, nhưng để đáp ứng hoạt động thực tiễn, con người tích lũy lý luận, mà trước hết là những lý luận phù hợp với nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người. Đó là những lý luận mang tính phương pháp cho hoạt động cải tạo hoạt động khách quan. Mọi hoạt động của con người đều nhằm đạt hiệu quả cao. Lý luận, trước hết phải đáp ứng mục đích đó. Quan hệ giữa người với người, giữa người với tự nhiên đòi hỏi con người phải có lý luận sâu sắc về chúng. Con người hình thành lý luận chủ yếu để làm phương pháp cho hoạt động trong đó có hoạt động sáng tạo tri thức; phát minh, sáng chế những tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt nhằm nâng cao năng lực sáng tạo của con người, do đó, hệ thống lý luận nào góp phần giải quyết đúng đắn, phù hợp mục đích của con người thì được con người quan tâm khái quát. Vì lẽ đó, lý luận phải đáp ứng nhu cầu phát triển của thực tiễn.
Tuy nhiên, việc coi trọng thực tiễn không có nghĩa là coi nhẹ lý luận, hạ thấp vai trò của lý luận. Không thể dừng lại ở những kinh nghiệm thu nhận được trực tiếp từ thực tiễn mà phải nâng lên thành lý luận. Kinh nghiệm và lý luận là hai trình độ khác nhau của nhận thức, đồng thời lại thống nhất với nhau; chúng bổ sung cho nhau, giả định lẫn nhau, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận cũng không đồng nhất với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, tuy chúng có quan hệ với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Bởi vì trong nhận thức kinh nghiệm ngoài hoạt động trực quan cảm tính, còn có sự tham gia của yếu tố lý tính. Do đó, có thể coi kinh nghiệm và lý luận là những bậc thang của lý tính, những khác nhau về đối tượng, trình độ, tính chất phản ánh hiện thức, về chức năng cũng như về trật tự lịch sử.
Tri thức kinh nghiệm là tri thức chủ yếu thu được từ quan sát và thí nghiệm. Tri thức kinh nghiệm nảy sinh một cách trực tiếp từ thực tiễn – từ lao động sản xuất, đến đấu tranh xã hội hoặc thí nghiệm khoa học. Có hai loại tri thức kinh nghiệm khoa học. Có hai loại tri thức kinh nghiệm:
Tri thức kinh nghiệm thông thường (tiền khoa học) thu được từ những quan sát hàng ngày trong cuộc sống và lao động sản xuất;
Tri thức kinh nghiệm khoa học thu nhận được từ những thí nghiệm khoa học.
Trong sự phát triển của xã hội, hai loại tri thức kinh nghiệm này ngày càng xâm nhập lẫn nhau. Tri thức kinh nghiệm giới hạn ở lĩnh vực các sự kiện, miêu tả, phân loại các dữ kiện thu nhận được từ quan sát và thí nghiệm. Tri thức kinh nghiệm đã mang tính trừu tượng và khái quát song mới là bước đầu và còn hạn chế.
Tri thức kinh nghiệm có vai trò không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày và của con người, và có vai trò quan trọng trong đấu tranh cách mạng, nhất là trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội – một sự nghiệp rất mới mẻ và đầy khó khăn, phức tạp. Ở đâu, không thể tìm câu giải đáp cho mọi vấn đề của thực tiễn cách mạng đặt ra từ trong sách vở hay bằng suy diễn thuần túy từ lý luận có sẵn. Chính kinh nghiệm của đông đảo quần chúng nhân dân trong đấu tranh cách mạng sẽ đem lại cho chúng ta những bài học quan trọng. Kinh nghiệm là cơ sở để chúng ta kiểm tra lý luận, sửa đổi, bổ sung lý luận đã có, tổng kết khái quát thành lý luận mới.
Nhưng, tri thức kinh nghiệm còn có hạn chế bởi nó chỉ mới đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng rẽ, về các mối liên hệ bên ngoài của sự vật và còn rời rạc. Ở trình đọ tri thức kinh nghiệm chưa thể nắm được cái tất yếu sâu sắc nhất, mối quan hệ bản chất giữa các sự vật, hiện tượng. Ăngghen nhận xét: “Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu”.
Vì vậy, không nên coi thường kinh nghiệm song cũng không nên cường điệu kinh nghiệm; không nên dừng lại ở kinh nghiệm mà cần nâng lên trình độ lý luận.
Lý luận là một trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận là tri thức khái quát từ tri thức kinh nghiệm, nó tồn tại trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật của lý luận nói chung. Lý luận được hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm nhưng lý luận không hình thành một cách tự phát. Từ kinh nghiệm nhưng không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm. Tuy nhiên, điều đó vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận với kinh nghiệm.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao, nhờ đó, nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của các sự vật, hiện tượng khách quan. Nhận thức lý luận là nhận thức hướng vào nắm bắt bản chất, quy luật của sự vật. Do đó, theo Mác, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là đem quy sự vận động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong của sự vật.
Như vậy, lý luận thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn, nghĩa là có tính bản chất sâu sắc hơn và do đó, phạm vi ứng dụng của nó cung phổ biến hơn, rộng hơn nhiều so với tri thức kinh nghiệm.
Nhờ có những ưu điểm trên đây, lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lênin viết: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”.
Lý luận một khi thâm nhập vào quần chúng thì biến thành sức mạng vật chất, lý luận có thể dự kiến được sự vận động và phát triển của sự vật trong tương lai, chỉ ra những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn. Nhờ có lý luận khoa học mới làm cho hoạt động của con người trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát.
Tuy nhiên, mặt khác cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự phản ánh hiện thức nên lý luận có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưởng, giáo điều. Khả năng ấy càng tăng lên nếu lý luận đó lại bị chi phối bởi hệ tư tưởng không khoa học, phản động và thái độ độc quyền chân lý.
Vì vậy, phải coi trọng lý luận, nhưng không cường điệu vai trò lý luận, coi thường thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa, phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt động cách mạng. Hồ Chí Minh viết: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.
Chính chủ nghĩa Mác – Lênin là tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý luận với thực tiễn trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Lý luận Mác – Lênin là sự khái quát thực tiễn cách mạng, lịch sử xã hội, là sự đúc kết những tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh vực cụ thể để xây dựng nên hệ thống lý luận khoa học hoàn chỉnh. Sức mạnh của nó là ở chỗ nó gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội.
III. Ý nghĩa phương pháp luận trong học tập và rèn luyện của Sinh viên hiện nay
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn hay vai trò của thực tiễn trong nhận thức có ý nghĩa phương pháp luận to lớn, đặc biệt là trong học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay.
Lý luận phải luôn bám sát thực tiễn, phản ánh được yêu cầu của thực tiễn, khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn
Thực tiễn là cái được phản ánh, nhận thức là cái phản ánh. Để hiểu được thực tiễn dưới dạng hình tượng lôgic nhất thiết phải hình thành lý luận. Bản thân thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển và biến đổi. Quá trình đó diễn ra có lúc tuân theo quy luật, có lúc không, có lúc khá phức tạp. Để hình thành lý luận, nhận thức phải bám sát quá trình đó. Bám sát thực tiễn không chỉ đơn giản phản ánh phù hợp thực tiễn đương đại mà còn phải so sánh, đối chiếu, phân tích để chọn lọc những thực tiễn mang tính khách quan, mang tính quy luật làm cơ sở cho quá trình hình thành lý luận. Nếu lý luận nào đó không phản ánh đúng nhu cầu của thực tiễn, không phù hợp với thực tiễn thì sớm hay muộn, lý luận đó cũng sẽ bị bác bỏ.
Chính vì thế, trong học tập cũng như rèn luyện của Sinh viên hiện nay, cần phải biết bám sát thực tiễn, phản ánh đúng yêu cầu thực tiễn để khái quát những kinh nghiệm của thực tiễn, lấy đó làm cơ sơ hình thành lý luận. Là sinh viên cần phải năng động, sáng tạo, biết vận dụng những kinh nghiệm có trước làm tiền đề cho quá trình học tập, rèn luyện của mình. Đó là tri thức trực tiếp góp phần tích cực vào sự phát triển của mỗi sinh viên sau này, lý luận phải khái quát được kinh nghiệm của loài người thì mới có tính khoa học và sẽ đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Một sinh viên nếu chỉ có lý luận suông trên lý thuyết sách vở mà đem áp dụng vào thực tế đời sống thì sẽ vấp phải những sai lầm do không phù hợp với sự phát triển cũng như sự vận động, biến đổi của xã hội. “Học đi đôi với hành”, nhất thiết phải lấy thực tiễn làm kinh nghiệm hình thành lý luận.
Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, khi vận dụng lý luận phải phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể
Lý luận được hình thành không chỉ là sự tổng kết thực tiễn mà còn là mục đích cho hoạt động thực tiễn tiếp theo. Sự phát triển của thực tiễn trong lịch sử luôn được lý luận khái quát. Chính vì lý luận phản ánh thực tiễn dưới dạng quy luật mà lý luận có khả năng trở thành phương pháp luận cho thực tiễn.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, coi trọng lý luận chính là vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học nhân loại đã đạt được vào điều kiện cụ thể của quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Thành tựu của khoa học và công nghệ đã tác động sâu sắc đến các lĩnh vực của quá trình nghiên cứu học tập của sinh viên. Không có một quốc gia nào đứng ngoài sự tác động đó. Khoa học và công nghệ là sự kế thừa và tích hợp thành tựu của quá khứ và hiện tại, sự cố gắng không mệt mỏi của bao thế hệ, là thành tựu mang tính nhân loại. Con đường phát triển ngắn nhất và bền vững nhất hiện nay của các quốc gia chậm phát triển là tranh thủ thời cơ, ứng dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ để phát triển đất nước. Để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, chúng ta phải nhanh chóng tiếp cận và ứng dụng một cách có hiệu quả các thành tựu của khoa học và công nghệ thế giới. Đó cũng là mục tiêu của tầng lớp tri thức trẻ như sinh viên hiện nay, cần phải cố gắng hết mình để tiếp thu và vận dụng sáng tạo những tri thức khoa học kĩ thuật của thế giới vào công cuộc hiện đại hóa đất nước.
Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là những biểu hiện khác nhau của sự vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Bệnh kinh nghiệm là sự tuyệt đối hóa những kinh nghiệm thực tiễn trước đây và áp dụng một cách máy móc vào hiện tạo khi điều kiện đã thay đổi. Bệnh kinh nghiệm xuất phát từ tri thức kinh nghiệm thông thường. Tri th._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21220.doc