Thực tiễn ký kết & thực hiện hợp đồng tín dụng tại Công ty Tài chính Bưu Điện

Mục lục Chương I: chế độ pháp lý về hợp đồng tín dụng. Tổng quan về hợp đồng tín dụng. 1. Các hình thức tín dụng trong nền kinh tế thị trường. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng. Các hình thức tín dụng trong nền kinh tế thị trường Hợp đồng tín dụng. Khái niệm Vai trò của hợp đồng tín dụng Luật điều chỉnh của hợp đồng tín dụng Chế độ pháp lý về hợp đồng tín dụng. 1. Các quy định chung. Nguyên tắc ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng Chủ thể và khách thể khi ký kết một hợp đồn

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1461 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực tiễn ký kết & thực hiện hợp đồng tín dụng tại Công ty Tài chính Bưu Điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g tín dụng . Nội dung của hợp đồng tín dụng Các nguồn vốn huy động để cho vay với hợp đồng tín dụng Các biện pháp bảo đảm hợp đồng tín dụng 2. Chế độ ký kết hợp đồng tín dụng Điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn Điều tra thu thập và tổng hợp các thông tin về khách hàng và phương án vay vốn Phân tích và thẩm định dự án Quyết định chi vay Kiểm tra hoàn chỉnh hồ sơ, tài sản thế chấp, cầm cố và hồ sơ cho vay 3. Chế độ thực hiện hợp đồng tín dụng. 3.1 Phát tiền vay 3.2 Giám sát khách hàng sử dụng vốn và theo dõi rủi ro. 3.3 Thu hồi và gia hạn nợ 3.4 Xử lý rủi ro trong hợp đồng tín dụng. 4. Giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ tín dụng. chương II: thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng tại công ty Tài Chính Bưu Điện. I. Khái niệm chung về tình hình tổ chức và hoạt động của công ty Tài Chính Bưu Điện. Giới thiệu chung Sự hình thành và phát triển của công ty. Chức năng và nhiệm vụ của công ty. Cơ cấu tổ chức và cơ chế điều hành của công ty. 2. Quyền và nghĩa vụ phát sinh trong kinh doanh. 3. Kết quả hoạt động kinh doanh 4. Phương hướng hoạt động kinh doanh trong những năm tới. 4.1. Đánh giá điều kiện môi trường. 4.2. Phương hướng hoạt động kinh doanh 2005 – 2010, chiến lược sản phẩm trên thị trường. II. Thực trạng ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng tại công ty Tài Chính Bưu Điện 1. Các qui định về việc kí kết và thực hiện hợp đồng tín dụng cho vay tại Công Ty Tài Chính Bưu Điện. Các qui định chung. Xem xét về một ví dụ cụ thể. Tình hình thực hiện hợp đồng tín dụng cho vay tại Công Ty Tài Chính Bưu Điện. Một số vấn đề tồn tại và hạn chế khi kí kết và thực hiện hợp đồng tín dụng trung và dài hạn. Chương III: một số kiến nghị và giải pháp nhằm tăng cường thúc đẩy việc ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng I. Kiến nghị Một số kiến nghị về phía cơ quan chức năng. Kiến nghị đối với Công Ty Tài Chính Bưu Điện II. Giải pháp. Một số giải pháp chung. Những biện pháp cụ thể về cải thiện môi trường pháp lý về hợp đồng tín dụng tại Công Ty Tài Chính Bưu Điện. Thực hiện chế độ cho vay đúng quy định Ban hành các quy định cụ thể cho vay trung và dài hạn Tạo mối liên hệ thường xuyên với khách hàng Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Kết Luận Phần mở đầu Từ khi đất nước ta chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thì một trong những vấn đề nổi nên gây tranh luận cho nhiều cá nhân tổ chức đó là vốn để đáp ứng nhu cầu cấp bách trong đó vốn tín dụng được coi là một yêu cầu hết sức nóng bỏng và cấp bách nhất vì trong điều kiện hiện nay thị trường vốn và thị trường chứng khoán ở nước ta chưa phát triển, phương thức huy động vốn trong điều kiện nước ta hiện nay chủ yếu là huy động vốn gián tiếp thông qua các tổ chức tín dụng là phương thức huy động có hiệu quả trong giai đoạn này. Giải quyết nhu cầu vốn trung và dài hạn là một thách thức với ngân hàng và các tổ chức tín dụng nói chung và đặc biệt là sự tham gia của hình thức các công ty tài chính nói riêng cụ thể là Công Ty Tài Chính Bưu Điện đây là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng nó như một tổ chức trung gian vừa thực hiện nghiệp vụ của tổ chức tín dụng vừa thực hiện nghiệp vụ của ngân hàng (khi Ngân Hàng Nhà Nước cho phép). Cùng với những kết quả và sự đóng góp tích cực đối với sự phát triển kinh tế, trong thực tế hoạt động kinh doanh tín dụng nói chung và hoạt động kinh doanh tín dụng của Công Ty Tài Chính Bưu Điện nói riêng còn gặp nhiều khó khăn. Chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng là một vấn đề rộng lớn có liên quan chặt chẽ đến môi trường pháp lý, kinh tế, trách nhiệm quản lý tiền vay của công ty tài chính cũng như nghĩa vụ của người đi vay. Như vậy tạo môi trường pháp lý nhằm thúc đẩy hoạt động huy động và sử dụng vốn tín dụng trung và dài hạn góp phần phát triển kinh tế là điều hết sức cần thiết. Việc nghiên cứu chế định hợp đồng tín dụng trung và dài hạn để từ đó làm hiểu rõ tư cách pháp lý, cách thức ký kết và hợp đồng tín dụng trung và dài hạn, chế độ giải quyết những vi phạm hợp đồng và tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. Đồng thời thấy được những hạn chế và kết quả để từ đó đưa ra những biện pháp nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý và thúc đẩy hoạt động ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng trung và dài hạn tại công ty tài chính Bưu Điện. Đề tài: (Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng tại Công Ty Tài Chính Bưu Điện). Nhằm phân tích hệ thống pháp luật hiện hành về hoạt động tín dụng cũng như thực tiễn áp dụng tại công ty tài chính Bưu Điện. Đề tài trên cũng chính là việc kết hợp giữa kiến thức mà tôi đã được học với việc áp dụng thực tiễn đó vào thực tế thực tập tại công ty tài chính Bưu Điện với mong muốn của tôi là mình có thể đưa ra một số kiến nghị cụ thể góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật thúc đẩy quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng ngày càng phát triển hơn. Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo Hoàng Xuân Trường, cô Dương Thị Nguyệt Nga cùng toàn thể thầy cô giáo bộ môn luật kinh doanh trường ĐHKTQD và cô chú cán bộ ở Công Ty Tài Chính Bưu Điện đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành bản chuyên đề này. Chuyên đề của tôi được chia ra làm 3 chương: Chương I. Chế độ pháp lý về hợp đồng tín dụng. Chương II. Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng tại Công Ty Tài Chính Bưu Điện. Chương III. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm tăng cường thúc đẩy việc ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng. Chương I Chế độ pháp lý về hợp đồng tín dụng Tổng quan về hợp đồng tín dụng. Tín dụng vốn là một hiện tượng kinh kế nảy sinh trong điều kiện nền sản xuất hàng hoá. Sự ra đời và phát triển của tín dụng không chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu về vốn của các cá nhân, tổ chức trong toàn xã hội mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế của một nước. Các hình thức tín dụng trong nền kinh tế thị trường Khái niệm và đặc điểm của tín dụng. Cũng như sự phát triển của tiền tệ, quan hệ tín dụng phát triển từ thấp đến cao từ đơn giản đến phức tạp và từng bước đa dạng hoá theo nền kinh tế thị trường. Quan hệ tín dụng thô sơ nhất phát sinh vào cuối chế độ cộng sản nguyên thuỷ và đầu chế độ chiếm hữu Nô Lệ . Quan hệ trao đổi hàng hoá ra đời thì hiện tượng phân hoá giàu nghèo cũng hình thành và phát triển biểu hiện của nó là tư liệu sản xuất và tài sản vật chất được một số người có quyền hoặc một số ít người giàu trong xã hội nắm giữ. Trong khi đó đại bộ phận các gia đình, cá nhân khác không có hoặc có ít những tư liệu trên. Do họ lâm vào tình trạng túng thiếu vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Tình hình trên tất yếu xảy ra điều chuyển sản phẩm từ nơi thừa tới nơi thiếu. Quá trình này diễn ra dưới hình thức vay mượn, lúc đầu việc vay mượn này chỉ mang tính trợ giúp về mặt kinh tế, về sau một số người đã lợi dụng việc này để kiếm lời làm giàu cho riêng mình, họ trở thành người sống bằng nghề cho vay. Do có rất ít người cho vay nhưng lại có rất nhiều người đi vay nên lãi suất cho vay rất cao vì thế trong thời kỳ này được gọi là tín dụng nặng lãi. Đặc điểm của quan hệ này là lãi cho vay rất cao nên tiền vay chỉ được dùng vào việc tiêu dùng cấp bách hoàn toàn không mang mục đích sản xuất kinh doanh. Cũng do đặc điểm này nên phần lớn những người đi vay lâm vào tình trạng phá sản. Vì vậy một hình thức tín dụng với lãi suất cho vay thấp hơn phù hợp với lợi ích của người kinh doanh hơn xuất hiện. Vậy tín dụng là gì?. Tín dụng chính là một phạm trù kinh tế, nó là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về tín dụng cụ thể: Theo Mác - Lênin: Tín dụng là quan hệ kinh tế dưới hình thức quan hệ tiền tệ mà người chủ sở hữu tiền tệ cho người khác vay trong một thời gian nhất định để thu hồi một món lời gọi là lợi tức(1). Theo PGS – PTS Vũ Văn Hoá.(2) Tín dụng được hiểu theo những nghĩa nhất định sau đây: + Tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc hoàn trả. + Tín dụng là phạm trù kinh tế, phản ánh quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các tác nhân và thể nhân trong nền kinh tế quốc dân. + Tín dụng là một giao dịch giữa hai bên trong đó có một bên chu cấp tiền, hàng hoá dịch vụ chứng khoán dựa vào lời hứa thanh toán lại trong tương lai. Có thể hiểu tín dụng là một quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị. Tín dụng biểu hiện một hình thái vận động đặc của nguồn tài chính, sự vận động này được thực hiện trong một chu kỳ khép kín mang tính quy luật. Tuy nhiên xét trong phạm vi đề tài: Tín dụng là quan hệ kinh tế về sử dụng vốn tạm thời giữa người cho vay và người đi vay theo nguyên tắc có hoàn trả, dựa trên cơ sở tín nhiệm. Có thể phân biệt quan hệ tín dụng với các quan hệ kinh tế khác trong đời sống kinh tế nhờ một số đặc điểm sau: + Thứ nhất: Hình thức pháp lý của quan hệ tín dụng là hợp đồng cho vay. Hợp đồng cho vay có thể mang đặc tính của hợp đồng dân sự hay hợp đồng kinh tế vấn đề đó tuỳ vào chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng tín dụng đó là ai. Hình thức của hợp đồng cho vay được thoả thuận dưới hình thức văn bản hoặc bằng miệng tuỳ vào sự tín nhiệm của đôi bên. + Thứ hai: Trong hợp đồng cho vay chủ thể không phải thoả thuận nhằm chuyển dịch quyền sở hữu đối với tài sản (số tiền vay) mà chủ yếu nhằm chuyển dịch quyền sử dụng vốn tạm thời từ người cho vay sang người đi vay dựa trên sự tín nhiệm và sự tin tưởng nhau. Cụ thể nếu coi khoản tiền cho vay là một loại tài sản đặc biệt thì tài sản này khi cho vay vẫn thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người cho vay, thực ra nó chỉ được chuyển giao cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định, với giá cả nhất định. Sau đó nó lại được chuyển lại chủ sở hữu cũ của nó đó chính là người cho vay. Sự phân tích sau đây chỉ nhằm khẳng định quan hệ tín dụng không phải là quan hệ làm dịch chuyển quyền sở hữu tài sản. Thực ra về bản chất pháp lý thì hoạt động cho vay trong quan hệ tín dụng cũng gần giống như hoạt động thuê mượn tài sản trong quan hệ cho thuê, mượn tài sản giữa hai chủ thể. (1) Lý thuyết tiền tệ – PGS . PTS, Vũ Văn Hoà - NXB Tài chính -1998 (2) Gioá trình Kinh tế chính trị – Trường ĐHKTQD Giữa hai loại hoạt động này có một điểm khác cơ bản đó là đối tượng khi tham gia vào quan hệ của nó. Các hình thức tín dụng trong nền kinh tế thị trường. Trong thực tế chúng ta không thể phủ nhận vai trò của tín dụng đối với sản xuất và sự tăng trưởng kinh tế ở mỗi quốc gia trên thế giới. Đặc biệt với tính chất cạnh tranh vốn có của nền kinh tế thị trường thì xu hướng đa dạng hoá các loại hình tín dụng là một tất yếu khách quan không thể tránh khỏi. Hiện nay ở nước ta tồn tại các hình thức tín dụng sau: Tín dụng nhà nước. Tín dụng nhà nước là quan hệ sử dụng vốn tạm thời nhàn rỗi giữa nhà nước với các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế – xã hội khác theo nguyên tắc có hoàn trả thông qua hình thức trái phiếu tín dụng(3). Tín dụng nhà nước hình thành khi nhà nước có nhu cầu chi tiêu nhưng ngân sách nhà nước không đủ chi hoặc khi nhà nước muốn đầu tư vào một dự án mà không muốn sử dụng nguồn vốn từ ngân sách khi đó để có được nguồn vốn để sử dụng và cho tiêu thì nhà nước thường cho phát hành công trái hoặc tín phiếu để huy động vốn. + Công trái được sử dụng cho loại tín dụng dài hạn, thời gian sử dụng là trên 3 năm. Công trái thường do các ngân hàng làm đại lý phát hành chúng có thể được bán trên thị trường chứng khoán. Vốn vay do phát hành công trái được sử dụng chủ các dự án phát triển kinh tế – xã hội hoặc các công trình phúc lợi chung. + Tín phiếu sử dụng cho loại tín dụng ngắn hạn, thường có thời hạn dưới 12 tháng. Tín phiếu thường do kho bạc nhà nước phát hành. Chúng có nhiều loại mệnh giá khác nhau và nhiều hình thức khác nhau. Tín phiếu có thể chuyển nhượng được (tín phiếu vô danh) hoặc không chuyển nhượng được (tín phiếu đích danh ). Hiện nay tín phiếu phổ biến nhất là tín phiếu vô danh loại này có thể chuyển nhượng. Tín phiếu kho bạc do ngân hàng trung ương làm đại lý phát hành. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của chính phủ ngân hàng trung ương phải ứng trước tiền cho chính phủ, khoản này được bù đắp bởi khoản thu do tín phiếu kho bạc. Tín dụng nhà nước phát triển cùng với sự phát triển của nhà nước hiện đại và ngày càng trở thành bù nguồn đắp chi tiêu cho ngân sách nhà nước, thay thế cho nguồn phát hành. (3) 1200 Thuật ngữ pháp lý Việt Nam . Lg. Nguyễn Ngọc Điệp – NXB –TPHCM - 1998 Nguồn trả trong tín dụng nhà nước là các khoản thu trước của nhà nước trong nhiều trường hợp là các khoản vay mới của nhà nước. Tín dụng tiêu dùng. Tín dụng tiêu dùng là quan hệ giữa dân cư với các doanh nghiệp hoặc các tổ chức tín dụng. Quan hệ này đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong điều kiện có sự chênh lệch giữa thu nhập và nhu cầu tiều dùng tối thiểu về đời sống kinh tế – xã hội của dân cư. Trong tín dụng tiêu dùng người đi vay là dân cư họ nhận được tín dụng dưới hai hình thức bằng tiền và bằng hàng hoá. + Bằng tiền khoản tín dụng này do các ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tín dụng khác cung cấp. Người đi vay sử dụng tiền để mua sắm hàng hoá tiêu dùng cần thiết. + Bằng hàng hoá người đi vay nhận được hàng hóa tiêu dùng từ doanh nghiệp với mức giá cả được ấn định hoặc thoả thuận. Trên thị trường hiện nay mua trả góp đang là hình thức được phát triển mở rộng. Tín dụng thương mại: Tín dụng thương mại là quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. + Đặc điểm của tín dụng thương mại. Vốn vay còn tồn tại dưới hình thức hàng hoá chứ chưa phải là tiền nhàn rỗi. Đối tượng của tín dụng thương mại là người đi vay và người cho vay đều là các doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong quan hệ tín dụng thương mại người đi vay là người mua chịu, người cho vay là người bán chịu. Quá trình vận động và phát triển tín dụng thương mại gắn liền với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội giúp cho quá trình tái sản xuất xã hội không bị gián đoạn, đảm bảo tính liên tục. + Công cụ lưu thông tín dụng thương mại chủ yếu là thương phiếu. Theo điều 219 Luật thương mại được quốc hội thông qua ngày 10/5/1997 thì thương phiếu là chứng chỉ ghi nhận cam kết thanh toán vô điều kiện một số tiền nhất định trong một thời gian nhất định. Thương phiếu bao gồm hối phiếu (Bill of exchange) và lệnh phiếu(Promissory note). Hối phiếu là giấy đòi nợ do người có thẩm quyền cấp nhằm ra lệnh cho người mua trả tiền cho bất kỳ người nào có sở hữu và xuất trình hối phiếu hợp pháp, khi đến hạn thanh toán của hối phiếu. Lệnh phiếu là giấy chứng nhận nợ do người có nghĩa vụ mua trả nợ ký phát lập ra để cam kết trả tiền cho người hưởng lợi theo thời gian và địa điểm nhất định ghi trong lệnh phiếu. Tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngân hàng là quan hệ kinh tế về sử dụng vốn tạm thời giữa ngân hàng (với tư cách là người cho vay) với các tổ chức cá nhân (với tư cách là người đi vay) theo nguyên tắc hoàn trả, dựa trên cơ sở tín nhiệm nhằm thoả thuận nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp và các cá nhân trong kinh doanh. + Đặc điểm của tín dụng ngân hàng. Huy động vốn và cho vay đều được thực hiện dưới hình thức tiền tệ bằng các biện pháp nghiệp vụ, ngân hàng huy động các nguồn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế quốc dân về quỹ của mình để từ đó hình thành nguồn cho vay đối với các chủ thể khác của nền kinh tế quốc dân. Đây chính là tín dụng phổ biến, linh hoạt và đáp ứng cho mọi đối tượng trong nền kinh tế. Các ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian trong quá trình huy động vốn và cho vay vốn. Hoạt động của ngân hàng gồm hai nghiệp vụ chính là huy động vốn và cho vay vốn. Trong huy động vốn ngân hàng là người đi vay còn khi ngân hàng thực hiện nghiệp vụ cho vay thì ngân hàng đóng vai trò là người cho vay, như vậy ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng độc lập tương đối với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội. Vốn tín dụng là một bộ phận không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất xã hội, nếu khối lượng hàng hoá sản xuất và lưu thông phát triển thì nhu cầu vốn trong đó vốn tín dụng cũng phát triển. Như vậy, tín dụng ngân hàng đã vận động và phát triển phù hợp với sự vận động và phát triển quá trình tái sản xuất xã hội. Nhưng có khi các doanh nghiệp mở rộng tái sản xuất kinh doanh, hàng hoá sản xuất và luân chuyển tăng rất nhanh nhưng tín dụng ngân hàng lại không đáp ứng kịp đó là trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Ngược lại trong thời kỳ nền kinh tế khủng hoảng sản xuất và lưu thông hàng hoá bị co hẹp nhưng nhu cầu tín dụng vẫn gia tăng. Nhu cầu này không phải cho tái sản xuất xã hội mà để thanh toán, chống lại tình trạng vỡ nợ những hiện tượng nói trên thường xảy ra trong nền kinh tế thị trường. Hợp đồng tín dụng Trong nền kinh tế thị trường hoạt động trong quan hệ tín dụng rất phong phú và đa dạng vì thế cũng tồn tại nhiều hình thức tín dụng khác nhau. Nếu căn cứ vào thời gian thì tín dụng được chia làm 3 loại: ngắn, trung và dài hạn. Theo điều 8 quyết định 1627/2001/QĐ - NHNN ngày 31/12/01 thì tín dụng ngắn hạn là loại có thời gian đến 12 tháng; tín dụng trung hạn là loại tín dụng cho vay từ 12 tháng đến 60 tháng và tín dụng dài hạn là tín dụng cho vay từ 60 tháng trở nên tuy nhiên tuỳ theo tình hình mà tổ chức tín dụng xem xét quyết định cho khách hàng vay theo 3 thể loại trên nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống và các dự án đầu tư phát triển. Các loại tín dụng này chính là tiền đề tạo nên quan hệ tín dụng tương ứng. Như đã đề cập ở trên chúng ta có thể hiểu hợp đồng tín dụng là loại hợp đồng ký kết giữa các ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng với khách hàng của mình nhằm xác định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trên cơ sở thoả thuận bình đẳng và đôi bên cùng có lợi. Bản chất của hợp đồng này là hợp đồng vay tài sản, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên là quyền và nghĩa vụ của bên đi vay và bên cho vay. Bên cho vay cấp một khoản tín dụng cho bên đi vay và bên đi vay có nghĩa vụ sử dụng khoản tín dụng đó đúng mục đích, trả gốc và lãi đúng thời gian quy đinh theo như hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên tuỳ trường hợp mà vai trò của người cho vay và người đi vay có thể đổi chỗ cho nhau. Khái niệm hợp đồng tín dụng. Theo điều 3.1 quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 quy định cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Sau khi quyết định cho vay , tổ chức tín dụng và khách hàng phải ký kết một hợp đồng tín dụng thoả thuận việc cho vay đó. Bên cho vay và bên vay cũng được quy định rõ, theo điều 2.1 quyết định 1627/2001/QĐ- NHNN ngày 31/12/2001 quy định bên cho vay là tổ chức các tín dụng được thành lập và thực hiện nghiệp vụ cho vay theo quy định của Luật tổ chức tín dụng. Trường hợp cho vay bằng ngoại tệ các tổ chức tín dụng phải được phép hoạt động ngoại hối. Khách hàng vay tại tổ chức tín dụng theo điều 2.2 quyết định 1627/QĐ-NHNN bao gồm: + Các pháp nhân và cá nhân Việt nam. Các pháp nhân là: Các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức khác có đủ các điều kiện được quy định theo pháp luật. Theo điều 94 Bộ luật dân sự được gọi là một pháp nhân khi có đủ bốn điều kiện sau: - Được cơ quan nhà nước có thẫm quyền thành lập và cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận. - Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. - Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. - Nhân danh mình thông qua quan hệ pháp luật một cách độc lập. Ngoài những khách hàng là pháp nhân thì khách hàng của tổ chức tín dụng có thể là: Cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh và các pháp nhân và các cá nhân nước ngoài khác. Vai trò của hợp đồng tín dụng. Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu tín dụng là thường xuyên phát sinh do doanh nghiệp luôn tìm cách phát triển và mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ phương tiện vận tải, kỷ thuật. Bởi vậy tín dụng đã trở thành trợ thủ đắc lực của nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, thoả mãn nhu cầu, cơ hội kinh doanh, chiếm lĩnh thị trường. Tín dụng cho vay tạo điều kiện phát triển thị trường vốn ngắn hạn do sản xuất phát triển sẽ cần nhiều vốn lưu động hơn và thị trường vốn ngắn hạn sẽ mở rộng theo tốc độ của sản xuất. Phát triển cho vay vốn trung và dài hạn cũng tạo cho việc hình thành và mở rộng thị trường chứng khoán nhất là trong giai đoạn thị trường chứng khoán Việt nam đang từng bước phát triển. Mở rộng cho vay trung và dài hạn mới điều chỉnh được hoạt động kinh tế xã hội, tức là chuyển từ quy mô sản xuất nhỏ sang quy mô sản xuất lớn. Một hình thức, một giải pháp đúng đắn để kịp thời chuyển hoạt động các đơn vị cơ sở, nhất là các đơn vị quốc doanh từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường tự hạch toán kinh doanh là sự cung ứng vốn cho doanh nghiệp có tiềm năng sản xuất kinh doanh nhưng không có vốn để đầu tư vào sản xuất. Hơn nữa đây thực sự là tín dụng đầu tư theo chiều sâu, cung cấp mua sắm tài sản cố định, cải tiến kỷ thuật mới mở rộng sản xuất. Do vậy, khi công ty tài trợ vốn tín dụng cho các doanh nghiệp thì vừa đảm bảo tính hiệu quả quản lý vĩ mô về tốc độ và cơ cấu sản xuất, vừa bảo đảm lợi ích cho doanh nghiệp. Đây thực sự là một vấn đề không thể thiếu được trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của đất nước. Luật điều chỉnh của hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng là một dạng của hợp đồng kinh tế nên được điều chỉnh bằng pháp lệnh hợp đồng kinh tế (ngày 25/9/1989). Do mang tính chất đặc thù trong lĩnh vực ngân hàng nên được điều chỉnh cụ thể thông qua: Luật ngân hàng, luật các tổ chức tín dụng ngày 26/12/1997, quyết đinh số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, luật phá sản doanh nghiệp ngày 30/12/93…ngoài ra có thể áp dụng một số văn bản pháp luật có liên quan khác, các văn bản cụ thể tuân theo pháp luật mà ngân hàng, tổ chức tín dụng có quy định cụ thể về quy chế cho vay trung, dài hạn tại ngân hàng và công ty mình. Chế độ pháp lý về hợp đồng tín dụng Các quy định chung. Nguyên tắc ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng là một dạng của hợp đồng kinh tế do đó nguyên tắc ký kết chung của hợp đồng tín dụng cũng giống như nguyên tắc ký kết của hợp đồng kinh tế, cụ thể : Theo điều 3 pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì hợp đồng kinh tế được ký kết theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, trực tiếp chịu trách nhiệm về tài sản và không trái pháp luật. Ngoài những nguyên tắc chung đó thì hợp đồng tín dụng còn có những nguyên tắc cụ thể sau. Để xác lập mối liên hệ giữa công ty với người đi vay, nhằm làm cho vốn vay có hiệu quả thì pháp luật nhà nước đều quy định những nguyên tắc và điều kiện làm cơ sở cho hoạt động tín dụng. Những nguyên tắc đó chính là những nguyên tắc pháp lý để ký kết một hợp đồng tín dụng nói chung. Theo điều 6 quyết định 1627/2001/QD-NHNN ngày 31/12 thì có các nguyên tắc sau: Một là nguyên tắc sử dụng vốn đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng, theo nguyên tắc này thì công ty chỉ được cho vay đối với những tổ chức cá nhân có sử dụng vốn mang lại lợi nhuận, tạo hiệu quả kinh tế tránh tình trạng đầu tư sai mục đích thất thoát và lãng phí nguồn vốn. Hai là nguyên tắc vay vốn phải hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng hạn theo sự thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Nguyên tắc này vừa là cơ sở để ngân hàng tiến hành hoạt động kinh tế vừa là cơ sở để ngân hàng tiến hành hạch toán kinh tế trong hoạt động của mình. Chủ thể và khách thể khi ký kết hợp đồng tín dụng. a. Chủ thể cho vay Xét về mặt chủ thể, một quan hệ pháp luật tín dụng phát sinh giữa một bên là tổ chức tín dụng hoặc các ngân hàng hoặc các công ty tài chính với một bên là các pháp nhân hoặc các thể nhân có đủ điều kiện theo luật định, thông thường các tổ chức tín dụng khi tham gia quan hệ tín dụng thì hầu hết hộ đóng vai trò với tư cách là người cho vay trong các quan hệ pháp luật tín dụng. Ngân Hàng Nhà Nước là người cho vay trong quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng và kho bạc nhà nước. Ngân hàng thương mại là người cho vay trong quan hệ tín dụng với các pháp nhân kinh tế và thể nhân kinh doanh. Các tổ chức tín dụng, các công ty tài chính phi ngân hàng. b. Chủ thể đi vay. Như trên đã đề cập đến chủ thể ký kết và thực hiên hợp đồng tín dụng chính là các công ty tài chính, các ngân hàng và các pháp nhân, thể nhân hoạt động kinh doanh trên thị trường. Tuy nhiên với mục đích phục vụ cho đầu tư các dự án xây dựng mới, mở rộng cải tạo, khôi phục cải tiến kỹ thuật và ứng dụng khoa học công nghệ nhằn mục tiêu lợi nhuận nên chủ thể chủ yếu là các tổ chức kinh tế. Các tổ chức kinh tế này khi tiến hành vay vốn của công ty tài chính và của các ngân hàng cần có đủ các điều kiện sau: Có tư cách pháp nhân đối với tổ chức hoặc có đủ năng lực pháp luật đối với cá nhân trong hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Khi hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải hoạt động đúng ngành nghề ghi trong giấy phép kinh doanh hoặc giấy đăng ký kinh doanh và phải thực hiện đầy đủ những quy định của pháp luật Việt Nam. Sản xuất kinh doanh phải có lãi: Dự án có hiệu quả kinh tế, xác định được nguồn trả nợ, kết quả sản xuất kinh doanh không bị lỗ, không có nợ quá hạn trong các kỳ vay trước thì công ty tài chính hoặc các ngân hàng xem xét cho vay tiếp trong các trường hợp sau: + Doanh nghiệp thuộc diện nhà nước cấp bù theo chính sách. + Doanh nghiệp ngân nhà nước bù lỗ nhưng phương án có hiệu quả được bộ chủ quản chấp nhận. + Nợ quá hạn do nguyên nhân bất khả kháng do các thay đổi chính sách của nhà nước. Phải có vốn tự có đầu tư cho dự án, mức cụ thể do giám đốc tổ chức tín dụng quy định. Phải có tài sản thế chấp và cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ ba theo quy chế thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước. Tổ chức hạch toán, kế toán và quản lý tài chính theo đúng pháp lệnh kế toán, thống kê và điều lệ của tổ chức kinh tế. Theo điều 19 quyết định 1627/2001/QD-NHNN thì tổ chức tín dụng không được cho vay đối với khách hàng trong trường hợp sau: + Thành viên của hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc (giám đốc), phó tổng giám đốc (phó giám đốc) của tổ chức tín dụng. + Cán bộ công nhân viên của tổ chức tín dụng đó thực hiện nhiệm vụ quyết định, thẩm định cho vay. + Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc (giám đốc), phó tổng giám đốc (phó giám đốc). Đối với bên vay là pháp nhân, ngoài các điều kiện quy định tại các điểm trên thì phải có thời gian hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập phù hợp với thời gian cho vay trung và dài hạn. c. Khách thể. Khách thể của quan hệ pháp luật tín dụng ở các công ty tài chính là những lợi ích vật chất hoặc phi vật chất mà các chủ thể nhằm hướng lợi ích tới khi tham gia vào quan hệ pháp luật tín dụng đó. Trong quan hệ pháp luật tín dụng, mục tiêu ý chí của các chủ thể hướng tới là việc chuyển giao một số tiền nhất định từ người cho vay sang người đi vay để thoả mãn lợi ích của các bên. Do đó về mặt lý luận có thể coi khách thể của quan hệ tín dụng là tiền hoặc các giấy tờ có giá trị khác. Trong thực tế, tuy các chủ thể đều hướng tới việc chuyển giao một số tiền nhất định nhưng mục đích của từng chủ thể là khác nhau: Đối với chủ thể cho vay thì nhằm mục đích kiếm lợi nhuận, còn khách hàng vay vốn thoả mãn nhu cầu về vốn trong kinh doanh. Nội dung của hợp đồng tín dụng Như trên đã đề cập, hợp đồng tín dụng là một dạng của hợp đồng kinh tế hoặc là một dạng của hợp đồng dân sự tuỳ thuộc vào chủ thể ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng. Tuy vậy nhưng một hợp đồng tín dụng vẫn có hai điều khoản cụ thể sau: Một là các điều khoản chủ yếu, đó là các điều khoản mà khi thiếu một mục trong các điều khoản này thì hợp đồng tín dụng coi như vô hiệu một phần hoặc toàn bộ. Các mục trong điều khoản chủ yếu bao gồm: + Ngày, tháng, năm ký hợp đồng tín dụng và tên, địa chỉ, số tài khoản mà các chủ thể giao dịch, ký kết. Họ tên người đại diện và người đứng tên đăng ký kinh doanh. + Số tiền vay, thời hạn và lãi suất vay. + Mục đích sử dụng vốn vay. + Phương thức giải ngân. + Biện pháp bảo đảm các nguồn vay. + Phương thức trả nợ. Hai là điều khoản bổ sung là điều khoản mà các bên có thể thoả thuận hoặc không thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thì hợp đồng vẫn phát sinh hiệu lực. Việc thoả thuận các điều khoản này chỉ nhằm mục đích giúp cho hợp đồng được rõ ràng, chắc chắn hơn và bảo đản hiệu lực mà thôi. 1.4 Các nguồn huy động vốn để cho vay đối với các tổ chức tín dụng. Theo Điều 8 quy chế tài chính ngày 25/10/2001 thì công ty tài chính được huy động vốn dưới mọi hình thức theo quy định của pháp luật như: Vốn vay của ngân hàng, các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Ngoài nguồn huy động trên, công ty có thể phát hành trái phiếu công trình, cổ phiếu hoặc vay khác để phục vụ nhu cầu hoạt động kinh doanh. Việc huy động vốn nói trên phải tuân theo quy định pháp luật hiện hành và không được làm thay đổi hình thức sở hữu của công ty. Để cụ thể hơn nữa, theo Điều 2.1 quyết định 415/1998/QĐ-TCCB ngày 8/7/1998 của Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Bưu Điện về việc thành lập công ty Tài chính Bưu Điện thì công ty tài chính được huy động bởi các nguồn sau : + Nhận tiền gửi có kỳ hạn của Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam, các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty, các doanh nghiệp cùng ngành kinh tế kỹ thuật mà tổng công ty kinh doanh và công nhân viên chức trong tổng công ty. + Phát hành tín phiếu, trái phiếu công trình trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. + Vay của các tổ chức tài chính trong và ngoài nước. 1.5 Các biện pháp bảo đảm của hợp đồng tín dụng. Có thể khẳng định rằng hệ thống pháp luật về hợp đồng có một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế, tạo môi trường phát triển k._.inh tế xã hội của đất nước. Trong đó chế định pháp lý về các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng như thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, phạt vi phạm là những vấn đề quy định nhằm tạo an toàn và hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh tế cũng như trong hoạt động dân sự. Trong lĩnh vực hợp đồng tín dụng trung, dài hạn, chúng ta xét đến ba biện pháp bảo đảm chính: Thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Để có thể hiểu rõ, chúng ta cần phải thấy được sơ sở pháp lý hình thành nên quá trình bảo đảm này và cơ sở pháp lý cao nhất trước hết phải kể đến các quy định trong bộ luật dân sự và nghị định 178/1999/ND-CP ngày 29/12/1999 về việc bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng: Điều 7.1 nghị định 178 có nêu: Tài sản, điều kiện nhận tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, thủ tục ký kết và thực hiên hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh (gọi chung là hợp đồng bảo đảm) và đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm. Hợp đồng bảo đảm có chứng nhận của công ty nhà nước hoặc chứng thực của uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền nếu các bên có thoả thuận, trừ trường hợp có quy định khác. Theo Điều 3 nghị định này thì các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản bao gồm: Cấm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ nguồn vốn vay. Nếu vay không có bảo đảm thì việc sử dụng các biệ pháp tuỳ thuộc vào tổ chức tín dụng lựa chọn : tổ chức tín dụng phải chủ động lựa chọn khách hàng, tổ chức tín dụng nhà nước được cho vay không có bảo đảm theo chỉ thị của chính phủ, tổ chức tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị xã hội. Theo Điều 329.1 bộ luật dân sự quy định cầm cố tài sản là bên có nghĩa vụ giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên có quyền để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nếu tài sản cầm cố có đăng ký sở hữu thì các bên có thể thoả thuận : Bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố hoặc giao cho người thứ ba giữ. Theo Điều 346.1 bộ luật dân sự có định nghĩa: Thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ dụng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền. Theo Điều 2.3 nghị định 178, tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản của khách hàng vay, tài sản hình thành từ nguồn vốn vay và tài sản của bên bảo lãnh dùng để bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với tổ chức tín dụng. Điều 336 bộ luật dân sự có ghi: bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh ) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh ) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ nếu khi đến hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc người bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi người được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng trên đều được lập thành văn bản riêng. Tương ứng với ba biện pháp cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, quy định về các hình thức này cũng được ghi rõ trong các điều 330, điều 347 và điều 367 của bộ luật dân sự. Chủ thể ký kết hợp đồng thế chấp, cầm cố, bảo lãnh vay vốn tại các tổ chức tín dụng là các pháp nhân hoặc thể nhân có đủ tư cách pháp lý theo quy định của pháp luật. Ba loại hợp đồng này có vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo lập cơ sở bằng tài sản khi bên vay một khoản tín dụng tại công ty. Nó tạo tiền đề, tạo cơ sở cho việc ký kết hợp đồng tín dụng mà đặc biệt là hợp đồng tín dụng trung và dài hạn. Trường hợp bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng trong hợp đồng thế chấp tài sản thì số tài sản này được xử lý theo phương thức mà các bên đã quy định trong hợp đồng. Thông thường bên nhận thế chấp có quyền phát mại tài sản thế chấp và được quyền ưu tiên thanh toán từ số tiền bán tài sản đó, hoặc yêu cầu toà án nhân dân giải quyết theo điều 34.1 pháp lệnh hợp đồng dân sự ngày 1/7/1991. Nếu số tiền phát mại tài sản không đủ để trả nợ gốc và lãi số tiền vay thì bên thế chấp phải có nghĩa vụ thực hiện trả nợ tiếp bằng các nguồn tài sản khác. Nếu không ngân hàng có quyền khởi kiện bên vay trước pháp luật. (Được quy định tại điệu 341 về việc xử lý tài sản cầm cố và điều 395 về xử lý tài sản thế chấp của bộ luật dân sự). Chế độ ký kết hợp đồng tín dụng: Khi bên vay muốn vay một khoản tín dụng nào đó tại các tổ chức tín dụng thì cần thiết phải ký kết với tổ chức tín dụng một hợp đồng tín dụng. Để ký kết một hợp đồng tín dụng thì hai bên cần tuân thủ theo các điều kiện cần thiết của quy trình nghiệp vụ cho vay tín dụng. Theo quyết định số 1627/2001/QD-NHNN ngày 31/12/2001 thì quy trình này gồm các giai đoạn như : lập hồ sơ (Điều 14), thẩm định và quyết định cho vay( Điều 15), ký kết hợp đồng(Điều 18). Sau đây chúng ta tiến hành xem xét quy trình chung để dẫn tới việc ký kết một hợp đồng tín dụng chung. Điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn. Khi khách hàng đề xuất yêu cầu vay vốn, cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng cụ thể và đầy đủ về điều kiện vay vốn. Nếu khách hàng chấp thuận thì lập hồ sơ vay vốn để công ty chính thức nghiên cứu và thẩm định: + Giấy tờ chứng nhận tư cách pháp nhân hoặc thể nhân. Đối với pháp nhân : giấy phép thành lập, giấy đăng ký kinh doanh, điều lệ hoạt động, quyết định bổ nhiệm giám đốc phó giám đốc và kế toán trưởng…..phù hợp với luật doanh nghiệp ngày 12/6/1999. Thể nhân: cần có giấy chứng minh nhân dân và phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi. + Giấy đề nghị vay vốn. + Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch vay vốn, trả nợ gốc và lãi cho tổ chức tín dụng. + Các báo cáo tài chính ở thời điểm gần nhất. + Hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản và các giấy tờ gốc chứng nhận quyền sở hữu tài sản đó. + Giấy tờ liên quan đến việc vay vốn. Điều tra thu thập tổng hợp các thông tin về khách hàng và phương án vay vốn. Sau khi công ty nhận được hồ sơ vay vốn của khách hàng thì cán bộ chuyên dụng của công ty tiến hành các bước. + Phỏng vấn người vay nhằm xác định tính trung thực của hồ sơ vay vốn, xác định tư cách, năng lực, phẩm chất của khách hàng. + Những thông tin từ các ngân hàng cung cấp hồ sơ cho vay và sổ sách kế toán và báo cáo tài chính khác. + Điều tra thực tế tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của người đi vay. Phân tích và thẩm định dự án. Phương án vay vốn phải có điều kiện cho vay, nguyên tắc cho vay theo thể lệ, chế độ quy định cụ thể đối với hoạt động cho vay đó, đảm bảo khả năng cho vay thu được cả gốc lẫn lãi đúng hạn. - Hồ sơ thủ tục vay vốn phải đầy đủ, hợp pháp theo chế độ quy định, nếu tranh chấp xảy ra thì phải bảo đảm an toàn pháp lý cho ngân hàng cũng như khách hàng: Kiểm tra năng lực pháp lý của khách hàng : Đối với thể nhân pháp nhân và người đại diện pháp nhân. Tính cách và uy tín của khách hàng. Phương án vay vốn và khả năng trả nợ của khách hàng . Đối với loại cho vay trung và dài hạn nguồn tiền để trả nợ cho các tổ chức tín dụng là tổng số lợi nhuận và khấu hao cơ bản tài sản do vốn đầu tư của các công ty tài chính tạo ra. Khách hàng có thể sử dụng một phần vay hay toàn bộ phần lợi nhuận và khấu hao do vốn chủ sở hữu tạo ra để bổ xung vào nguồn trả nợ rút ngắn thời gian vay vốn. Ngoài ra, khả năng trả nợ của khách hàng còn có thể huy độnh từ các nguồn khác. Nguồn huy động nội bộ hoặc kết quả kinh doanh. Nguồn vay khác. Thanh lý tài sản. Các chủ sở hữu vay vốn. - Đánh giá các bảo đảm tiền vay. Phải kiểm tra hồ sơ pháp lý, giấy tờ sở hữu, tiêu chuẩn tài sản thế chấp…đúng với quy định hiện hành. - Phân tích và dự báo ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến phương án vay vốn và trả nợ của khách hàng. + Sự thay đổi của hệ thống pháp luật và các chính sách vĩ mô trong thời gian cho vay. + Chỉ số kinh tế vĩ mô của đất nước. 2.4 Quyết định cho vay. Trong thời gian 45 ngày đơn vị vay vốn cung cấp đủ hồ sơ cho tổ chức tín dụng thì tổ chức tín dụng phải có nghĩa vụ trả lời cho khách hàng của mình về kết quả thẩm định (nếu khách hàng vay vốn với số lượng lớn, tính chất quan trọng thì thời gian thẩm định có thể dài hơn nhưng phải có sự thoả thuận trước của công ty với đơn vị vay vốn ). Nếu đơn vị cho vay trong quá trình thẩm định đã phát hiện được tính không trung thực của đơn vị đi vay, thì phải lập bằng văn bản trong đó nêu ro căn cứ từ chối cho vay. 2.5.Kiểm hoàn chỉnh hồ sơ thế chấp, cầm cố và bảo lãnh cho vay. Kiểm tra lại tính pháp lý của hồ sơ : Hình thức và nội dung, con dấu chữ ký và họ tên của người có liên quan phải ký theo chế độ quy định. Khi các bên tiến hành theo năm bước trên, nếu sau khi kiểm tra lại tính pháp lý và thấy có thể đi đến ký kết hợp đồng tín dụng thì hai bên sẽ cùng nhau ký kết một hợp đồng tín dụng với nội dung đã được trình bày ở các phần trên. Sau khi ký kết được một hợp đồng tín dụng thì các bên phải cùng nhau thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình tức là cùng thực hiện hợp đồng tín dụng đó. Chế độ thực hiện hợp đồng tín dụng. Quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng sau khi ký kết bắt đầu từ khâu phát tiền vay của bên cho vay. 3.1. Phát tiền vay. Quá trình này thực hiện mục tiêu làm sao phải quản lý cho được quá trình sử dụng vay vốn của khách hàng, tạo hiệu quả sử dụng vốn, hạn chế rũi ro đến mức thấp nhất có thể. Phát tiền vay phải thực hiện theo trong hợp đồng tín dụng là có thể phát một lần hoặc nhiều lần, tuỳ thuộc vào nguồn vốn của ngân hàng và từng dự án cho vay, hai bên phải lập một giấy xác nhận vay vốn kiêm giấy nhận nợ theo chỉ dẫn của công ty. 3.2. Giám sát khách hàng sử dụng vốn và theo dõi rủi ro. Mục đích của quá trình này là giám sát và theo dõi nhằm kiểm tra tính thực hiện trả nợ và khả năng thực hiện, phát hiện dự báo những rũi ro có thể phát sinh. Từ đó phát hiện sớm những khoản vay có vấn đề trước khi trở nên nghiêm trọng nhằm đề xuất những giản pháp kịp thời. Kết quả của kiểm toán và theo giỏi sử dụng vốn này đều phải lập biên bản kèm theo các nhận xét, kiến nghị với khác hàng và giám đốc công ty. Vì vậy, cán bộ tín dụng phải có biện pháp theo dõi, nắm bắt đầy đủ kịp thời mọi diễn biến của quá trình sử dụng tiền vay và tình hình sản xuất kinh doanh chung của khách hàng. 3.3. Thu hồi và gia hạn nợ. Thu hồi vốn đầu tư. Trong quá trình cho vay đối với tất cả các dự án từ nguồn tín dụng đầu tư. Chủ đầu tư (đơn vị vay vốn ) có trách nhiệm trả nợ lãi vay và lãi suất cho công ty khi đến hạn trong hợp đồng. Việc thu hồi gốc và lãi được thực hiện theo hợp đồng tín dụng. Trước khi đến kỳ hạn trả nợ là 10 ngày, cán bộ tín dụng phải thông báo cho đơn vị vay vốn số tiền trả kỳ này, ngày đến hạn trả. Các trường hợp đặc biệt. Trường hợp đến khi đến hạn trả nợ, đơn vi vay vốn chưa trả được nợ do nguyên nhân khách quan và có giấy đề nghị gia hạn nợ gửi cho công ty(trước khi trả nợ ít nhất 5 ngày) để xin gia hạn nợ thì cán bộ tín dụng phải kiểm tra xác nhận tình hình thực tế đơn vị. Nếu đơn vị khó khăn thực sự do nguyên nhân khách quan ngoài phạm vi quản lý điều hành của đơn vị thì cán bộ tín dụng làm tờ trình để giám đốc có biện pháp xử lý cho gia hạn nợ hoặc điều chỉnh kỳ hạn nợ theo đúng quy định. Trường hợp đến hạn nợ nhưng đơn vị không trả được nợ, không có đơn xin gia hạn nợ hoặc không được bên cho vay chấp nhận gia hạn thì khoản nợ đó phải chuyển sang nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn. Đối với những khoản nợ khó đòi, đơn vị đi vay tìm mọi lý do để khước từ thanh toán nợ thì công ty tài chính phải ra biện pháp xử lý, nếu cần thiết có thể đề nghị với cơ quan chủ quản của đơn vị can thiệp. Trường hợp đơn vị không có khả năng trả nợ thì sau 30 ngay kể từ ngày hết thời hạn trả nợ (kể cả thời gian gia hạn) mà đơn vị không có khả năng trả nợ, công ty phải yêu cầu đơn vị bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình hoặc tiến hành pháp mại tài sản thế chấp, cầm cố. Việc pháp mại tài sản thế chấp, cầm cố được thực hiện theo những quy định của pháp luật hiện hành. Trường hợp đơn vị muốn trả nợ trước hạn phải gửi công văn cho công ty trước ngày dự tính trả nợ trước hạn ít nhất là 5 ngày, việc tính lãi và phương thức trả nợ được thực hiện theo hợp đồng tín dụng. Việc trả nợ vay trước hạn chỉ được thực hiện khi có sự chấp thuận bằng văn bản của công ty, văn bản này là một bộ phận của hợp đồng tín dụng. 3.4 Thanh lý và kết thúc hợp đồng tín dụng. Trường hợp công ty và đơn vị vay vốn đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kế trong hợp đồng tín dụng, việc thực hiện hợp đồng không có gì vướng mắc thì hợp đồng tín dụng sẽ tự hết hiệu lực và được thanh lý khi đơn vị vay vốn trả hết nợ gốc, lãi và phí cho công ty theo đúng hợp đồng. Giải quyết tranh chấp phát sinh: Mọi tổ chức cá nhân trong và ngoài nước có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực ngân hàng thuộc lãnh thổ Việt Nam đều bị xử phạt hành chính. Những hành vi này đã vi phạm các quy định quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Có thể phạt tiền hoặc cảnh cáo tuỳ theo mức độ vi phạm, các cá nhân, tổ chức bị phạt hành chính hoặc chịu các hình phạt bổ sung. Mặt khác một hợp đồng tín dụng là một loại của hợp đồng kinh tế nên nó cũng được áp dụng chế độ trách nhiệm vi phạm hợp đồng được quy định trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Các bên cho vay và bên vay khi đã ký kết một hợp đồng tín dụng thì cũng đã ràng buộc quyền và trách nhiệm với nhau trong hợp đồng đó và các bên phải chịu trách nhiệm về tài sản với nhau về biệc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng. Bên vi phạm hợp đồng tín dụng phải trả tiền cho bên bị vi phạm và trong trường hợp có thiệt hại thì phải bồi thường. Bên vi phạm nghiệp vụ thanh toán bị phạt theo vi phạm hợp đồng. Mức phạt có thể tính bằng lãi suất tín dụng quá hạn theo quy định của pháp luật. Khi có một bên đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng tín dụng hoặc không thực hiện hợp đồng như đã ký kết thì bị phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại nếu có thiệt hại xảy ra. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được giấy mời đòi tiền phạt mà bên vi phạm không trả tiền thì phải chịu lãi suất chậm trả trên số tiền phạt theo quy định của pháp luật. Nếu bên vi phạm không trả lời, không chấp nhận thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu trọng tài kinh tế giải quyết. Tuy nhiên bên vi phạm hợp đồng tín dụng có thể xét giảm hoặc miễn toàn bộ trách nhiệm tài sản nếu do nguyên nhân khách quan mang lại và bên vay có đơn xin gia hạn nợ tối đa bằng thời gian của một kỳ hạn trả nợ và chỉ gia hạn một lần trong một hợp đồng tín dụng. Nếu hợp đồng tín dụng được thoả thuận phương thức thanh toán bằng ngoại tệ và phụ hợp với pháp luật thì tiền phạt hợp đồng và tiền bồi thường thiệt hại cũng được tính bằng ngoại tệ tương ứng. Như vậy, khi bên đi vay vay một khoản tín dụng được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng mà do một nguyên nhân nào đó không trả được nợ và lãi theo thời hạn đã quy định thì coi như vi phạm hợp đồng tín dụng. Nếu bên cho vay xét thấy có thể gia hạn nợ thì áp dụng các biện pháp gia hạn nợ. Ngược lại có thể dùng các biện pháp như: Chuyển số tiền trong tài khoản của bên vay sang hoàn trả gốc, lãi và phí, nếu không đủ thì chuyển số nợ còn lại thành nợ quá hạn và tính theo lãi suất nợ quá hạn. Một biện pháp nữa mà công ty có thể áp dụng là định chỉ hợp đồng tín dụng nếu xét thấy cần thiết. Một số quy định về xử lý hợp đồng tín dụng cũng được quy định trong luật các tổ chức tín dụng. Như đã đề cập đến, khi các cá nhân và các tổ chức có hành vi vi phạm các quy định chung về tiền tệ và hoạt động ngân hàng thì tuỳ theo tính chất mức độ mà xử lý kỷ luật, xử lý hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật trong điều 54 luật các tổ chức tín dụng. Thẩm quyền xử lý vi phạm, theo điều 127 luật các tổ chức tín dụng quy định: Ngân Hàng Nhà Nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của các tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật. Các tổ chức cá nhân bị xử lý vi phạm hành chính có quyền khiếu nại đối với quyết định xử lý đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại toà án. Việc khiếu nại, khởi kiện được thực hiện theo quy định của pháp luật (Điều 128.1 Luật các tổ chức tín dụng). Chương II Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng tại công ty Tài Chính Bưu Điện I. Khái quát chung về tình hình tổ chức và hoạt động của công ty Tài Chính Bưu Điện 1. Giới thiệu chung. 1.1 Lịch sử hình thành công ty Tài chính Bưu Điện. Sau đại hội VI, 1986 thì đất nước ta đã chuyễn từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp (cơ chế kế hoạch hoá tập trung ) sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước, cùng với sự thay đổi đó thì hàng loạt các thay đổi khác đã diễn ra cho phù hợp với những điều kiện và hoàn cảnh mới. Trong đó có việc cải cách các doanh nghiệp nhà nước một trong những giải pháp đưa ra là việc hình thành các tổng công ty mạnh để có khả năng cạnh tranh trên thị trường và tạo tiềm lực lớn cho đất nước. Một trong những công ty đó là Tổng công ty Bưu chính Viễn Thông Việt Nam (viết tắt: VNPT). Nó được thành lập theo quyết định số 249/TTG ngày 29/4/1995 của thủ tướng chính phủ về việc thành lập Tổng công ty Bưu chính Viễn Thông Việt Nam và nghị định số 51/CP ngày 1/8/95 của chính phủ phê duyệt điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty. Trong những năm đầu thành lập thì mô hình của tổng công ty như sau: Tổng công ty Bưu chính – Viễn thông Việt nam Khối hạch toán độc lập Khối hạch toán phụ thuộc Các đơn vị hành chính sự nghiệp Các lên doanh và các công ty cổ phần Sau 10 năm hoạt động, Tổng công ty đã và đang trở thành một ngành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nhất là trong tình hình hiện nay đất nước đang bước sang một thời kỳ mới đó là thời kỳ của công nghệ thông tin, bưu chính viễn thông, điện tử viễn thông và thời kỳ mà đất nước ta đang bước vào thời kỳ đổi mới đang thực hiện chính sách mở cửa “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở hợp tác, hoà bình phát triển cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau” thì xu thế cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt hơn, để tránh nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin khi hội nhập vào khu vực và thế giới thì bắt buộc các tổng công ty phải liên kết với nhau để trở thành những tập đoàn kinh tế mạnh, với sự chuyên môn hoá trong điều hành quản lý kinh tế tài chính. Do đó mô hình công ty trong Tổng công ty nhà nước được đưa ra trong thực tiễn nhằm hỗ trợ một phần vấn đề về vốn tài chính để góp phần đưa các tổng công ty này thành những tập đoàn kinh tế mạnh nhằm thực hiện được vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường. Trong hoàn cảnh đó, tổng cục trưởng tổng cục Bưu điện căn cứ vào: - Nghị định số 12/CP ngày 11/2/96 của chính phủ về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ máy của tổng cục Bưu điện. - Nghị định 51/CP ngày 1/8/95 của chính phủ phê duyệt điều lệ tổ chức và hoạt động của tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam. - Nghị định số 50/CP ngày 28/8/96 và nghị định số 38/CP ngày 28/4/97 của chính phủ về thành lập, tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp nhà nước. - Căn cứ vào công văn số 508/CP - ĐMDN ngày 8/5/98 của chính phủ về thành lập Công Ty Tài Chính Bưu Điện. - Xét đề nghị của hội đồng quản trị tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam tại công văn số 88/KTTKTC ngày 4/6/98 về việc thành lập công ty bưu chính bưu điện. Căn cứ vào biên bản cuộc họp ngày 2/7/98 của hội đồng thẩm định thành lập Công Ty Tài Chính Bưu Điện. Theo đề nghị của vụ tổ chức cán bộ. Đã ra quyết định số 415/98/QĐ - TCCB ngày 7/8/98 về việc thành lập Công Ty Tài Chính Bưu Điện và hoạt động theo giấy phép số 03/GP – NHNN do thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước cấp ngày 10/10/98 và giấy đăng ký kinh doanh số 112959 do sở kế hoạch đầu tư cấp ngày 12/6/98 và đã đi vào hoạt động ngày 25/11/98. Tên chính thức của công ty: Công ty Tài Chính Bưu Điện. Tên giao dịch quốc tế: Post anh Telecommunication Finance Company Tên giao dịch quốc tế: PTF Trụ sở chính của công ty: Công Ty Tài Chính Bưu Điện 62 đường Nguyễn Du quận Hai Bà Trưng Hà Nội. Vốn điều lệ của công ty khi thành lập là 70 000 000 000 VNĐ, (bảy mươi tỷ đồng ), trong đó hầu hết vốn bằng tiền. Tài khoản của công ty được mở tại sở giao dịch ngân hàng công thương Việt Nam theo số tài khoản 710A01919. Thời gian hoạt động của Công Ty Tài Chính Bưu Điện là 50 năm kể từ ngày được cấp giấy phép hoạt động nhưng thời hạn nay không vượt quá thời hạn hoạt động của tổng công ty bưu chinh viễn thông Việt Nam. Như vậy tổng Công Ty Tài Chính Bưu Điện là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng thuộc khối hoạch toán độc lập trong tổng công ty bưu chính viễn thông do vậy đây là đơn vị hoạch toán độc lập. 1.2. Chức năng và nhiệm vụ của Công Ty Tài Chính Bưu Điện. a. Vị trí của PTF. Là một đơn vị thành viên 100% vốn của tổng công ty và hoạch toán độc lập, chịu sự quản lý của tổng công ty về vốn, chiến lược phát triển và tổ chức nhân sự. Mặt khác đây là công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ và tổ chức tín dụng trong thị trường tài chính nên công ty chịu sự quản lý của ngân hàng về phạm vi hoạt động do vậy đây là tổ chức trung gian giưã tổng công ty với thị trường tài chính, giữa cơ quan đầu não của tổng công ty với các đơn vị thành viên và giữa các đơn vị thành viên với nhau. b. Phạm vi hoạt động. Hoạt động của PTF nằm trong phạm vi của tổng công ty và các doanh nghiệp thành viên thuộc tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam, các doanh nghiệp cùng nghành kinh tế kỹ thuật tại Việt Nam. c. Chức năng và nhiệm vụ. Công Ty Tài Chính Bưu Điện có các chức năng và nhiệm vụ sau: Huy động vốn để cho vay phục vụ nhu cầu kinh doanh và các dự án đầu tư của tổng công ty Bưu chính – Viễn thông Việt Nam và các đơn vị thành viên của Tổng công ty; pháp hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu công trình, mua bán giấy tờ và chứng từ có giá trị theo quy định của pháp luật. Thực hiện các dịch vụ tài chính, tiền tệ khác được Ngân Hàng Nhà Nước cho phép. Huy động vốn nhàn rỗi của công nhân viên chức trong nội bộ của Tổng công ty và các đơn vị trong ngành kinh tế- kỷ thuật mà tổng công ty kinh doanh. 1.3 Cơ cấu tổ chức và cơ chế điều hành của Công Ty Tài Chính Bưu Điện a. Nguyên tắc tổ chức và điều hành. Công ty Tài Chính Bưu Điện chịu sự quản lý của Tổng công ty về vốn, chiến lược phát triển, về tổ chức nhân sự và chịu sự quản lý của Ngân Hàng Nhà Nước về nội dung và phạm vi hoạt động nghiệp vụ. Công ty Tài chính thực hiện nghiệp vụ theo quy định của pháp luật về tài chính, tín dụng, ngân hàng và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động kinh doanh của mình. Công ty tài chính chịu sự quản lý, thanh tra, giám sát của Ngân Hàng Nhà Nước. Tổng công ty chịu trách nhiệm trước pháp luật về các khoản đầu tư và cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài Tổng công ty khi các qui định đó do các tổng công ty qui định cũng như các qui định khác của tổng công ty liên quan đến hoạt động của tổng công ty. b. Cơ cấu tổ chức của Công Ty Tài Chính Bưu Điện. Mô hình: Cơ cấu tổ chức Công ty Tài Chính Bưu Điện giai đoạn 2001-Giám Đốc Phó Giám đốc 1 Phó Giám đốc 2 Phòng kế toán ngân quỹ Phòng tín dụng Tổ thẩm định dự án đầu tư Phòng hành chính lễ tân Tổ tổng hợp kiểm soát Phòng đầu tư chứng khoán Phòng tin học thống kê Phòng tổ chức lao động Phòng nghiên cứu thị trường Chi nhánh TPHCM Chi nhánh Hà Nội 2003 c. Tình hình nhân sự. Từ năm 1998 đến nay tình hình nhân sự của công ty có sự thay đổi về số lượng cụ thể năm 1998 công ty có 48 người lao động nhưng đến năm 2001 đã tăng lên 65 người và hiện nay theo số liệu ngày 31/12/2001 chỉ còn lại 60 người. Những người làm việc tại Công Ty Tài Chính Bưu Điện ngoài ba chức danh được bổ nhiệm là: Giám đốc, phó giám đốc, và kế toán trưởng thì những người còn lại nói chung đều làm việc theo hợp đồng có thời hạn từ một năm đến ba năm. ngoài ra còn có một số ít người làm theo hợp đồng mùa vụ (bảo vệ). Những người vào làm việc tại công ty thường được tuyển chọn theo nguyên tắc tuyển dụng được đào tạo theo chức danh có kỹ năng nghề nghiệp. Vì vậy nhân sự của công ty làm việc ở đây đều được qua đào tạo chính qui làm đúng nghề được đào tạo và tiếp tục đào tạo theo chuyên nghành cụ thể khi làm việc tại công ty hiện nay theo số liệu ngày 31/12/2001 thì công ty có 60 nhân viên trong đó có một tiến sĩ, 7 thạc sĩ, 46 cử nhân, hai kỹ sư và bốn nhân viên chưa qua đào tạo. độ tuổi trung bình của nhân viên là 30 tuổi, tiền lương bình quân của mỗi công nhân viên trong công ty trong năm 2001 là 1,96 triệu đồng. 2. Các quyền và nghĩa vụ phát sinh trong kinh doanh. Công Ty Tài Chính Bưu Điện là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng nên phải chấp hành pháp luật về ngân hàng, luật doanh nghiệp nhà nước và luật tổ chức tín dụng đồng thời phải chấp hành các thông lệ quốc tế về hoạt động của ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Công ty Tài chính Bưu Điện có các quyền và nghĩa vụ sau: Theo điều 25 quyết định số 1627/2001/ QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế cho vay đối với khách hàng. Tổ chức tín dụng có quyền. Yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi, dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn không có khả thi, không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc tổ chức tín dụng không có đủ nguồn vốn để cho vay. - Kiểm tra giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng. - Chấm dứt việc cho vay thu hồi nợ trước hạn khi khách hàng khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng. - Khởi kiện khách hàng hoặc người bảo lãnh vi phạm hợp đồng tín dụng theo qui định của pháp luật. - Khi đến hạn trả nợ mà khách hàng không trả nợ, nếu các bên không có thoả thuận khác thì tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản bảo đảm vốn vay theo sự thoả thuận trong hợp đồng để thu hồi nợ theo qui định của pháp luật hoặc yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với trường hợp khách hàng được bảo lãnh vay vốn. Miễn giảm lãi vốn vay, gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, theo qui định của qui chế này; mua bán nợ theo qui định của Ngân Hàng Nhà Nước và thực hiện việc đảo nợ, xoá nợ theo qui định của chính phủ và hướng dẫn của ngân hàng nhà nước Việt Nam. Ngoài ra công ty có quyền xác định mức tín dụng cho mỗi khách hàng, xác định tỷ lệ hoa hồng, lệ phí, tiền phạt trong các hoạt động dịch vụ. Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng Thực hiện đúng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Lưu trữ hồ sơ tín dụng phù hợp với qui định của pháp luật. 3.Kết quả hoạt động kinh doanh. Tuy mới thành lập và hoạt động vào ngày 25/11/1998 nhưng từ năm 1999 đến nay Công Ty Tài Chính Bưu Điện đã có một bước nhảy vượt bậc đó là sự cố gắng hết mình của ban giám đốc cũng như các thành viên của công ty, biểu hiện cụ thể cho những cố gắng đó là các chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước đều hoàn thành và vượt mức kế hoạch như năm 1999 kế hoạch về chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế là 353,6 triệu nhưng công ty đã thực hiện được 959,38 triệu đồng đạt 271,32% và các khoản nộp ngân sách trong năm 1999 theo kế hoạch là 172,45 triệu đồng nhưng công ty đã thực hiện được 466,64 triệu đồng đạt 270,59%. Trong năm 2000 kế hoạch là 203,97 triệu đồng nhưng trong thực tế thì công ty thực hiện được 422,46 triệu đồng đạt 207,12 triệu đồng các khoản nộp ngân sách trong năm 2000 theo kế hoạch 214,71 triệu đồng nhưng thực hiện được 305,18 triệu đồng đạt 142,11% còn trong năm 2001 kế hoạch về lợi nhuận ròng của công ty là 404 triệu đồng nhưng trong khi thực hiện công ty thu được 518,47 triệu đồng đạt 128,33% và các khoản nộp ngân sách theo kế hoạch là 400,85 triệu đồng nhưng công ty đã thực hiện được 413,13 triệu đồng đạt 103,06%. Tuy hai chỉ tiêu cơ bản là lợi nhuận sau thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước đạt và vượt mức kế hoạch thì cũng còn một số chỉ tiêu khác không đạt như chỉ tiêu về doanh thu và chi phí trong năm 1999 không đạt cụ thể kế hoạch về doanh thu 6706 triệu đồng nhưng chỉ thực hiện được 5927,06 triệu đồng giảm 11,62% so với kế hoạch và tổng chi phí theo kế hoạch 6186 triệu đồng nhưng thực hiện chỉ đạt ở mức 4516,21 triệu đồng tương ứng giảm 26%. Từ những số liệu trên cũng cho chúng ta thấy một điều rằng tuy hàng năm công ty vẫn đạt được chỉ tiêu kế hoạch nhưng số lượng vượt mức lại không đáng kể. Nguyên nhân nào đã dẫn đến sự giảm sút đó? Một trong những nguyên nhân chính là vì trong năm 1999 thì hoạt động của công ty chủ yếu là gửi tiền vào ngân hàng và thăm dò thị trường thì trong những năm 2000, năm 2001 công ty bắt đầu thực hiện nghiệp vụ của mình nhiều hơn năm 1999 như: Nghiệp vụ huy động vốn, tư vấn cho khách hàng, cũng cho các doanh nghiệp khác, đầu tư cho vay, pháp tín phiếu, nhận uỷ thác v v Nhưng những khoản lợi nhuận thu từ hoạt động này lại không mang lại lợi nhuận trong năm 1999 và 2000 mà cho những năm 2001,2002. Mặt khác, mô hình công ty tài chính lại là một mô hình mới do vậy ngoài những văn bản hiện hành như: Luật ngân hàng, luật tổ chức tín dụng…thì không có một văn bản cụ thể nào đặc biệt không có văn bản về quy chế về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính. Do đó những văn bản hiện hành hiện nay khi đtôi vào áp dụng thường bị chồng chéo dẫn đến vấn đề khó khăn cho công ty trong việc vạch ra các chiến lược để hoạt động. Bảng tổng kết kết quả kinh doanh của công ty từ 1999 đến 2001(trang sau) Tổng công ty Bưu Chính Viễn Thông Việt Nam Công ty Tài Chính Bưu Điện. Bảng tổng hợp kết quả kinh doanh Đơn vị tính: triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 KH TH % KH TH % KH TH % 1 Doanh thu 6706 5927,06 88,38 5946,82 6240,78 104,97 16700 16719,35 100,12 2 Chi phí 6186 4516,21 73,01 5529 5619,52 101,64 16105 15957,73 99,09 3 Lợi nhuận TT 520 1410,85 271,32 299,96 612,26 207,12 595 761,62 128 4 Lợi nhuận ST 353,6 959,38 271,32 203,97 422,46 207,12 404 518,47 128,33 5 Các khoản NNS 172,45 466,64 270,59 214,71 305,18 142,11 400,85 413,13 103,06 Thuế VAT 5,2 117,87 92,17 78,19 210 162,23 77,25 Thuế TNDN 166,4 451,47 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0029.doc