Thực tiễn kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng (Tr 80)

Lời nói đầu Ngày nay, xu hướng quốc tế hoá trong quan hệ giao lưu giữa các quốc gia diễn ra nhanh chóng, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Sự phát triển của các tập đoàn, các công ty xuyên quốc gia, đã khẳng định rõ hơn và đánh dấu bước ngoặt mới trong xu hướng quan hệ quốc tế này. Hoà chung xu thế quốc tế hoá đó, Việt Nam đã có nhiều chính sách kinh tế đối ngoại mới nhằm đẩy mạnh nền kinh tế trong nước, tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia một cách tích cực

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1389 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực tiễn kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng (Tr 80), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vào thị trường thế giới. Trong khi nền kinh tế nước ta còn nghèo và lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thì kinh tế ngoại thương có vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Nó sẽ thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư vào Việt Nam tạo cơ hội hợp tác kinh doanh đối với các doanh nghiệp trong nưóc, đồng thời tạo việc làm với thu nhập cao cho người lao động, thúc đảy một loạt các ngành dịch vụ trong nước phát triển. Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thì hoạt động nhập khẩu giữ vai trò quan trọng. Nó góp phần thúc đẩy nền sản xuất trong nước phát triển, trang bị cơ sở vật chất kĩ thuật cho nền kinh tế, phát huy tính hiệu quả của hoạt động kinh tế. Chúng ta thực hiện nhập khẩu những mặt hàng không sản xuất được ở trong nước hoặc sản xuất được nhưng với chi phí cao hơn so với nhập khẩu. Bên cạnh đó, Nhà nước ta đã ban hành một loạt những văn bản pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực này, đơn giản hoá thủ tục nhập khẩu, hạ thuế suất đối với một số mặt hàng nhập khẩu. Đó là những thay đổi rất đáng ghi nhận, chính sự thay đổi này đã tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham vào vào hoạt động nhập khẩu. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, qua quá trình tìm hiểu thực tiễn, cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy Ths. Đinh Hoài Nam và cô Ths. Nguyễn Thu Ba tôi đã chọn đề tài: "Thực tiễn kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng". Chuyên đề tốt nghiệp gồm 3 chương: Chương I: Những quy định của pháp luật về hợp đồng nhập khẩu. Chương II: Thực tiễn kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng. Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ kí kết và thực hợp đồng nhập khẩu. Với phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp so sánh, đối chiếu. Song trong quá trình nghiên cứu chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô trong khoa để đề tài được hoàn thiện hơn. Chương I Chế độ pháp lý về hợp đồng nhập khẩu I. Chế độ pháp lý về hợp đồng nhập khẩu 1. Vai trò của nhập khẩu Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế của chúng ta lâm vào tình trạng kiệt quệ, tụt hậu so với thế giới hàng vài thập kỉ. Thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế của Đảng từ cuối những năm 80, nền kinh tế của chúng ta đã từng bước vực dậy đi lên và phát triển dần đuổi kịp các nước trong khu vực và thế giới. Thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế đã đưa đất nước ta phát triển về mọi mặt. Trong đó phải kể đến sự thay đổi về quan điểm chính trị đường lối lãnh đạo thông thoáng hơn không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà trên phạm vi toàn thế giới. Chúng ta thực hiện quan hệ đối thoại với tất cả các nước trên thế giới về mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… Trong chính sách kinh tế đối ngoại thì hoạt động nhập khẩu giữ vai trò quan trọng. Nó là một mảng hoạt động chính trong việc thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại. Chúng ta tiến hành nhập khẩu những mặt hàng, công nghệ có vai trò tích cực nhằm thúc đẩy nền kinh tế trong nước trong khi chúng ta không đủ điều kiện để sản xuất hoặc sản xuất với chi phí cao hơn giá nhập khẩu những mặt hàng công nghệ đó. Hoạt động nhập khẩu sẽ tạo điều kiện cho các công ty trong nước tham gia vào quá trình phânghiên cứuông lao động và hợp tác quốc tế. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tự khẳng định mình trong quá trình tham gia vào quan hệ kinh tế quốc tế giữa các công ty Việt Nam với các công ty nước ngoài. Hoạt động nhập khẩu giúp chúng ta tiết kiệm được thời gian, cũng như chi phí nghiên cứu để sản xuất ra một mặt hàng nào đó trong nền kinh tế của chúng ta còn nghèo nàn, trình độ khoa học công nghệ còn lạc hậu. Mặt khác, nếu thị trường trong nước tiêu thụ sản phẩm đó không đủ lớn thì viễc sản phẩm đó sẽ không đủ bù đắp chi phí bỏ ra nghiên cứu và xây dựng cơ sở hạ tầng. Như vậy việc chúng ta tiến hành nhập khẩu sản phẩm đó sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với sản xuất trong nước. Thông qua hoạt động nhập khẩu sẽ tạo nhiều cơ hội làm ăn hơn cho các công ty trong nước, thu hút bộ phận lớn lao động tham gia vào lĩnh vực này, góp phần giải quyết việc làm hạn chế tình trạng dư thừa lao động trong nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, thông qua hoạt động nhập khẩu các công ty Việt Nam có điều kiện cọ sát học hỏi kinh nghiệm quản lý kinh tế của các công ty lớn trên thế giới, từ đó sẽ dần thay đổi cách thức quản lý kinh tế của các công ty Việt Nam mà chúng ta vẫn quen quản lý kinh tế theo phương pháp thủ tục hành chính, rườm rà, trì trệ. Vì vậy hoạt động nhập khẩu sẽ sớm góp phần giúp chúng ta thực hiện thành công sự nghiệp công nhiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. 2. Quản lý Nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu 2.1. Các quy định về hàng nhập khẩu Theo Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài. Chính phủ có quy định về loại hàng hoá cấm nhập khẩu và loại hàng hoá nhập khẩu có điều kiện. Về danh mục cụ thể của các loại hàng hoá này được quy định cụ thể trong Thông tư số 11/2001/TT-BTM ngày 18/4/2001 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ngày 04/4/2001 của Thủ tướng chính phủ về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001-2005. Hàng hoá nhập khẩu có điều kiện bao gồm: - Hàng hoá nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại. Với những loại hàng hoá này doanh nghiệp trước khi nhập khẩu phải xin phép và được sự đồng ý cấp phép của Bộ Thương mại thì mới được tiến hành nhập khẩu. - Hàng hoá nhập khẩu thuộc diện quản lý chuyên ngành. Căn cứ vào yêu cầu cần thiết của từng ngành trong quá trình quản lý. Thì các ngành có thể nhập khẩu loại hàng hoá thiết yếu để dùng vào việc quản lý của ngành mình, với điều kiện những loại hàng hoá này không nằm trong danh mục về loại hàng hoá cấm nhập khẩu. - Hàng hoá nhập khẩu theo quy định riên của Thủ tướng Chính phủ. Trong tuỳ trường hợp cụ thể để phục vụ cho mục đích an ninh, quốc phòng, kinh tế… Thủ tướng sẽ có quyết định riêng để nhập khẩu một loại hàng hoá cụ thể: Mặt khác theo quy định hiện hành thì việc nhập khẩu các loại hàng hoá, máy móc cũ đã qua sử dụng thì phải đảm bảo giá trị sử dụng còn trên 80% và không gây ảnh hưởng xấu tới môi trường. 2.2. Chế độ giấy phép Giấy phép nhập khẩu là tiền đề quan trọng về mặt pháp lý để tiến hành các khâu khác trong mỗi chuyến hàng nhập khẩu. Thủ tục xin phép nhập khẩu phụ thuộc phần lớn cơ chế quản lý mặt hàng nhập khẩu. Căn cứ theo Thông tư số 11/2001/TT-BTM quy định về danh mục những hàng cấm nhập khẩu, hàng nhập khẩu quản lý bằng hạn ngạch, hàng nhập khẩu có giấy phép, hàng nhập khẩu theo quản lý chuyên ngành. Đối với mặt hàng nhập khẩu chịu sự quản lý bằng hạn ngạch, sau khi nhận được công văn phân bổ bằng hạn ngạch, sau khi nhận được công văn phân bổ bằng hạn ngạch chủ hàng nhập khẩu tới Bộ Thương mại xin giấy phép nhập khẩu. Đơn xin phép cần kèm với phiếu hạn ngạch, bản sao hợp đồng nhập khẩu hoặc L/C hoặc giấy tờ khác có liên quan đến hàng nhập khẩu. Đối với các mặt hàng nhập khảu không chịu sự quản lý bằng hạn ngạch thì sẽ có quy định đối với 2loại hàng hoá. - Nếu hàng nhập khẩu là hàng hoá thông thường, khi nhập khẩu doanh nghiệp không cần phải xin giấy phép nhập khẩu. - Nếu là hàng quan trọng có ảnh hưởng đến nền kinh tế trong nước thì việc nhập khẩu hàng đó phải xin giấy phép nhập khẩu. - Hiện nay việc cấp giấy phép nhập khẩu ở nước ta được phân công như sau: + Phòng cấp giấy phép thuộc Bộ Thương mại có quyền cấp những giấy phép về nhập khẩu hàng mậu dịch. + Tổng cục Hải quan có quyền cấp những giấy phép về nhập khẩu hàng phi mậu dịch. Đơn xin cấp giấy phép và các chứng từ đính kèm theo được chuyển đến phòng cấp giấy phép của Bộ Thương mại, sau 3 ngày kể từ ngày nhận đơn đó, Phòng cấp giấy phép phải trả lời kết quả. 2.3. Thủ tục hải quan Đối với hàng hoá khi nhập khẩu vào Việt Nam thì doanh nghiệp nhập khẩu phải làm thủ tục Hải quan cho hàng hoá nhập khẩu đó. Về thủ tục hải quan hiện nay được quy định rõ trong Luật Hải quan được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2001. Khi làm thủ tục hải quan, người khai hải quan phải: + Khai và nộp tờ khai hải quan, nộp, xuất trình chứng từ thuộc hồ sơ hải quan. + Đưa hàng hoá, phương tiện vận tải đến địa điểm được quy định cho việc kiểm tra thực tế hàng hoá, phương tiện vận tải. + Nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo đúng quy định của pháp luật. Địa điểm làm thủ tục hải quan là trụ sở hải quan cửa khẩu, trụ sở hải quan ngoài cửa khẩu. Trong trường hợp cần thiết, việc kiểm tra thực tế hàng hoá nhập khẩu có thể được thực hiện tại địa điểm khác do Tổng cục Hải quan quy định. Người khai hải quan phải nộp hồ sơ hải quan gồm có: + Tờ khai Hải quan + Hoá đơn Thương mại + Hợp đồng mua bán hàng hoá + Giấy phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với hàng hoá nhập khẩu. + Các chứng từ khác theo quy định của pháp luật đối với từng mặt hàng nhập khẩu cụ thể mà người khai hải quan phải nộp xuất trình cho cơ quan Hải quan. Hồ sơ hải quan được nộp, xuất trình cho cơ quan hải quan tại trụ sở hải quan. Trong trường hợp có lý do chính đáng, được Chi cục trưởng Hải quan cửa khẩu hoặc Chi cục trưởng hải quan địa điểm làm thủ tục hải quan ngoài cửa khẩu đồng ý, người hải quan được gia hạn thời gian phải nộp, xuất trình một số chứng từ thuộc hồ sơ hải quan, bổ sung, sửa chữa thay thế tờ khai hải quan đã đăng kí đến trước thời điểm kiểm tra thực tế hàng hoá, phương tiện vận tải. 2.4. Chế độ kiểm tra, giám sát hoạt động nhập khẩu Cơ quan Hải quan tiến hành kiểm tra hàng hoá về số lượng, tên hàng, phẩm cấp hàng xem có phù hợp với hợp đồng nhập khẩu hay không. Trách nhiệm kiểm tra hàng hoá nhập khẩu thuộc quyền cơ quan Hải quan. Trong trường hợp theo quy định của pháp luật phải kiểm tra chuyên ngành về chất lượng, y tế, văn hoá, kiểm dịch động vật, thực vật đối với hàng hoá nhập khẩu thì sẽ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra chuyên ngành thực hiện. Chi cục trưởng Hải quan sẽ chủ trì phối hợp với các cơ quan Nhà nước cơ thẩm quyền kiểm tra chuyên ngành tại cửa khẩu để đảm bảo thông qua nhanh chóng hàng hoá nhập khẩu. Đồng thời Chính phủ sẽ quy định cụ thể về trách nhiệm và quan hệ phối hợp của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tại cửa khẩu. Việc giám sát hoạt động nhập khẩu do cơ quan Hải quan thực hiện và việc giám sát được thực hiện bằng các phương thức sau: + Niêm phong hải quan bằng các phương tiện kỹ thuật khác. + Giám sát trực tiếp do công chức hải quan thực hiện. Chủ hàng nhập khẩu hoặc người đại lý làm thủ tục hải quan có nghĩa vụ đảm bảo nguyên trạng hàng hoá và niêm phong hải quan. Trong trường hợp bất khả kháng mà không giữ được nguyên trạng hàng hoá hoặc niêm phong hải quan thì sau khi áp dụng biện pháp cần thiết để ngăn ngừa tổn thất có thể xảy ra, phải báo ngay với cơ quan Hải quan hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi gần nhất để xác nhận. II. khái quát chung về hợp đồng nhập khẩu 1. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng nhập khẩu Chúng ta đều biết rằng hợp đồng nhập khẩu chính là hợp đồng mua bán hàng hoá với nước ngoài. Nó là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm xác định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào việc kí kết mua bán hàng hoá với các tổ chức, công ty nước ngoài. Theo Điều 1 Công ước La Haye 1964 về mua bán quốc tế những tài sản hữu hình đã định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế như sau: "Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng trong đó các bên ký kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, hàng hoá được chuyển từ nước này sang nước khác, hoặc việc trao đổi ý chí kí kết hợp đồng giữa các bên kí kết được thiết lập ở các nước khác nhau. Tại quy chế tạm thời của Bộ Thương mại số 4794/TN-XNK ngày 31/7/1991 thì khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế cũng được quy định: "là những cam kết giữa một bên là tổ chức XNK Việt Nam với một bên là khách hàng nước ngoài nhằm thiết lập, thay đổi, đình chỉ mối quanhệ nghĩa vụ và quyền lợi trong lĩnh vực mua bán, trao đổi hàng hoá, mua bán phát sinh sáng chế và bí quyết kỹ thuật, cung ứng dịch vụ gia công…" Khi Luật Thương mại 1997 ra đời thì khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế cũng chưa được định nghĩa rõ ràng. Như vậy có thể thấy, hiện nay chưa có một khái niệm thống nhất về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Việc dẫn chiếu đến khái niệm này vẫn cần thiết phải dựa trên các căn cứ pháp lý là các nguồn luật khác nhau điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế hay hợp đồng nhập khẩu có một số đặc điểm chính sau: + Chủ thể của hợp đồng là các bên có quốc tịch khác nhau và có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau. + Hàng hoá, đối tượng của hợp đồng được di chuyển từ nước này sang nước khác. + Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải là ngoại tệ đối với một hoặc hai bên ký kết hợp đồng. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải có nội dung chủ yếu sau: + Tên hàng + Số lượng + Quy cách, chất lượng + Giá cả + Phương thức thanh toán + Địa điểm và thời hạn giao nhận hàng hoá Nếu thiếu một trong các nội dung chủ yếu trên thì hợp đồng coi như vô hiệu. Ngoài các nội dung chủ yếu trên các bên có thể thoả thuận các nội dung khác nhau phù hợp với điều kiện, khả năng của các bên và không trái với những quy định của pháp luật. 2. Nguồn luật điều chỉnh Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu hàng hoá, các bên tham gia phải thoả thuận lựa chọn nguồn luật cụ thể để điều chỉnh hợp đồng. Nguồn luật sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo việc thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng. Đồng thời nó còn là cơ sở để giải quyết những tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng giữa các bên. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng nhập khẩu hàng hoá có thể là các Điều ước quốc tế, tập quán thương mại quốc tế, Luật quốc gia. 2.1. Các điều ước quốc tế về thương mại Có hai loại Điều ước quốc tế điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế Thứ nhất là các Điều ước quốc tế quy định những nguyên tắc pháp lý chung, mang tính chỉ đạo đối với các hành vi thương mại. Ví dụ như Hiệp định GATT/WTO quy định về quy chế Tối huệ quốc và Quy chế đãi ngộ quốc gia. Thứ hai là các Điều ước Quốc tế quy định trực tiếp các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế. Tiêu biểu là Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, được kí ngày 1/1/1980. Công ước này quy định về thủ tục kí kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, quyền và nghĩa vụ của các bên khi thực hiện hợp đồng và trách nhiệm của các bên khi vi phạm hợp đồng dẫn đến tranh chấp. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, các Điều ước quốc tế mà Chính phủ Việt Nam tham gia kí kết hoặc phê chuẩn thì sẽ được áp dụng trong hoạt động thương mại. Khi các công ty của Việt Nam tham gia vào các hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế. Còn các Điều ước quốc tế mà Chính phủ Việt Nam không tham gia kí kết hoặc phê chuẩn thì không có giá trị bắt buộc đối với các chủ thể khi tham gia hoạt động thương mại quốc tế trừ khi các Điều ước quốc tế này được các bên tham gia thoả thuận dẫn chiếu trong hợp đồng dùng làm nguồn để điều chỉnh hợp đồng. Cũng theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam thì nước ta có hai phương thức áp dụng Điều ước quốc tế về thương mại. Thứ nhất, đối với các Điều ước quốc tế về thương mại mà nhà nước ta đã tham gia kí kết hoặc phê chuẩn thì sẽ áp dụng các Điều ước quốc tế. Thứ hai, đối với các Điều ước quốc tế mà Nhà nước ta chưa tham gia hoặc công nhận thì chỉ có thể áp dụng các điều không trái với pháp luật Việt Nam và có quyền bảo lưu không áp dụng những quy luật nào trái với pháp luật nước ta. 2.2. Các tập quán quốc tế về thương mại Sự giao lưu, buôn bán thương mại giữa các quốc gia đã có từ rất lâu. Qua quá trình quan hệ thương mại đó đã hình thành các thói quen về thương mại. Những thói quen này đã chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi bên khi tham gia vào việc mua bán hàng hoá quốc tế. Ban đầu những thói quen thương mại này chỉ có tác dụng điều chỉnh trong phạm vi một khu vực nhất định dần nó được phổ biến trên phạm vi toàn thế giới. Những thói quen thương mại này chính là những tập quán quốc tế về thương mại. Khi các chủ thể dẫn chiếu chúng trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, nó sẽ trở thành nguồn luật điều chỉnh đối với các hợp đồng giữa các chủ thể đó với nhau. Một tập quán thương mại quốc tế được phổ biến nhất hiện nay là các điều kiện thương mại về quốc tế (Incoterms) được phòng Thương mại quốc tế hệ thống hoá từ năm 1973 và được biên soạn 10 năm 1 lần. Phiên bản gần đây nhất là Incoterms 2000 gồm 4 nhóm 13 điều kiện thương mại khác nhau, nó là cơ sở pháp lý cho các giao dịch quốc tế về thương mại. Tuy nhiên, Incoterms chỉ giải quyết 4 vấn đề trong một giao dịch quốc tế gồm: + Thời điểm chuyển giao rủi ro từ người bán sang người mua. + Bên nào trong hợp đồng có trách nhiệm lo liệu các chứng từ hải quan đối với hàng hoá, phương tiện vận tải. + Bên có nghĩa vụ trả chi phí vận chuyển hàng hoá + Bên có nghĩa vụ chịu chi phí bảo hiểm. Các tập quán quốc tế về thương mại cũng chỉ được áp dụng khi trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có dẫn chiếu sẽ áp dụng nó. Hoặc khi được quy định trong các Điều ước quốc tế có liên quan, khi Luật quốc gia không quy định hoặc có quy định không đầy đủ các chế định cần thiết để điều chỉnh các quan hệ hợp đồn thương mại giữa các bên. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế thì cũng có thể chọn các tập quán được quy định trong Incoter làm cơ sở để kí kết hợp đồng. 2.3. Tiền lệ pháp (án lệ) về thương mại quốc tế. Tiền lệ pháp về thương mại quốc tế là các quy tắc pháp luật hình thành thông qua thực tiễn xét xử các vụ tranh chấp thương mại quốc tế của toà án. Tuy nhiên việc áp dụng tiền lệ pháp phụ thuộcvào hệ thống luật pháp của từng nước. Tại các nước theo hệ thống luật Anh - Mỹ, các toà án cóthể sử dụng những phán duyệt của toà án đã được công bố từ các bản án trước để làm khuôn mẫu áp dụng cho việc giải quyết các tranh chấp, các vụ việc tương tự. ở Việt Nam , tiền tệ pháp không được công nhận là nguồn luật điều chỉnh, nhưng do các văn bản luật và dưới luật của Nhà nước quy định chưa đầy đủ, chi tiết nên việc giải quyết tranh chấp thương mại có thể dựa vào thông tư liên tịch, giữa toà án nhân dân tối cao với viện kiểm sát nhân tối cao. 2.4. Luật quốc gia Các bên trong quan hệ giao dịch thương mại quốc tế có thể thoả thuận dẫn chiếu Luật của một nước bất kỳ để điều chỉnh các giao dịch của mình. Luật quốc gia cũng có thể trở thành Luật điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể khi nước họ là thành viên của một Công ước quốc tế có liên quan mà Công ước này dẫn chiếu đến việc áp dụng Luật của một nước thành viên của Công ước đó: Trong thực tế các bên thường lựa chọn Luật quốc cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là Luật của các bên bán hoặc của nước bên mua, cũn có thể là Luật của một nước thứ ba có mối quan hệ tới việc mua bán hàng hoá quốc tế như Luật của nước là nơi kí kết hợp đồng hoặc nơi thực hiện hợp đồng hoặc nơi mà phần lớn đối tượng của hợp đồng nằm ở nước đó. Việc thoả thuận lựa chọn Luật quốc gia áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là một vấn đề phức tạp. Nó phụ thuộc về sự hiểu biết của mỗi bên về luật của nước đó. Do đó trong quá trình đàm phán kí kết hợp đồng, các bên cần thoả thuận đưa vào hợp đồng điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng. Để tránh rủi ro, các chủ thể kí kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế cần phải thông thạo luật pháp của nước mình và cần am hiểu luật pháp của nước kí kết hợp đồng với mình, luật pháp nước có liên quan đồng thời phải biết rõ mối quan hệ giữa hợp đồng được kí kết với Luật điều chỉnh nó. 4. Các nhân tố tác động tới việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu 4.1. Tình hình kinh tế Việt Nam Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế cảu nước ta từ kế hoạch hoá tập trung quanliêu bao cấp sang kinh tế thị trường đã tác động sâu sắc đến hoạt động xuất nhập khẩu. Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế do Đại hội VI (1986)của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra, kinh tế đối ngoại đã được coi là một "mũi nhọn" của sự đổi mới. Ngoại thương Việt Nam được coi là một trong 3 chương trình kinh tế trọng điểm. Thị trường được mở rộng các chủ thể kinh tế thuộc các thành phần kinh tế cùng tham gia tích cực vào hoạt động xuất nhập khẩu, tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường. Hàng hoá được tự do lưu thông, tình trạng độc quyền bị hạn chế, các quy luật kinh tế phát huy tác dụng. Các doanh nghiệp được tự do tìm kiếm thị trường và đối tác nhập khẩu, do đó hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng lên đánh kể. Từ vài chục đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu, đến nay đã có hàng ngàn đơn vị trực tiếp quan hệ xuất nhập khẩu với thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam còn chậm phát triển. Hệ thống ngân hàng của ta chưa phát triển đòi hỏi phải được cải tổ để bắt kịp với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Thêm vào đó, các doanh nghiệp của ta do mới bước vào thương trường quốc tế nên còn thiếu kinh nghiệm nên rất dễ bị đối tác nước ngoài lợi dụng khi đàm phán, ký kết và thực hợp đồng. 4.2.Việc gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế. * ASEAN: sau khi trở thành thành viên của Hiệp hội của nước Đông Nam á năm 1995, ngoài việc ký kết các Hiệp định, Nghị định thư hợp tác ASEAN nói chung, nước ta đã tham gia vào khu vực mậu dịch tự do AFTA với nội dung chính là thực hiện chương trình ưu đãi thuế Tuy nhiên, do hầu hết các doanh nghiệp nước ta hiện nay có qui mô nhỏ, lại phải đối mặt với sức ép cạnh tranh tăng lên từ các nước thành viên ASEAN khác khi không còn bảo hộ bằng các biện pháp thuế và cũng ảnh hưởng tới việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. * APEC - diễn đán hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương Việt Nam tham gia vào APEC tháng 11/1998 là một bước phát triển hợp lý và tất yếu trong việc mở rộng đa dạng hoá, đa phương hoá để phát triển đất nước. Mặc dù có những thuận lợi nhưng trong quá trình tham gia vào APEC chúng ta cũng phải đối mặt với số lượng hạn chế với giá thành cao mà chất lượng và mẫu mã chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế. Do đó, chúng ta phải nhập khẩu hàng hoá với số lượng lớn. Chúng ta đã và trở thành thị trường tiêu thụ hàng ngoại nhập. Nước ta hiện nay chưa phải là thành viên của tổ chức thương mại quốc tế (WTO) - môt công cụ thương mại đa biên quan trọng nhất để điều chỉnh nền thương mại quốc tế. Các Hiệp định mà GATT/WTO đã thảo luận về các cam kếtư của các nước thành viên về tiêu chuẩn kỹ thuật trong thương mại, cấp giấy phép nhập khẩu, Hải quan chóng bán phá giá, trao đổi thương mại dịch vụ về hàng không dân dụng, du lịch, viễn thông. Hiện nay, nước ta chưa có một hệ thống luật phù hợp để vận hành hệ thống thương mại phù hợp với các lĩnh vực của WTO điều chỉnh như Luật vê quyền sở hữu trí tuệ, Luật ngân hàng, Luật bảo hiểm, luật viễn thông và các chế định khắc phục rủi ro trong hoạt động thương mại. Điều này cũng ảnh hưởng lớn tới việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu ở nước ta. 4.3. Nhân tố pháp luật. Đây là nhân tố mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải nắm ro và tuân theo một cách vô điều kiện, bởi vì nó không chỉ bảo vệ lợi ích chung của các bên mà còn thể hiện đường lối chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước. Hoạt động nhập khẩu được tiến hành giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau, bởi nó chịu sự tác động của chính sách, chế độ, pháp luật ở *** quốc gia. Chẳng hạn lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam, đã ngăn căn ** thương nhân Mỹ buôn bán với thương nhân Việt Nam., hạn chế rất lớn ** lượng hàng nhập khẩu cần thiết từ Mỹ vào các nước đồng minh vào Việt Nam. Sau khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam thì quan hệ thương mại hai chia đã tăng lên nhanh chóng. Mặt khác, hợp đồng nhập khẩu chịu sự điều tiết vĩ mô của nhà nước Nhà nứoc đưa ra danh sách các mặt hàng được phép nhập khẩu để bảo hộ nếu sản xuất trong nước. Nhà nước cũng đưă ra chính sách hạn chế hay khuyến khích nhập khẩu thông qua chính sách thuế và quốc ta... Có thể nói rằng đây là nhân tố tác động mạnh mẽ tới hoạt động nhân khẩu, nó quyết định về số lượng cũng như về chất lượng của hoạt động nhân khẩu. III. Chế độ kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu 1. Chế độ kí kết hợp đồng nhập khẩu Trước khi kí kết hợp đồng nhập khảu chủ thể của hợp đồng cần nắm rõ quy định của pháp luật về điêù kiện có hiệu lực của hợp đồng. 1.1. Điều kiện hiệu lực của hợp đồng Luật dân sự của hầu hết các nước đều quy định hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế muốn có hiệu lực phải có đủ 4 điều kiện sau: Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải hợp pháp. Pháp luật của các nước đều quy định chủ thể tham gia kí kết hợp đồng có thể là thể nhân hoặc pháp nhân. Về nguyên tắc, chủ thể của hợp đồng phải là chủ thể có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Theo quy định trong Bộ Luật dân sự Việt Nam, năm 1996 thì "người đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên, người chưa đủ 18 tuổi là người chưa đủ thành niên". Trong Điều 21 quy định "Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ trừ trường hợp quy định tại Điều 24 và 25 của Bộ luật này" Theo điều 94 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995 thì một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau: + Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận. + Có cơ cấu tổ chức bộ máy chặt chẽ + Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. + Nhân danh mình để tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Pháp luật Việt Nam quy định, trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, chủ thể bên Việt Nam phải là thương nhân được phép hoạt động thương mại trực tiếp với nước ngoài. Hiện nay, các chủ thể tham gia vào quan hệ kinh doanh rất đa dạng, nhưng chỉ có các cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng kí kinh doanh hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên, được cho phép hoạt động thương mại trực tiếp với nước ngoài có đủ tư cách làm chủ thể của hai hợp đồng này. Thứ hai, hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải hợp pháp. Điều 81 khoản 4 Luật Thương mại Việt Nam quy định "Hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài phải được lập thành văn bản". Như vậy theo pháp luật Việt Nam thì hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải được lập thành văn bản thì mới có giá trị pháp lý. Mọi thoả thuận bằng lời nói đều không có hiệu lực pháp luật. Việc kí kết hợp đồng dưới hình thức văn bản sẽ được đảm bảo việc thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa của hai bên. Nó xác định rõ ràng quyền lợi và nghĩa vụ của bên mua và bên bán, tránh được những hiểu lầm do không thống nhất về quan điểm, nó tạo điều kiện cho các bên khi thực hiện hợp đồng đã kí kết. Thứ ba, nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải chứa đựng những điều khoản chủ yếu. Theo Điều 50 Luật Thương mại Việt Nam quy định các điều khoản chủ yếu trong hợp đồng bao gồm: Tên hàng, số lượng, quy cách, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời gian và địa điểm giao hàng. Ngoài các nội dung chủ yếu trên các bên có thể thoả thuận đưa thêm vào hợp đồng những điều khoản khác phù hợp với khả năng của từng bên miễn là không trái với quy định của pháp luật. Thứ tư, hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải được kí kết trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện. Các bên khi tham gia kí kết hợp đồng phải hoàn toàn bình đẳng, tự nguyện kí kết, tự do thoả thuận mọi vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong phạm vi giới hạn pháp luật cho phép. Những hợp đồng được kí kết trong trường hợp có sử dụng bạo lực để đe doạ hoặc có sự lừa bịp thì những hợp đồng đó sẽ không có giá trị về mặt pháp lý. Một hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thoả mãn đầy đủ 4 điều kiện trên thì mới có hiệu lực thi hành và được pháp luật đảm bảo thi hành. 1.2. Trình tự kí kết hợp đồng Trình tự kí kết hợp đồng nhập khẩu phụ thuộc vào tình hình điều kiện của hai bên khi tham gia hợp đồng. Nếu các bên trực tiếp gặp nhau để đàm phán thì việc kí kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được diễn ra đơn giản hơn. Khi các bên thống nhất với nhau về các vấn đề đưa ra đàm phán và cùng kí vào bản thoả ước hợp đồng thì hợp đồng được coi là có hiệu lực pháp luật từ lúc hai bên cùng kí vào hợp đồng. Như vậy ở trường hợp này thì trình tự kí kết của hợp đồng sẽ gồm có đàm phán và kí kết. Nếu các bên không có điều kiện trực tiếp gặp nhau để đàm phán thì trình tự kí kết hợp đồng sẽ bắt đầu từ lúc một bên gửi đơn chào hàng hoặc đơn đặt hàng tới bên đối tác. Sau đó bên nhận chào hàng hoặc bên nhận đơn đặt hàng sẽ xem xét để chấp nhận hay bác lại đề nghị của bên kia. Trong trường hợp này thì trình tự kí kết hợp đồng được chia làm hai giai đoạn sau: + Giai đoạn đề nghị kí kết hợp đồng + Giai đoạn chấp nhận đề nghị kí hợp đồng Khi một bản chào hàng đã được chấp nhận vô điều kiện thì hợp đồng được coi là đã kí kết. 1.3. Những điều khoản chủ yếu của hợp đồng Điều 50 Luật thương mại Việt Nam quy định nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế gồm các điều khoản sau: + Tên hàng +Số lượng +Quy cách- chất lượng +Giá cả +Phương thức thanh toán +Địa điểm và thời hạn giao nhận hàng Do trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có một bên là phía nước ngoài, nên tên gọi về hàng hoá rất đa dạng, trong thực tiễn kí kết hợp đồng cần phải đưa vào điều khoản tên hàng. Điều khoản này bao gồm: Phải ghi tên thương mại, tên khoa học và tên thông dụng của hàng hoá, tên hàng kèm theo địa danh sản xuất, hãng sản xuất và công dụng của hàng hoá. + Số lượng Các bên cần ghi chính xác số lượng hàng hoá, trong trường hợp không thể ghi được chính xác số lượng thì phải ghi kèm theo độ dung sai của hàng hoá. Mặt khác các bên phải thoả thuận và chọn áp dụng những đơn vị tính phổ biến và dễ hiểu để hạn chế những hiểu lầm về đơn vị tính số lượng của hàng. + Quy cách - chất lượng Các bên trong quan hệ hợp đồng có thể thoả thuận việc lựa chọn tiêu chuẩn nhất định để đánh giá về quy cách, chất lượng của hàng hoá. Các bên có thể lựa chọn theo tiêu chuẩn ISO, TCVN… làm cơ sở để xá._.c định quy cách, chất lượng hàng hoá. Hoặc các bên có thể thoả thuận mua hàng theo mẫu. Mẫu hàng sẽ làm cơ sở để đối chứng với hàng hoá được giao. Mẫu phải được bảo quản theo nguyên tắc chọn 3 mẫu như nhau do bên bán, bên mua và bên trung gian cất giữ. Các mẫu này phải được các bên xác nhận và niêm phong bảo quản. + Giá cả Các bên phải xác định cụ thể giá cả của hàng hoá hoặc quy định cách xác định giá, cách tính giá. Giá cả trong hợp đồng phải được nêu rõ về đơn giá, tổng giá trị đồng tiền tính giá và đồng tiền thanh toán. + Phương thức thanh toán Thanh toán là vấn đề quan trọng trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ cũng như mục đích của mỗi bên khi tham gia vào hợp đồng. Điều khoản về phương thức thanh toán các bên phải quy định rõ những nội dung sau: - Đồng tiền thanh toán - Thời hạn thanh toán - Phương thức thanh toán - Các chứng từ làm căn cứ để thanh toán Đồng tiền thanh toán: Các bên có thể thoả thuận dùng tiền của nước nhập khẩu, nước xuất khẩu hoặc của nước thứ ba để làm đồng tiền thanh toán trong hợp đồng. Về thời hạn thanh toán: Các bên có thể thoả thuận trả trước, trả ngay hoặc trả sau. Khi bên bán giao hàng cho bên mua. Về phương thức thanh toán Các bên tham gia hợp đồng có thể thoả thuận lựa chọn một trong các phương thức thanh toán sau đây: + Phương thức thanh toán nhờ thu Nó là phương thức thanh toán mà người bán sau khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng thì ký phát hối phiếu đòi tiền người mua rồi đến ngân hàng nhờ thu hộ mình số tiền ghi trên hối phiếu đó. + Phương thức chuyển tiền: Đây là phương thức đơn giản nhất, người nhập khẩu thông qua ngân hàng đại diện gửi tiền trả cho người xuất khẩu. Phương thức này ít được dùng trong thanh toán quốc tế vì việc trả tiền phụ thuộc vào thiện chí của bên nhập khẩu, nó không bảo vệ được quyền lợi nhận tièn của người xuất khẩu. + Phương thức tín dụng chứng từ (L/C) Đây là phương thức thanh toán theo thoả thuận, trong đó người nhập khẩu mở một L/C ở một ngân hàng yêu cầu ngân hàng này trả tiền cho người xuất khẩu hoặc cho bất kì người nào theo lệnh của người xuất khẩu khi đã xuất trình đầy đủ mọi chứng từ đã quy định và mọi điều kiện đặt ra đều được thực hiện đầy đủ. Việc sử dụng thư tín dụng chứng từ được điều chỉnh bằng một bộ quy định của Phòng thương mại quốc tế, thường gọi là VCP 500. - Thời gian và địa điểm giao nhận hàng. Trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế hai bên phải xác định thời gian mà người xuất khẩu phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Trong quan hệ buôn bán quốc tế thường có 3 cách quy định về thời gian giao hàng gồm: giao hàng ngay, giao hàng theo định kỳ và giao hàng không định kì. Ngoài ra các bên còn phải xác định rõ địa điểm giao hàng. Việc lựa chọn địa điểm giao hàng có ý nghĩa rất quan trọng, nó làm cơ sở xác định thời điểm chuyển rủi ro từ người bán sang người mua, điều này giúp hạn chế những tranh chấp có thể xảy ra. Việc lựa chọn địa điểm giao hàng tuỳ thuộc vào điều kiện mà hai bên thoả thuận mua bán trong hợp đồng, có thể địa điểm giao hàng là cảng đến hoặc cảng người bán. 2. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu 2.1. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng Sau khi hợp đồng đã được xác lập và có hiệu lực pháp lý các bên phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo các điều kiện trong nội dung của hợp đồng như các điều khoản về: Tên hàng, số lượng, quy cách chất lượng, thời gian, địa didểm, phương thức giao nhận hàng, giá cả, thời gian thanh toán. Đồng thời các bên còn phải có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng trên tinh thần hợp tác cùng có lợi, dùng mọi biện pháp có thể để hợp đồng được thực hiện thuận lợi nhất. 2.2. Thực hiện hợp đồng về nội dung Đây là công việc quan trọng nhất mà các bên cần phải thực hiện sau khi đã kí kết hợp đồng. Việc thực hiện hợp đồng về nội dung gồm những nội dung chủ yếu sau: 2.2.1. Xin giấy phép nhập khẩu Giấy phép nhập khẩu có giá trị pháp lý quan trọng để tiến hành các khâu khác trong mỗi chuyến hàng nhập khẩu. Thủ tục xin giấy phép phụ thuộc phần lớn vào cơ chế quản lý mặt hàng nhập khẩu. ở nước ta, theo Thông tư 11/2001/TT-BTM có quy định về danh mục những mặt hàng cấm nhập khẩu, những hàng cấm nhập khẩu quản lý bằng hạn ngạch, sau khi nhận được công văn phân bổ hạn ngạch, chủ hàng nhập khẩu tới Bộ Thương mại xin đổi phiếu hạn ngạch, đồng thời chủ hàng nhập khẩu phải xin Giấy phép nhập khẩu. Đơn xin cấp giấy phép cần kèm với phiếu đổi hạn ngạch, bản sao hợp đồng nhập khẩu hoặc bộ chứng từ L/C hoặc giấy tờ có liên quan khác. Đối với mặt hàng nhập khẩu không chịu sự quản lý bằng hạn ngạch, nếu là hàng hoá thông thường thì khi nhập khẩu doanh nghiệp không cần phải xin Giấy phép nhập khẩu, nếu là hàng quan trọng thì khi nhập khẩu phải xin Giấy phép nhập khẩu. Hiện nay việc cấp giấy phép ở nước ta được phân công như sau: - Phòng cấp giấy phép thuộc Bộ Thương mại cấp những giấy phép nhập khẩu hàng mậu dịch. - Tổng cục Hải quan cấp giấy phép nhập khẩu hàng phi mậu dịch. Đơn xin cấp giấy phép và các chứng từ đính kèm được chủ hàng nhập khẩu chuyển đến Phòng cấp giấy phép của Bộ Thương mại. Sau 3 ngày kể từ ngày nhận được đơn đó, Phòng cấp giấy phép phải trả lời kết quả tới chủ hàng nhập khẩu. 2.2.2. Làm thủ tục thanh toán Khi các bên thoả thuận trong hợp đồng nhập khẩu là phương thức thanh toán bằng L/C thì doanh nghiệp nhập khẩu phải làm thủ tục mở L/C tại ngân hàng đại diện của mình. Nếu trong hợp đồng không quy định gì về thời gian mở L/C thì thời gian mở L/C phụ thuộc vào thời gian giao hàng. Thông thường L/C được mở khoảng từ 20 đến 25 ngày trước khi đến thời gian giao hàng. Bên nhập khẩu phải căn cứ vào các điều khoản của hợp đồng để mở L/C sao cho bộ chứng từ trong L/C phù hợp với bộ chứng từ mà hai bên thoả thuận trong hợp đồng. Giấy xin mở L/C kèm theo bản sao hợp đồng nhập khẩu và giấy xin phép nhập khẩu được chuyển đến ngân hàng ngoại thương cùng với hai uỷ nhiệm chi, một để kí quỹ theo qui định về việc mở L/C và một để trả thủ tục phí chi ngân hàng về việc mở L/C. Bên xuất khẩu gửi bộ chứng từu gốc đến ngân hàng ngoại thương. Bên nhập khẩu kiểm tra nếu thấy chứng từ hợp lệ thì trả tiền cho ngân hàng để thanh toán cho bên xuất khẩu, sau đó bên nhập khẩu mới nhận được bộ chứng từ để đi nhận hàng. 2.2.3. Thuê tàu chuyên chở Tuỳ thuộc vào điều kiện giao hàng hai bên thoả thuận trong hợp đồng nhập khẩu mà việc thuê tàu chuyên chở thuộc về bên xuất khẩu hay bên nhập khẩu. Tàu chuyên chở có thể là tàu chuyến nếu khối lượng hàng lớn cũng có thể là tàu chợ nếu khối lượng hàng nhập khẩu nhỏ, lặt vặt, đóng trong bao kiện. Việc thuê tàu chuyên chở thuộc về bên nào thì yêu cầu bên đó phải có kinh nghiệm nghiệp vụ, có thông tin về thị trường thuê và nắm vững các điều kiện thuê tàu. Vì vậy trong nhiều trường hợp chủ hàng nhập khẩu thường uỷ thác việc thuê tàu cho một công ty hàng hải để công ty này thuê tàu giúp chủ hàng nhập khẩu. 2.2.4. Mua bảo hiểm Trong hợp đồng nhập khẩu hàng hoá được chuyển từ nước này sang nước khác, mà việc vận chuyển thường bằng đường biển, nên mức rủi ro cao. Vì vậy để phân chia rủi ro, hàng hoá sẽ được mua bảo hiểm của một công ty bảo hiểm nhất định. Trách nhiệm mua bảo hiểm cho hàng hoá thuộc bên nhập khẩu hay bên xuất khẩu tuỳ thuộc vào điều kiện mua hàng mà hai bên thoả thuận trong hợp đồng. Việc mua bảo hiểm cho hàng hoá cần phải căn cứ vào các nội dung sau để mua loại bảo hiểm cho phù hợp vơí hàng hoá cần được bảo hiểm. Các căn cứ lựa chọn loại bảo hiểm: - Điều khoản hợp đồng - Tính chất hàng hoá - Tính chất bao bì và phương thức xếp hàng - Loại tàu chuyên chở 2.2.5. Làm thủ tục hải quan Hàng hoá khi đi qua biên giới quốc gia để nhập khẩu thì phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan gồm các nội dung sau: + Khai báo hải quan: Chủ hàng nhập khẩu khai báo chi tiết về hàng hoá trên tờ khai để cơ quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ. Nội dung của tờ khai bao gồm những mục như: Tên hàng, số lượng, khối lượng, giá trị hàng, tên phương tiện vận tải, nhập khẩu với nước nào… Tờ khai hải quan phải đượckèm theo với một chứng từu khác như: Giấy phép nhập khẩu, hoá đơn, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết. + Xuất trình hàng hoá Hàng nhập khẩu phải được sắp xếp trật tự, thuận tiện cho việc kiểm tra. Chủ hàng phải chịu chi phí và nhân công để mở và đóng gói kiện hàng. + Thực hiện các quyết định của hải quan Sau khi kiểm tra giấytờ và hàng hoá, cơ quan hải quan sẽ có các quyết định như: cho hàng được phép đi ngang qua có các quyết định như: Cho hàng được phép đi ngang qua biên giới, cho hàng đi qua một cách vô điều kiện, cho hàng đi qua sau khi chủ hàng đã nộp thuế, hàng không được nhập khẩu… Tất cả những quyết định này chủ hàng nhập khẩu phải có nghĩa vụ chấp hành triệt để, việc vi phạm các quyết định đó sẽ bị xử lý theo pháp luật. 2.2.6. Nhận hàng từ tàu chuyên chở. Bên nhập khẩu phải trực tiếp hoặc thông qua một đơn vị nhận uỷ thác gia nhận tiến hành. Bên nhập khẩu kí hợp đồng ủy thác cho cơ quan vận tải về việc giao nhận hàng từ tàu chuyên chở ở nước ngoài về cảng. Bên nhập khẩu cung cấp các tài liệu cần thiết cho việc giao nhận hàng hoá như: Vận đơn, lệnh giao hàng... nếu tàu biểu không giao nhận những tài liệu đó cho cơ quan vận tải. Thực hiện việc thanh toán cho cơ quan vận tải các khoản phí tổn về giao nhận, bốc xếp, bảo quản và vận chuyển hàng nhập khẩu. Theo dõi việc giao nhận và đôn đốc cơ quan vận tải lập những biên bản cần thiết (nếu có) về hàng hoá và giải quyết hàng phạm vi của mình những vấn đề xảy ra trong việc giao nhận hàng hoá gắng tiết kiệm chi phí lưu thông, nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ nghiệp vụ giao dịch. 2.2.7. Kiểm dịch và giám định hàng xuất khẩu Doanh nghiệp nhập khẩu với tư cách là một bên đứng tên trên vận đơn, phải lập thư dự kháng nếu nghi ngờ hoặc thực sự thấy hàng hoá có tổn thất và phải lập yêu cầu giám định nếu hàng hoá thực sự có tổn thất, thiếu hụt, không đồng bộ, không phù hợp với hợp đồng. Việc giám định hàng hoá sẽ do bên nhập khẩu thuê một công ty chuyên về lĩnh vực giám định để thực hiện cơ quan hải quan cùng phối hợp với các cơ quan chuyên ngành khác thực hiện việc kiểm dịch nếu hàng hoá nhập khẩu là động vật hoặc thực vật. 2.2.8. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại. Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng nhập khẩu phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hút, mất mát… thì phải lập hồ sơ khiếu nại để gửi đến cơ quan có chức năng, thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Đối tượng khiếu nại là người bán, nếu hàng có chất lượng hoặc số lượng không phù hợp với hợp đồng, mẫu mã bao bì không đúng, hàng hoá không đồng bộ giao hàng sai thời hạn. Đối tượng khiếu nại là người vận tải nếu hàng hoá bị tổn thất trong quá trình chuyên chở hoặc nếu sự tổn thất do lỗi của người vận tải gây ra. Đối tượng khiếu nại là công ty bảo hiểm nếu hàng hoá đã mua bảo hiểm bị tổn thất do thiên tai hoặc do lỗi của người thứ ba gây nên, khi những rủi ro này đã được mua bảo hiểm. Đơn khiếu nại phải kèm theo những bằng chứng về việc tổn thất như: Bản giám định tổn thất hàng hoá, hoá đơn vận đơn chuyên chở, đơn bảo hiểm. Nếu việc khiếu nại không được giải quyết thoả đáng, hai bên có thể. kiện nhau ra hội đồng Trọng tài hoặc ra Toà án. 3. Chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng nhập khẩu. Luật thương mại Việt Nam 1997 đã quy định trách nhiệm hợp đồng đã ký kết, bao gồm 4 chế tài mà các bên vi phạm phải gánh chịu. Buộc thực hiện đúng hợp đồng: là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc áp dụng biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu phí tổn phát sinh. Chế tài áp dụng trong trường hợp. - Giao hàng thiếu, cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng. - Giao hàng kém chất lượng. Phạt vi phạm Là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền nhất định do vi phạm hợp đồng, nếu trong hợp đồng có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Quyền đòi tiền phạt vi phạm phát sinh do hành vi. - Không thực hiện hợp đồng - Thực hiện không đúng hợp đồng. Các bên có thoả thuận mức phạt đối với một vi phạm hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm, nhưng không quá 8% giá trị phần ngihã vụ bị vi phạm của hợp đồng (Điều 288 Luật thương mại Việt Nam 1997). * Bồi thương thiệt hại. Là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả tiền bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra. Bồi thường thiệt hại bao gồm: giá trị tổn thất trực tiếp, thực tế với những lợi ích khác đáng lẽ được hưởng bị bỏ lỡ mà bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm hợp đồng gây ra. Điều 320 Luật thương mại Việt Nam năm 1997 cũng quy định các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là: có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại vật chất, có mối quan hệ giữa hành vi và thiệt hại, có lỗi của bên vi phạm hợp đồng. Một số vấn đề các bên cần lưu ý khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại Bên bồi thường phải có nghĩa vụ chứng minh tổn thất và mức độ tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra (điều 231). Bên có quyền lợi bị vi phạm được lựa chọn một trong hai chế tài là phát vi phạm hoặc bồi thường thiệt hại đối với cùng một vi phạm nếu các bên không có thoả thuận khác (Điều 134). Huỷ hợp đồng Điều 235 - Luật thương mại Việt Nam 1997 quy đinh, các bên có quyền lợi bị vi phạm tuyên bố huỷ hợp đồng nếu việc vi phạm của bên kia là điều kiện để huỷ hợp đồng mà các bên đã thoả thuận. Chế tài huỷ hợp đồng do các bên thoả thuận và được ghi vào hợp đồng trong điều khoản:”Điều kiện hủy hợp đồng”. Khi vi phạm hợp đồng xảy ra, phù hợp với các điều kiện hủy hợp đồng đã thoả thuận, các bên huỷ hợp đồng phải có nghĩa vụ thông báo ngay cho bên kia biết về việc huỷ hợp đồng (Điều 236). Việc huỷ hợp đồng sẽ dẫn tới các hậu quả pháp lý sau: Các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng. Mỗi bên có quyền đòi hỏi lại lợi ích cho việc đã thực hiện đàm phán nghĩa vụ thoả thuận trong hợp đồng. Nếu do việc huỷ hợp đồng mà các bên đều có nghĩa vụ bồi hoàn thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời. Quyền đòi bồi thường thiệt hại do huỷ hợp đồng thuộc về bên bị thiệt hại. Trong thực tiễn hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế, để đảm bảo lợi ích của mình nên các bên đều muốn áp dụng luật quốc gia làm nguồn luật điều chỉnh hợp đồng. Trong trường hợp luật quốc gia chưa quy định đầy đủ hoặc các bên không thoả thuận được về lựa luật nước nào để điều chỉnh hợp đồng, một điều ước quốc tế có liên quan được dẫn chiếu áp dụng, làm cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp đồng đó. 4. Giải quyết các tranh chấp Trong hoạt động thương mại quốc tế có rất nhiều phức tạp về ngôn ngữ, địa lý, phương thức thanh toán, vận chuyển. Cho nên trong quá trình thựchiện hợp đồng nhập khẩu rất hay xảy ra tranh chấp về quyền lợi giữa các bên. Giải quyết tranh chấp là việc điều chỉnh các bất đồng, các xung đột, dựa trên những căn cứ và bằng những phương thức khác nhau do các bên lựa chọn. Do đó khi đàm để soạn thảo, ký kết hợp đồng nhập khẩu các chủ thể của hợp đồng cần chú ý đến việc lường trước những tranh chấp có thể xảy ra để thoả thuận những điều khoản trong hợp đồng về giải quyết tranh chấp. Nếu các bên không thoả thuận hoặc thoả thuận không rõ khi thực hiện hợp đồng nếu phát sinh tranh chấp thì việc giải quyết tranh chấp gặp nhiều khó khăn và tốn kém. Việc giải quyết tranh chấp trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thường được thực hiện theo các phương thức dưới đây: 4.1. Thương lượng trực tiếp giữa hai bên Khi bắt đầu phát sinh tranh chấp khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, thông thường các bên tự nguyện nhanh chóng liên hệ, gặp gỡ nhau để thương lượng, tìm cách giải quyết những bất đồng với mục đích chung là giữ gìn môí quan hệ kinh doanh, đảm bảo bí mật kinh doanh cho cả hai bên và uy tín của họ trên thương trường. Về mặt pháp lý, thương lượng là một hợp đồng mà hai bên chấm dứt tranh chấp phát sinh trong quan hệ hợp đồng. Luật thương mại Việt Nam có quy định, yêu cầu các bên trước hết phải giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng giữa các bên (Khoản 1 Điều 239 Luật Thương mại Việt Nam 1997). Nếu việc thương lượng không thành thì các bên mới có thể lựa chọn hình thức giải quyết khác. Trong quá trình thương lượng, các bên cần tập trung vào những vấn đề cần thương lượng và lợi ích chung của họ, tạo ra sự lựa chọn mà cả hai bên cùng có lợi, kiên trì với mục tiêu đã đặt ra. Quá trình thương lượng có thể được khái quát thành 4 giai đoạn sau: định hướng, thuyết lượng, tìm ra lối thoát hoặc khủng hoảng, thoả thuận hoặc thất bại. Việc hiệu lực pháp lý của thương lượng, đối tác thương lượng độc lập, một cuộc thương lượng thành công sẽ có giá trị pháp lý như một đièu khoản của hợp đồng nhập khẩu. Các bên phải thi hành tự nguyện theo quy định của Luật áp dụng về nghĩa vụ thực hiện hợp đồng. Đối với thương lượng tiến hành trong khuôn khổ tố tụng Trọng tài hay Toà án, nếu như thương lượng thành công, Trọng tài viên hoặc Thẩm phán theo yêu cầu của các bên có thể ra văn bản công nhận kết quả thương lượng. Văn bản này có giá trị pháp lý như một quyết định của Trọng tài hay Toà án (Điều 35 Quy tắc tố tụng của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam). 4.2. Giải quyết theo thủ tục hoà giải Hoà giải là quá trình giải quyết tranh chấp mang tính riêng tư, trong đó hoà giải viên là người thứ ba trung gian giúp các bên tranh chấp đạt được một sự thoả thuận vì lợi ích chung của cả hai bên. Khi thực hiện hoà giải cần đạt được các mục tiêu sau: + Bằng hoà giải để giải quyết tranh chấp một cách thân thiện nhằm tiếp tục giữ gìn và phát triển các quan hẹe kinh doanh trong thời gian dài vì lợi ích chung của hai bên. + Bằng hoà giải có thể tập trung sự chú ý và quan tâm của các bên vào vấn đề chính, cơ bản của nội dung tranh chấp, hạn chế tối đa hoá sự hao phí thời gian và tiền của vào vấn đề mang tính chất hình thức tố tụng, tăng cường sự tham gia trực tiếp và khả năng kiểm soát của các bên đối với quá trình giải quyết tranh chấp. Thoả thuận hoà giải không có Toà án nước nào như thoả thuận Trọng tài, do đó không có Toà án nước nào lại ra lệnh đình chỉ vụ kiện chỉ vì lý do một bên không thực hiện thoả thuận hoà giải. Kết quả của thoả thuận giải quyết bằng hoà giải không có giá trị bắt buộc thi hành mà các bên chỉ tự nguyện thi hành kết quả đó. Hiệu lực cao nhất của thoả thuận giải quyết bằng hoà giải chỉ giống nhưu một điều khoản của hợp đồng. 4.3. Giải quyết tranh chấp theo thủ tục Trọng tài Giải quyết tranh chấp theo thủ tục Trọng tài là quá trình giải quyết tranh chấp do các bên tự nguyện lựa chọn, trong đó Trọng tài viên sau khi nghe các bên trình bày sẽ ra một quyết định có tính chất bắt buộc đối với các bên tranh chấp. Việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục Trọng tài có các đặc điểm cơ bản sau: Phải có sự thoả thuận của các bên về việc đưa tranh chấp ra xét xử bằng Trọng tài Hội đồng Trọng tài hoặc Trọng tài viên sẽ ra một quyết định sau khicân nhắc mọi chứng cứ và lập luận của các bên. + Các quyết định hay phán quyết của Trọng tài có thể được Toà án công nhận và cho thi hành thông qua một thủ tục tư pháp. Sau khi nhận được phán quyết của Trọng tài, các bên thường tự nguyện thi hành vì nhiều lý do: Muốn giữ gìn quan hệ làm ăn lâu dài vì biết rằng ít có khả năng để Toà án có thể xem xét và thay đổi lại phán quyết của Trọng tài, các bên muốn bảo đảm giữ gìn bí mật trong kinh doanh. 4.4. Giải quyết tranh chấp theo thủ tục tư pháp tại Toà án Việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục tư pháp tại Toà án gắn liền với quyền lực Nhà nước- quyền tư pháp. Để giải quyết tranh chấp theo thủ tục tư pháp tại Toà án cần phải xác định rõ luật áp dụng để giải quyết tranh chấp. Thông thường có hai cách để xác định luật áp dụng gồm: + Các bên đưa vào điều khoản về luật áp dụng chung cho hợp đồng, trong đó có thể chọn luật của nước xuất khẩu, nước nhập khẩu hay luật của nước thứ ba trung lập. + Nếu các bên không thoả thuận được luật áp dụng thì Toà án sẽ áp dụng các nguyên tắc xung đột pháp luật để xác định luật áp dụng cho hợp đồng và cho việc giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý tới thời hiệu khởi kiện dài hạn mà các bên có quyền lợi bị xâm hại có quyền khởi kiện tại Toà án. Thời hiệu này có thể do các bên thoả thuận trong hợp đồng hoặc nếu không thoả thuận thì căn cứ vào các quy định của pháp luật để xác định thời hiệu. Tuỳ theo pháp luật của từng nước, thủ tục tố tụng tại Toà án của các nước theo hệ Luật lục địa khác xa với thủ tục tố tụng tại Toà án các nước theo hệ thống luật (án lệ). Tại các nước theo hệ thống luật thứ nhất, thẩm phán, chủ toạ phiên toà là người giữ vai trò tích cực, chủ động trong việc nêu câu hỏi, yêu cầu đưa chứng cứ, nhân chứng, xác định các vấn đề cần tranh luận. Tại các nước theo hệ thứ hai, việc tranh tụng tại Toà án chủ yếu do Luật sư của các bên thực hiện, thẩm phán giữ vai trò Trọng tài chủ yếu là nghe và sau đó đánh giá các chứng cứ để ra bản án. Phán quyết của Toà án có giá trị pháp lý thi hành, nhưng việc công nhận và thi hành phán quyết đó gặp rất nhiều khó khăn. Hiện nay chưa có một điều ước quốc tế nào về công nhận hay thi hành bản án nước ngoài. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm cho khả năng các bên đưa tranh chấp ra Toà án là rất tít mà các bên hay chọn việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục Trọng tài. Chương II Thực tiễn kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu máy công trình xây dựng tại Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng I. Tình hình sản xuất kinh doanh tại Công ty 1. Khái quát về Công ty 1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng công ty Thương mại và xây dựng - Bộ Giao thông vận tải. Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng được thành lập theo Quyết định số 2967/1999/QĐ-BGTVT ngày 28/10/1999 của Bộ Giao thông vận tải về việc thành lập doanh nghiệp thành viên trực thuộc: Tổng công ty Thương mại và xây dựng - Bộ Giao thông vận tải. Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng có chức năng nhiệm vụ chủ yếu tiến hành hoạt động sản xuất các mặt hàng trang trí nội thất và xuất nhập khâủ kinh doanh phương tiện vận tải, máy công trình xây dựng, kinh doanh kho bãi. Ngành nghề hoạt động kinh doanh chủ yếu là: Sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ gồm sứ, đồ chơi lưu niệm, đồ gỗ, sơn mài, các sản phẩm trang trí nội thất, gia công hàng xuất nhập khẩu, xuất nhập khẩu kinh doanh các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, phương tiện vận tải, máy công trình xây dựng và kinh doanh kho bãi. Trải qua quá trình xây dựng và trưởng thành, Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng đã không ngừng phấn đấu vươn lên về mọi mặt. Đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường đang ngày càng phát triển ở nước ta hiện nay. Bằng những kinh nghiệm lao động sáng tạo và sự quyết tâm của toàn thể công nhân viên, trong những năm gần đây công ty đã giải quyết được khó khăn trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Sản phẩm của công ty ngày càng đa dạng phong phú với chất lượng ngày càng cao. Những sản phẩm của Công ty không những được tiêu thụ ở trong nước mà còn được xuất khẩu sang thị trường các nước: Mỹ, Nhật, EU, Hàn Quốc… Điều này được thể hiện qua một số kết quả hoạt động kinh doanh mà Công ty đạt được trong 2 năm 2000 và 2001. Các chỉ tiêu Năm 2000 (đồng) Năm 2001 (đồng) 1.Tổng doanh thu Trong đó doanh thu hàng xuất khẩu 2. Tổng chi phí 3. Lợi nhuận trước thuế 4. Nộp ngân sách Nhà nước 5. Thu nhận bình quân của lao động 12380840000 8573870000 11118508000 1262332000 209430000 500000 21645720000 15639170000 19348550000 2297170000 638930000 600000 1.2. Địa vị pháp lý của Công ty Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng là doanh nghiệp nhà nước được thành lập theo Quyết định số 2967/1999/QĐ-BGTVT ngày 28/10/1999 về việc thành lập doanh nghiệp thành viên trực thuộc Tổng công ty Thương mại xây dựng - Bộ giao thông vận tải. Giám đốc Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng: Ông Phạm Trinh Kiên. Theo Quyết định bổ nhiệm số 23/QĐ/TC-LĐ ngày 14/12/1999 do Hội đồng Quản trị Tổng công ty kí. Kế toán trưởng: Bà Phạm Thị Kim Thuý Theo Quyết định số 119/QĐ/TC-LĐ ngày 17/10/1999 do Tổng giám đốc Tổng công ty Thương mại và xây dựng kí. Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng là doanh nghiệp Nhà nước có đầy đủ tư cách pháp nhân, hạch toán kế toán và quản lý tài chính một cách độc lập theo đúng quy định của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đội ngũ lãnh đạo: Giám đốc, Phó giám đốc, kế toán trưởng có trình độ đại học. Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng được cấp giấy phép kinh doanh số: 112691 do Sở Kế hoạch đầu tư Hà Nội cấp ngày 24/12/1999. 1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh của Công ty. a. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng là doanh nghiệp Nhà nước được thành lập chưa lâu nhưng cho đến nay Công ty đã có đội ngũ cán bộ công nhân viên tương đối mạnh, tổng số lao động là 150 người. Trong đó: Lao động gián tiếp: 20 người Lao động hợp đồng dài hạn: 34 người Lao động hợp đồng ngắn hạn: 96 người Số cán bộ công nhân viên có trình độ đại học là 28 người. Sơ đồ tổ chức quản lý Giám đốc Phó giám đốc 1 Phó giám đốc 2 Phòng kế toán Phòng XNK Phòng kinh doanh Phòng kế hoạch Phòng nhân sự Phòng bảo vệ Phân xưởng đồ chơi Phân gia công Phân xưởng mộc b. Chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban - Ban giám đốc: gồm một giám đốc và 2 phó giám đốc. - Giám đốc: + Điều hành toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Tổng Công ty về hoạt động sản xuất và kết quả kinh doanh của Công ty. + Có quyền quyết định tổ chức bộ máy quản lý, các bộ phận sản xuất kinh doanh của Công ty, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, nâng lương và ký hợp đồng lao động với cán bộ công nhân viên (Trừ phó giám đốc và kế toán trưởng). - Phó giám đốc phụ trách kinh doanh: Trực tiếp quản lý phòng kinh doanh, là người giúp việc cho giám đốc, điều hành các công việc thuộc lĩnh vực kinh doanh và chịu trách nhiệm trước giám đốc về phần công việc được phân công. + Phó giám đốc phụ trách sản xuất: Trực tiếp quản lý điều phối sản xuất của Công ty, là người giúp giám đốc tổ chức công tác sản xuất, giám sát kỹ thuật, chất lượng sản phẩm chọi trách nhiệm trước giám đốc về phần sản xuất của Công ty. Dưới ban giám đốc là các phòng, ban được bố trí và đảm nhân các chức năng, nhiệm vụ cụ thể + Phòng kế toán: - Đứng đầu là kế toán trưởng, người tham mưu cho giám đốc về mặt quản lý tài chính, giúp giám đốc chỉ đạo toàn bộ công tác tài chính kế toán, thống kê và hạch toán kinh tế của Công ty. - Quản lý, sử dụng tiền vốn có hiệu quả, đúng mục đích hạch toán kịp thời đầy đủ và trung thực các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. - Tổ chức các công tác kế toán gọn nhẹ, nâng cao hiệu suất của cán bộ kế toán, Công ty đã áp dụng hình thức kế toán nhật ký chứng từ. + Phòng xuất nhập khẩu. Có nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng của sản xuất của Công ty và tiến hành công tác nhập khẩu các loại máy móc công trình xây dựng từ thị trường Nhật Bản và EU. + Phòng kinh doanh - Xây dựng phương án kinh doanh cùng các giải pháp kinh tế tối ưu - Tiếp thị thăm dò nhu cầu thị trường, khai thác cung ứng và điều động luân chuyển vật tư hàng hoá trong hoạt động sản xuất kinh doanh. - Tổ chức tiêu thụ sản phẩm tổng hợp phân tích kết quả kinh doanh từng định kỳ để tham mưu cho ban giám đốc điều hành hoạt động kinh doanh của Công ty nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. + Phòng kế hoạch Chịu trách nhiệm lập kế hoạch chung, định hướng phát triển của Công ty trong tương lai, đề xuất chiến lược sản xuất, kinh doanh, marketing ... lên ban giám đốc Công ty. + Phòng tổ chức hành chính: - Soạn thảo văn bản liên quan đến nhân sự, quản lý hành chính - Quản lý hồ sơ cán bộ công nhân viên, quản lý công văn, tiếp nhận các công việc khác thuộc hành chính quản trị - Thực hiện các công tác liên quan đến quyền lợi, chế độ của toàn bộ công nhân viên như bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, có kế hoạch về đào tạo và nâng cao tay nghề của đội ngũ cán bộ công nhân viên. - Lập báo cáo về tình hình lao động của doanh nghiệp cho các cơ quan chức năng. + Phòng bảo vệ Có trách nhiệm giữ gìn an ninh trật tự trong phạm vi toàn Công ty. Tạo điều kiện cho các phòng ban khác hoàn thành tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Ngoài ra có quyền xử lý các vi phạm xảy ra trong Công ty trong phạm vi quyền hạn của mình. + Phân xưởng đồ chơi Chuyên sản xuất các hàng lưu niệm, có nhiệm vụ nghiên cứu thiết kế các mẫu mới đáp ứng nhu cầu thị hiếu. + Phân xưởng gia công Chuyên sản xuất và nhận gia công thuê các sản phẩm trang trí nội thất, gia công hàng xuất khẩu, gia công các sản phẩm thủ công mỹ nghệ + Phân xưởng mộc Chuyên sản xuất các sản phẩm trang trí nội thất làm từ chất liệu gỗ, các sản phẩm sơn mài Nói chung các phòng ban trên được tổ chức theo yêu cầu quản lý sản xuất, chức năng sản xuất, có chức năng tham mưu giúp việc cho Ban giám đốc trong việc quản lý và điều hành toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty được thông suốt và đạt hiệu quả cao. Bên cạnh việc thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch, chỉ thị mệnh lệnh của Ban giám đốc, các phòng ban và phân xưởng còn có nghĩa vụ đề xuất với Ban giám đốc về những chủ trương biện pháp, sáng kiến nhằm giải quyết nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng cường công tác quản lý trong Công ty. 2. Khái quát tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng. 2.1. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty. Để có thể khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường đang ngày càng cạnh tranh khốc liệt. Đòi hỏi các doanh nghiệp nói chung cũng như các doanh nghiệp sản xuất nói riêng là phải làm sao lựa chọn các doanh nghiệp của mình một ngành nghề kinh doanh nhất định phù hợp với lợi thế riêng của từng doanh nghiệp để có thể đem lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp cũng như đóng góp vào nền kinh tế quốc dân. Trước thực tế đó, cùng với những lợi thế của mình Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng hàng năm đã đưa ra thị trường một khối lượng lớn sản phẩm nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và một phần xuất khẩu sang thị trường cá._.hị định số 110/HĐBT, Quyết định số 383/1998/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày 30/3/1998 về việc bổ sung tên và thuế suất của một số mặt hàng trong biểu thuế xuất nhập khẩu. Công văn số 238/CP-KTTH ngày 10/3/2000 quy định về việc tăng thuế suất nhập khẩu và thu chênh lệch giá một số mặt hàng nhập khẩu khi áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu. Việc ban hành các văn bản pháp lý này đã tác động tích cực đến các hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế đất nước, giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiến sâu hơn vào tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Mặc dù chúng ta có những chính sách mới nhưng vẫn chưa thoát khỏi quan điểm Nhà nước độc quyền hàng ngoại thương, thống nhất quản lý ngoại thương, nên nhiều cơ chế và chính sách hoạt động chưa được hợp lý, lúc mở, lúc đóng gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Đặc biệt chúng ta vẫn duy trì cơ chế xin cho trong việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu. Hệ thống văn bản pháp lý trong quản lý xuất nhập khẩu quá phức tạp trong khi đó Thông tư hướng dẫn chưa thể hiện được tính hiệu lực. Sự bất lợi này đã làm cho các doanh nghiệp lúng túng khi Luật và Nghị định có hiệu lực nhưng hướng dẫn cụ thể lại chưa có. Đây là điểm hạn chế của pháp luật, chính điểm hạn chế này đã tạo điều kiện cho một số phần tử lợi dụng để trục lợi gây thiệt hại cho các doanh nghiệp. Luật Thương mại Việt Nam có hiệu lực tờ 01/1/1998 thì có một tiêu chí để xác định hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế đó là hợp đồng được kí kết giữa thương nhân Việt Nam với một thương nhân nước ngoài. Khái niệm này hiện đang bộc lộ nhiều thiếu sót. Thứ nhất về vấn đề quốc tịch: Nếu chỉ quy định chủ thể của hợp đồng có quóoc tịch khác nhau thì chưa đủ: Ví dụ, một Công ty có trụ sở ở nước ngoài nhưng vẫn mang quốc tịch Việt Nam, khi Công ty này kí hợp đồng bán cho một công ty trong nước một lô hàng. Nếu theo quan điểm của Luật Thương mại thì hợp đồng này phải là hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Thứ hai về vấn đề vận chuyển hàng hoá qua biên giới: Theo quy chế về khu chế xuất, Chính phủ quy định rõ, hợp đồng xuất nhập khẩu bao gồm hợp đồng mua bán hàng hoá được kí kết giữa doanh nghiệp Việt Nam ngoài khu chế xuất và trong khu chế xuất. Như vậy hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá với khu chế xuất, hàng hoá không dịch chuyển qua biên giới, nhưng nó vẫnlà hoạt động ngoại thương. Vậy căn cứ vào dịch chuyển hàng qua biên giới thì cũng chỉ là một khái niệm tương đối. Thứ ba là đồng tiền thanh toán không nhất thiết là ngoại tệ đối với một bên mà có thể trả bằng hàng hoá có giá trị tương đương và tiền chỉ lấy làm phương tiện tính toán chứ không làm phương tiện thanh toán. Mặt khác chính sách thuế hiện hành quá cao, Luật thuế xuất nhập khẩu được Nhà nước ta ban hành ngày 1/4/1992 là một tiến bộ trong quản lý nhà nước về hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên cho đến nay Luật thuế xuất nhập khẩu đã bộc lộ những hạn chế nhất định, nó chưa thể hiện được là công cụ hữu hiệu để điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó danh mục các mặt hàng và thuế suất của từng mặt hàng chưa phản ánh được đúng nhu cầu khó khăn hay hạn chế đối với việc xuất hay nhập khẩu mặt hàng đó. Cơ chế thuế nhập khẩu còn quá phức tạp với nhiều mức khác nhau, một số mức thuế xuất còn quá cao. Trong quản lý xuất nhập khẩu bằng hạn ngạch của Nhà nước còn có những bất hợp lý và không ổn định. Cụ thể ngày 9/5/1997 Bộ Thương mại ban hành thông báo số 5071/TM-XNK về việc ngừng nhập 12 mặt hàng sau đó 2 tháng, ngày 23/07/1997 Bộ Thương mại ra công văn số 7681/TM-XNK bác bỏ thông báo trên và đúng 1 tuần sau đó ngày 1/8/1997 Văn phòng Chính phủ ban hành Công văn số 254/KHTN yêu cầu Bộ Thương mại, các Bộ, các ngành, uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc TW chấp hành nghiêm túc Thông tư số 5071/TM-XNK. Việc thay đổi chính sách không nhất quán đã làm cho các doanh nghiệp nước ngoài dè dặt khi kí kết hợp đồng với các công ty trong nước. Đặc biệt là các chính sách mặt hàng của chúng ta thiếu ổn định, điều này đã gây ra sự thụ động, khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi xác định chiến lược mặt hàng của mình. Trong tương lai việc quản lý bằng biện pháp hành chính cần được giảm bớt, thay thế vào đó bằng việc quản lý bằng thuế quan. Đây thực sự là công cụ hữu hiệu để quản lý hoạt động xuất nhập khẩu. II. Những thuận lợi và khó khăn trong kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng Trong những năm qua, kể từ khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện chủ trương đổi mới chính sách kinh tế, xoá bỏ cơ chế kinh tế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường. Xóa bỏ chính sách độc quyền của Nhà nước trong hoạt động ngoại thương sang cơ chế tự do, mọi doanh nghiệp đều có quyền tham gia tạo cho các doanh nghiệp chủ động hơn, năng động hơn trong hoạt động kinh tế của mình. Điều này đã thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua có những bước phát triển đáng kể, cùng với tình hình chính trị, xã hội ổn định đã tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam. Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến tình hình sản xuất, đời sống, xã hội. Nhập khẩu để bổ sung cơ sở vật chất, kỹ thuật cho sản xuất và các hàng hoá cho tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất với chi phí cao hơn nhập khẩu. Như vậy nhập khẩu sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về vốn,lao động, cơ sở vật chất, tài nguyên, khoa học kĩ thuật. Trong những năm gần đây, việc thay đổi đơn giản thủ tục hành chính, cùng với chính sách thuế quan và hạn ngạch cũng được cắt giảm, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi co các doanh nghiệp Việt Nam trong việc kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Hiện nay, công tác kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu máy công trình xây dựng ở Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng cũng gặp nhiều thuận lợi và khó khăn nhất định do nhiều nguyên nhân khác nhau. 1. Thuận lợi Do có sự đổi mới trong chính sách hải quan, chính sách thuế, và sự ra đời của một loạt các văn bản pháp luật về hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế, đã tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung trong đó có Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng nói riêng khi tham gia vào lĩnh vực hoạt động kinh tế ngoại thương. Công ty được chủ động tìm bạn hàng, chủ động đàm phán, kí kết và thực hiện hợp đồng. Mặt khác công việc làm thủ tục để nhập khẩu cho hàng hoá cũng được đơn giản rất nhiều. Mặt hàng nhập khẩu của Công ty là máy xây dựng công trình, đay là mặt hàng nằm trong diện không phải xin giấy phép nhập khẩu, mà Công ty chỉ cần làm thủ tục Hải quan cho hàng hoá nhập khẩu là đủ. Điều này đã làm cho Công ty tiết kiệm được thời gian và chi phí trong khâu làm thủ tục nhập khẩu cho hàng hoá. Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng có đội ngũ cán bộ nhan viên có trình độ hiểu biết về hoạt động kinh tế ngoại thương, có kinh nghiệm trong đàm phán, kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Cho nên sau hơn 3 năm, thực hiện hơn 100 hợp đồng nhập khẩu, Công ty chưa để xảy ra tranh chấp nào dẫn đến kiện tụng. Đây là thành tích đáng kể của tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty. Sau hơn 3 năm đi vào hoạt động Công ty đã tạo cho mình sự uy tín, tin tưởng của các bạn hàng nước ngoài cũng như các bạn hàng trong nước, khách hàng tìm đến kí kết hợp đồng với Công ty ngày càng nhiều, đã mở ra cơ hội làm ăn mới đối với Công ty. Dưới sức ép của nền kinh tế thị trường, Công ty tìm mọi cách để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của khách hàng trong nước và khách hàng nước ngoài. Bằng cách Công ty tích cực nghiên cứu mở rộng quy mô, chủng loại mặt hàng, kinh doanh nhiều ngành nghề với chất lượng ngày càng được nâng cao. Tích cực thâm nhập, đi sâu vào thị trường các nước EU, Mỹ… 2. Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi, Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng cũng gặp phải những khó khăn nhất định trong quá trình kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Thứ nhất, do cơ chế kinh tế của chúng ta mới mở cửa được hơn 10 năm, cho nên kinh nghiệm trong hoạt động kinh tế ngoại thương còn thiếu. Điều này đã gây ra sự thiệt thòi cho Công ty trong quá trình kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Qua thực tế cho thấy những điều bất lợi luôn thuộc về phía các doanh nghiệp Việt Nam. Thứ hai, chính sách quản lý xuất nhập khẩu của nhà nước luôn thay đổi và thiếu đồng bộ, thủ tục hải quan còn rườm rà, chính sách thuế xuất nhập khẩu còn cao. Những điều này đã gây ra trở ngại cho hoạt động nhập khẩu của Công ty. Thứ ba, việc kí kết hợp đồng nhập khẩu ngày càng đa dạng và phức tạp, đặc biệt là khi xuất hiện các phương tiện truyền tin hiện đại như Telex, Fax, Email… Điều này làm cho việc vận dụng pháp luật trong nước cũng như quốc tế vào công tác kí kết hợp đồng nhập khẩu của công ty cũng gặp nhiều khó khăn. Hiện nay các thông tin về thị trường, pháp luật, về chính sách ngoại thương của nước đối tác còn rời rạc và phân tán do nước ta chưa có những kênh thông tin chính xác. Đây là một thiệt thòi lớn đối với Công ty. Công ty phải tự mình tìm hiểu, nắm bắt thông tin về đối tác, do đó gây ra tốn kém về thời gian và chi phí về đối tác, do đó gây ra tốn kém về thời gian và chi phí. Nguyên nhân của những khó khăn trên là do: Thứ nhất: Hệ thống văn bản pháp luật về quản lý hoạt động xuất nhập khẩu còn khá phức tạp và thiếu đồng bộ. Luậttm có hiệu lực từ năm 1998, nhưng thực sự chưa phát huy nhiều tác dụng. Một số chính sách của Nhà nước không phù hợp với tình hình thực tế. Thủ tục hành chính hiện nay còn rườm rà ảnh hưởng đến tiến trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu gây lãng phí thời gian và chi phí, làm mất cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp Việt Nam. Thứ hai: Do thiếu kênh thông tin đầy đủ, chính xác về đối tác, đội ngũ cán bộ của Công ty thực sự còn thiếu kinh nghiệm trong hoạt động ngoại thương. Trong đàm phán kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu, Công ty và đối tác thường thoả thuận chọn đồng tiền thanh toán là USD. Cho nên khi tỉ giá đồng USD tăng lên dẫn đến giá thành nhập khẩu của máy móc tăng lên, điều này đã gây khó khăn cho Công ty đối với thị trường trong nước. Thông qua những nguyên nhân này đòi hỏi Ban giám đốc Công ty phải có những biện pháp khắc phục để hoạt động nhập khẩu của Công ty có những bước phát triển mới và đạt hiệu quả kinh tế. III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng 1. Kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước Để thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển mạnh trong những năm tới , thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Đòi hỏi nhà nước phải tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng, đơn giản nhưng chặt chẽ về hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng. Việc tạo ra hành lang pháp lý chặt chẽ sẽ hạn chế được những tranh chấp phát sinh trong quá trình kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Từ đó sẽ tiết kiệm được thời gian và chi phí, tạo hiệu quả kinh tế cao cho các doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động nhập khẩu. Để làm được điều này Nhà nước cần có những biện pháp cụ thể sau: 1.1. Ban hành văn bản pháp luật có tính đồng bộ và ổn định Hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước ta hiện nay còn thiếu tính đồng bộ, không thống nhất giữa các văn bản, có sự chồng chéo nhau gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi áp dụng. Do đó khi ban hành văn bản pháp luật cần phải tuân thủ nguyên tắc thống nhất. Đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản pháp luật. Hiến pháp là Luật cơ bản của Nhà nước, là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất. Tất cả các văn bản pháp luật được ban hành phải phù hợp với hiến pháp. Nếu văn bản ban hành không phù hợp với hiến pháp đều phải huỷ bỏ và có hình thức xử lý đối với chủ thể ban hành văn bản trái pháp luật đó. Khi xây dựng ban hành văn bản pháp luật phải đảm bảo sự tham gia đóng góp ý kiến của các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức chính trị, xã hội và sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân. Có như vậy khi văn bản pháp luật được ban hành thì mới thực sự có hiệu quả trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, nhất là đối với những quan hệ kinh tế vốn đã rất nhạy bén và phức tạp. Các văn bản pháp luật phải thể hiện được tính cụ thể, hạn chế trường hợp chỉ quy định chung rồi bỏ lửng, sau đó không có văn bản hướng dẫn chi tiết hoặc có những ban hành hướng dẫn quá muộn và không thống nhất. Để đảm bảo nguyên tắc ban hành văn bản pháp luật có tính đồng bộ, có hiệu lực thi hành ngay, thì văn bản hướng dẫn chi tiết phải được soạn thảo đồng thời với dự án Luật để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kịp thời ban hành văn bản này khi Luật đã có hiệu lực. Có như vậy các doanh nghiệp khi áp dụng Luật trong việc kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu mới được chính xác, hạn chế những nhầm lẫn đáng tiếc gây tranh chấp không đáng có. 1.2. Quản lý hoạt động nhập khẩu Để hoạt động nhập khẩu thực sự phát huy hiệu quả đối với sản xuất và tiêu dùng, bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế - thương mại với nước ngoài góp phần đẩy mạnh kinh tế đất nước phát triển ngang tầm với khu vực và thế giới. Nhà nước phải có chính sách quản lý hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả kinh tế cao. 1.2.1. Chế độ hải quan Trong những năm qua thủ tục Hải quan đã được Nhà nước quan tâm và sửa đổi có nhiều tiến bộ, giảm bớt những thủ tục phức tạp không cần thiết và gây nhiều cản trở cho hoạt động nhập khẩu. Tuy nhiên trong thủ tục hải quan vẫn còn nhiều hạn chế tiêu cực, một số cán bộ hải quan đã lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình để gây phiền nhiễu cho doanh nghiệp khi làm thủ tục Hải quan, thủ tục hành chính còn phức tạp. Chính vì vậy trong quản lý hoạt động nhập khẩu về thủ tục Hải quan cần giảm bớt những thủ tục gây cản trở cho hoạt động nhập khẩu, Nhà nước cần có những biện pháp xử lý thích đáng đối với một số cán bộ ngành hải quan tha hóa, biến chất, có hành vi tiếp tay cho bọn buôn lậu và cố tình gây cản trở ăn tiền của các doanh nghiệp khi làm thủ tục Hải quan cho hàng hoá nhập khẩu của doanh nghiệp. 1.2.2. Chế độ thuế nhập khẩu Luật thuế xuất nhập khẩu được ban hành đầu tiên năm 1987 được hoàn thiện và được áp dụng cho đến nay. Tuy nhiên trong Luật thuế xuất nhập khẩu vẫn còn nhiều điểm hạn chế như: Biểu thuế nước ta còn quá cao so với biểu thuế của các nước và việc phân loại hàng hoá còn chưa được cụ thể, nên việc thực hiện còn nhiều khó khăn, vì vậy thuế nhập khẩu chưa thực sự là công cụ điều tiết hữu hiệu đối với hoạt động nhập khẩu. Thuế cũng là công cụ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế nên đòi hỏi phải có sự nhanh nhạy, song thực tế hiện nay rất khó điều chỉnh theo sự biến động của thị trường vì phải xin ý kiến của Quốc hội. Do vậy, trong thời gian tới Chính phủ cũng cần nới rộng quyền của Chính phủ trong việc điều chỉnh thuế suất, miễn giảm thuế, cần có những chính sách thuế ưu tiên cho những doanh nghiệp tham gia hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ công cộng. 1.2.3. Hạn ngạch và cấp giấy phép Để quản lý bằng hạn ngạch có hiệu quả, Nhà nước cần ban hành bổ sung các văn bản quy định chi tiết về việc phân bổ quota theo nguyên tắc một cửa, chỉ phân bổ cho doanh nghiệp có đủ quyền xuất nhập khẩu trực tiếp theo nhóm hàng xuất nhập khẩu đem lại hiệu quả kinh tế không những cho doanh nghiệp mà còn đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Các quy định về thủ tục cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu còn nhiều gò bó và mang tính chất hành chính. Hậu quả là một số doanh nghiệp không có khả năng kinh doanh xuất nhập khẩu vẫn có giấy phép, không tuân thủ các quy định kiểm tra, giám sát xuất nhập khẩu của cơ quan Hải quan, Bộ thương mại. Bộ thương mại cần phối hợp với cơ quan kiểm toán Nhà nước kiểm tra các đơn vị có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, cần thu hồi giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu đối với những doanh nghiệp không đủ năng lực. Nhà nước cần có những quy định chi tiết hơn về việc phép, giám sát kiểm tra việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu. 1.3. Quy định về nội dung và hình thức của hợp đồng nhập khẩu Trong quan hệ thương mại quốc tế hiện nay, Nhà nước cần có những quan điểm đầy đủ hơn về hợp đồng nhập khẩu. Theo như quy định trong Luật Thương mại 1997 thì hình thức của hợp đồng nhập khẩu phải nhất định được thể hiện dưới hình thức văn bản. Điều này, hiện nay không còn phù hợp nữa, trong quan hệ kinh doanh giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài. Thì có những mối quanhệ kinh doanh lâu dài, các bên hiểu biết rất rõ về nhau, tin tưởng ở nhau và thoả thuận những hợp đồng mua bán hàng hoá không lớn, thì các bên có thể kí hợp đồng dưới hình thức phi văn bản. Điều này sẽ làm cho các doanh nghiệp Việt Nam tiết kiệm được thời gian chi phí và tranh thủ được thời cơ nhanh chóng, tạo ưu thế cạnh tranh vượt trội với các bạn hàng khác. Vì vậy Nhà nước cần quy định lại hình thức của hợp đồng nhập khẩu cho phù hợp với tình hình mới. Mặt khác trong phần nội dung của hợp đồng nhập khẩu, chúng ta mới chỉ quy định các điều khoản bắt buộc bao gồm: Tên hàng, số lượng, quy cách- chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời gian và địa điểm giao hàng. Đối với hợp đồng nhập khẩu sẽ có nhiều nguồn luật khác nhau để điều chỉnh, do đó các nguồn luật này không thống nhất giữa các quốc gia kí kết hợp đồng nhập khẩu. Chính vì vậy trong điều khoản bắt buộc của hợp đồng nhập khẩu cần quyđịnh thêm các bên phải thoả thuận nguồn luật điều chỉnh của hợp đồng. Để khi có xảy ra tranh chấp giữa các bên thì lấy nguồn luật đó làm cơ sở, phương tiện để áp dụng giải quyết. 1.4. Phổ biến kiến thức pháp luật Nhà nước cần mở rộng các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật trong nứoc cũng như kiến thức pháp luật quốc tế cho các cán bộ thực hiện chức năng xuất nhập khẩu thuộc các cơ quan quản lý của Nhà nước và cho những cán bộ thuộc các doanh nghiệp trực tiếp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó nhà nước cần phải quy định đối với những cán bộ trực tiếp tham gia vào công việc đàm phán, kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu phải đạt một trình độ hiểu biết về pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế nhất định. Nếu đạt trình độ Nhà nước sẽ cấp giấy phép, nếu không đạt sẽ không được tham gia vào hoạt động nhập khẩu. Có như vậy mới đảm bảo được quyền lợi của các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hoạt động nhập khẩu. Đồng thời hạn chế được những tranh chấp có thể xảy ra. 1.5. Phê chuẩn các Điều ước quốc tế về thương mại Nhà nước cần có các biện pháp xúc tiến để gia nhập các Công ước quốc tế đa phương cũng như việc kí kết các Hiệp định thương mại song phương. Những văn bản pháp luật này không những là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng nhập khẩu mà còn tạo cơ sở tự do hoá thương mại, mở rộng thị trường, là cơ sở để giải quyết các tranh chấp trong việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu, tiết kiệm thời gian và chi phí cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế. 2. Kiến nghị với Công ty Qua nghiên cứu tìm hiểu về Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng trong thời gian thực tập tại Công ty, cùng với việc nghiên cứu những lý luận cơ bản của pháp luật về hoạt động nhập khẩu. Có một vài kiến nghị với công ty như sau: 2.1. Đối với các nghiệp vụ đàm phán: Vì chức năng chính của Công ty là thực hiện việc nhập khẩu các máy công trình xây dựng. Cho nên Công ty thường xuyên phải kí các hợp đồng nhập khẩu với đối tác nước ngoài. Chính vì vậy, để cho quá trình kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu được diễn ra thuận lợi, thì khâu đàm phán phải được đặc biệt quan tâm chú ý tới. Để khâu đàm phán đạt hiệu quả tốt, Công ty cần phải chuẩn bị tốt những điểm sau: + Thứ nhất: Phải tổ chức những kênh thông tin chính xác về đối tác, xem xét về tình hình tài chính, khả năng cung ứng hàng hoá cũng như mức độ uy tín của đối tác. Đồng thời Công ty phải luôn cập nhật thông tin về thị trường giá cả, tỉ giá hối đoái, mức lãi suất, cước phí vận chuyển, bảo hiểm… Nắm bắt được sự thay đổi của pháp luật trong nước cũng như pháp luật quốc tế để có những phản ưngs kịp thời cho phù hợp. + Thứ hai: Tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên của Công ty chuyên làm về nhiệm vụ nhập khẩu có trình độ hiểu biết về pháp luật kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam là pháp luật của Nhật Bản và Hàn Quốc. Cần đào tạo đội ngũ này phải nhạy bén, linh hoạt xử lý trong các tình huống phức tạp của quá trình đàm phán, đưa ra những quyết sách đúng đắn trong quá trình đàm phán. Thứ ba: Phải đặt ra mục đích yêu cầu cho việc đàm phán, đặc biệt là giá cả và chất lượng của hàng hoá nhập khẩu. Thứ tư: Phải có sự chuẩn bị về thời gian để trao đổi về hợp đồng nhập khẩu với các phòng, ban trong toàn Công ty để lấy ý kiến trước khi tiến hành đàm phán. 2.2. Đối với việc kí hợp đồng nhập khẩu Trong kí kết hợp đồng nhập khẩu, Công ty cần tuân thủ triệt để những quy định của pháp luật về kinh doanh xuất nhập khẩu. + Khi kí kết hợp đồng phải đảm bảo hợp đồng được thể hiện đúng hình thức và nội dung so với quy định của pháp luật Việt Nam. Vì hợp đồng nhập khẩu sẽ làm căn cứ để xác định trách nhiệm quyền hạn của các bên trong việc thực hiện hợp đồng. Đồng thời nó còn làm căn cứ để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng. + Trong quá trình soạn thảo hợp đồng nhập khẩu không nên dùng những từ ngữ mập mờ, khó giải thích, hoặc có nhiều cách giải thích nghĩa của từ gây ra sự hiểu nhầm giữa các bên, gây cản trở cho quá trình thực hiện hợp đồng. + Không cam kết những gì mà mình không biết hoặc không đủ thẩm quyền để quyết định việc đó. + Trong hợp đồng nên thoả thuận luật điều chỉnh của hợp đồng là luật Việt Nam để thuận tiện cho quá trình giải quyết tranh chấp (nếu có). Đồng thời liệt kê tối đa những trường hợp bất khả kháng để hạn chế bớt trách nhiệm khi rủi ro xảy ra. 2.3. Đối với khâu thực hiện hợp đồng nhập khẩu Thực hiện hợp đồng nhập khẩu là khâu phức tạp, đòi hỏi người làm công tác nhập khẩu phải hiểu biết sâu sắc về pháp luật và kinh nghiệm trong hoạt động nhập khẩu, + Khi làm thủ tục Hải quan cho hàng hoá nhập khẩu, Công ty phải chuẩn bị những giấy tờ cần thiết theo đúng yêu cầu của Hải quan. Đồng thời phải xếp hàng đúng trật tự, tạo thuận tiện cho công tác kiểm tra của cơ quan Hải quan. Làm tốt việc này sẽ tạo được mối quan hệ totó với cơ quan Hải quan từ đó tiết kiệm được thời gian và chi phí cho việc kiểm tra hàng hoá nhập khẩu. + Khi tiếp nhận hàng hoá, Công ty phải chuẩn bị những chứng từ cần thiết để nhận hàng một cách thuận lợi nhất. Đồng thời khi nhận hàng phải kiểm tra hàng về số lượng, chất lượng, mã kí hiệu, … xem có phù hợp với thoả thuận trong hợp đồng hay không. Nếu phát hiện có sai sót, phải thông báo ngay cho bên đối tác, tốt nhất Công ty nên thương lượng với bên đối tác để tiết kiệm thời gian và chi phí đồng thời duy trì được mối quan hệ làm ăn lâu dài giữa hai bên. Kết luận Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, vai trò của hoạt động ngoại thương nói chung và của hoạt động nhập khẩu nói riêng đã và đang đóng góp to lớn vào sự phát triển của nền kinh tế nước nhà. Thực hiện chủ trương mở cửa nền kinh tế của Đảng và Nhà nước, sau hơn 10 năm thực hiện, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế đã được thay đổi, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Một loạt các chính sách kinh tế về hoạt động ngoại thương, các văn bản pháp luật của Nhà nước điều chỉnh về lĩnh vực này đã được ban hành. Tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng, đơn giản cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia hoạt động trong lĩnh vực này. Với chức năng, nhiệm vụ được Tổng Công ty Thương mại xây dựng giao cho Công ty là phải thực hiện việc nhập khẩu các máy móc công trình xây dựng từ Nhật Bản và Hàn Quốc, Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng đã tổ chức thực hiện nhiệm vụ này một cách có hiệu quả. Sau hơn 3 năm thực hiện nhiệm vụ của mình, Công ty đã kí kết và thực hiện trên 110 hợp đồng nhập khẩu, nhưng chưa để xảy ra tranh chấp phải dẫn đến kiện tụng. Đây là kết quả cần ghi nhận về sự cố gắng của Công ty đối với lĩnh vực kinh doanh mới mẻ này. Tuy nhiên trong quá trình kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu Công ty đã gặp phải những khó khăn nhất định, song Công ty không ngừng tìm tòi các biện pháp để giải quyết, khắc phục các khó khăn đó. Với những kiến thứuc đã được nghiên cứu học tập ở trường, cùng với những kiến thức thu nhận được qua quá trình thực tập ở Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp như đã trình bày ở trên, với mong muốn góp phần nào vào việc tháo gỡ những khó khăn trong hoạt động nhập khẩu nói chung hiện nay và việc nhập khẩu máy công trình xây dựng tại Công ty. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy Th.s Đinh Hoài Nam, cô Nguyễn Thu Ba, thầy cô đã giúp đỡ em rất nhiều trong khi làm đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn các cô chú ở Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em được tìm hiểu về hoạt động nhập khẩu tại Công ty trong suốt thời gian thực tập. Do thời gian và kiến thức còn hạn chế, nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô và các bạn sinh viên. Tài liệu tham khảo Bộ Luật dân sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX thông qua ngày 28/10/1995. Luật Thương mại Việt Nam (10/5/1997) Luật thuế xuất nhập khẩu được Quốc hội thông qua ngày 26/12/1991. Luật Hải quan được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2001. Nghị định số 57/1998/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 31/7/1998 quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài. Nghị định số 33/TTg của Thủ tướng Chính phủ về quản lý Nhà nước đối với hợp đồng xuất nhập khẩu ban hành ngày 19/4/1994. Nghị định số 101/2001/NĐ-CP ngày 31/12/2001 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan. Thông tư số 20/2001/TT-BTM ngày 17/8/2001 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 44/2001/NĐ-CP ngày 2/8/2001 của Chính phủ về sửa đổi bổ xung một số điều của Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài. Quyết định của Thủ tướng số 40/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thời kì 2001-2005. Thông tư liên tịch số 37/2001/TTLT-BKHCNMT-TCHQ ngày 28/6/2001 hướng dẫn thủ tục Hải quan và kiểm tra chất lượng đối với hàng hoá xuất nhập khẩu phải kiểm tra nhà nước về chất lượng. Giáo trình Luật thương mại quốc tế. Ths. Trần Văn Nam, TS. Trần Thị Hoà Bình - NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 1999. Giáo trình thương mại quốc tế PGS.TS Nguyễn Duy Bột - NXB Thống Kê 1999. Một số tài liệu nội bộ của Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng. Mục lục Lời nói đầu 1 Chương I: Chế độ pháp lý về hợp đồng nhập khẩu 3 IQuản lý Nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu 3 1. Vai trò của nhập khẩu 3 2. Các quy định về hàng nhập khẩu 4 3. Chế độ giấy phép 5 4. Thủ tục hải quan 6 5. Chế độ kiểm tra, giám sát hoạt động nhập khẩu 7 II. Khái quát chung về hợp đồng nhập khẩu 8 1. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng nhập khẩu 8 2. Nguồn luật điều chỉnh 9 2.1. Các điều ước quốc tế 10 2.2. Các tập quán quốc tế về thương mại 11 2.3. Tiền lệ pháp (án lệ) về Thương mại quốc tế. 2.4. Luật quốc gia 12 3. Các nhân tố tác động tới III. Chế độ kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu 13 1. Chế độ kí kết hợp đồng nhập khẩu 13 1.1. Điều kiện hiệu lực của hợp đồng 13 1.2. Trình tự kí kết hợp đồng 15 1.3. Những điều khoản chủ yếu 15 2. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu 18 2.1. Nguyễn tắc thực hiện hợp đồng 18 2.2. Thực hiện hợp đồng về nội dung 18 IV. Giải quyết các tranh chấp 22 1. Thương lượng trực tiếp giữa hai bên 23 2. Giải quyết theo thủ tục hoà giải 24 3. Giải quyết tranh chấp theo thủ tục Trọng tài 25 4. Giải quyết tranh chấp theo thủ tục tư pháp tại Toà án 25 Chương II: Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu máy công trình xây dựng tại Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng 27 I. Tình hình sản xuất kinh doanh tại công ty 27 1. Khái quát về công ty 27 1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty 27 1.2. Địa vị pháp lý của Công ty 28 2. Tình hình hoạt động của Công ty 29 2.1. Mặt hàng kinh doanh của Công ty 29 2.2. Thị trường hoạt động kinh doanh của Công ty 29 2.3. Hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty 30 2.4. Thuận lợi và khó khăn của Công ty 31 II. Thực tiễn kí kết hợp đồng nhập khẩu tại Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng 33 1. Tình hình nhập khẩu tại Công ty 33 2. Tình hình kí kết hợp đồng nhập khẩu tại Công ty 33 2.1. Tìm hiểu đối tác đàm phán 33 2.2. Phương thức kí kết 34 2.3. Kí kết hợp đồng nhập khẩu tại Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng 36 3. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu 40 3.1. Làm thủ tục thanh toán 40 3.2. Làm thủ tục hải quan 43 3.3. Nhận hàng từ tàu chuyên chở và kiểm tra hàng 44 4. Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng nhập khẩu tại Công ty 45 Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu 47 I. Nhận xét về pháp luật kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam 47 II. Những thuận lợi và khó khăn khi kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty thương mại xây dựng Bạch Đằng 52 1. Thuận lợi 52 2. Khó khăn 53 III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu 55 1. Kiến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước 55 1.1. Ban hành văn bản pháp luật có tính thống nhất và đồng bộ 55 1.2. Quản lý hoạt động nhập khẩu 56 1.2.1. Chế độ hải quan 56 1.2.2. Chế độ thuế nhập khẩu 57 1.2.3. Hạn ngạch và giấy phép kinh doanh 57 1.3. Quy định về nội dung và hình thức của hợp đồng nhập khẩu 58 1.4. Phổ biến kiến thức pháp luật 58 1.5. Phê chuẩn các Điều ước quốc tế về thương mại 59 2. Kiến nghị với Công ty 59 2.1. Đối với các nghiệp vụ đàm phán 59 2.2. Đối với việc kí kết nhập khẩu 60 2.3. Đối với khâu thực hiện nhập khẩu 61 Kết luận 62 Tài liệu tham khảo 62 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLKT079.doc
Tài liệu liên quan