Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu nguyên vật liệu nhựa tại hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến

LỜI NÓI ĐẦU Có thể khẳng định rằng nền kinh tế của Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới và chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã và đang khẳng định được bước đi đúng hướng, đồng thời cũng tạo ra một môi trường kinh doanh ngày càng hoàn thiện cả về nhân tố cấu thành cũng như hành lang pháp lý. Mặt khác, có thể nói rằng sự giao lưu giữa các nước trên thế giới ngày càng được mở rộng theo xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. V

doc58 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1390 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu nguyên vật liệu nhựa tại hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung đó, điển hình là việc Việt Nam vừa gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Nếu một quốc gia chỉ đóng của không giao lưu với nền kinh tế khác và thực hiện cơ chế tự cung tự cấp thì quốc gia đó không thể nào phát triển được. Mà để có một nền kinh tế phát triển thì quốc gia đó phải tăng cường giao lưu hợp tác, thúc đẩy giao lưu, hội nhập với nền kinh tế bên ngoài để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc gia.Với việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam càng có nhiều cơ hội để thúc đẩy phát triển kinh tế. Nhìn vào thực trạng hiện nay, chúng ta thấy rằng Việt Nam vẫn là một nước được xếp vào nhóm đang phát triển, vẫn dựa vào nông nghiệp là chính, công nghiệp cũng chưa phát triển mạnh nhưng bù lại chúng ta có rất nhiều tiềm năng. Do đó, để đảm bảo cho sự nghiệp phát triển chung của đất nước, thì phải thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Một trong những biện pháp đó là phát triển kinh tế ngoại thương, mở rộng sự hợp tác với các nền kinh tế trên thế giới là một yêu cầu cấp bách. Điều này đã được Đảng ta khẳng định tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức VI năm 1986 đã chỉ rõ: “Trong toàn bộ công tác kinh tế đối ngoại, khâu quan trọng nhất là đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu”. Còn tại Đại hội lần thứ VII năm 1991 cũng như Đại hội lần thứ VIII năm 1996, Đảng ta cũng chỉ ra quan điểm: “Phát triển kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan nhằm phục vụ sự phát triển của kinh tế, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Và cho đến Đại hội lần thứ IX năm 2000, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ… Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng nhập khẩu”. Như vậy càng khẳng định rằng xuất nhập khẩu có vai trò cần thiết và quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt trong việc phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhằm phù hợp với sự phát triển trong thời kỳ đổi mới, Nhà nước cho phép các loại hinh doanh nghiệp được thực hiện kinh doanh theo phương thức đa phương hóa, đa dạng hóa nghành, xóa bỏ dần sự khác biệt giữa các loại hinh doanh nghiệp. Trước tình hình đó, hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến cũng đã không ngừng đổi mới, phát triển nhiều ngành, nghề sản xuất để cho phù hợp với xu thế chung. Và xuất nhập khẩu cũng là một trong các hoạt động chính của hợp tác xã. Vì vậy em đã chọn đề tài: “Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu nguyên vật liệu nhựa tại hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến”. Đề tài chỉ đề cập và nghiên cứu một phần nhỏ trong chế độ pháp lý ngoại thương, cụ thể ở đây là nghiên cứu về thực tiễn ký kết hợp đồng nhập khẩu và thực trạng tại hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến để từ đó có thể đưa ra các kiến nghị và các giải pháp nhằm giúp cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu tại hợp tác xã nói riêng và tại các doanh nghiệp nói chung hiện nay ngày càng hoàn thiện và đầy đủ hơn. Kết cấu chính của đề tài này như sau: Ngoài các mục Lời nói đầu, phần Kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì đề tài được chia làm ba chương chính nhu sau: Chương I: Cơ sở pháp lý của việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Chương II: Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu nguyên vật liệu nhựa tại hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến. Chương III: Kiến nghị và giải pháp để nâng cao hiệu quả của hợp đồng nhập khẩu nguyên vật liệu nhựa tại hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến. Em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo Nguyễn Hợp Toàn, các thầy giáo trong khoa Luật Kinh tế và các bộ xã viên của hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến đã hết sức giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Hà Nội, ngày tháng năm 2007 SINH VIÊN THỰC HIỆN Nguyễn Thiết Hùng Chương I CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA VIỆC KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU Trong Điều kiện quốc tế hóa đời sống ngày càng cao, sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, các nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau và tham gia vào quá trình liên kết và hợp tác kinh tế. Bởi vì quá trình đó không thể diễn ra ở một quốc gia mà phải tiến hành trên bình diện quốc tế. Đặc biệt, muốn phát triển nhanh thì mỗi quốc gia không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng tất cả các thành tựu khoa học, kỹ thuật, kinh tế mà loài người đã đạt được để thông thương, buôn bán trao đổi lẫn nhau. Vì thế mỗi quốc gia sẽ phải mua về những thứ không tự sản xuất được từ những nước khác, đồng thời bán những sản phẩm tự sản xuất được cho những nước có nhu cầu. Hoạt động này được gọi là hoạt động thương mại quốc tế.. Nhu cầu hoạt động ngoại thương thực chất là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia trên thế giới. Nếu xem kinh tế ngoại thương là một tổng thể thì xuất nhập khẩu chính là cốt lõi của tổng thể đó. Vì thế hoạt động ngoại thương ra đời và phát triển cùng với sự phát triển về nhu cầu trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia. Mặt khác, nhập khẩu là một trong những phương thức tiếp thu những thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới một cách nhanh chóng nhất và tạo ra cơ sở cho sự phát triển công nghệ hạ tầng và là một trong những mục tiêu hàng đầu của chính sách thương mại. 1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu Hoạt động xuất khẩu có một vai trò vô cùng to lớn đối với sự phát triển nền kinh tế của một đất nước. Thứ nhất, hoạt động xuất khẩu tạo ra một lượng ngoại tệ rất lớn nhằm giúp cho việc nhập khẩu các mặt hàng cần thiết để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Bởi vì công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường tất yếu để phát triển nền kinh tế của nước nhà. Để có thể thực hiện được công cuộc này, cần thiết phải có công nghệ khoa học kỹ thuật, thiết bị máy móc tiên tiến. Một phương pháp nhanh nhất để có những công nghệ máy móc này là nhập khẩu từ các nền công nghiệp tiên tiến. Có nhiều nguồn lực để có thể nhập khẩu các phương tiện máy móc kỹ thuật và một trong những nguồn lực quan trọng nhất đó chính là kết quả thu được từ hoạt động xuất khẩu. Thứ hai, hoạt động xuất khẩu sẽ giúp cho hàng hoá trong nước có cơ hội gia nhập thị trường thế giới, tác động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Thứ ba, hoạt động xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công việc, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.Bởi vì, việc sản xuất các mặt hàng xuất khẩu sẽ thu hút rất nhiều lao động đến làm việc, làm giảm bớt tình trạng thất nghiệp, góp phần ổn định kinh tế, chính trị, xã hội và tạo ra thu nhập không nhỏ cho người dân. Mặt khác, xuất khẩu mặt hàng này sẽ tạo ra nguồn lực để nhập khẩu mặt hàng khác mở rộng và đáp ứng ngày một phong phú nhu cầu tiêu dung của người dân. Thứ tư, hoạt động xuất khẩu là cơ sở, tiền đề mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế của một quốc gia. Bởi vì xuất khẩu và quan hệ kinh tế đối ngoại tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại, thúc đẩy các quan hệ khác mở rộng và phát triển như quan hệ về tín dụng, đầu tư, bảo hiểm quốc tế, … Có thể thấy rằng hoạt động xuất khẩu là một vấn đề kinh tế mang tính chiến lược để phát triển nền kinh tế của một quốc gia. 2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu Khi đề cập đến vai trò của hoạt động xuất khẩu, không thể không nói đến hoạt động nhập khẩu. Vai trò của hoạt động nhập khẩu là vô cùng quan trọng. Thứ nhất, hoạt động nhập khẩu sẽ làm tăng số lượng và chất lượng của các mặt hàng trên thị trường trong nước nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Thứ hai, nhập khẩu để mang lại cho người tiêu dùng những mặt hàng trong nước không thể sản xuất ra được, các mặt hàng mà khi nhập khẩu sẽ có lợi hơn khi sản xuất ra ở trong nước cũng như các mặt hàng mà trong nước sản xuất ra không đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của người tiêu dùng. Thứ ba, hoạt động nhập khẩu mang lại cho một quốc gia một công nghệ khoa học hiện đại, tiên tiến phục vụ tốt cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Thứ tư, hoạt động xuất khẩu giúp cho việc sản xuất ở trong nước ngày càng phát triển, không ngừng nâng cao mẫu mã và chất lượng sản phẩm để có thể cạnh tranh với các mặt hàng nhập khẩu. Như vậy, hoạt động nhập khẩu nếu được Điều chỉnh hợp lý sẽ góp phần tăng nhanh tốc độ phát triển của một nền kinh tế, tăng thu nhâp cho người dân, sử dụng có hiệu quả khả năng sản xuất trong nước, giải quyết tốt chính sách lao động xã hội, … II. HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU 1. Khái niệm Trong hợp đồng mua bán nói chung, luôn luôn có ít nhất hai chủ thể, đó là người mua và người bán. Theo khoản 8 Điều 3 của luật Thương mại năm 2005 thì “mua bán hàng hoá” là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thoả thuận. Cũng theo Điều 28 của luật Thương mại 2005 thì: “xuất khẩu hàng hoá” là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo qui định của pháp luật. Còn “nhập khẩu hàng hoá” là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo qui định của pháp luật. Cơ sở pháp lý của việc mua bán hàng hoá chính là hợp đồng mua bán hàng hoá. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế trước hết là một hợp đồng mua bán hàng hoá, do đó nó mang đầy đủ đặc trưng của một hợp đồng mua bán hàng hoá. Ngoài hợp đồng này còn có thêm yếu tố quốc tế - là yếu tố vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia nên nó còn phải thoả mãn một số yêu cầu do yếu tố này đòi hỏi. Một số công ước quốc tế đã định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hoá có yếu tố quốc tế như sau: Theo Điều 1 - Công ước Lahaye 1964 về mua bán quốc tế những động sản hữu hình: “Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hoá trong đó các bên ký kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, hàng hoá được chuyển từ nước này sang nước khác, hoặc việc trao đổi ý chí ký kết hợp đồng giữa các bên ký kết được thiết lập ở các nước khác nhau”. Theo Điều 1 - Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế: “Công ước này áp dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau”. Như vậy, có thể thấy những biểu hiện chủ yếu của yếu tố nước ngoài trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là: Các bên tham gia ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là các thương nhân có quốc tịch khác nhau và có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau; Hàng hoá - đối tượng của hợp đồng được dịch chuyển qua biên giới quốc gia hoặc giai đoạn chào hàng và chấp thuận chào hàng có thể được thiết lập ở các nước khác nhau; Nội dung của hợp đồng bao gồm các quyền sở hữu và nghĩa vụ phát sinh từ việc chuyển giao quyền sở hữu về hàng hoá từ người bán sang người mua ở các nước khác nhau; Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải là ngoại tệ đối với ít nhất là một bên trong quan hệ hợp đồng; Luật Điều chỉnh hợp đồng là luật quốc gia, các Điều ước quốc tế và các tập quán quốc tế khác về thương mại và hàng hải. 2. Đặc điểm So với hợp đồng mua bán trong nước, hợp đồng xuất nhập khẩu có nhiều điểm khác biệt đặc trưng. Điều làm nên sự khác biệt đó chính là tính quốc tế của hợp đồng xuất nhập khẩu. Điểm khác biệt như sau: 2.1. Chủ thể Chủ thể tham gia hợp đồng xuất nhập khẩu có thể khác nhau theo các định nghĩa khác nhau trong các nguồn luật khác nhau. Theo công ước Viên: “Chủ thể tham gia hợp đồng là những bên tham gia ký kết hợp đồng có trụ sở thương mại hay có nơi cư trú thường xuyên ở các nước khác nhau”. Theo luật Thương mại Việt Nam năm 2005: “Chủ thể tham gia hợp đồng là những thương nhân mang quốc tịch khác nhau”. Thương nhân theo luật Thương mại Việt Nam được qui định trong Điều 6 của luật này là “ cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên” 2.2. Đối tượng hợp đồng Đối tượng của hợp đồng xuất nhập khẩu là hàng hoá. Đối tượng của hợp đồng được qui định khác nhau trong các nguồn luật khác nhau. Khoản 2 Điều 3 luật Thương mại Việt Nam 2005: “a. Hàng hoá là tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai. b. Hàng hoá còn là những vật gắn liền với đất đai”. Có thể thấy luật Thương mại Việt Nam 2005 Điều chỉnh không chỉ bó hẹp ở các động sản mà còn cả các động sản. Còn các hành vi liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá như vận chuyển hàng hoá, thanh toán, bảo hiểm, … thì không thuộc phạm vi Điều chỉnh của luật này. Đây cũng là một hạn chế khiến cho Việt Nam sẽ gặp khó khăn khi hội nhập WTO. Hàng hoá, đối tượng của hợp đồng xuất nhập khẩu có thể được di chuyển ra khỏi biên giới của một quốc gia. Thực tế thì Điều kiện này cũng cho thấy sự khác biệt giữa hợp đồng xuất nhập khẩu với một hợp đồng kinh tế nói chung, ví dụ như hợp đồng mua bán ký kết giữa một xí nghiệp trong khu chế xuất với một xí nghiệp ngoài khu chế xuất được pháp luật coi là hợp đồng xuất nhập khẩu, nhưng hàng hoá của hợp đồng đó không di chuyển ra khỏi biên giới quốc gia. 2.3. Đồng tiền thanh toán Đối với hợp đồng mua bán trong nước thì đồng tiền thanh toán thường là nội tệ. Trong hợp đồng xuất nhập khẩu các bên có thể lựa chọn đồng tiền thanh toán theo thoả thuận của các bên ghi trong hợp đồng, có thể là đồng tiền của nước xuất khẩu, của nước nhập khẩu hoặc nước thứ ba. Tuy nhiên từ lúc ký kết đến khi thanh lý hợp đồng thường là một quãng thời gian khá dài, vì vậy có thể phát sinh tranh chấp trong việc thanh toán do chênh lệch tỷ giá hối đoái. 2.4. Luật áp dụng Nguồn luật Điều chỉnh đối với hợp đồng xuất nhập khẩu có thể là luật của bên bán, luật của bên mua, cũng có thể là luật của nước thứ bat rung gian hoặc là áp dụng một công ước quốc tế như công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Ngoài ra hợp đồng xuất nhập khẩu còn chịu sự Điều chỉnh của tập quán thương mại quốc tế và thậm chí là án lệ quốc tế (tiền lệ pháp). Để tránh hiện tượng “xung đột pháp luật” - là hiện tượng có nhiều hệ thống pháp luật khác nhau có thể cùng tham gia Điều chỉnh một quan hệ pháp luật - thì các bên phải thống nhất dẫn chiếu một nguồn luật Điều chỉnh cụ thể trong quá trình thực hiện hợp đồng. 3. Nguồn luật Điều chỉnh hợp đồng xuất nhập khẩu Trước khi giao kết một hợp đồng xuất nhập khẩu, các chủ thể luôn phải tìm hiểu trong hoàn cảnh đó hợp đồng qui định họ có những quyền và nghĩa vụ gì, như thế nào? Nếu một hợp đồng xuất nhập khẩu không chặt chẽ thì khả năng xảy ra tranh chấp là rất lớn, các bên dễ vi phạm hợp đồng. Trên thực tế, một hợp đồng xuất nhập khẩu dù được soạn thảo hoàn chỉnh, chi tiết đến đâu cũng không tiên liệu trước được mọi tình huống có thể phát sinh trong quá trình thực hiện. Khi đó, những vấn đề phát sinh sẽ dựa vào cơ sở nào để giải quyết nếu như trong hợp đồng không qui định hoặc qui định không đầy đủ. Nếu là hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước thì thông thường luật quốc gia là cơ sở. Nhưng nếu là hợp đồng xuất nhập khẩu thì không đơn giản. Để giải quyết vấn đề này, theo sự thoả thuận của các bên tham gia hợp đồng, nguồn luật Điều chỉnh có thể là luật quốc gia, luật quốc tế, tập quán thương mại quốc tế hay tiền lệ pháp (án lệ) về thương mại. 3.1. Luật quốc gia Luật quốc gia ở đây được hiểu là toàn bộ hệ thống pháp luật của một quốc gia. Ví dụ: Nếu pháp luật Việt Nam được áp dụng thì không chỉ áp dụng luật Thương mại mà là toàn bộ pháp luật Thương mại, rộng hơn nữa là toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam. Luật quốc gia trở thành luật áp dụng cho hợp đồng xuất nhập khẩu trong các trường hợp: Nếu Điều ước quốc tế mà quốc gia của chủ thể tham gia ký kết hoặc thừa nhận có qui định về Điều khoản luật áp dụng cho hợp đồng mua bán ngoại thương, thì luật đó đương nhiên được áp dụng mà không phụ thuộc vào sự đàm phán và thoả thuận của các chủ thể. Các bên thoả thuận trong hợp đồng xuất nhập khẩu cho phép áp dụng luật quốc gia. Nếu các bên không đạt được bất kỳ một thoả thuận nào về luật áp dụng thì cơ quan thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ tự mình lựa chọn luật áp dụng căn cứ vào qui phạm xung đột của nước mình. Trường hợp do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau mà các bên có thể thoả thuận lựa chọn luật áp dụng sau khi ký hợp đồng hoặc thậm chí sau khi đã phát sinh tranh chấp (khi đó các bên vẫn có quyền thoả thuận đưa tranh chấp ra xét xử theo trình tự trọng tài và quyết định áp dụng luật quốc gia nào để giải quyết tranh chấp mà hợp đồng chưa qui định về cơ quan giải quyết tranh chấp). Có một vấn đề cần lưu ý là là tất cả các nước trên thế giới đều không cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài khi có lý do phải bảo vệ trật tự công cộng nước mình dù qui phạm xác định dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Luật quốc gia được các bên lựa chọn có thể là luật nước người bán, nước người mua, luật của nước thứ ba hoặc luật của bất kỳ nước nào khác có quan hệ với hợp đồng, chẳng hạn như luật của nơi ký hợp đồng, nơi thực hiện nghĩa vụ, … Khi lựa chọn pháp luật của một nước thứ ba, phải có hiểu biết về luật pháp của nước đó. Cần phải biết luật đó bảo vệ quyền lợi của người bán, người mua, luật đó có trái với chế độ chính trị hay vi phạm quyền lợi của chủ thể tham gia ký kết hợp đồng hay không. Ở Việt Nam, luật quốc gia có liên quan đến hợp đồng ngoại thương nói chung và hợp đồng xuất nhập khẩu nói riêng là luật Thương mại 2005, bộ luật Hàng hải, bộ luật Dân sự 2005, luật thuế xuất nhập khẩu, … Ngoài ra còn hàng loạt các nghị định, nghị quyết, qui định, thông tư như NĐ số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 1 năm 2006, NĐ số 19/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 2 năm 2006, NĐ số 72/2006/NĐ-CP ngày 25/7/2006 nhằm qui định hoặc chi tiết hoá hướng dẫn việc thi hành các bộ luật này. 3.2. Điều ước quốc tế Điều ước quốc tế là sự thoả thuận giữa các chủ thể của luật quốc tế mà chủ yếu là giữa các quốc gia trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện nhằm thiết lập những qui tắc pháp lý bắt buộc để ấn định, thay đổi hoặc hoặc từ bỏ quyền và nghĩa vụ với nhau. Điều ước quốc tế về thương mại có vai trò hết sức quan trọng trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, nó là cơ sở pháp lý quan trọng đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được thiết lập giữa các doanh nghiệp của các quốc gia đó, là cơ sở để tăng cường mối quan hệ thương mại trao đổi hàng hoá giữa các chủ thể mà các quốc gia tham gia vì mục đích tăng cường hợp tác thúc đẩy phát triển kinh tế. Mặc dù vậy, trong tư pháp quốc tế, Điều ước quốc tế không phải là nguồn luật chủ yếu chiếm ưu thế, vì để ký kết một Điều ước quốc tế cần có những điểm tương đồng về lợi ích trên cơ sở tương quan lực lượng giữa các quốc gia và còn những trở ngại về phong tục tập quán, nhưng đây là cách hữu hiệu nhất để giải quyết xung đột pháp luật, chúng có tác động chủ đạo và trực tiếp đối với hoạt động ngoại thương. Điều ước quốc tế có thể phân chia thành Điều ước song phương và Điều ước đa phương hoặc cũng có thể phân chia thành Điều ước quốc tế Điều chỉnh trực tiếp và Điều ước quốc tế Điều chỉnh gián tiếp. Đối với Điều ước quốc tế không Điều chỉnh trực tiếp hợp đồng mua bán ngoại thương không qui định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong hợp đồng mà chỉ Điều chỉnh ở tầm vĩ mô nhưng cũng là cơ sở để ký kết. Bao gồm các hiệp định thương mại. Nội dung của các Điều ước này chỉ định nguyên tắc áp dụng pháp lý chung giữa các quốc gia. Bao gồm chế độ đãi ngộ tối huệ quốc, chế độ đãi ngộ quốc gia, chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập, nguyên tắc có đi có lại, … Đối với các Điều ước Điều chỉnh trực tiếp như công ước Viên 1980, công ước Lahayer, … Sau khi đã tham gia Điều ước quốc tế, các quốc gia thành viên phải thi hành Điều ước quốc tế có giá trị áp dụng bắt buộc trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia đó. Các qui phạm luật quốc gia ban hành phải phù hợp với Điều ước quốc tế (nguyên tắc nội luật hoá). 3.3. Tập quán thương mại quốc tế Tập quán thương mại là những thói quen thương mại được lặp đi lặp lại trong một thời gian dài được nhiều nước công nhận và áp dụng rộng rãi trong những hoạt động thương mại nhất định. Thông thường thói quen thương mại được công nhận là tập quán thương mại quốc tế khi thoả mãn Điều kiện: Thói quen được phổ biến được áp dụng thường xuyên và có tính chất ổn định. Thói quen duy nhất về từng vấn đề ở từng địa phương, từng quốc gia hay trong từng khu vực. Thói quen có nội dung cụ thể rõ ràng dựa vào đó có thể xác định được quyền và nghĩa vụ của các bên. Tập quán thương mại quốc tế trở thành nguồn luật để Điều chỉnh các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá ngoại thương trong các trường hợp sau: Được các bên thoả thuận trong hợp đồng sẽ áp dụng. Được qui định trong Điều ước quốc tế. Hoặc trong trường hợp hợp đồng không có qui định gì vấn đề đang tranh chấp và Điều ước quốc tế liên quan với luật quốc gia được dẫn chiếu không qui định gì. Điều 13 luật Thương mại Việt Nam 2005 qui định: “Trong trường hợp pháp luật không có qui định, các bên không có thoả thuận và không có thói quen đã được thiết lập giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không được trái với những nguyên tắc qui định trong luật này và trong bộ luật Dân sự”. Tập quán thương mại quốc tế chung và phổ biến là: Điều kiện thương mại quốc tế (Incoterms 2000), Qui tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP 500), Qui tắc về nhờ thu (URC). Tập quán thương mại quốc tế là tập quán thương mại được nhiều nước công nhận và áp dụng rộng rãi ở nhiều nơi, nhiều khu vực. Trong các hợp đồng xuất nhập khẩu thường dẫn chiếu tới tập quán thương mại quốc tế trong Incoterms do Phòng Thương mại và Công nghiệp quốc tế biên soạn vào năm 1936, sửa đổi bổ sung vào các năm 1953, 1967, 1980, 1990 và gần đây nhất là Incortems năm 2000 - qui định về Điều kiện giao hàng, bao gồm quyền và nghĩa vụ của các bên, như: chi phí trong giao nhận hàng hoá giữa các bên, thời điểm chuyển rủi ro từ người bán sang người mua. Ngoài ra người ta còn áp dụng Qui tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP) do phòng Thương mại và Công nghiệp quốc tế ban hành. 3.4. Tiền lệ pháp (án lệ) về thương mại Tiền lệ pháp về bản chất là việc sử dụng các phán quyết đã tuyên bố trước đây của toà án hoặc trọng tài trên cơ sở phân tích và vận dụng nó như một cơ sở pháp lý để các cơ quan tư pháp giải quyết tranh chấp về sau. Đối với một số quốc gia thì tiền lệ pháp không được coi là nguồn của pháp luật, nhưng đối với một số nước như Anh, Mỹ thì tiền lệ pháp được coi là một nguồn quan trọng của pháp luật. Việt Nam không thừa nhận tiền lệ pháp, nhưng đối với hợp đồng xuất nhập khẩu nó có thể trở thành luật áp dụng nếu một trong hai nước mà chủ thể mang quốc tịch coi án lệ là một nguồn của pháp luật và luật áp dụng trong hợp đồng là luật của quốc gia coi án lệ là nguồn của pháp luật. Tuy nhiên việc sử dụng án lệ không được trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. III. KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU THEO QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM 1. Giao kết hợp đồng xuất nhập khẩu 1.1. Nguyên tắc giao kết Hợp đồng xuất nhập khẩu được ký kết dựa trên những nguyên tắc sau đây: Nguyên tắc tự do, tự nguyện: Hợp đồng là sự thoả thuận và thống nhất ý chí của các bên tham gia xác lập quan hệ hợp đồng, do đó việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu phải dựa trên cơ sở ý chí tự do của các bên tham gia hợp đồng. Các bên tham gia hợp đồng có quyền bày tỏ ý kiến của mình, không chịu áp đặt ý chí của bất kỳ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào. Nguyên tắc này loại bỏ tất cả các hợp đồng được ký kết trên cở sở dùng bạo lực, bị đe dọa, bị lừa bịp hoặc do có sự nhầm lẫn. Do vậy, tự nguyện là nguyên tắc cơ bản bắt buộc phải tuân thủ khi các bên chủ thể tham gia ký kết hợp đồng. Nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi: Có nghĩa là các bên tham gia hợp đồng hoàn toàn bình đẳng với nhau về các quyền và nghĩa vụ. Điều này thể hiện ở chỗ khi đàm phán ký kết hợp đồng các bên đều có quyền đưa ra những ý kiến của mình và đều có quyền chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của bên kia mà không bên nào ép buộc bên nào. Trong quan hệ hợp đồng kinh tế, quyền và nghĩa vụ phải cân bằng nhau và các bên tham gia hợp đồng đều phải chịu trách nhiệm với nhau về việc thực hiện nghĩa vụ của mình. Nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại được thiết lập giữa các bên: Trừ trường hợp đã có thỏa thuận khác, các bên được coi là mặc nhiên áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại đã được thiết lập giữa các bên đó mà các bên đã biết hoặc phải biết nhưng không trái với qui định của pháp luật. Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng: Các bên tham gia hợp đồng phải có nghĩa vụ thông tin đầy đủ, trung thực cho người tiêu dùng về hàng hóa và dịch vụ mà mình kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin đó. Bên cạnh các bên đó còn phải chịu trách nhiệm về chất lượng, tính hợp pháp của hàng hóa, dịch vụ mà mình kinh doanh. Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại: Trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các Điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo qui định của pháp luật thì được thừa nhận có giá trị pháp lý đương nhiên trong văn bản. 1.2. Giao kết hợp đồng xuất nhập khẩu Để đưa ra một bản hợp đồng hợp lý, đảm bảo quyền lợi các bên, các bên thường phải trải qua một quá trình thương lượng, đàm phán. Có thể trực tiếp và gián tiếp với nhiều phương thức khác nhau, có thể bằng thư từ, điện thoại, fax, … Mỗi phương thức có ưu nhược điểm nhất định. Vì vậy tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể để lựa chọn phương thức thích hợp. Việc ký kết theo phương thức gián tiếp hay trực tiếp thường tuân theo những bước nhất định tùy theo nguồn luật Điều chỉnh. 2. Điều kiện ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng xuất nhập khẩu 2.1. Chủ thể của hợp đồng Chủ thể của hợp đồng xuất nhập khẩu là các thương nhân có trụ sở thương mại ở những nước khác nhau. Chủ thể bên Việt Nam là thương nhân được phép hoạt động thương mại theo qui định của Điều 6 luật Thương mại Việt Nam 2005. Thương nhân Việt Nam được phép xuất nhập khẩu hàng hóa không phụ thuộc ngành nghề đăng ký kinh doanh trừ hàng hóa thuộc danh mục cấm xuất nhập khẩu, tạm ngừng xuất nhập khẩu theo qui định Điều 3 NĐ số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2006 qui định chi tiết thi hành luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hoá với nước ngoài. Hoạt động xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp đã có đăng ký kinh doanh (theo luật Doanh nghiệp) và đăng ký mã số kinh doanh xuất nhập khẩu tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố. 2.2. Hình thức hợp đồng Theo qui định tại Điều 24 của luật Thương mại Việt Nam 2005: “hợp đồng xuất nhập khẩu có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật qui định phải được thành lập thành văn bản thì phải tuân theo các qui định đó”. Điều này qui định giống với Công ước Viên 1980, theo tinh thần nội luật hóa quốc tế. Văn bản ở đây được hiểu bao gồm: Văn bản hợp đồng hoặc là các tài liệu giao dịch khác. Các tài liệu giao dịch phải có sự xác nhận nội dung trao đổi, thỏa thuận như công văn, đơn chào hàng, đơn đặt hàng, giấy chấp nhận. Theo khoản 15 Điều 3 luật Thương mại qui định: “Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo qui định của pháp luật”. Các bên tham gia hợp đồng có thể ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu theo hai cách: Trực tiếp: Hợp đồng xuất nhập khẩu được hình thành sau khi các bên trực tiếp gặp gỡ, đàm phán, thỏa thuận với nhau các Điều khoản của hợp đồng. Hợp đồng phát sinh hiệu lực khi các bên cùng thể hiện thống nhất bằng cách cùng ký và đóng dấu vào bản dự thảo hợp đồng. Gián tiếp: Đây là hình thức ký kết được các bên trao đổi, thống nhất từng vấn đề thông qua thư từ, điện thoại, fax, internet, …, trong đó ghi rõ nội dung công việc cần giao dịch. Một hợp đồng xuất nhập khẩu được ký kết theo phương thức gián tiếp bao gồm hai giai đoạn: Đề nghị lập hợp đồng: Bên đề nghị đưa ra những Điều khoản chủ yếu của hợp đồng, thể hiện trong bản chào hàng hoặc chào mua hàng, đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong một thời gian nhất định, để bên được đề nghị xem xét quyết định lập hợp đồng. Đề nghị lập hợp đồng phải xác định Điều kiện để sự tuyên bố hủy bỏ đề nghị hợp đồng có hiệu lực. Chấp nhận đề nghị ký kết hợp đồng: Nếu chấp nhận dứt khoát vô Điều kiện đề nghị ký kết hợp đồng thì hợp đồng coi như được ký kết. Nếu sửa đổi một số Điều kiện trong đơn đề nghị thì coi như đã từ chối việc ký kết hợp đồng và đưa ra một lời chào hàng mới gửi tới cho đối tác. Hợp đồng chỉ được coi là ký kết khi một trong hai bên chấp nhận vô Điều kiện bản chào hàng mà bên kia gửi tới. 2.3. Đối tượng hợp đồng Đối tượng của hợp đồng phải là hàng hóa được phép xuất nhập khẩu theo các văn bản pháp luật hiện hành. Doanh nghiệp không được phép xuất khẩu những mặt hàng cấm xuất nhập khẩu. Nếu đối tượng của hợp đồng là loại hàng hóa Nhà nước hạn chế lưu thông, thì loại hợp đồng này thường bị Nhà nước quản lý chặt chẽ về số lượng và địa chỉ tiêu thụ, việc ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa phải tuân theo pháp luật hiện hành. Điều này được qui định trong NĐ số 19/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 02 năm 2006 qui định chi tiết luật Thương mại về xuất xứ hàng hóa. 2.3. Nội dung của hợp đồng Nội dung của hợp đồng bao gồm những Điều khoản mà theo luật Thương mại Việt Nam 2005 qui định phải có: Tên hàng, số lượng, qui cách, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời gian giao nhận hàng. 2.3.1. Tên hàng Trong hợp đồng phải đưa vào Điều khoản tên hàng về mô tả hàng hóa, tên hàng kèm theo địa danh sản xuất, tên hàng theo công dụng của nó. Tùy theo mỗi đối tượng của hợp đồng mà các bên chọn cách ghi tên hàng cụ thể khi ký kết hợp đồng. 2.3.2. Số lượng Điều khoản về số lượng cần ghi chính xác số lượng hàng hóa có thể qui định về số lượng hàng hóa kèm theo độ._. dung sai. Do tính phức tạp của hệ thống đo lường được áp dụng trong thương mại quốc tế, các bên ký kết cần phải thỏa thuận và chọn áp dụng những đơn vị tính phổ biến và dễ hiểu để tránh những hiểu lầm đáng tiếc trong các giao dịch của mình. 2.3.3. Qui cách, chất lượng Các bên của quan hệ hợp đồng có thể thỏa thuận lựa chọn việc xác định qui cách, chất lượng của hàng hóa theo một trong các cách thức sau: Mua hàng hóa theo phẩm cấp hoặc tiêu chuẩn. Các phẩm cấp tiêu chuẩn, ví dụ như ISO 9001, TCVN, … là cơ sở để xác định chất lượng hàng hóa. Mua hàng theo catologue cho đặc thù của loại hàng hóa mà các bên có thể thỏa thuận chọn cách thức mua bán theo catalogue và catalogue này được giữ làm cơ sở để so sánh với chất lượng hàng hóa được giao. Mua bán hàng hóa theo mẫu: Người bán có nghĩa vụ phải giao hàng cho người mua đúng mẫu. Mẫu hàng sẽ là cơ sở để làm đối chứng với hàng phải bảo quản lưu giữ theo nguyên tắc chọn ba mẫu như nhau, do bên bán, bên mua và bên thứ ba cất giữ. Tất cả các mẫu này đều phải có xác nhận của các bên, được niêm phong và bảo quản theo đúng yêu cầu kỹ thuật đối với mẫu. 2.3.4. Giá cả Khi định giá hàng trong hợp đồng mua bán cần nêu rõ: đơn vị tính giá và phương pháp tính giá. Về phương pháp tính giá trong Điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, nói chung thì phương pháp định giá như thế nào cho phù hợp với giá cả thị trường để bên mua có thể chấp nhận được. Đề phòng sự mất giá của tiền, cần qui định về Điều khoản đảm bảo giá trị đồng tiền trong thời hạn giao hàng nhất định để thanh toán, Điều khoản bảo lưu về giá cả để phòng tránh rủi ro khi có sự tăng giá kể từ khi hợp đồng đã được xác lập cho đến khi các bên thực hiện hợp đồng. 2.3.5. Phương thức thanh toán Tùy theo tính chất đối tượng của hợp đồng và các quan hệ chi trả, hai bên thỏa thuận và ghi vào trong hợp đồng với các hình thức như: thanh toán bằng đổi hàng, ủy nhiệm chi (chuyển tiền), bằng sec, bằng thư tín dụng, … và hai bên phải thỏa thuận ngay từ đầu thanh toán bằng tiền Việt Nam hay ngoại tệ nào. Về thời gian thanh toán có thể căn cứ vào thời gian và phương thức giao hàng. Văn bản luật áp dụng là luật Thương mại Việt Nam 2005, 2.3.6. Địa điểm và thời gian giao nhận hàng Thời gian giao nhận hàng là thời gian mà một bên tham gia hợp đồng phải hoàn thành nghĩa vụ giao nhận hàng cho bên kia. Thời gian giao nhận hàng có thể được các bên qui định là giao nhận hàng trong khoảng thời gian nhất định, giao một lần, giao một chuyến, giao thành nhiều chuyến, hoặc thời hạn cuối cùng mà hàng phải giao xong. Địa điểm giao nhận hàng cần được xác định rõ trong hợp đồng mua bán và địa điểm này thường tùy thuộc vào Điều kiện cơ sở. Nội dung này được qui định trong Điều 35 và 37 luật Thương mại Việt Nam 2005. 3. Thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu 3.1. Nguyên tắc thực hiện Sau khi hợp đồng đã được xác lập và có hiệu lực pháp lý, hợp đồng trở thành luật, các bên tự nguyện thực hiện các nhiệm vụ đã thỏa thuận trong quá trình thực hiện hợp đồng và các bên tuân thủ những nguyên tắc sau: Thực hiện hợp đồng một cách trung thực theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên bảo đảm tin cậy lẫn nhau. Thực hiện đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác. Không xâm phạm đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích của người khác. 3.2. Nội dung thực hiện Sau khi hợp đồng xuất nhập khẩu đã được ký kết, các bên cần phải thực hiện hợp đồng đó. Đây là công việc hết sức phức tạp, nó đòi hỏi phải tuân thủ Luật quốc gia và Luật quốc tế. Để thực hiện một hợp đồng xuất nhập khẩu các bên phải tiến hành những giai đoạn sau: 3.2.1. Xin giấy phép xuất nhập khẩu Giấy phép xuất nhập khẩu là một biện pháp quan trọng để nhà nước quản lý xuất nhập khẩu. Vì thế sau khi ký hợp đồng xuất nhập khẩu, doanh nghiệp phải xin giấy phép xuất nhập khẩu để thực hiện hợp đồng. Ngày nay, trong xu thế tự do hóa mậu dịch, nhiều nước giảm bớt số mặt hàng cần phải xin giấy phép xuất nhập khẩu chuyến. Hiện nay ở nước ta, việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu được phân công như sau: Bộ Thương mại (các phòng cấp giấy phép) cấp những giấy phép xuất nhập khẩu hàng mậu dịch, nếu hàng đó phải xin giấy phép theo luật định. Tổng cục hải quan cấp giấy phép xuất nhập khẩu hàng phi mậu dịch. Mỗi giấy phép chỉ cấp cho một chủ hàng kinh doanh để xuất nhập khẩu một hoặc một số mặt hàng với một nước nhất định, Chuyên chở bằng một phương thức vận tải và giao nhận tại một cửa khẩu nhất định. Đơn xin giấy phép phải được chuyển đến Phòng cấp giấy phép của bộ Thương mại. 3.2.2. Mở tín dụng thư (thông thường là L/C nếu hợp đồng qui định) Sau khi xin giấy phép xuất nhập khẩu nếu trong hợp đồng qui định việc thanh toán bằng thư tín dụng thì người mua ở nước ngoài phải tiến hành mở L/C theo đúng thời hạn qui định trong hợp đồng. 3.2.3. Thuê tàu lưu cước, mua bảo hiểm hàng hóa Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu, việc thuê tàu chở hàng dựa vào ba căn cứ sau: Những Điều khoản của hợp đồng xuất nhập khẩu, đặc điểm hàng mua bán và Điều kiện vận tải. Ví dụ nếu Điều kiện cơ sở giao hàng của hợp đồng mua bán xuất khẩu là CIF, nhập khẩu là FOB thì chủ hàng xuất nhập khẩu phải thuê tàu để chở hàng. Mặt khác hàng đi trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì thế bảo hiểm hàng hóa đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương. Các chủ hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam, khi mua bảo hiểm đều mua tại các công ty của Việt Nam. Hợp đồng bảo hiểm có thể là hợp đồng bảo hiểm bao, hoặc hợp đồng bảo hiểm chuyến. 3.2.4. Thủ tục hải quan Tất cả các hàng hóa xuất nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Việc là thủ tục hải quan phải gồm các bước: Khai báo hải quan Xuất trình hàng hóa Thực hiện các quyết định của hải quan. 3.2.5. Giao nhận hàng và kiểm tra hàng hóa Đối với việc giao nhận hàng nhập khẩu, các cơ quan vận tải có trách nhiệm tiếp nhận hàng hóa nhập khẩu trên các phương tiện vận tải từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hóa trên các phương tiện vận tải từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hóa đó trong quá trình xếp dỡ, lưu bãi, và giao cho các doanh nghiệp đã nhập hàng hoặc các đơn vị nhận hàng theo sự ủy quyền của doanh nghiệp đã nhập hàng đó, sau khi hoàn thành thủ tục hải quan. Do đó, đơn vị nhận kinh doanh nhập khẩu phải, hoặc trực tiếp hoặc thông qua một đơn vị nhận ủy thác giao nhận thư tiến hành: Ký kết hợp đồng ủy thác giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu. Xác nhận với ga, cảng kế hoạch tiếp nhận hàng nhập khẩu từng năm, từng qúi, lịch tàu, cơ cấu mặt hàng, Điều kiện kỹ thuật khi bốc dỡ, vận chuyển, giao nhận. Cung cấp các tài liệu cần thiết cho việc giao nhận hàng nếu cơ quan vận tải không giao những tài liệu đó. Thông báo cho các đơn vị trong nước đặt mua hàng nhập khẩu về dự kiến ngày hàng về, ngày thực tế tàu chở hàng về đến cảng hoặc ngày to axe chở hàng về sân ga giao nhận. Thanh toán cho cơ quan vận tải các khoản chi phí về giao nhận, bốc xếp, bảo quản và vận chuyển hàng nhập khẩu. Theo dõi giao nhận, đôn đốc cơ quan vận tải lập những biên bản về đổ vỡ, thiếu hụt, mất mát hàng hóa và giải quyết trong phạm vi những vấn đề xảy ra trong việc giao nhận. 3.2.4. Thanh toán Trong hợp đồng xuất nhập khẩu, các bên tham gia hợp đồng chấp nhận thanh toán theo các phương thức sau: Phương thức chuyển tiền (Remittance): Người mua thông qua ngân hàng gửi tiền trả cho người bán. Loại này ít được dùng trong thanh toán quốc tế, vì việc trả tiền phụ thuộc vào thiện chí của người mua, bởi phương thức trả tiền này không đảm bảo quyền lợi của người bán. Phương thức thanh toán bằng cách ghi sổ (Open Account): Được thực hiện bằng cách người xuất khẩu mở một tài khoản, trên đó ghi các khoản tiền mà người nhập khẩu nợ tiền mua hàng hay các khoản chi phí khác liên quan đến việc mua hàng. Người nhập khẩu định kỳ thanh toán khoản nợ hình thành trên tài khoản của người xuất khẩu. Phương thức nhờ thu (Collection of Payment): Là người bán, sau khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ cho khách hàng thì ký phát hối phiếu đòi tiền người mua, rồi đến ngân hàng nhờ thu hộ mình số tiền ghi trên hối phiếu đó. Phương thức tín dụng chứng từ: Là phương thức thanh toán theo thỏa thuận, trong đó một ngân hàng theo yêu cầu của một khách hàng sẽ trả tiền cho người thứ ba hoặc trả bất kỳ người nào theo lệnh của người thứ ba đó hoặc sẽ trả, chấp nhận, mua hối phiếu do người hưởng lợi phát hành hoặc cho phép một ngân hàng khác trả tiền, chấp nhận hoặc mua hối phiếu khi xuất trình đầy đủ các chứng từ đã qui định và mọi Điều kiện đặt ra đều được thực hiện đầy đủ. Phương thức uỷ thác thu mua (Authority to Purchase - A/P): Là do ngân hàng nước người mua viết cho ngân hàng ở nước ngoài theo yêu cầu của người mua yêu cầu ngân hàng này thay mặt để mua hối phiếu của người bán ký phát cho người mua mà trả tiền hối phiếu, ngân hàng bên mua thu tiền của người mua và giao chứng từ cho họ. Thư bảo đảm tiền (Letter of Guarantee - L/C): Ngân hàng bên mua, theo yêu cầu của người mua viết cho người bán một cái thư, gọi là “ thư bảo đảm trả tiền”, bảo đảm sẽ trả tiền hàng sau khi hàng của bên bán đã đến địa điểm mà các bên qui định. 4. Trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng xuất nhập khẩu 4.1. Các yếu tố cấu thành trách nhiệm Muốn kết luận một bên có vi phạm hợp đồng hay không, cần phải xem xét các yếu tố: Có hành vi vi phạm hợp đồng. Có thiệt hại thực tế về tài sản. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế. 4.2. Các hình thức trách nhiệm 4.2.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng Theo Điều 297 luật Thương mại Việt Nam 2005 qui định: “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu mọi chi phí phát sinh”. Trường hợp bên vi phạm giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm giao hàng hóa, cung ứng dịch vụ kém chất lượng thì phải loại trừ khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Bên vi phạm không được dùng tiền hoặc hàng khác chủng loại, loại dịch vụ khác thay thế nếu không được sự chấp thuận của bên bị vi phạm. Trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện theo qui định tại khoản 2 Điều này thì bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người khác để thay thế theo đúng chủng loại hàng hóa, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải trả khoản tiền chênh lệch và các chi phí liên quan nếu có, có quyền tự sửa chữa khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ và bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý. Điều này được qui định giống với trong công ước Viên. 4.2.2. Phạt vi phạm Theo Điều 300 luật Thương mại: “Phạt vi phạm là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt nhất định do vi phạm hợp đồng, nếu trong hợp đồng có thỏa thuận, trừ trường hợp miễn trách nhiệm qui định tại Điều 294 của bộ luật này”. Quyền đòi tiền phạt vi phạm phát sinh do các hành vi: Không thực hiện hợp đồng. Thực hiện không đúng hợp đồng. 4.2.3. Bồi thường thiệt hại Theo Điều 302 luật Thương mại Việt Nam 2005: “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.”. Điều 303 của bộ luật này cũng qui định căn cứ để bồi thường thiệt hại: Có hành vi vi phạm hợp đồng. Có thiệt hại thực tế. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. 4.2.4. Hủy hợp đồng Đây là chế tài nặng nhất khi có hành vi vi phạm hợp đồng mà không thể dung hòa được, hợp đồng đã giao kết không thể thực hiện được do hành vi vi phạm gây ra. Nội dung này được qui định ở các Điều 49 khoản 1a, 1b; Điều 64 khoản 1a, 1b; Điều 25 của công ước Viên cũng như ở Điều 312 luật Thương mại Việt Nam 2005. Hậu quả pháp lý do hủy hợp đồng gây ra (Điều 314 luật này): Hợp đồng không có hiêu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp. Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo qui định của luật này. 4.3. Các trường hợp được miễn trách nhiệm Văn bản số 421 của Phòng thương mại và công nghiệp quốc tế, một bên được miễn trách nhiệm về việc không thực hiện toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ của mình nếu bên đó chứng minh được rằng: Do một trở ngại ngoài sự kiểm soát của bên thực hiện. Bên đó không thể lường trước một cách hợp lý trở ngại đó. Bên đó không thể tránh hoặc khắc phục một cách hợp lý các trở ngại đó. Việc miễn trách nhiệm cho một bên hợp đồng được qui định rất cụ thể tại Điều 79 công ước Viên 1980. Theo Điều 296 luật Thương mại Việt Nam 2005, có ba trường hợp miễn trách: Trường hợp bất khả kháng. Lỗi của bên kia (trái chủ) hoặc bên thứ ba. Các trường hợp miễn trách do hai bên thỏa thuận. 4.2.1. Trường hợp bất khả kháng Là những sự kiện khách quan xảy ra ngoài ý muốn và dự kiến của các bên trong thời gian thực hiện hợp đồng, khi sự kiện đó xảy ra dù đã làm hết khả năng của mình nhưng vẫn không thể khắc phục được. 4.2.1. Lỗi của bên kia hoặc của bên thứ ba Nếu lỗi trái chủ là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp gây nên sự vi phạm hợp đồng của thụ trái thì thụ trái được miễn trách nhiệm. Trong trường hợp này, để được miễn trách nhiệm, thụ trái phải chứng minh được lỗi của trái chủ là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến vi phạm hợp đồng của mình. Lỗi của người thứ ba: Khi lỗi của người thứ ba là nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu dẫn đến việc vi phạm hợp đồng thì bên vi phạm cũng được miễn trách nhiệm nếu chứng minh được điều đó là thực tế. 4.2.1. Trường hợp do hai bên thỏa thuận Bên vi phạm sẽ không chịu trách nhiệm trong trường hợp hợp đồng qui định được miễn trách nhiệm, hoặc do các bên thống nhất thỏa thuận. 5. Giải quyết tranh chấp Theo Điều 317 luật Thương mại Việt Nam 2005: “Hình thức giải quyết tranh chấp có các hình thức như sau: Thương lượng giữa các bên. Hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải. Giải quyết tại Trọng tài hoặc tòa án.” 5.1. Giải quyết tranh chấp do thương lượng giữa các bên Khi phát sinh tranh chấp, các bên tự nguyện và nhanh chóng liên hệ, gặp gỡ với nhau để thương lượng tìm cách tháo gỡ bất đồng với mục đích chung là giữ gìn mối quan hệ kinh doanh tốt đẹp và lâu dài giữa họ. Thương lượng được tiến hành độc lập hoặc cùng với quá trình tố tụng tại Trọng tài hoặc tòa án. Đối với thương lượng độc lập: Kết quả thương lượng coi như một thỏa thuận mới về tranh chấp, các bên phải thi hành tự nguyện. 5.2. Giải quyết tranh chấp do hòa giải Hòa giải là một quá trình giải quyết tranh chấp mang tính chất riêng tư, trong đó hòa giải viên là người thứ ba trung gian giúp các bên đạt được một sự thỏa thuận. Hòa giải sẽ lập tức chấm dứt nếu hai bên không đạt được một sự thỏa thuận. Hiệu lực của hòa giải chỉ giống như một điều khoản của hợp đồng ràng buộc các bên. Khi hai bên không thể giải quyết những bất đồng của mình bằng thương lượng hay hòa giải thì theo thỏa thuận của hợp đồng sẽ đưa ra Trọng tài hay tòa án giải quyết. 5.3. Giải quyết tranh chấp theo thủ tục Trọng tài Văn bản áp dụng: Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. Trọng tài là quá trình giải quyết tranh chấp do các bên tự nguyện lựa chọn, trong đó bên thứ ba trung lập sau khi nghe các bên trình bày sẽ ra một quyết định hợp đồng có tính chất bắt buộc đối với các bên tranh chấp. Trọng tài thương mại có ba đặc điểm: Phải có sự thỏa thuận của các bên việc đưa tranh chấp ra xét xử bằng trọng tài. Trọng tài viên hoặc hội đồng trọng tài sẽ đưa ra một bên quyết định, sau khi cân nhắc mọi chứng cứ và lập luận của các bên. Các quyết định và phán quyết của trọng tài có thể được tòa án công nhận và cho thi hành thông qua mọi thủ tục tư pháp. Sau khi nhận được phán quyết của trọng tài, các bên thường tự nguyện thi hành vì nhiều lý do: Muốn giữ quan hệ làm ăn lâu dài vì biết rằng ít có khả năng để tòa án xem xét và thay đổi lại quyết định của trọng tài. Hiệu quả cuối cùng của trọng tài là phán quyết trọng tài thì phải thi hành tại nước có tài sản để thi hành của bên thua. Pháp lệnh trọng tài thương mại được ban hành góp phần quan trọng vào việc thực hiện tốt hơn sự công nhận và thi hành quyết định của trọng tài Việt Nam tại Việt Nam. 5.4. Giải quyết tranh chấp theo thủ tục tại Toà án Văn bản áp dụng: Luật Thương mại 2005, luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2003, bộ luật tố tụng dân sự năm 2005. Tòa án không có thẩm quyền xét xử đương nhiên đối với một tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán ngoại thương vì một trong các bên đương sự là người nước ngoài đối với bên kia. Tòa án chỉ có quyền giải quyết khi trong hợp đồng các bên thỏa thuận giao cho tòa án giải quyết chứ không giao cho Trọng tài. Mặt khác, trong điều ước quốc tế cũng không qui định giao cho Trọng tài giải quyết. Tòa án còn có thẩm quyền giải quyết trong trường hợp điều ước quốc tế có liên quan qui định giao tranh chấp cho tòa án giải quyết. Như vậy, muốn kiện tới tòa nào thì người đi kiện phải căn cứ vào hợp đồng và điều ước quốc tế có liên quan. Khi kiện tới tòa án cần lưu ý: Luật áp dụng giải quyết tranh chấp là luật áp dụng cho hợp đồng và theo thủ tục tư pháp của nước mà tòa án mang quốc tịch. Xác định đúng thẩm quyền về người và thẩm quyền về việc của tòa án định chọn đối với tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. Việc xác định đúng thẩm quyền về người thường là điểm yếu của phương thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án. Phương án tốt nhất là kiện ở nơi mà tòa án có thể tìm thấy được bị đơn. Hiệu lực thi hành bản án ở các nước có liên quan đến vụ kiện, tính khách quan của tòa án được chọn đối với người nước ngoài tham gia tố tụng, thời gian và chi phí. Đối với phần lớn các nước trên thế giới, bản án của tòa án một nước chỉ được tòa án nước khác cho thi hành trên lãnh thổ quốc gia đó khi hai nước có hiệp định chung về vấn đề đó. Hiện nay, phương thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án không được ưa chuộng vì những khó khăn do thủ tục tư pháp ở tòa án mang lại, mặt khác, giải quyết tranh chấp bằng tòa án lại mang tính công khai, không đảm bảo được bí mật kinh doanh. Bên cạnh đó, chưa có điều ước quốc tế nào về công nhận và thi hành bản án của tòa án giải quyết các tranh chấp mang tính quốc tế như: Công ước NewYork 1958 đối với giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Các nước có thể đưa ra những căn cứ để không công nhận bản án của tòa án nước ngoài. Do vậy áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp bằng thủ tục tố tụng Trọng tài vẫn được ưa chuộng và phổ biến nhất. Chương II THỰC TIỄN KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU NGUYÊN VẬT LIỆU NHỰA TẠI HỢP TÁC XÃ CÔNG NGHIỆP QUYẾT TIẾN I. KHÁI QUÁT VỀ HỢP TÁC XÃ CÔNG NGHIỆP QUYẾT TIẾN 1. Địa vị pháp lý 1.1. Một số thông tin chủ yếu về Hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến 1.1.1. Tổng quan về hợp tác xã Tên đầy đủ: Hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến. Tên giao dịch quốc tế: QUYET TIEN inductrial cooperative. Trụ sở chính: Địa chỉ: Số 170 phố Lò Đúc, phường Đông Mác, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Điện thoại: (84 4) 9714291 Fax: (84 4) 9718665 Hợp tác xã công nghiệp Quyết Tiến được ra đời theo quyết định số 10/CN-HBT ngày 08/01/1998 do UBND quận Hai Bà Trưng cấp. Vốn điều lệ: 1,135,000,000 đồng (một tỷ một trăm ba mươi nhăm triệu đồng) với ba cổ đông sáng lập. Chủ nhiệm: Bà Nguyễn Thị Phi Hằng. 1.1.2. Ngành nghề kinh doanh Sản xuất chai nhựa, vành xe đạp, xe máy, mạ niken, đồ mộc, nước tinh lọc. May mặc xuất khẩu. Buôn bán nguyên vật liệu về ngành nhựa và may mặc. Đại lý ký gửi, gia công khung nhôm sắt, buôn bán tư liệu tiêu dùng, sắt xây dựng, nhà hàng ăn uống, sản xuất và mua bán hàng dệt may xuất khẩu. Buôn bán điện dân dụng và công nghiệp, kinh doanh vận tải, hành khách, hàng hóa, buôn bán kinh doanh, tư vấn bất động sản, cho thuê kho chứa hàng, văn phòng làm việc, trưng bày và giới thiệu sản phẩm. 1.2.Chức năng nhiệm vụ của hợp tác xã 1.2.1. Chức năng Hợp tác xã công nghiệp Quyết Tiến là một đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường dưới sự điều chỉnh của nhà nước. 1.2.2. Nhiệm vụ Hợp tác xã công nghiệp Quyết Tiến có những nhiệm vụ sau: Thực hiện các ngành nghề sản xuất đã đăng ký trong điều lệ của hợp tác xã nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước, tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán tài chính theo qui định của pháp luật. Sử dụng và phát triển nguồn vốn có hiệu quả, phát triển mạng lưới kinh doanh. Bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho các thành viên trong ban quản trị và ban kiểm soát cũng như các xã viên trong hợp tác xã. Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho các xã viên cũng như các lao động đang làm việc trong hợp tác xã. Phục vụ một cách tốt nhất nhu cầu đòi hỏi của khách hàng. Cung cấp các thông tin về sản phẩm và tính trung thực của các thông tin khi bán hàng cho khách hàng. 2. Sơ đồ cơ cấu tổ chức, bộ máy của hợp tác xã 1.2.Sơ đồ cơ cấu tổ chức Bộ máy quản lý của HTX Công nghiệp Quyết Tiến được thể hiện qua sơ đồ sau: Ban chủ nhiệm Khối hành chính Khối phân xưởng Phòng kinh doanh Phòng kỹ thuật Phòng kế toán FX ép phun FX thổi chai FX cơ khí 1.2.Chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận Ban chủ nhiệm: Ban chủ nhiệm hợp tác xã gồm có bốn người, một chủ nhiệm, hai phó chủ nhiệm và một kiểm soát viên. Ban chủ nhiệm là bộ phận phải chịu trách nhiệm cao nhất trong hợp tác xã về những sai phạm trong quản lý, vi phạm điều lệ, vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho hợp tác xã đồng thời phải chịu trách nhiệm trước tập thể xã viên cũng như người lao động trong hợp tác xã. Phó chủ nhiệm phụ trách kỹ thuật sản xuất sản phẩm đồng thời là người trực tiếp điều hành các phân xưởng và phó chủ nhiệm phụ trách mảng kinh doanh thương mại điều hành và quản lý khối phòng ban. Họ thay mặt chủ nhiệm tổ chức quản lý điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh trong hợp tác xã thong qua việc giám sát phòng ban, phân xưởng. Phó chủ nhiệm là người giúp việc cho chủ nhiệm có nhiệm vụ cố vấn, tham mưu cho chủ nhiệm điều hành công việc sản xuất kinh doanh của hợp tác xã. Phòng kinh doanh: Phòng kinh doanh có nhiệm vụ vạch ra kế hoạch sản xuất và các vấn đề có liên quan đến chất lượng sản phẩm. Đồng thời phòng kinh doanh cũng có trách nhiệm theo dõi việc tiêu thụ sản phẩm. Bộ phận bán hàng ghi chép, theo dõi việc tiêu thụ sản phẩm. Bộ phận này tập hợp hóa đơn bán hàng, cuối ngày giao cho phòng kế toán để ghi sổ. Ngoài việc theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh, phòng kinh doanh còn trực tiếp kinh doanh các loại nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành nhựa và ngành may mặc, các nghiệp vụ xuất nhập khẩu thương mại. Phòng kỹ thuật: Phòng kỹ thuật thường xuyên nghiên cứu cải tiến kỹ thuật, để nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn lao động. Do mô hình hợp tác xã còn nhỏ nên phòng kỹ thuật kiêm thêm nhiệm vụ phụ trách các công việc tuyển chọn lao động, giải quyết các chế độ lao động, phụ trách về hành chính và một số công việc có liên quan khác. Phòng này gồm tổ bảo vệ có nhiệm vụ bảo đảm an toàn cho hợp tác xã. Phòng kế toán: Phòng kế toán có năm người, có chức năng tổ chức, theo dõi tình hình tài chính của hợp tác xã. Bảo đảm kế hoạch đúng đắn, theo dõi sát sao sự vận động tiền – hàng của hợp tác xã. Ngoài ra phòng kế toán còn có nhiệm vụ thanh toán lương, thưởng, chi trả cổ tức cho xã viên và các cổ đông, giúp người lao động ổn định cuộc sống, yên tâm công tác. Khối phân xưởng: được chia làm ba phân xưởng: hai phân xưởng sản xuất chính là phân xưởng ép phun, phân xưởng sản xuất thổi chai và phân xưởng cơ khí thực hiện các chức năng, nhiệm vụ riêng theo đúng tên gọi của mình. Riêng phân xưởng cơ khí là phân xưởng có chức năng bổ trợ cho hai phân xưởng ép phun và phân xưởng thổi chai. Cụ thể phân xưởng cơ khí sửa chữa khuôn mẫu, thay thế những chi tiết nhỏ bị hỏng trong quá trình sản xuất. Việc phân cấp quản lý từ trên xuống đã tạo điều kiện cho các bộ phận hoạt động nhịp nhàng, ăn khớp giúp cho phân xưởng sản xuất hoạt động liên tục, không gián đoạn, đạt hiệu quả cao, phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh `doanh của hợp tác xã. 3. Vấn đề về lao động và tiền lương 3.1. Tình hình lao động Hợp tác xã công nghiệp Quyết Tiến hiện có tất cả là 35 lao động. Trong đó có 9 xã viên chính thức, số còn lại là làm việc theo hợp đồng. Cơ cấu lao động của hợp tác xã được phân bổ như sau: có bốn xã viên được bầu vào ban quản trị, năm xã viên còn lại cùng với số lao động được phân bổ vào hai khối hành chính và khối phân xưởng. 3.2. Hợp đồng lao động Tất cả các lao động hoạt động trong hợp tác xã công nghiệp Quyết Tiến (gọi chung là xã viên) đều được ký hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể theo đúng qui định của luật lao động. Trong điều lệ của hợp tác xã có qui định rõ ràng và cụ thể về các đối tượng có thể trở thành xã viên trong hợp tác xã. Trong đó qui định về các nhân, hộ gia đình, cán bộ công chức, pháp nhân. Hiện tại ở hợp tác xã công nghiệp Quyết Tiến có xã viên ở hai loại hình là cá nhân và hộ gia đình. Có hai loại hợp đồng lao động được ký kết ở hợp tác xã công nghiệp Quyết Tiến, đó là hợp đồng lao động có thời hạn và hợp đồng lao động không có thời hạn. Đối với hợp đồng lao động có thời hạn thong thường là được ký kết với các lao động có tính thời vụ. Ví dụ: Khi cần hàng may mặc xuất khẩu ra nước ngoài, hợp tác xã thuê lao động về may mặc trong vòng từ một tháng đến ba tháng, sau khi thực hiện xong việc sản xuất hàng hoá thì kết thúc hợp đồng (đương nhiên ở đây đều được ký kết dưới 36 tháng). 3.3. Hợp đồng lao động Về vấn đề tiền lương, điều lệ hợp tác xã qui định trả công theo tháng, trả công theo sản phẩm, trả công theo hiệu quả kinh doanh, trả công đối với các chức danh, Trưởng Ban kiểm trị, thành viên Ban quản trị, Trưởng ban kiểm soát, thành viên Ban kiểm soát, Chủ nhiệm, Phó chủ nhiệm, cán bộ chuyên trách môn, lao động khác của hợp tác xã, nguyên tắc trả công khác. Như vậy, có thể thấy hợp tác xã qui định các hình thức trả công theo đúng qui định của pháp luật lao về lao động. Cụ thể theo đúng tinh thần qui định tại điều 58 và điều 59 của Bộ luật Lao động hiện hành. Ngoài tiền lương cơ bản mà người lao động được nhận, hợp tác xã còn qui định về tiền lương làm thêm giờ của người lao động như sau: Đối với người lao động làm thêm giờ vào các ngày bình thường trong tuần, họ được trả thêm 150% lương cơ bản. Đối với người lao động làm thêm giờ vào các ngày nghỉ hàng tuần mà họ được nghỉ, thì hợp tác xã trả thêm 200% lương cơ bản. Đối với người lao động làm thêm giờ vào ngày lễ, ngày nghỉ có hưởng lương, hợp tác xã trả thêm 300% lương cơ bản. Đối với người lao động làm thêm giờ vào ca đêm, hợp tác xã trả thêm 30% tiền lương tính theo lương cơ bản hoặc tiền lương của công việc đang làm ban ngày. Hình thức xử lý lỗ và chia lãi được thực hiện như sau: Xử lý lỗ: Nếu thiệt hại của Hợp tác xã do xã viên gây ra thì xã viên đó phải bồi thường cho họp tác xã theo qui định của Đại hội xã viên. Nếu khoản lỗ của hợp tác xã do nguyên nhân khách quan gây ra thì được trừ vào các quĩ dự phòng hoặc lấy lãi của năm sau bù hay trừ vào các quĩ của Hợp tác xã. Trường hợp không đủ thì trừ vào vốn góp của xã viên do Đại hội quyết định. Chia lãi: Sau khi làm xong nghĩa vụ nộp thuế, lãi của Hợp tác xã được phân phối như sau: Trả bù các khoản lỗ năm trước (nếu có), theo qui định của pháp luật về thuế. Trích lập các quĩ của Hợp tác xã và chia lãi theo vốn góp của xã viên, công sức đóng góp. Phần còn lại chia theo mức độ sử dụng dịch vụ của Hợp tác xã. Căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh nhu cầu tích lũy để phát triển hợp tác xã. Đại hội xã viên quyết định tỷ lệ phân phối lãi hàng năm. 4. Hoạt động sản xuất kinh doanh của hợp tác xã 4.1. Bảng cân đối kế toán TÀI SẢN Mã số Năm 2004 Năm 2005 Số đầu kỳ Số cuối kỳ Số đầu kỳ Số cuối kỳ 1 2 3 4 5 6 I-TÀI SẢN LƯU ĐỘNG, ĐẦU TƯ NGẮN HẠN 100 5,832,960,706 7,938,506,903 7,938,506,903 8,341,432,967 1. Tiền mặt tại quĩ 110 140,944,543 52,789,851 52,789,851 209,497,856 2. Tiền gửi ngân hàng 111 4,151,978 22,592,175 22,592,175 38,173,592 3. Đầu tư tài chính ngắn hạn 113 71,192,080 4. Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn 113 5. Phải thu của khách hàng 114 1,728,315,039 2,214,161,689 2,214,161,689 2,035,023,587 6. Các khoản phải thu khác 115 2,886,313,551 7. Dự phòng phải thu khó đòi 116 8. Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ 117 689,287,395 973,635,733 973,635,733 304,234,064 9. Hàng tồn kho 118 3,270,261,751 4,629,471,766 4,629,471,766 2,767,044,478 10. Dự phòng giảm giá hàng tồn kho 119 11. Tài sản lưu động khác 120 45,855,689 45,855,689 29,953,759 II-TÀI SẢN CỐ ĐỊNH, ĐẦU TƯ DÀI HẠN 200 835,487,521 805,570,549 805,570,549 1,171,109,322 1. Tài sản cố định 210 Nguyên giá 211 1,763,736,718 1,960,388,146 1,960,388,146 2,417,513,098 Giá trị hao mòn lũy kế 212 (928,249,197) (1,154,817,597) (1,154,817,597) (1,416,574,345) 2. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn 213 3. Dự phòng giảm giá chứng khoán đầu tư dài hạn 214 4. Chi phí xây dựng cơ bản 215 5. Chi phí trả trước dài hạn 216 170,170,569 TỔNG CỘNG TÀI SẢN 250 6,668,448,227 8,744,077,452 8,744,077,452 10,929,116,634 NGUỒN VỐN Mã số Năm 2004 Năm 2005 Số đầu kỳ Số cuối kỳ Số đầu kỳ Số cuối kỳ 1 2 3 4 3 4 I-NỢ PHẢI TRẢ 300 5,445,707,152 7,499,077,551 7,499,077,551 8,289,490,177 1. Nợ ngắn hạn 310 5,445,707,152 7,499,077,551 Vay ngắn hạn 311 4,094,594,984 6,996,448,425 6,996,448,425 6,437,670,605 Phải trả cho người bán 312 1,180,489,917 246,016,000 246,016,000 1,588,734,573 Thuế và các khoản phải nộp cho nhà nước ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32035.doc
Tài liệu liên quan