Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá tại Công ty cổ phần Việt Kim

Tài liệu Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá tại Công ty cổ phần Việt Kim: ... Ebook Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá tại Công ty cổ phần Việt Kim

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1611 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá tại Công ty cổ phần Việt Kim, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU – SƠ ĐỒ – HÌNH VẼ Sơ đồ 1: Bộ máy tổ chức của tổng công ty cổ phần Việt Kim Sơ đồ 2: Bộ máy tổ chức công ty chi nhánh tại Hà Nội Bảng 3: Báo cáo doanh thu những năm đầu đi vào hoạt động 1997 -2001 Bảng 4: Biểu đồ tăng trưởng qua các năm Bảng 5: So sánh báo cáo tài chính năm 2008 và 2009 BẢNG CHỮ VIẾT TẮT WTO : World Trade Organization: Tổ chức thương mại thế giới Công ty CP: công ty cổ phần LTM: Luật thương mại 2005 LDS: Luật dân sự LLĐ: Luật lao động BHXH: Bảo hiểm xã hội LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay trong nền kinh tế thị trường đặc biệt khi tham gia vào WTO,tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ là hoạt động chính, là vấn đề tất yếu của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tiêu thụ được coi là mạch máu của hoạt động lưu thông hàng hóa, là khâu không thể thiếu được của quá trình sản xuất hàng hóa. Tiêu thụ hàng hóa ( bán hàng hóa ) gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, quyết định sống còn đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào theo đuổi mục tiêu lợi nhuận. Các giao dịch mua bán hàng hóa theo đó mà diễn ra và chiếm một số lượng chủ yếu trong các giao dich dân sự. Sử dụng pháp luật là công cụ thực hiện các giao dịch dân sự , và gắn liền với các hoạt động mua bán hàng hóa là hợp đồng mua bán hàng hóa. Các hoạt động trao đổi, mua bán của các doanh nghiệp hiện nay dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp cũng đều đã sử dụng hợp đồng mua bán như một công cụ hữu hiệu để thỏa thuận các điều khoản giữa các bên. Việc các bên thỏa thuận quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng ngoài những thỏa thuận chung có quy định trong luật định thì còn bao gồm những thỏa thuận theo điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp. Bởi vậy việc tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp đẩy mạnh việc cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, đồng thời bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp trong thời đại mở cửa giao lưu buôn bán với thế giới. Trong quá trình thực tập tại công ty cổ phần Việt Kim do nhận thức được vai trò to lớn của hợp đồng mua bán hàng hóa diễn ra quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng trong mua bán hàng hóa mà em đã quyết định chọn để tài: “ Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty cổ phần Việt Kim ” làm chuyên để thực tập tốt nghiệp. Cấu trúc đề tài bao gồm 3 phần chính như sau: _ Chương 1: Chế độ pháp lý chung về hợp đồng mua bán hàng hóa. _Chương 2: Thực tiễn về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty cổ phần Việt Kim. _Chương 3: Các biện pháp nhằm khắc phục khó khăn và nâng cao hiệu quả trong giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty CP Việt Kim. Do thời gian được tìm hiểu về công ty chưa nhiều, vốn kiến thức còn những hạn chế nhất định,nên trong quá trình thực hiện chuyên đề không tránh sẽ xảy ra những thiếu xót. Em mong nhận được những đóng góp từ phía các thầy cô, cán bộ nhân viên từ phía công ty Việt Kim để giúp cho chuyên đề của em được ngày càng hoàn thiện hơn. Đồng thời em xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến những người đã giúp em hoàn thành tốt đề tài này. Em xin được cảm ơn cô giáo PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Thuỷ _ Trường Đại học KTQD, anh Vũ Ngọc Sơn và chị Phạm Thị Duyên là nhân viên công ty cổ phần Việt Kim là những người đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG 1: CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA I_ Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa 1_ Khái niệm Hiện nay hợp đồng mua bán hàng hóa là loại hợp đồng thông dụng của hợp đồng dân sự, chiếm một số lượng lớn. Tại điều 388 Luật dân sự có nêu khái niệm chung về hợp đồng dân sự: Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Đối với hoạt động mua bán hay hợp đồng mua bán hàng hóa cũng là sự xác lập, thay đổi quyền sở hữu đối với tài sản. Mua bán hàng hóa tức là sự thỏa thuận giữu hai bên trong đó bên bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa cho bên mua đồng thời bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán. Các điều khoản có liên quan đến nội dung hợp đồng hay cách thức thực hiện hợp đồng đều sẽ do 2 bên tự thỏa thuận với nhau để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các bên. Điều này có được quy định trong điều 428 Luật dân sự như sau: hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài,ta sẽ xem xét hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các tố chức cá nhân có đăng ký kinh doanh mà quan hệ với nhau vì mục đích lợi nhuận. Theo khoản 8 điều 3 Luật TM 2005 có quy định: hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán, bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Như vậy về khái niệm chung không có gì khác so với hợp đồng dân sự hay hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường. Trong luật TM không có nêu khái niệm về hợp đồng thương mại mà chỉ có hoạt động thương mại, trong đó mua bán hàng hóa là một hoạt động thương mại. Các hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi nhuận, và đây là điểm khác biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng trong hoạt động thương mại. Khi so sánh giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng mua bán hàng hóa theo tính chất hợp đồng thì hợp đồng dân sự có tính chất dân sự còn hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất thương mại. Hợp đông mua bán được giao kết bởi các thương nhân và mục đích giao kết hợp đồng là để sinh lợi giữa các bên, đó gọi là hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất thương mại. Như vậy, các hợp đồng được giao kết không nhằm mục đích lợi nhuận là hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất dân sự. Trong hoạt động tại các doanh nghiệp, việc giao kết và thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hóa là khâu cơ bản. Sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp phụ thuộc vào quá trình này. Hợp đông mua bán hàng hóa tạo điều kiện pháp lý cho các chủ thể kinh doanh có điều kiện phát triển các hoạt động tiêu dùng, sản xuất và lưu thông hàng hóa. Các doanh nghiệp trong môi trường kinh tế, tạo ra các mối quan hệ giữa người mua và người bán đi kèm với quyền lới và nghĩa vụ được pháp luật bảo hộ, tạo nên một môi trường cạnh tranh lành mạnh giúp nền kinh tế ngày một phát triển và có sức cạnh tranh với thị trường quốc tế. 2_ Đặc điểm 2.1_ Chủ thể Chủ thể của các hoạt động thương mại nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa là thương nhân. Tại điều 6 Luật TM có quy định : thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các nghành nghề mà đã đăng ký trong giấy phép đăng ký kinh doanh đông thời là những ngành nghề không bị pháp luật cấm. Quyền hoạt động thương mại hơp pháp của thương nhân được Nhà nước bảo hộ. Tuy nhiên trong quá trình mua bán hàng hóa, các bên chủ thể không nhất thiết đều phải là các thương nhân, đó có thể là các cá nhân, các tổ chức khác ….mà thỏa mãn điều kiện có đăng ký kinh doanh,quan hệ với nhau vì mục đích lợi nhuận. Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam hoặc ngoài lãnh thổ. Vì vậy chủ thể là các thương nhân Việt Nam thì còn thương nhân nước ngoài. 2.2_Hình thức Tại điều 24 Luật TM có quy định về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa : hợp đồng MBHH được thể hiện bằng lời nói,bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng MBHH mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. Chủ yếu các hợp đồng trong hoạt động thương mại,hợp đồng mua bán hàng hóa được lập thành văn bản. Trước hết là do việc giao kết hợp đồng bằng văn bản mang tính đảm bảo cao hơn so với các hình thức khác. Hơn nữa hợp đồng mua bán hàng hóa diễn ra nhằm mục đích lợi nhuận nên việc ký kết hợp đồng phải được giao kết bằng văn bản. Trong luật TM cũng quy định hình thức hợp đồng được lập bằng văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương với văn bản. Các hình thức có giả trị tương đương văn bản bao gồm: điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. 2.3_ Đối tượng Đối tượng chủ yếu trong hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa được phép giao dịch, không nằm trong đối tượng hàng hóa bị cấm không được phép giao dịch. Luật TM có quy định hàng hóa bao gồm: tất cả các loại động sản,kể cả động sản hình thành trong tương lai hay những vật gắn liền với đất đai. Đây là những khái niệm nói chung về đối tượng trong mua bán hàng hóa. Hàng hóa là sản phẩm do lao động của con người tạo ra, việc trao đổi hàng hóa là quá trình tất yếu của phát triển. Hàng hóa bao gồm nhiều loại, nó được tạo ra ngày càng nhiều nhằm thỏa mãn cho nhu cầu tiêu dùng của con người. Đó có thể vật hữu hình hay vô hình, động sản hay bất động sản….đều là những đối tượng của hợp đông mua bán hàng hóa. Mỗi đối tương đều có những hình thức để trao đổi khác nhau, nhưng tựu chung vẫn phải tuân theo những nguyên tắc chung trong hoạt động mua bán hàng hóa. 2.4_Nội dung Nội dung của hợp đông mua bán hàng hóa thể hiện ý chí của các bên trong việc bảo vệ quyền lợi lợi ích của chính mình đồng thời cũng phải tuân theo các nguyên tắc trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng. Tùy theo từng loại hợp đồng , các bên có thể thỏa thuận về những nội dung khác nhau. Trong hợp đông thông thường có nêu rõ quyền và nghĩa vụ do các bên thỏa thuận. Ngoài những thỏa thuận trong hợp đồng, những thỏa thuận thường có trong tất cả các hợp đồng thì có những thỏa thuận khác phù hợp với điều kiện của các doanh nghiệp. Đó có thể là những thỏa thuận bên ngoài, không được ghi trong hợp đồng hoặc những tiền lệ đã có từ trước đã có giữa các bên. Trong quy định của luật dân sự và luật thương mại có quy đinh các nội dung chủ yếu như sau : 2.4.1_ Đối tượng của hợp đồng Là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không được làm. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa phải được xác định rõ trong hợp đồng tranh xảy ra những sai sót dẫn đến tranh chấp giữa các bên. Mặc dù ngay từ đầu xác định giao kết hợp đồng, bên mua vốn đã biết trước nhu cầu của mình với hàng hóa rồi mới tìm đến các bên đối tác,hoặc bên bán có những hằng hóa như thế nào khi xác định đề nghị giao kết chào hàng. 2.4.2_ Số lượng, chất lượng  Những quy định về vấn đề này được ghi trong hợp đồng thỏa thuận giữa hai bên. Quy định chất lượng hàng hóa nhằm phân biệt giữa các chủng loại khác nhau, mẫu mã, tránh việc nhầm lẫn có thể xảy ra. Các bên có thể thoả thuận về số lượng nhất định hàng hoá cụ thể mà bên bán phải giao. Và nghĩa vụ của bên bán là phải giao đủ số lượng hàng hóa đã quy đinh trong hợp đồng. Khi bên bán không giao đủ số lượng như đã thỏa thuận thì có thể dựa vào những điều khoản đã quy đinh trong hợp đồng để đảm bảo lợi ích của mình. 2.4.3_ Giá, phương thức thanh toán  Đây là nghĩa vụ của bên mua đối vơi bên bán khi đã giao hàng hóa đạt yêu cầu về số lượng cũng như chất lượng. Gía cả ngoài đơn giá, bảng giá chung thì các bên có thể thỏa thuận mức giá hợp lý cho cả hai bên, đồng thời phương thức thanh toán. Việc thanh toán có thể diễn ra băng nhiều cách, nhưng chủ yếu hiện nay là thông qua tài khoản gửi tại ngân hàng. Thanh toán có thể thanh toán 1 lần vào cuối khi đã giao toàn bộ hàng hóa cho bên mua, cũng có thể thanh toán theo từng lần nhận hàng nếu số lượng hàng hóa lớn, và hợp đồng được thực hiện trong một thời gian nhất định. 2.4.4_ Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng Đến thời hạn giao hàng thỏa thuận trong hợp đồng, tại nơi giao hàng bên bán phải giao hàng cho bên mua đủ số lượng và đảm bảo chất lượng, bên mua có nghĩa vụ có mặt để nhận hàng . Địa điểm giao hàng có thể là kho của bên mua, cũng có thể là nơi mà hai bên đã thỏa thuận từ trước. 3_ Nguồn luật điều chỉnh 3.1.Qúa trình phát triển của pháp luật hợp đồng 3.1.1. Pháp luật hợp đồng trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung Trong thời kỳ hòa bình được lập lại năm 1954, Miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Đứng trước những khó khăn ban đầu là những thiệt hại do chiến tranh gây ra, nền kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu thì mục tiêu trước hết của Đảng và Nhà Nước khôi phục lại cuộc sống ổn định cho nhân dân trước sau đó phát triển kinh tế sau. Trên định hướng đó năm 1956 Nhà nước đã ban hành điều lệ tạm thời số 735/TTg về chế độ hợp đồng đăng ký kinh doanh (đăng trên công báo số 10 ngày 5/5/1956). Văn bản này có tên gọi là “Hợp đồng kinh doanh” để điều chỉnh quan hệ giữa hai hay nhiều chủ thể cam kết tự nguyện thực hiện kế hoạch của Nhà nước nhằm phục vụ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong thời kỳ này, các doanh nghiệp đa phần là các doanh nghiệp nhà nước, việc hoạt động và thực hiện đều theo những chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao cho. Nhằm phục vụ cho việc thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu ấy Nhà nước trên cơ sở ban hành những văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện pháp luật. - Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định 04/TTg ngày 4/1/1960 ra đời nhằm qui định một kiểu hợp đồng mới, hợp đồng được kí kết trên cơ sở kế hoạch của Nhà nuớc và nhằm thực hiện kế hoạch của Nhà nước đồng thời thực hiện các nguyên tắc của chế độ hạch toán kinh tế. - Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định 54/CP của Hội đồng chính phủ ngày 10/3/1975 đánh dấu một bước phát triển mới, có thể nói đây là bản điều lệ chính thức đầu tiên về chế độ hợp đồng kinh tế của nước ta và nó có hiệu lực thi hành đến năm 1989. Để thực hiện nghị định này nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản thực hiện hợp đồng kinh tế như: Quyết định số 113/TTg ngày 11/9/1965 và Chỉ thị 17/TTg ngày 20/1/1967 của Thủ tướng chính phủ… 3.1.2.Pháp luật trong thời buổi kinh tế thị trường Cùng với xu hướng chung của nền kinh tế cả nước và trên thế giới, nếu trong thời kỳ bao cấp chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước thì đến giai đoạn này việc mở ra các các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có xu hướng phát triển. Khi nền kinh tế bao cấp ban đầu trở nên lạc hậu, các doanh nghiệp làm theo chỉ tiêu của nhà nước trở nên lỗi thời không còn phù hợp với thời kỳ mới. Trước thực tế này mà tháng 12/1986, Đại hội VI của Đảng đã quyết định đổi mới một cách toàn diện, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Đại hội đã quyết định chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó ngày 25/9/1989 Nghị định số 17/HĐBT, Quyết định số 18/HĐBT cùng với các văn bản hướng dẫn được Hội đồng Nhà nước thông qua. Luật DS được ban hành ngày 28/10/1995, tiếp theo ngày 10/5/1997 Luật TM được Quốc Hội thông qua quy định về hợp đồng trong một số hành vi thương mại. Tuy nhiên thực tế cho thấy các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh thương mại thì pháp lệnh hợp đồng kinh tế vẫn là căn cứ chính. Dẫn đến tình trạng các quy định chồng chéo gây nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng, nội dung của các văn bản có nhiều điểm không thống nhất. Ngay khi đưa vào thực tiễn áp dụng, luật đã lộ rõ ra những điểm yếu. Hơn nữa trong giai đoan Việt Nam gia nhập là thành viên của WTO, pháp luật cần có những thay đổi theo những quy định mà WTO đề ra. Nên đến 14/6/2005 Quốc hội đã thông qua Bộ luật dân sự trong đó đã thống nhất điều chỉnh các mối quan hệ về hợp đồng nói chung, bên cạnh các văn bản pháp luật riêng đối với từng lĩnh vưc. Luật TM và các văn bản pháp luật có liên quan điều chỉnh đã được ra đời. 3.2. Nguồn luật điều chỉnh - Bộ luật dân sự được Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực thực hiện ngày 01/01/2006 là nguồn luật chung điều chỉnh hợp đồng. Đây là luật chung điều chỉnh, nêu nguyên tắc áp dụng chung về chủ thể, giao dich dân sự, nghĩa vụ dân sự được áp dụng các quan hệ hợp đồng dân sự (nghĩa hẹp) ,hợp đồng kinh doanh thương mại ...Trên cơ sở những quy định áp dụng chung thì có luật áp dụng riêng đối với từng lĩnh vực Luật TM, Luật LĐ. - Luật thương mại thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực thực hiện ngày 01/01/2006 được dùng cho các quan hệ hợp đồng trong hoạt động thương mại. Với hợp đồng mua bán hàng hóa,Luật TM đóng vai trò là luật riêng áp dụng, Luật dân sự là luật chung áp dụng. Trình tự áp dụng luật được tuân theo quy đinh chung, áp dụng luật riêng trước,nếu không có những quy định có liên quan thì sẽ áp dụng đến Luật chung tức là Luật DS. - Các văn bản khác có liên quan: hợp đồng thì được giao kết và thực hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau,vì vậy mỗi một lĩnh vực lại có luật chuyên ngành áp dụng như có thể liệt kê một số luật như: Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, Luật đấu thầu 2005, Luật chứng khoán 2006.... II_ Giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa 1_ Chế độ pháp lý về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa 1.1_ Nguyên tắc Việc giao kết hợp đồng thể hiện ý chí của 2 bên, việc giao kết là quyền tự do của các bên, nhưng vẫn cần tuân theo những nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo sự công bằng, cũng như sự điều chỉnh của pháp luật. Nguyên tắc được quy định từ điều 10 đến điều 15 tại Luật TM. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của các thương nhân trong hoạt động thương mại. Thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động thương mại ( điều 10_ Luật TM ) Nguyên tắc tự do,tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Trong quy định về chủ thể giao kêt trong hợp đồng mua bán đó là các doanh nhân,hoặc các tổ chức, cá nhân có giấy pháp kinh doanh…nguyên tắc này nhắm giúp cho các chủ thể khi tham gia giao kết thể hiện ý muốn của mình và bảo vệ lợi ích của bản thân.Đi kèm với nguyên tắc tự do giao kết, tự do thỏa thuận nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Trước hết là với các doanh nghiệp, các thương nhân khi tham gia giao kết cần phải đảm bảo có tư cách hợp pháp trước pháp luật,chịu trách nhiệm về bản thân mình trước đối tác và trước pháp luật. Việc giao kết không được trái pháp luật hay đạo đức xã hội, như việc giao dịch hang hóa bị pháp luật cấm…thì đều vi phạm nguyên tắc này. Lợi ích của cá nhân được đảm bảo đồng thời không làm xâm hại đến lợi ích của tập thể, của xã hội. Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt,cưỡng ép,đe dọa,ngăn cản bên nào. Nguyên tắc thứ ba là nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại đã được thiết lập giữa các bên đó mà các bên đã biết hoặc phải biết nhưng không được trái với quy định của pháp luật. Các nguyên tắc tiếp theo là nguyên tắc áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại. Tại điều 13_ Luật TM có quy định : trường hợp pháp luật không có quy định, các bên không có thỏa thuận và không có thói quen đã được thiết lập giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không được trái với những nguyên tắc quy định trong Luật TM và trong Bộ luật dân sự. Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng và thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại. 1.2_ Trình tự giao kết hợp đồng 1.2.1_ Đề nghị giao kết hợp đồng Theo khoản 1 điều 390 Luật dân sự có xác định: đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã xác định cụ thể. Đây là việc thể hiện ý chí của một bên mong muốn giao kết hợp đồng với chủ thể khác với những điều kiện mà phía bên chủ thể chủ động đề nghị đưa ra. Như vậy xét về mặt bản chất đây cũng có thể coi là là một lời chào hàng như trong thương mại. Nó mang có hiệu lực pháp luật nếu bên được đề nghị chấp nhận lời đề nghị. Trong lời đề nghị giao kết phải có những nội dung cơ bản cũng như những thông tin giống như trong nội dung hợp đồng nhằm đảm bảo bên được đè nghị có những thông tin cần thiết. Dù không có quy định cụ thể vầ nội dung của đơn chào hàng nhưng cũng có những nội dủng chủ yếu như: đối tượng , giá cả, chất lượng…Nhuwngc nội dung này cần chính xác đảm bảo cho những cơ sở ban đầu để bên được đề nghị xem xét việc tham gia giao kết. Bên đè nghị giao kết phải chịu trách nhiệm trước những nội dung đã đề nghị và mọi thay đổi trong nội dung đều phải nhận được sự chấp nhận của phía bên kia. Trong đề nghị giao kết cũng cần phân biệt với các loại khác tương tự như quảng cáo, …đều mang ý nghĩa chào hàng nhưng về mặt giá trị pháp lý thì chúng hoàn toàn là vô hiệu. Đối với đơn thư đề nghị giao kết hay chào hàng là gửi đến một hay nhiều chủ thể xác định, đã được xác định rõ với mục tiêu nhằm xác lập giao kết đối với chủ thể đó. Còn đối tượng mà việc quảng cáo, hay thư quảng cáo được gửi đến nhiều đối tượng không xác định, vì vậy không hề có giá trị về mặt pháp lý. Khi đó bên đề nghị giao kết sẽ chịu sự ràng buộc đối với bên đã được xác định cụ thể. Trong trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời,nếu bên đề nghị giao kết lại giao kết hợp đồng với một chủ thể thứ ba khác trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh. Đây chính là điều kiện ràng buộc của bên đề nghị đối với bên kia, trong trường hợp vi phạm theo đề nghị giao kết. Ngoài ra theo luật DS tại điều 391 có quy định thời điểm đề nghị giao kết có hiệu lực do bên đề nghị giao kết là người chủ động đề nghị ấn định. Nếu bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị đó. Đề nghị giao kết có thể được thay đổi, rút lại trong các trường hợp nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại trước hoặc cùng thời điểm nhận được đề nghị. Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh. Bên cạnh đó việc hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng nếu trong đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ quyền này trong đề nghị đồng thời phải thông báo cho bên được đề nghị và thông báo này có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận được thông báo trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đè nghị giao kết hợp đồng. Nếu không bên đề nghị giao kết sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu có thiệt hại xảy ra,nó cũng giống như trường hợp giao kết với bên thứ ba trước thời hạn bên được đề nghị giao kết trả lời. Theo điều 394 luật DS quy định chấm dứt đề nghị giao kết trong các trường hợp sau: _ Bên nhận được đề nghị giao kết trả lời không chấp nhận; _ Hết thời hạn trả lời chấp nhận; _ Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực; _ Khi thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực; _ Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời. 1.2.2_ Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng Việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng. Khi bên được đề nghị chấp nhận thì lúc này đề nghị giao kết hợp đồng được coi như là một thỏa thuận có sự ràng buộc giữa hai bên. Trong trường hợp mà bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó, nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết hạn trả lời thì chấp nhận này được coi như đề nghị mới của bên chậm trả lời. Trong trường hợp thông báo chấp nhận giao kết đến chậm viflys do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn còn hiệu lực trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị. 1.3_ Thời điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa Về thời điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, nguyên tắc chung hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết vào thời điểm các bên đạt được sự thỏa thuận. Thời điểm giao kết hợp đồng được quy định khác nhau phụ thuộc vào cách thức giao kết và hình thức của hợp đồng. Theo Điều 404 Bộ luật Dân sự 2005, có thể xác định thời điểm giao kết hợp đồng mua bán như sau: Hợp đồng được giao kết trực tiếp bằng văn bản: thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản. Hợp đồng được giao kết gián tiếp bằng văn bản (thông qua các tài liệu giao dịch): hợp đồng được giao kết khi bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng. Hợp đồng được giao kết bằng lời nói: thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Theo quy định hiện hành, hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác (Điều 405 Bộ luật DS 2005). 2_Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa 2.1_ Nguyên tắc thực hiện hợp đồng mua bán Sau khi hợp đồng được ký kết và có hiệu lực, các bên phải thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đã cam kết. Việc thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng cũng phải tuân thủ các nguyên tắc trong quá trình thực hiện hợp đồng đã ký kết. Việc thực hiện hợp đồng theo các thỏa thuận đã đề ra trong hợp đồng, cùng với các nguyên tắc giúp cả hai bên đều đảm bảo cho quyền lợi của mình, nhưng quyền lợi và lợi ích các bên không được ảnh hưởng đến lợi ích tập thể, cộng đồng, xã hội…tại điều 412_luật dân sự có có nêu các nguyên tắc thực hiện đối với hợp đồng dân sự nói chung cũng như hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung như sau: _ Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng,chất lượng, số lượng, chửng loại, thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác. Đây là một trong những nguyên tắc bắt buộc để đảm bảo hợp đòng được thực hiện đúng, nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của người mua cũng như người bán. Việc thực hiện theo nguyên tắc này giúp hai bên tránh xảy ra những tranh chấp dẫn đến thiệt hại và tranh chấp không nên có khi các bên tham gia hợp tác. Đồng thời để các bên có ý thức trách nhiệm đối với nhau, tạo nên tính chuyên nghiệp cho các doanh nghiệp, đặc biệt trong thời kỳ Việt Nam mở cửa ra thị trường thế giới. _ Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi cho các bên, bảo đảm tin cậy cho nhau. Do đây là thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa,có tính chất thương mại bởi vậy các bên khi tham gia giao kết đều nhằm mục đích lợi nhuận. Khi tham gia giao kết hợp đồng trong việc thỏa thuận các bên đều mong muốn đạt được những thỏa thuận có lợi cho phía mình nhất. Và ngay trong quá trình thực hiện hợp đồng cũng vậy. Chính vì vậy nguyên tắc này được đặt ra nhằm xác định mặc dù đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu nhưng các bên cần có tinh thần hợp tác giúp đõ lẫn nhau,có lợi cho các bên và tạo được sự tin cậy cho nhau để có thể hợp tác lâu dài. Trong một số trường hợp trên thực tế, khi một bên do có khó khăn trong quá trình thực hiện hợp đồng gây những thiệt hại cho bên kia , mà những khó khăn ấy là bất khả kháng, thì hai bên phải cùng nhau tìm cách giải quyết để giảm thiểu thiệt hại cho cả hai bên. _ Nguyên tắc cuối trong thực hiện hợp đồng là không được vi phạm đến lợi ích của Nhà nước,lợi ích cộng đồng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Khi các bên thực hiện hợp đồng nhằm tạo những lợi ích cho các bên, nhưng không làm ảnh hưởng đến lợi ích chủng của tập thể. Các doanh nghiệp đều đang tồn tại và hoạt động trong một môi trường chung, cùng nhau cạnh tranh và phát triển. Nếu môi trường đó bị ảnh hưởng bởi những nhân tố bên trong nó, trật tự chung sẽ bị phá vỡ, có thể ảnh hưởng chung đến các vấn đề khác trong xã hội như ngoài kinh tế còn có chính trị, xã hội… 2.2_ Nghĩa vụ các bên trong thực hiện hợp đồng Quyền và nghĩa vụ của các bên được xác định bởi hợp đồng giữa các bên và qui định của pháp luật. Luật thương mại 2005 đã qui định một cách cụ thể nhất quyền và nghĩa vụ của bên mua, bên bán. 2.2.1_ Nghĩa vụ của bên bán Bên bán có trách nhiệm thực hiện đúng theo những điều khoản đã quy đinh trong hợp đồng đối với việc hàng hóa. Các bên trong quá trình thỏa thuận ngoài những thỏa thuận đới với hàng hóa có những thỏa thuận đi cùng với giao nhận cũng như vận chuyển hàng hóa. Khi các bên thỏa thuận sẽ thỏa thuận về bên mà sẽ thực hiện các công việc có thể liên quan đến vận chuyển, giao hàng, thủ tục hải quan ( nếu có) ,bảo hiểm hàng hóa, trách nhiệm các bên khi có rủi ro xảy ra....Đi kèm với những thủ tục đó, có nhừng giấy tờ chứng từ có liên quan, và việc chuyển giao các chứng từ có liên quan. Các nghĩa vụ này được hai bên thỏa thuận với nhau, trong đó có những thỏa thuận đối với nghĩa vụ người bán như sau: * Giao hàng đúng đối tượng và chất lượng Bên bán có trách nhiệm giao hàng đúng đối tượng và chất lượng theo những điều khoản đã quy định trong hợp đồng. Mặc dù vậy, với hàng hóa có thể xác định và làm rõ, có thể xác định được theo hợp đồng, còn có một số hàng hóa cũng như mặt hàng hai bên cũng không thể thỏa thuận hay xác định được thì trong trường hợp này có thể dự vào những quy định của pháp luật. Theo điều 39 Luật thương mại 2005 có quy định đối với vấn đề này. Căn cứ vào hợp đồng không xác định rõ hàng hoá giao có phù hợp với hợp đồng không thì hàng hoá được coi là không phù hợp với hợp đồng nếu thuộc các trường hợp sau: - Không phù hợp với mục đích sử dụng thông thường của các hàng hóa cùng chủng loại; - Không phù hợp với bất kỳ mục đích cụ thể nào mà bên mua đã cho bên bán biết hoặc bên bán phải biết vào thời điểm giao kết hợp đồng; - Không bảo đảm chất lượng như chất lượng của mầu hàng hoá mà bên bán đã giao cho bên mua; - Không được bảo quản, đóng gói theo cách thức thông thường đối với loại hàng hoá đó hoặc không theo cách thức thích hợp để bảo quản hàng hoá trong trường hợp không có cách thức bảo quản thông thường. Trong trường hợp hàng hóa do bên bán cung cấp không phù hợp với chất lượng,chủng loại như đã yêu cầu thỏa thuận trong hợp đồng, thì bên mua có quyền không nhận hàng hóa đó. Và trách nhiệm đối với hàng hóa không phù hợp với hợp đồng được quy định tại điều 40_Luật thương mại. Trước hết bên bán không chịu trách nhiệm về bất kỳ khiếm khuyết của hàng hoá nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng bên mua có biết hoặc cần phải biết những khiếm khuyết đó. Như vậy có nghĩa là trong qua trình giao nhận hàng hóa bên mua có trách nhiệm kiểm tra hàng hóa để đảm bảo về số lượng cũng như chất lượng theo yêu cầu. Khi đó nếu phát hiện ra hàng hóa không phù hợp với hợp đồng thì bên bán sẽ có trách nhiệm đối với số hàng hóa đó. Còn đối với trường hợp mà trong lúc giao kết hợp đồng hay thực hiện hợp đồng bên mua không đáng ra phải biết hoặc cần phải biết đối với khiếm khuyết của hàng ._.hóa thì bên bán sẽ không chịu trách nhiệm với hàng hóa không phù hợp. Trong thời hạn khiếu nại theo qui định (trừ trường hợp bên mua đã biết hoặc cấn phải biết về những khiếm khuyết của hàng hoá), bên bán phải chịu trách nhiệm về bất kỳ khiếm khuyết nào của hàng hoá đã có trước thời điểm chuyển rủi ro cho bên mua, kể cả trường hợp khiếm khuyết đó được phát hiện sau thời điểm chuyển rủi ro. Trường hợp bên bán giao thiếu hàng, giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì phải khắc phục theo qui định tại Điều 41_ Luật thương mại 2005. Ngược lại, trường hợp bên bán giao thừa hàng bên mua có quyền từ chối hoặc chấp nhận số hàng đó. Nếu bên mua chấp nhận số hàng thì phải thanh toán theo giá thoả thuận trong hợp đồng nếu các bên không có thoả thuận khác. * Giao chứng từ kèm theo hàng hoá Việc giao hàng đi kèm với đó bao gồm cả việc giao các chứng từ liên quan đến hàng hóa như chứng từ chứng nhận chất lượng hàng hóa, chứng từ nêu rõ xuất xứ,vận đơn...Tại thời điểm giao hàng các loại chứng từ đi kèm được giao cho bên bán đồng thời các loại giấy tờ có liên quan mà phương thức thanh toán mà hai bên yêu cầu. Thông thường khi giao hàng hóa thì việc giao chứng từ sẽ được thực hiện đồng thời lúc đó để đảm bảo cho quyền lợi của bên mua. Ngoài ra các bên có thể thỏa thuận với nhau về thời gian và địa điểm giao nhận chứng từ. Ngoài những quyền và nghĩa vụ trên, bên bán có nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu đối với hàng hóa, đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hoá theo qui định tại Điều 45, 46_ Luật thương mại 2005. * Địa điểm giao hàng Theo Điều 35_ Luật thương mại 2005, bên bán có nghĩa vụ giao hàng đúng địa điểm đã thoả thuận, trường hợp không có thoả thuận về địa điểm giao hàng thì địa điểm giao hàng được xác định như sau: - Trường hợp hàng hoá là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao hàng tại nơi có hàng hoá đó; - Trường hợp trong hợp đồng có qui định về vận chuyển hàng hóa thì bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên; - Trường hợp hợp đồng không có qui định về vận chuyển hàng hoá, nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng, các bên biết được địa điểm kho chứa hàng, địa điểm xếp hàng hoặc nơi sản xuất, chế tạo hàng hoá thì bên bán phải giao hàng tại địa điểm đó; - Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại địa điểm kinh doanh của bên bán, nếu không có địa điểm kinh doanh thì phải giao hàng tại nơi cư trú của bên bán được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng. * Giao hàng đúng thời hạn Đây là một trong những nghĩa vụ quan trọng trong việc thực hiện hợp đồng của bên bán. Việc giao hàng có đúng thời hạn hay không có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của bên mua. Thời điểm giao hàng được quy định trong hợp đồng. Trong thời hạn giao hàng bên bán có thể giao hàng bất kỳ thời gian nào trước thời điểm giao hàng. * Kiểm tra hàng hoá trước khi giao hàng. Trong thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa, khâu giao nhận hàng hóa là khâu quan trọng. Những sai sót hay nhầm lẫn trong khâu này đều có thể dẫn đến tồn hại cho các bên, và những tranh chấp giữa các bên phần lớn do khâu này mà ra. Vì vậy việc kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng là một việc làm vô cùng cần thiết, và được quy định trong Luật dân sự điều 44. * Rủi ro đối với hàng hoá Trách nhiệm đối với hàng hóa bị hư hỏng xác định theothowif điểm chuyển rủi ro giữa hai bên. Do đó Luật thương mại 2005 đã qui định về thời điểm chuyển rủi ro và các bên trong hợp đồng sẽ phải áp dụng nếu họ không thỏa thuận vấn đề này trong hợp đồng: - Chuyển rủi ro trong trường hợp địa điểm giao hàng xác định (Điều 57_ Luật thương mại 2005); - Chuyển rủi ro trong trường hợp không có địa điểm giao hàng xác định (Điều 58_ Luật thương mại 2005); - Chuyển rủi ro trong trường hợp giao hàng cho người nhận hàng để giao mà không phải là người vận chuyển (Điều 59_ Luật thương mại 2005); - Chuyển rủi ro trong trường hợp người mua bán hàng hoá đang trên đường vận chuyển (Điều 60_ Luật thương mại 2005); - Chuyển rủi ro trong các trường hợp khác (Điều 61_ Luật thương mại 2005). * Bảo hành hàng hoá Tại điều 49_ Luật thương mại 2005 có quy định nghĩa vụ bảo hành hàng hóa đối với bên bán. Trong trường hợp hàng hóa mua bán có bảo hành thì bên bán phải chịu trách nhiệm bảo hành hàng hóa đó theo nội dung và thời hạn đã thỏa thuận. Thời gian bảo hành đối với mỗi mặt hàng thì đều khác nhau, tuy thuộc vào mặt hàng đó. Thông thường thời gian bảo hành với từng ngành sản phẩm hàng hóa cùng chủng loại là giống nhau, nhưng chế độ bảo hành của mỗi doanh nghiệp lại khác nhau. Bên bán có phải chịu trách nhiệm bảo hành hàng hóa đó theo nội dung và thời hạn đã thỏa thuận. Bên bán phải thực hiện nghĩa vụ bảo hành trong thời gian ngắn nhất mà hoàn cảnh thực tế cho phép. Vì việc bảo hành là nghĩa vụ của bên bán, nên việc khắc phục hậu quả là việc cần làm để nhanh chóng khắc phục. Ngoài ra, bên bán phải chịu các chi phí về việc bảo hành, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Thông thường các bên khi tham gia thỏa thuận thì bên bán có nghĩa vụ bảo hành ở mức độ phạm vi nào thì bên bán sẽ chỉ chịu trách nhiệm bảo hành ở mức độ đó. 2.2.2_ Nghĩa vụ cơ bản của bên mua *. Nhận hàng Nhận hàng được hiểu là việc bên mua tiếp nhận trên thực tế hàng hóa từ bên bán. Khi nhận hàng bên mua có nghĩa vụ nhận hàng theo thoả thuận và thực hiện những công việc hợp lý để giúp bên bán giao hàng. Những việc này có thể khác nhau trong những trường hợp cụ thể như hỗ trợ bên bán về thủ tục giao hàng, hướng dẫn về phương thức vận chuyển, điều kiện bốc dỡ hàng hoá… Khi bên bán giao hàng theo đúng hợp đồng mà bên mua không tiếp nhận thì bị coi là vi phạm hợp đồng và phải chịu các biện pháp chế tài theo thoả thuận hoặc theo qui định của pháp luật. * Thanh toán Thanh toán là nghĩa vụ cơ bản, quan trọng nhất của bên mua trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá. Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thoả thuận. Các bên có thể thoả thuận về điều khoản thanh toán như: phương thức, thời hạn, địa điểm thanh toán, trình tự thủ tục thanh toán… Trường hợp các bên không có thoả thuận này thì sẽ tuân theo qui định của pháp luật. Luật thương mại 2005 đã dự liệu một số vấn đề sau đây về điều khoản thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hoá. - Địa điểm thanh toán: Trường hợp không có thoả thuận về địa điểm thanh toán cụ thể thì bên mua phải thanh toán cho bên bán tại một trong các địa điểm sau: - Địa điểm kinh doanh của bên bán được xác định vào thời điểm giao kết hợp đồng, nếu không có địa điểm kinh doanh thì tại nơi cư trú của bên bán; - Địa điểm giao hàng hoặc giao chứng từ, nếu việc thanh toán được tiến hành đồng thời với việc giao hàng hoặc giao chứng từ. - Thời hạn thanh toán: Điều 55_ Luật thương mại 2005 qui định, trừ trường hợp có thoả thuận khác, thời hạn thanh toán được qui định như sau: - Bên mua phải thanh toán cho bên bán vào thời điểm bên bán giao hàng hoặc giao chứng từ liên quan đến hàng hoá; - Bên mua không có nghĩa vụ thanh toán cho đến khi có thể kiểm tra xong hàng hoá trong thoả thuận theo qui định tại Điều 44_ Luật thương mại 2005. -Chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán: Điều 306_ Luật thương mại 2005 qui định, trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có qui định khác. -Ngừng thanh toán: Bên mua có quyền ngừng thanh toán trong các trường hợp sau: - Bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối; - Bên mua có bằng chứng về việc hàng hoá đang là đối tượng bị tranh chấp thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi vụ tranh chấp đã được giải quyết; - Bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán khắc phục được sự không phù hợp đó. Tuy nhiên việc tạm ngừng thanh toán vì hàng hoá là đối tượng của tranh chấp hoặc hàng hoá giao không phù hợp với hợp đồng mà bằng chứng do bên mua đưa ra không xác thực, gây thiệt hại cho bên bán thì bên mua phải bồi thường thiệt hại đó và chịu các chế tài khác theo qui định của pháp luật. 2.3_ Biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng Để ràng buộc và tăng cường trách nhiệm trong việc thực hiện hợp đồng, các bên có thể thoả thuận áp dụng các biện pháp bảo đảm. Trong hợp đồng mua bán hàng hoá, tuỳ theo tính chất và nội dung của hợp đồng mà các bên có quyền áp dụng một hoặc các biện pháp bảo đảm theo qui định tại Điều 318_ Bộ luật dân sự 2005 như cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký quỹ, ký cược, bảo lãnh. Tuy nhiên các bên có quyền thay đổi, huỷ bỏ biện pháp bảo đảm nghĩa vụ. Đối với những trường hợp pháp luật có qui định biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì người có nghĩa vụ phải thực hiện biện pháp bảo đảm đó hoặc những trường hợp pháp luật không cho phép thay đổi, huỷ bỏ biện pháp bảo đảm thì không được thay đổi huỷ bỏ biện pháp bảo đảm đã áp dụng. * Cầm cố tài sản: Cầm cố tài sản là việc một bên (bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Việc cầm cố tài sản phải được lập thành văn bản, có thể thành lập văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Nội dung của cầm cố tài sản được qui định từ Điều 326 đến Điều 341_ Bộ luật dân sự 2005. * Thế chấp tài sản: Thế chấp tài sản là việc một bên (bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đối với bên kia (bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. (Điều 342 đến Điều 357_ Bộ luật dân sự 2005). * Đặt cọc: Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quí hoặc vật có giá trị khác (tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để đảm bảo giao kết hoặc thực hiện hợp đồng (Điều 358_ Bộ luật dân sự 2005). Việc đặt cọc phải được lập thành văn bản. * Ký cược: Ký cược là việc bên thuê tài sản là động sản giao cho bên thuê một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc vật có giá trị khác (tài sản ký cược) trong một thời hạn để đảm bảo việc trả lại tài sản thuê (Điều 359_ Bộ luật dân sự ). * Ký quỹ: Ký quỹ là việc bên mua có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc giấy tờ có giá khác vào tài khoản tại ngân hàng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ (Điều 360_ Bộ luật dân sự 2005). * Bảo lãnh: Bảo lãnh là việc người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ (Điều 361 đến Điều 371_ Bộ luật dân sự 2005). 3_ Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá Các bên khi đã giao kết hợp đồng thì phải thực hiện nghĩa vụ khi hợp đồng có hiệu lực. Việc một bên không thực hiện nghĩa vụ sẽ phải chịu những chế tài do pháp luật quy định. Quy định về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng vì nó đảm bảo cho hợp đồng được thực hiện trong thực tế, ngăn ngừa và hạn chế vi phạm hợp đồng, đảm bảo quyền lợi cho các bên khi tham gia ký kết hợp đồng cũng như đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật về mua bán hàng hóa. 3.1_ Căn cứ áp dụng trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá Để áp dụng trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa phải dựa vào các căn cứ do pháp luật quy định. Đó là các căn cứ sau đây: - Có hành vi vi phạm hợp đồng Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa là xử sự của một bên chủ thể của hợp đồng không phù hợp với hợp đồng đã giao kết. Đó là việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng. Tuy nhiên khi thực hiện không những phải thực hiện các nghĩa vụ đã ký trong hợp đồng mà còn phải thực hiện theo những quy định của pháp luật do đó nếu căn cứ để áp dụng trách nhiệm cần phải căn cứ vào hợp đồng và có xem xét quy định của pháp luật - Bên vi phạm có lỗi Để áp dụng chế tài này thì nhất thiết bên vi phạm phải có lỗi. Khi xác định lỗi của chủ thể là tổ chức vi phạm hợp đồng để áp dụng trách nhiệm hợp đồng phải căn cứ vào lỗi của người đại diện tổ chức đã giao kết và thực hiện hợp đồng. Mọi hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng đều bị suy đoán là có lỗi (trừ trường hợp bên vi phạm chứng minh được là mình không có lỗi). Do đó khi áp dụng chế tài đối với bên vi phạm, bên bị vi phạm cũng như cơ quan tài phán không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên vi phạm. Đối với trường hợp vi phạm này có thể áp dụng hình thức buộc thực hiện đúng hợp đồng hoặc phạt vi phạm. Mức tiền phạt do hai bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá quy định của pháp luật. LTM quy định mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. - Có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra Thiệt hại vật chất thực tế là những thiệt hại có thể tính được thành tiền mà bên bị vi phạm hợp đồng phải gánh chịu. Thiệt hại có hai loại là thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp. Thiệt hại trực tiếp là những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế, có thể tính một cách dễ dàng và chính xác. Biểu hiện của nó là tài sản bị mất mát, hư hỏng, chi phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra. Thiệt hại gián tiếp là những thiệt hại phải dựa trên sự suy đoán khoa học (trên cơ sở những chứng cứ, tài liệu) mới có thể xác định được. Biểu hiện cụ thể của thiệt hại này là thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút, khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu. Đối với hợp đồng trong thương mại, LTM quy định về các khoản thiệt hại do vi phạm hợp đồng bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Nếu bên vi phạm chậm thanh toán tiền thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với số tiền chậm trả. - Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế. Mối quan hệ nhân quả ở đây tức thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi vi phạm hợp đồng. Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra không phải là dễ dàng bởi trong thực tế các chủ thể có thể tham gia nhiều mối quan hệ cùng một lúc. Do đó khi xác định thiệt hại phải dựa trên những chứng cứ rõ ràng, xác thực và hợp pháp. Khi có thiệt hại xảy ra, và thiệt hại đó có mối quan hệ nhân quả với hành vi vi phạm thì có thể áp dụng hình thức bồi thường thiệt hại. Bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại vật chất cho bên bị vi phạm, tuy nhiên các khoản thiệt hại đòi bồi thường phải nằm trong phạm vi mà pháp luật cho phép. Bên yêu cầu bồi thường phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra; nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt hại không áp dụng các biện pháp đó, bên vi phạm có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được. Các bên có thể thỏa thuận chỉ nộp tiền phạt mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phạt vi phạm hợp đồng vừa phải bồi thường thiệt hại. LTM quy định, trong trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại. Ngoài các hình thức trách nhiệm trên, các bên có thể áp dụng các hình thức như tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng. Khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng thì các bên có thể áp dụng các hình thức này 3.2. Các trường hợp miễn trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa Khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa, có nhiều trường hợp không phải chịu các hình thức chế tài mà pháp luật quy định. Đó là khi thuộc một trong các trường hợp các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Theo LTM 2005 (Điều 294), ngoài các trường hợp miễn trách mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng, bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mua bán còn được miễn trách trong các trường hợp sau: (i) khi xảy ra sự kiện bất khả kháng; (ii) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; (iii) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Khi xảy ra sự kiện bất khả kháng, đối với những trường hợp mua bán có thời hạn cố định về giao hàng, các bên có quyền không thực hiện hợp đồng và không bị áp dụng các chế tài vi phạm hợp đồng. Trường hợp hợp đồng mua bán có thỏa thuận giao hàng trong một thời hạn, các bên có thể thỏa thuận kéo dài thời hạn hoặc không thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một thời gian bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc phục hậu quả nhưng không được kéo dài quá các thời hạn sau đây: - Năm tháng đối với hàng hóa mà thời hạn giao hàng được thỏa thuận trong hợp đồng không quá mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng; - Tám tháng đối với hàng hóa mà thời hạn giao hàng được thỏa thuận trên mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng . Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp được miễn trách và phải thông báo cho bên kia biết cùng những hậu quả xảy ra. Nếu không thông báo kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại. 4_ Giải quyết tranh chấp Trong kinh doanh, các bên luôn cố gắng để hạn chế các tranh chấp xảy ra, nhưng vì một lý do khách quan nào đó mà làm cho một trong hai bên không đạt được mục đích mà dẫn đến tranh chấp xảy ra. Và khi tranh chấp xảy ra thì vấn đề đầu tiên là tìm cách để giải quyết tranh chấp. Để điều chỉnh các bất đồng, các xung đột dựa trên những căn cứ và bằng các phương thức khác nhau do các bên đã lựa chọn từ khi giao kết hợp đồng hoặc khi xảy ra tranh chấp mới thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh chấp đó. Các phương thức đó phải được pháp luật thừa nhận. Theo quy định tại Điều 317 LTM 2005, các phương thức giải quyết tranh chấp trong thương mại bao gồm: (1) thương lượng giữa các bên; (2) hòa giải giữa các bên; (3) giải quyết tại trung tâm trọng tài hoặc tòa án. 4.1. Thương lượng giữa các bên Khi xảy ra tranh chấp, phương thức đầu tiên mà các bên thường hay lựa chọn là thương lượng. Phương thức này thể hiện được bản chất của giao kết hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên. Nó cũng là phương thức nhanh gọn và đảm bảo lợi ích của các bên được hài hòa hơn. Thương lượng có thể được tiến hành độc lập hoặc tiến hành cùng với quá trình tố tụng tại Trung tâm trọng tài hoặc Tòa án. Đối với thương lượng độc lập: Nghĩa vụ của các bên phải tiến hành trong quá trình thương lượng được quy định trong điều khoản về giải quyết tranh chấp. Do đó các bên phải tiến hành như là một điều khoản trong hợp đồng. Kết quả thương lượng được coi như một thỏa thuận mới về vấn đề tranh chấp, các bên phải đảm bảo được sự tự nguyện trong thỏa thuận theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên đối với phương thức này thì kết quả thỏa thuận khó được thi hành trong thực tế nên không có lợi cho bên thắng kiện. Đối với thương lượng được tiến hành theo thủ tục trọng tài hoặc Tòa án thì theo yêu cầu của các bên, trọng tài viên, thẩm phán có thể ra văn bản công nhận kết quả thỏa thuận của các bên sau quá trình thương lượng. Văn bản này có giá trị như một quyết định của Trọng tài hay Tòa án. 4.2. Hòa giải giữa các bên Hòa giải là quá trình giải quyết tranh chấp mang tính chất riêng tư, trong đó có hòa giải viên là người thứ ba làm trung gian giúp các bên đạt được sự thỏa thuận. Với phương thức này, các bên có thể giải quyết tranh chấp một cách thân thiện và có thể tiếp tục giữ vững mối quan hệ trong kinh doanh; hạn chế tối đa sự hao phí thời gian và tiền của vào việc giải quyết tranh chấp nếu nó được tiến hành theo thủ tục tố tụng trọng tài hoặc tòa án; ngoài ra, nó không phải là quá trình tố tụng công khai nên đảm bảo giữ vững được các bí mật trong thương mại mà các bên không muốn cho người ngoài biết. Giữ vững uy tín và danh dự cho các bên. Do bản chất của hòa giải là sự tự nguyện thỏa thuận nên kết quả thỏa thuận không có tính chất bắt buộc thi hành cao như giải quyết tại Trung tâm trọng tài hay Tòa án. 4.3. Giải quyết tại Trung tâm trọng tài Cũng như hai phương thức giải quyết trên đây thì phương thức giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài được các bên lựa chọn nhiều nhất bởi những ưu điểm của phương thức này có thể được kể đến đó là: Đỡ tốn kém về thời gian bởi đây là phương thức giải quyết nhanh gọn và quyết định của trọng tài là chung thẩm nên không dây dưa kiện đi kiện lại, trừ các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu và cần được giải quyết tại Tòa án. Và nó cũng đảm bảo tính khách quan, trung lập của trọng tài. Phán quyết của trọng tài có hiệu lực thi hành cao bởi nó được Tòa án công nhận và cho thi hành qua một thủ tục tư pháp. Ngoài ra phương thức này cũng đảm bảo bí quyết kinh doanh của các bên vì nó không phải là phương thức giải quyết công khai như giải quyết tại Tòa án. Để thỏa thuận trọng tài có hiệu lực và được giải quyết tại Trung tâm trọng tài thì phải có đủ các điều kiện sau: + Tranh chấp phải phát sinh từ hoạt động thương mại thương mại. Các hoạt động thương mại được liệt kê ở Khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh trọng tài năm 2003. + Trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có Thỏa thuận trọng tài. Nếu các bên không có thỏa thuận trọng tài mà khi xảy ra tranh chấp lại có thỏa thuận trọng tài thì cũng được áp dụng hình thức này, tuy nhiên phải thỏa thuận giải quyết tại trọng tài trước khi các bên khởi kiện lên trung tâm trọng tài. + Người ký kết thỏa thuận trọng tài có năng lực ký kết theo quy định của pháp luật. Đó là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có thẩm quyền ký kết thỏa thuận đó. Tuy nhiên trong trường hợp nếu người ký thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết và khi phát sinh tranh chấp mà một bên có yêu cầu tòa án giải quyết, thì tòa án yêu cầu người có thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài cho biết ý kiến bằng văn bản họ có chấp nhận thỏa thuận trọng tài đó hay không. Nếu họ chấp nhận thì trường hợp này thỏa thuận trọng tài không vô hiệu và vụ tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài theo thủ tục chung. + Bên ký kết thỏa thuận trọng tài không bị lừa dối, bị đe dọa. + Thỏa thuận trọng tài phải quy định rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp, nếu không quy định rõ thì sau đó phải có thỏa thuận bổ sung. + Thỏa thuận trọng tài phải được lập theo hình thức do pháp luật quy định: “Thỏa thuận trọng tài phải được lập thành văn bản. Thỏa thuận trọng tài thông qua thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài được coi là thỏa thuận trọng tài bằng văn bản” 4.4. Giải quyết tại Tòa án Tòa án là cơ quan chủ yếu giải quyết các tranh chấp, bất đồng không những chỉ trong hoạt động kinh doanh thương mại mà còn các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội. Tuy nhiên đối với từng lĩnh vực thì có một tòa chuyên trách cho lĩnh vực đó giải quyết. Đối với lĩnh vực kinh doanh thương mại thì tòa kinh tế sẽ chịu trách nhiệm giải quyết. Những tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án được quy định tại Điều 29 – Bộ Luật tố tụng dân sự 2004. Để được giải quyết theo phương thức này thì không nhất thiết các bên phải thỏa thuận trước đó sẽ giải quyết tại Tòa án. Khi có tranh chấp xảy ra, nguyên đơn có quyền khởi kiện ra Tòa án nếu các bên không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Với phương thức giải quyết này ta có thể thấy được những ưu điểm đó là phán quyết của Tòa án có tính cưỡng chế thi hành cao. Tuy nhiên phương pháp này lại là phương pháp giải quyết công khai nên bất lợi cho các bên, đặc biệt là những lĩnh vực kinh doanh cần phải giữ bí mật cho bí quyết kinh doanh của mình. Ngoài ra, khi đã giải quyết được tranh chấp thì các bên khó có thể giữ được mối quan hệ trong kinh doanh như trước đây đã từng có. Mỗi phương thức giải quyết đều có ưu nhược điểm riêng, vì vậy khi ký hợp đồng các bên nên lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp, có lợi nhất cho các bên và đảm bảo sự công bằng, bình đẳng sau khi giải quyết tranh chấp. CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VÈ VIỆC GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN VIỆT KIM I_Tổng quan về công ty cổ phần Việt Kim 1_ Giới thiệu chung 1.1_Giới thiệu chung về công ty cổ phần Việt Kim Tiền thân công ty cổ phần Việt Kim là công ty TNHH Việt Kim được thành lập và bắt đầu đi vào hoạt động vào năm 1995. Khi mới thành lập thì công ty TNHH Việt Kim được đặt trụ sở tại số 26 đường Cộng Hòa – Quận Tân Bình – Thành Phố Hồ Chí Minh, là nhà phân phối độc quyền của hãng điều hòa nhiệt độ Daikin tại miền Nam với tổng số cán bộ công nhân viên là 6 người. Với khởi điểm ban đầu là hạn chế về mặt số lượng cán bộ, cùng với những khó khăn về đặc điềm ngành nghề. Vào thời kỳ khi công ty Việt Kim mới thành lập, với hoạt động chính là cung cấp các sản phẩm cao cấp của hàng Daikin như tủ lạnh, điều hòa…Xét trên mặt bằng chung, Việt Nam lúc đó vẫn đang trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế nên nền kinh tế còn hạn hẹp và khó khăn. Lúc đấy những sản phẩm mà hãng đưa ra cũng như những kỳ vọng chung là chưa đạt được. Bởi những sản phẩm của công ty tuy là vật dụng gia đình, nhưng so với mức thu nhập chung và nhu cầu chưa phù hợp với người dân Việt Nam lúc đó. Từ những khó khăn ban đầu đó, đây là những khó khăn về mặt thị trường. Hơn nữa khi đó, sự phát triển kỹ thuật của đội ngũ nhân viên chưa cao, dẫn đến 1 tình trạng đó là số lượng đã hạn chế, cả về chất lượng trình độ kỹ thuật cũng không cao. Chính từ những khó khăn ban đầu này, công ty Việt Kim đã tìm ra những biện pháp nhằm thoát khỏi tình trạng nói trên. Trước hết công ty chú trọng vào đào tạo chuyên môn cho đội ngũ kỹ thuật sẵn có. Ngoài lực lượng công nhân viên có từ trước, công ty đã nâng lên về mặt số lượng công nhân viên. Cùng đó là việc tổ chức những khóa đào tạo kỹ thuật trong nước do công ty tự tổ chức hoặc phối hợp với các cơ quan khác nhằm nâng cao kinh nghiệm, tay nghề. Ngoài ra công ty cũng tổ chức những đợt học ngắn hạn cho cả nhân viên cà công nhân ở nước ngoài và chủ yếu là ở Nhật, nơi sản phẩm được phân phối chính thức. Cùng với sự tích cực của đội ngũ lãnh đạo trong nâng cao trình độ quản lý thì đội ngũ công nhân viên cũng có sự thay đổi vượt bậc, tạo nên bộ mặt mới để đối mặt với thị trường còn nhiều khó khăn và thách thức. Một số hoạt động huấn luyện và đào tạo của công ty trong quá trình hoạt động của công ty có thể kể đến: Từ ngày 16/12 đến ngày 21/12 năm 2002, tại Khách sạn Kim đô – TP Hồ Chí Minh, công ty DAIKIN ASIA SERVICING đã tổ chức lớp huấn luyện thiết kế và lắp đặt hệ thống VRV cho cán bộ nhân viên công ty Việt Kim và đại diện các công ty Tư vấn - Thiết kế - Thấu thi công. Nội dung bao gồm lý thuyết và thực hành trên các thiết bị giả lập, kèm theo phần tham khảo thực tế các công trình đã được lắp đặt hệ thống VRV của hãng Daikin. Chương trình thực sự sinh động kèm theo các phần mềm tính tải, thiết kế tự động của hãng Daikin. Các hướng dẫn viên đã trình bày các phương pháp tiên tiến nhất để quan sát - chẩn đoán lỗi – sự cố bằng các bài giảng nghiêm túc và các thiết bị mới nhất. Từ ngày 16/3/2003 – 25/5/2003 Công ty đã tổ chức khóa đào tạo về kỹ thuật điện lạnh. Khóa đào tạo nhằm mục đích củng cố lý thuyết về hệ thống lạnh cho CBCNV, qua đó nâng cao kỹ năng lắp đặt và xử lý đối với máy ĐHNĐ hiệu Daikin phù hợp với nhịp độ phát triển của công ty. Ngày 28/6/2003 toàn thể công ty đã tổ chức lễ tốt nghiệp cho một số cán bộ công nhân viên trong công ty và trao tặng một số phần thưởng đặc biệt cho các cán bộ công nhân viên có kết quả tốt. Điều này nhằm động viên cán bộ công nhân viên trong công ty tiếp tục cố gắng để đạt được những thành quả cao trong quá trình làm việc, và thể hiện những ưu đãi của công ty. Ngày 25/6/2003 tại khách sạn Omni – TP Hồ Chí Minh, công ty DAIKIN ASIA SERVICING đã tổ chức huấn luyện nghiệp vụ bán hàng và hướng dẫn sử dụng hệ thống điều khiển tự động cho cán bộ công nhân viên công ty Việt Kim. Bằng các công cụ minh họa như hệ thống thực, các giảng viên đã giúp CBCNV hiểu rõ và nắm chắc hơn các tính năng tiên tiến mà hệ thống này mang lại. Chính từ những việc làm như trên đã giúp công ty Việt Kim có 1 bộ mặt hoàn toàn mới. Tuy nhiên như vậy thì chưa đủ, bởi hạn chế lớn nhất ảnh hưởng đến sự phát triển của công ty đó chính là thị trường hẹp, và sự chưa được biết đến của công ty, các sản phẩm của công ty. Việt Kim đã tạo ra những thay đổi lớn bằng cách quảng bá sản phẩm đến người tiêu dùng. Ngày 18/11/1996 công ty Việt Kim đã mở showroom tại 258 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa Quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh và hiện nay đã trở thành trụ sở chính của công ty. Đây chính là bước đi đầu tiên trong việc nhằm phát triển theo chiến lược của công ty. Cùng với giai đoạn mới phát triển của kinh tế nước nhà, đồng thời là sự chuẩn bị kỹ lưỡng trình độ kỹ thuật, Việt Kim đã thoát ra khỏi những khó khăn ban đầu, dần dần có những bước phát triển đầu tiên. Với lợi thế ban đầu sẵn có đó là số vốn ban đầu lớn 10 tỉ đồng, Việt Kim bắt đầu là một công ty có quy mô vốn khá lớn, công ty đã nhanh chóng cùng đó phát huy được ưu thế này và ngày càng mở rộng được thị trường của mình. Từ 1 công ty chưa có tên tuổi, công ty Việt Kim đã tự xây dựng cho mình 1 danh tiếng mới, khẳng định tên tuổi của mình. Việt Kim tự hào có sản phẩm có chất lượng đảm bảo, cùng thái độ phục vụ hết mình, trình độ kỹ thuật của công nhân viên. Vì vậy với từ khởi đầu là xây dựng trụ sở chính tại Sài Gòn, công ty mở rộng mạng lưới rộng vươn tới khu vực miền Trung và miền Nam. Do yêu cầu phát triển công ty đã mở thêm hai chi nhánh tại Hà Nội và tại Đà Nẵng nhằm đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường. Sự cố gắng hết mình của tập thể ban lãnh đạo cũng như của đội ngũ cán bộ nhân viê._. sửa chữa này do Bên bán chịu. Điều 6: Chấm dứt, đơn phương chấm dứt, phạt vi phạm hợp đồng và thanh lý hợp đồng Một bên được xem là vi phạm hợp đồng khi vi phạm bất kỳ quyền và nghĩa vụ nào theo quy định của hợp đồng này và bên bị vi phạm đã có thông báo nhắc nhở đến lần thứ hai mà vẫn không hành tiến khắc phục hoàn tất toàn bộ vi phạm. Phạt vi phạm hợp đồng: Trong trường hợp một trong hai bên vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào theo quy định của hợp đồng này, thì bên vi phạm phải chịu phạt vi phạm hợp đồng với mức tối đa là 10% giá trị vi phạm nhưng không vượt quá 10% giá trị hợp đồng. Bên bán có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng và ngoài chế tài Bên mua phải chịu trước Bên bán theo quy định tại Khoản 6.1, 6.2 Điều này và các chế tài khác theo quy định của hợp đồng, Bên mua còn bị mất toàn bộ số tiền đã đặt cọc theo quy định tại Điểm (a) Khoản 3.4 Điều 3 hợp đồng cho Bên bán cho một trong các trường hợp sau: Sau khi Bên mua đã thực hiện việc đặt cọc nhưng sau đó tự ý hủy hợp đồng; Sau 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo giao hàng mà không thực hiện việc thanh toán theo quy định tại Khoản 3.4(b). Bên mua đã thanh toán đợt 1 nhưng từ chối nhận hàng mà không do lỗi của Bên bán. Hợp đồng này chấm dứt khi: Hai bên đã hoàn thành các nghĩa vụ theo hợp đồng này. Hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Khi hai bên đã hoàn thành việc giao nhận hàng hóa và Bên mua đã thanh toán đầy đủ , đúng hạn toàn bộ tiền hàng cho Bên bán, thì xem như hợp đồng đã được thanh lý xong mà hai bên không cần lập một văn bản thanh lý riêng lẻ. Riêng điều khoản bảo hành liên quan giữa hai bên sẽ tiếp tục có giá trị cho đến khi hết hạn bảo hành. Điều 7: Sửa đổi, bổ sung và phụ lục hợp đồng Trong quá trình thực hiện, hai bên có thể tiến hành sửa đổi, bổ sung một số điều khoản trong hợp đồng này nhưng việc sửa đổi phải lập thành văn bản, có chữ ký xác nhận của người có thẩm quyền của hai bên thì mới có giá trị pháp lý. Các văn bản như phụ lục hợp đồng, biên bản giao nhận hàng hóa, phiếu bảo hành…nếu có là một phần không tách rời của hợp đồng. Điều 8: Điều khoản chung: Những vấn đề nào hai bên chưa thỏa thuận trong hợp đồng này, khi có phát sinh tranh chấp thì các văn bản pháp luật tương ứng của nước CHXHCNVN sẽ được lấy làm căn cứ điều chỉnh. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có bất kỳ vấn đề gì phát sinh mới hoặc khó khăn, hai bên sẽ cùng nhau trao đổi, bàn bạc tìm cách giải quyết. Trường hợp xảy ra tranh chấp, hai bên sẽ chọn Tòa án nhân dân TP. Hà Nội để giải quyết. Hợp đồng này gồm 06 trang, được lập thành 04 bản bằng tiếng Việt, mỗi bên giữ 02 bản để thực hiện và có giá trị như nhau, có hiệu lực từ ngày ký cho đến khi hai bên thanh lý xong hợp đồng. ĐAI DIỆN BÊN MUA ĐẠI DIỆN BÊN BÁN (CNHN CÔNG TY CỔ PHẦN VIỆT KIM) *Nội dung của hợp đồng: Nội dung của hợp đồng là những gì các bên thỏa thuận và pháp luật quy định đối với một hợp đồng. Nội dung của hợp đồng có giá trị pháp lý nếu bảo đảm đầy đủ các nội dung mà pháp luật quy định. Luật Thương mại 2005 không quy định về nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa. Các bên có thể thỏa thuận về các nội dung đối tượng hợp đồng; số lượng, chất lượng; giá cả, phương thức thanh toán; thời gian, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; quyền, nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng; các nội dung khác… Ngoài những điều khoản chính được ghi trong hợp đồng mà đã nêu ở trên, cụ thể còn một số vấn đề có thể phát sinh trong quá trình thực hiện. Việc vận chuyển , giao nhận như thế nào cũng được quy định cụ thể. Những điều khoản cố định phải có ta có thể thấy rằng giữa 2 bên đã có những thỏa thuận nhằm đảm bảo lợi ích của mình. Và trách nhiệm thương thảo hợp đồng với khách hàng là thuộc trách nhiệm của phòng kinh doanh. Phòng kinh doanh có trách nhiệm nghiên cứu những điều khoản trong hợp đồng, tù đó mà tìm ra cách để bảo vệ quyền lợi của mình nhưng cũng không được ảnh hưởng đến lợi ích của khách hàng. Việc soan thảo hợp đồng ngoài trách nhiệm của phòng kinh doanh thì còn có sự phối hợp, hổ trợ của các phòng ban khác. Ví dụ như phòng thiết kế sẽ hỗ trợ về kĩ thuật , phòng dịch vụ sẽ hỗ trợ về bên lắp đặt, chế độ với khách hàng. Phòng kế toán sẽ hổ trợ về bên tính toán chi phí cũng như giá cả để cân đối. Từ những hỗ trợ khác nhau của các phòng ban, mà phòng kinh doanh sẽ có những cơ sở nhất định để có thể thuyết phục được khách hàng mà không làm ảnh hưởng đến lợi ích của họ . Trong các loại hợp đồng mua bán hàng hóa thường có các điều khoản khác. Thì điểu khoản khác của Việt Kim đối với khách hàng thường là có liên quan đến chế độ ưu đãi, khuyến mại, cũng như các hoạt động lắp đặt của phòng thiết kế. Ngoài ra với đặc thù sản phẩm công ty, mà công ty đã có hẳn những quy đinh chung cho riêng chế độ bảo hành: Bảo hành của công ty được quy định như sau: bất kỳ bộ phận nào của thiết bị lạnh có biểu hiện hư hỏng do nguyên vật liệu hay do kỹ thuật chế tạo trong vòng 1 năm kể từ ngày mua hàng, sẽ được sửa chữa hay thay thế bộ phận hư hỏng đó miễn phí. Việc bảo hành này sẽ không được áp dụng cho bất kỳ thiết bị lạnh nào đã thay thế hoặc sửa chữa dưới mọi hình thức, hay do sử dụng sai kỹ thuật, hay do bị rớt. Việc bảo hành chỉ áp dụng trong trường hợp quý khách là người mua với mục đích để dùng và không phải để chuyển nhượng. 3_ Việc thực hiện hợp đồng tại công ty Sau khi tiến hành kí kết hợp đồng, công ty bắt đầu thực hiện theo đúng các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng tại công ty bao gồm những công việc sau dựa trên nội dung của hợp đồng mà công ty đã tiến hành giao kết 3.1. Thực hiện điều khoản về chất lượng, số lượng Với mục tiêu đặt chữ “ Tín ” lên hàng đầu, công ty CP Việt Kim luôn đảm bảo cho khách hàng nhận được hàng hóa có chất lượng tốt, được giao với đầy đủ số lượng theo nhu cầu của khách hàng . Bên cạnh đó, chất lượng mặt hàng của công ty luôn được bảo đảm bởi nó đã sản xuất tại nước sản xuất rồi vận chuyển về Việt Nam. Nhưng nếu khách hàng không tin tưởng có thể sử dụng các dịch vụ giám định tình trạng hàng hóa để đảm bảo hàng hóa được giao đúng như đã thỏa thuận. Người mua hàng (khách hàng) có thể yêu cầu dịch vụ giám định tình trạng hàng hóa bằng trực quan ngay sau khi kết thúc hợp đồng mua bán. Dịch vụ giám định được công ty thực hiện tại thời điểm xếp hàng hay dỡ hàng ra khỏi phương tiện chuyên chở và xác định đặc tính của hàng hóa thông qua lấy mẫu ngẫu nhiên để kiểm tra xem hàng hóa có phù hợp như hợp đồng hay không. Với những đặc tính chất lượng như phẩm cấp của thép thì sẽ được xác nhận cho khách hàng khi cung cấp chứng từ để chứng minh (như chứng chỉ chứng nhận chất lượng hàng hóa) 3.2. Thực hiện điều khoản về địa điểm, phương thức giao nhận hàng hóa Sau khi hàng hóa đã được bên mua xác định rõ về số lượng, cũng như chất lượng thì hàng được giao qua cân tại kho nhà máy của công ty trên phương tiện vận tải của bên mua hàng hoặc giao tại địa điểm do bên mua yêu cầu. Số lượng giao nhận hàng hóa thực tế được lập thành biên bản giao nhận, có xác nhận của đại diện hai bên để làm cơ sở thanh toán giữa hai bên. Với trường hợp giao hàng cho người vận chuyển thì nghĩa vụ của công ty coi như đã hoàn thành khi hàng đã được giao cho người vận chuyển theo thỏa thuận giữa công ty với khách hàng. Công ty xác định thời điểm chuyển rủi ro là sau khi hàng hóa đã đến địa điểm mà khách hàng đã chỉ định, trừ các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. 3.3. Thực hiện điều khoản về giá cả và thanh toán Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa mà công ty giao kết thì giá cả hàng hóa đóng vai trò quan trọng, bởi vì, nó đánh giá lợi nhuận mà công ty thu được từ hợp đồng là nhiều hay ít. Giá cả của hàng hóa của công ty sẽ được tính như sau: Chi phí bốc dỡ hàng xuống bên mua phải chịu Giá cả theo thời điểm bên mua đặt hàng Bên mua cho xe nhận hàng tại kho của Công ty CP Việt Kim. Ngoài việc xác định giá cả, thì thanh toán cũng là nghĩa vụ quan trọng mà người mua phải thực hiện đối với công ty. Đồng tiền thanh toán công ty sử dụng chủ yếu là tiền Việt Nam đồng và phương thức thanh toán chủ yếu là tiền mặt, hay thông qua chuyển khoản. Bên khách hàng sẽ thanh toán tiền hàng bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản qua ngân hàng cho công ty là 70 % giá trị tiền hàng sau khi lấy hàng từ 7- 10 ngày. Khách hàng vẫn phải thanh toán tiền hàng cho công ty ngay cả trong trường hợp hàng hóa bị hư hỏng mất mát và việc này xảy ra sau thời điểm quyền sở hữu hàng hóa đã được chuyển dịch từ công ty sang phía khách hàng. Khách hàng không được viện cớ hàng mà họ đã nhận từ công ty sau đó có sự mất mát, hư hỏng hay trường hợp bị mất mát hay hàng hóa bị hỏng do lỗi từ phía công ty. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc chiếm dụng vốn giữa các công ty diễn ra rất phổ biến, các khách hàng của công ty cũng thường chậm thanh toán cho công ty sau một thời gian ngắn so với thời hạn thanh toán trong hợp đồng. Cho nên công ty trong khi giao kết hợp đồng, công ty đã nêu rất rõ: nếu quá hạn thanh toán mà hợp đồng có ghi, khách hàng phải chịu lãi suất 2% giá trị lô hàng chưa thanh toán. 3.4. Thanh lý hợp đồng Quá trình thực hiện hợp đồng kết thúc khi các bên thực hiện đúng các nghĩa vụ và tiến hành thanh lý hợp đồng. Hợp đồng mua bán hàng hóa mà công ty CP Việt Kim.sẽ tiến hành thanh lý khi nó hội đủ các yếu tố sau: hợp đồng đã được thực hiện xong; thời hạn có hiệu lực của hợp đồng đã hết, giữa công ty và khách hàng không có sự thỏa thuận kéo dài thời hạn đó; hợp đồng bị đình chỉ hoặc hủy bỏ; khi một bên kí kết hợp đồng là pháp nhân bị giải thể thì trước khi giải thể 30 ngày, bên bị giải thể phải tiến hành thông báo bằng văn bản cho bên kia biết và tiến hành thủ tục thanh lý hợp đồng; khi một bên kí kết là cá nhân có đăng ký kinh doanh phải ngừng hoạt động kinh doanh thì phải tiến hành thanh lý hợp đồng; khi một bên kí hợp đồng chuyển giao toàn bộ hay từng phần nghĩa vụ sản xuất kinh doanh cho một pháp nhân hay cá nhân khác thì phải chuyển giao cả việc tiếp tục thực hiện hợp đồng và nếu người này không đủ điều kiện thực hiện hợp đồng đã được chuyển giao thì họ phải yêu cầu bên chuyển giao thanh lý hợp đồng. Sau khi xem xét các điều kiện để tiến hành thanh lý hợp đồng, công ty sẽ làm thủ tục thanh lý. Công ty sẽ phải lập văn bản thanh lý hợp đồng. Văn bản này gồm có những vấn đề như sau: Xác định các mức độ thực hiện nội dung công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng để từ đó công ty làm cơ sở xác định nghĩa vụ của các bên sau khi thanh lý hợp đồng Xác định các khoản thuộc trách nhiệm tài sản của mỗi bên, nghĩa vụ mới phát sinh do hợp đồng bị thanh lý nếu có. Quan hệ hợp đồng giữa công ty và khách hàng sẽ chấm dứt kể từ khi hai bên kí vào biên bản thanh lý hợp đồng. Riêng nghĩa vụ và quyền hạn phát sinh do việc thanh lý hợp đồng thì sẽ được công ty và bên khách hàng, đối tác ghi nhận trong biên bản thanh lý, và nó vẫn có hiệu lực cho tới khi các bên hoàn thành nghĩa vụ của mình. Thời hạn mà công ty thường áp dụng khi tiến hành thanh lý hợp đồng là thời hạn 10 ngày kể từ ngày phát sinh các trường hợp cụ thể dẫn tới việc thanh lý hợp đồng. Nếu quá hạn đó mà hợp đồng không được thanh lý thì công ty có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết. 4. Biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng Trách nhiệm của mỗi bên trong hợp đồng thể hiện trong các nghĩa vụ như giao hàng, thanh toán, bảo đảm nghĩa vụ trong hợp đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng công ty thường áp dụng hai biện pháp là cầm cố và thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng. + Đối với thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa thì công ty thường phải trước hết định giá sơ bộ tài sản thế chấp. Sau đó khi đã nhất trí lấy thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ trong hợp đồng thì các bên phải làm thành một biên bản riêng và phải đưa tới xác nhận tại cơ quan công chứng hay cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh. Trong vấn đề quản lý tài sản thế chấp sẽ do các bên trong hợp đồng thỏa thuận nhưng thông thường thì do bên có tài sản thế chấp sẽ giữ, hay họ có thể nhờ một tổ chức trung gian giữ nhưng phải ghi vào trong văn bản thế chấp tên cơ quan hay cá nhân giữ tài sản, xác định trách nhiệm của họ phải đảm bảo nguyên giá trị của tài sản thế chấp, không được chuyển dịch quyền sở hữu hay tự động chuyển giao tài sản đó cho người khác trong thời gian văn bản thế chấp có hiệu lực. Việc xử lý tài sản thế chấp do cơ quan trọng tài hay tòa án thực hiện khi có tranh chấp xảy ra. + Đối với cầm cố thì nó cũng là biện pháp bảo đảm nghĩa vụ hợp đồng chặt chẽ hơn thế chấp, thường là bên có nghĩa vụ phải chuyển giao động sản và giấy tờ sở hữu cho bên đối tác hay một cơ quan hay cá nhân trung gian để giữ tài sản đó. Khi thực hiện biện pháp cầm cố thì công ty cũng phải thực hiện các thủ tục như trong thế chấp tài sản như phải định giá sơ bộ, lập biên bản cần có xác nhận của công chứng viên và nêu rõ trách nhiệm giữ gìn bảo quản của người giữ tài sản. Trong hai biện pháp bảo đảm mà công ty sử dụng thì đều có những ưu điểm riêng. Nhưng nếu so sánh giữa thế chấp và cầm cố thì cầm cố xem ra có độ an toàn cao hơn. Tuy nhiên, nó cũng chưa phải là biện pháp tối ưu nhất, bởi vì, đối tượng của cầm cố thường không lớn hơn so với nghĩa vụ so với nghĩa vụ mà bên cầm cố phải thực hiện, đó là chưa tính đến việc bảo quản tài sản cầm cố. Hơn nữa, khi lập biên bản cầm cố thì người ta thường xác định hay định giá tài sản cầm cố để khi có tranh chấp xảy ra việc giải quyết được thuận tiện. Nhưng có thể nói trong điều kiện hiện nay thì tài sản cầm cố rất dễ bị rớt giá và khi đó việc giải quyết việc này cũng rất phức tạp. Vì vậy, công ty khi chọn áp dụng biện pháp cầm cố hay thế chấp tài sản để bảo đảm khách hàng thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng thì phải cân nhắc rất kỹ lưỡng để chọn ra biện pháp hiệu quả nhất. 5. Trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng và biện pháp giải quyết tranh chấp Điều khoản về trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa là một điều khoản quan trọng trong các hợp đồng được kí kết giữa công ty CP Việt Kim.và đối tác, khách hàng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa giữa công ty và khách hàng không thể tránh khỏi xảy ra các tranh chấp, các tranh chấp này phát sinh chủ yếu khi các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng không đầy đủ các điều khoản mà hai bên đã thỏa thuận. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, công ty CP Việt Kim.đã cố gắng không để xảy ra các tranh chấp bằng cách thực hiện công việc giao hàng đúng về số lượng, chất lượng và tiến độ. Nhưng việc phát sinh ra tranh chấp là không thể tránh khỏi, các vụ tranh chấp này đa phần đều phát sinh do lỗi của bên đối tác chậm trễ trong việc thanh toán. Theo số liệu của Phòng kinh doanh thì kể từ ngày thành lập cho đến hiện nay thì số vụ tranh chấp xảy ra cũng gần một trăm vụ. Tuy nhiên, khi xảy ra tranh chấp công ty thường sử dụng các biện pháp như thương lượng và trọng tài thương mại. - Khi phát sinh tranh chấp thì hai bên nỗ lực tối đa chủ động bàn bạc để tháo gỡ và thương lượng giải quyết tranh chấp. Công ty sử dụng phương pháp tự thương lượng, bởi vì, công ty muốn tạo ra sự thiện chí, muốn hợp tác lâu dài với các bên đối tác. Khi tiến hành thương lượng thì vụ việc sẽ được giải quyết dứt điểm bằng sự xác định rõ ràng phần quyền và nghĩa vụ tài sản của mỗi bên. Vì các bên đã có sự thống nhất ý chí cho nên các quyền, nghĩa vụ giữa họ dễ dàng được thực hiện đầy đủ và làm dứt điểm. Điều quan trọng khi công ty CP Việt Kim áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp là tự thương lượng là do phương pháp tự thương lượng có ý nghĩa kinh tế rất lớn đối với công ty. Do là: Quá trình sản xuất kinh doanh của công ty không bị gián đoạn Uy tín của công ty và những bí mật trong kinh doanh được giữ gìn Tiết kiệm được chi phí theo kiện do không cần phải đưa vụ việc ra tòa án hay trọng tài thương mại để giải quyết - Trường hợp công ty và bên đối tác do không tìm được tiếng nói chung về lợi ích hay do những nguyên nhân khác, việc thương lượng bị rơi vào bế tắc không tìm ra phương pháp giải quyết bất đồng. Khi đó, công ty sẽ giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải, trọng tài hoặc nhờ tòa kinh tế giải quyết theo qui định của pháp luật. Tuy nhiên, cũng như phương pháp tự thương lượng, công ty trong trường hợp này thường sử dụng trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp. Nhưng công ty muốn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thì trong hợp đồng giữa công ty và bên kí kết phải có điều khoản thỏa thuận khi có tranh chấp xảy ra sẽ giải quyết bằng trọng tài thương mại, hay là sau khi xảy ra tranh chấp hai bên thỏa thuận dùng trọng tài thương mại để giải quyết mâu thuẫn. Công ty lựa chọn trọng tài làm phương thức giải quyết tranh chấp thứ hai sau thương lượng bởi vì trọng tài có những ưu điểm sau so với giải quyết tại tòa án: Hầu hết các phán quyết của trọng tài không bị kháng cáo, kháng nghị. Các phán quyết này chỉ có thể bị xem xét lại trước tòa án vì những lý do rất hạn chế Trọng tài có tính linh hoạt cao trong việc xác lập thủ tục tố tụng trọng tài, xét xử, thời hạn, địa điểm xét xử, địa điểm nghị án của trọng tài viên khi soạn thảo phán quyết. Tốc độ giải quyết tranh chấp nhanh. Do trình tự tố tụng trọng tài được thực hiện nhanh hơn tòa án và có thể được giải quyết rất nhanh (trong vài tuần hay vài tháng nếu các bên đề nghị) Tính bảo mật cao hơn vì trọng tài tiến hành xét xử không công khai, chỉ có các bên tranh chấp mới nhận được bản sao chép phán quyết trọng tài. Đây là một thuận lợi lớn để bảo vệ uy tín và bí mật kinh doanh cho công ty Chí phí giải quyết tranh chấp ít hơn tại tòa án Nhưng trong xu hướng chung hiện nay, công ty CP Việt Kim và khách hàng luôn tìm biện pháp giải quyết tranh chấp một cách nhẹ nhàng, nhanh chóng tránh gây những xung đột làm mất hòa khí giữa hai bên và thường tránh sử dụng các biện pháp tài phán để xử lý tranh chấp. Và nó đã giúp công ty tạo ra uy tín với các đối tác, bạn hàng. CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA TỪ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY CP VIỆT KIM I. Nhận xét về quá trình áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty CP Việt Kim 1. Những kết quả đã đạt được: + Về việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa Kể từ ngày đầu thành lập cho đến thời điểm hiện tại, công ty CP Việt Kim luôn tìm hiểu một cách kỹ lưỡng các quy định của Nhà nước liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa của công ty. Nhờ vậy, công ty đã gặp được những thuận lợi trong việc giao kết hợp đồng, góp phần tăng doanh thu cho công ty và thực hiện tốt việc chấp hành pháp luật. Trước khi tiến hành giao kết hợp đồng, Ban giám đốc công ty luôn tìm hiểu, nghiên cứu các điều khoản trong hợp đồng (nhất là vấn đề chủ thể giao kết hợp đồng của bên đối tác) một cách kỹ lưỡng, để tìm ra những biện pháp hợp lý cho việc giao kết hợp đồng, để tránh sai sót, rủi ro trong khi thương thảo đàm phán hợp đồng. Chính nhờ việc quan tâm này nên các hợp đồng mà công ty đã giao kết đều tạo được niềm tin, uy tín với khách hàng. Ngoài ra, trong khi thực hiện việc giao kết hợp đồng thì vấn đề đánh giá, xem xét nội dung và hình thức của hợp đồng cũng luôn được coi trọng. Bởi vì, đây là yếu tố quyết định đến hợp đồng mà công ty giao kết có phù hợp với quy định của pháp luật hay không, nếu có sự sai sót hay không đúng thì công ty sẽ phải bàn với khách hàng về việc thay đổi điều khoản trong hợp đồng sao cho phù hợp với quy định của pháp luật, sau đó mới tiến hành giao kết hợp đồng. Mặt khác, công ty tích cực tìm hiểu những quy định mới của pháp luật về hoạt động mua bán hàng hóa nói chung và pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng, để từ đó nâng cao được việc áp dụng pháp luật trong khi giao kết hợp đồng. + Về việc thực hiện hợp đồng Từ thực tiễn thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty CP Việt Kim thì nhận thấy việc đảm bảo chất lượng hàng hóa tại công ty luôn được chú trọng, điều này tăng lên uy tín của công ty với bên khách hàng. Công ty thường tiến hành công việc kiểm tra hàng hóa trước khi xuất ra khỏi kho để giao cho khách hàng. Chính nhờ việc luôn chú trọng đến vấn đề kiểm tra chất lượng hàng hóa trong quá trình thực hiện hợp đồng mà công ty đã tiến hành giao kết được những hợp đồng có giá trị lớn. Bên cạnh đó, để có được những kết quả như ngày hôm nay trong việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa, Ban giám đốc và công nhân viên trong công ty đã có sự cố gắng, nỗ lực hết mình với những phương hướng, chiến lược đúng đắn. Công ty đã có sự kết hợp giữa đội ngũ công nhân viên trẻ năng động nhiệt tình với những nhân viên giàu kinh nghiệm. Việc này chính là do công ty có một ban lãnh đạo có năng lực, khả năng tổ chức tốt đã sắp xếp phân công bố trí những các nhân viên vào những công việc phù hợp, để từ đó họ có thể phối hợp với nhau một cách dễ dàng và nhất quán từ việc soạn thảo các điều khoản khi giao kết đến khi thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trong công ty. Đây cũng là một phần tạo nên thành công cho quá trình thực hiện hợp đồng tại công ty. Ngoài ra, công ty cũng luôn có những sản phẩm đạt chất lượng cao, đa dạng trong chủng loại vật liệu. Điều này tạo nên uy tín cho công ty giúp cho công ty có lượng bạn hàng lớn, do đó mà số hợp đồng được giao kết và thực hiện ngày càng tăng lên. Ban lãnh đạo công ty đã xác định yếu tố con người là nhân tố quan trọng nhất, quyết định mọi thành công, vì vậy, từ khi tuyển dụng lao động công ty đã lựa chọn những người có năng lực và trình độ cao đáp ứng được yêu cầu của công việc. Do vậy mà công ty cũng tổ chức một số buổi họp để nhân viên trao đổi, thảo luận về công việc kinh doanh và lĩnh vực quản lý trong công ty, kết hợp là việc mở các khóa học nâng cao kiến thức pháp luật về hợp đồng cho nhân viên. Vì thế mà quá trình thực hiện hợp đồng tại công ty đã diễn ra nhanh chóng và đạt hiệu quả cao. Hơn nữa cũng phải kể đến một nguyên nhân khách quan làm cho quá trình thực hiện hợp đồng tại công ty gặp nhiều thuận lợi. Đó là việc Việt Nam đã chính thức là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập thì hệ thống pháp luật của Việt Nam phải đổi mới để phù hợp hơn với luật pháp, thông lệ quốc tế. Do vậy năm 2005 hai đạo luật quan trọng là BLDS và LTM ra đời đã khẳng định cho điều này. Nó đã tạo ra môi trường hoạt động thông thoáng, linh hoạt cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện hợp đồng, doanh nghiệp không phải lo lắng việc sẽ phải áp dụng những điều khoản trong văn bản pháp luật nào để điều chỉnh quan hệ hợp đồng và giải quyết tranh chấp. Như vậy có thể nói, BLDS 2005 và LTM 2005 ra đời đã làm cho những quy định của luật về hợp đồng được thống nhất, không còn sự thiếu nhất quán trùng lặp trong việc áp dụng giữa các văn bản luật. Từ đó giúp cho doanh nghiệp thực hiện hợp đồng thương mại dễ dàng thuận lợi, nâng cao được tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. 2. Những khó khăn Mặc dù đã có được những thành tựu trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa nhưng vẫn còn đó những khó khăn, vướng mắc mà công ty cần tháo gỡ, nghiên cứu và xem xét để hoạt động giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty đạt được kết quả cao. Những khó khăn về mặt khách quan: Quá trình hội nhập đã giúp cho môi trường pháp lý được đổi mới phù hợp hơn với luật pháp quốc tế. Nhưng ngoài những thuận lợi do nó mang lại thì nó còn tác động đến các doanh nghiệp và gây cho các doanh nghiệp một số khó khăn trong những ngày đầu áp dụng. Bởi vì trước đây, các doanh nghiệp quen áp dụng các quy định trong các văn bản pháp luật như LTM 1997, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989, BLDS 1995… trong việc giao kết, thực hiện hợp đồng. Vì vậy, mà khi BLDS 2005 và LTM 2005 ra đời thì các doanh nghiệp gặp nhiều lúng túng trong áp dụng pháp luật khi giao kết hợp đồng. Nguyên nhân của việc này đến từ cả phía Nhà nước và cả các doanh nghiệp. Về phía doanh nghiệp, hầu hết các doanh nghiệp chưa có nhân viên trợ giúp pháp lý trong việc phân tích, tư vấn việc áp dụng pháp luật hợp đồng. Còn về phía Nhà nước, tuy hai văn bản LTM 2005 và BLDS 2005 ra đời đã lâu nhưng các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành của hai văn bản này còn rất ít và đa phần là không cụ thể, rõ ràng, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong áp dụng pháp luật khi giao kết, thực hiện hợp đồng cũng như giải quyết tranh chấp. Những khó khăn về mặt chủ quan đối với công ty: Khó khăn về căn cứ pháp lý khi giao kết hợp đồng tại công ty. Qua quá trình thực tập tại công ty, tôi nhận thấy trong một số hợp đồng mà công ty đã giao kết với khách hàng vẫn áp dụng Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 vào điều khoản luật áp dụng cho hợp đồng, mặc dù Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 đã hết hiệu lực kể từ khi BLDS 2005 và LTM 2005 ra đời. Vấn đề này của công ty xuất phát từ việc các cán bộ, nhân viên trong khi soạn thảo hợp đồng đã không chú ý đến việc cập nhật các thông tin mới, những văn bản mới điều chỉnh về lĩnh vực hợp đồng (LTM 2005, BLDS 2005), hoặc là họ đã biết được nhưng vẫn làm theo thói quen. Đây cũng có thể được coi là nguyên nhân khiến cho uy tín của công ty bị giảm sút, khách hàng sẽ đánh giá công ty là một doanh nghiệp yếu về mặt pháp lý hay không có đủ năng lực, hay khả năng thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, áp dụng đúng luật cho hợp đồng là việc bảo đảm cho hợp đồng được chặt chẽ, phù hợp với thực tiễn và tạo thuận lợi cho công ty trong quá trình thực hiện hợp đồng, tạo được uy tín với khách hàng. Bên cạnh đó, các điều khoản mà công ty thỏa thuận trong hợp đồng còn rất chung chung, sơ sài, công ty và bên khách hàng thường thỏa thuận những điều khoản sau trong hợp đồng mua bán hàng hóa: Điều khoản về hàng hóa Điều khoản về số lượng, chất lượng Điều khoản về đặt hàng, giao hàng Điều khoản về giá cả, thanh toán Điều khoản về tranh chấp và giải quyết tranh chấp… Những điều khoản trên trong hợp đồng mà công ty đã thỏa thuận thường được quy định không rõ ràng mà đôi khi còn sơ sài, những điều khoản này do vậy mà không thể hiện được một cách rõ ràng nhất, chi tiết nhất ý chí của các bên trong hợp đồng. Điển hình như, có một số điều khoản trong hợp đồng còn được quy định một cách khó hiểu như “theo quy định của pháp luật”. Việc quy định như vậy sẽ làm khó khăn cho các bên trong hợp đồng do các bên không hiểu nên theo điều khoản của luật nào để áp dụng. Nhất là đối với điều khoản về tranh chấp và giải quyết tranh chấp. Đây là điều khoản mà các bên thường hay lúng túng, khó khăn khi áp dụng, bởi vì, các bên khi tiến hành giao kết hợp đồng thì không bên nào muốn giữa họ xảy ra tranh chấp. Nhưng để đảm quyền lợi của các bên thì trong hợp đồng phải quy định một cách cụ thể là vi phạm nào sẽ được giải quyết theo phương thức nào, thế nhưng trên thực tế hợp đồng mà công ty đã giao kết với khách hàng thì điều kiện về tranh chấp và giải quyết tranh chấp lai được nêu ra một cách chung chung, không rõ ràng như: Trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu có gì vướng mắc hai bên A, B gặp gỡ, trao đổi tìm biện pháp tháo gỡ thương lượng giải quyết kịp thời. Nếu trường hợp không đạt được thỏa thuận thì việc giải quyết sẽ được thông qua hòa giải, trọng tài hay tòa án kinh tế thành phố Hà Nội. Thỏa thuận về tranh chấp và giải quyết tranh chấp này cho thấy sự rập khuôn máy móc của nhân viên soạn thảo hợp đồng trong công ty khi đã chép gần như nguyên xi quy định của luật vào. Mà theo như những quy định của điều khoản này thì nếu công ty có xảy ra tranh chấp cũng không áp dụng được phương thức trọng tài để giải quyết tranh chấp, bởi vì, theo PLTTTM 2003 quy định thì việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chỉ được thực hiện khi các bên có thỏa thuận điều khoản về trọng tài và điều khoản này không bị vô hiệu. Như vậy, nếu công ty trong thời gian tới, không khắc phục được những hạn chế thiếu sót trên thì có thể bị khách hàng hay các bên đối tác lừa gạt gây thiệt hại đến lợi ích của công ty Khó khăn về công tác thực hiện hợp đồng. Vì cơ sở vật chất, công nghệ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty còn hạn chế chưa đầy đủ còn thiếu thốn. Do vậy, việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trong công ty tại một số giai đoạn còn gặp khó khăn. Điều này gây khó khăn trong việc tạo ra uy tín của công ty với khách hàng và làm đi giảm khả năng cạnh tranh của công ty. Ngoài ra, nguồn nhân lực cũng là yếu tố giúp cho công ty thực hiện hợp đồng được hiệu quả. Tuy nhiên, cơ cấu lao động của công ty đa phần là các nhân viên trẻ, trình độ giữa họ chưa đồng đều còn thiếu kinh nghiệm vì thế nên việc thực hiện hợp đồng còn chậm, chưa linh hoạt. Khó khăn trong việc quản lý chất lượng hàng hóa. Bởi vì hiện nay công ty chưa có một đội kiểm tra, giám định chất lượng hàng hóa nhập về. Phương pháp mà công ty áp dụng để kiểm tra hàng nhập về là dựa trên các giấy chứng nhận chất lượng hàng hóa như ISO 9001 hay TCVN… Khó khăn trong việc xử lý nợ đọng trong việc thanh lý hợp đồng mua bán hàng hóa giữa công ty và bên khách hàng. Bởi vì, một số khách hàng thường chậm thanh toán sau một khoảng thời gian ngắn cho nên làm giảm khả năng quay vòng vốn kinh doanh của công ty ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Khó khăn trong việc áp dụng các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng, trong việc định giá tài sản bảo đảm, công tác đăng ký giao dịch bảo đảm. Việc định giá tài sản bảo đảm trong khi giao kết hợp đồng là một bước rất quan trọng và nó phải tuân theo quy định của pháp luật, nhưng pháp luật cũng cho phép các bên có thể thỏa thuận trong việc xác định giá trị tài sản bảo đảm (để đảm bảo quyền tự do giao kết hợp đồng giữa các bên). Tuy nhiên, với công ty việc định giá tài sản bảo đảm nhiều khi gặp khó khăn như có trường hợp giá trị vật bảo đảm không tương xứng với giá trị thực tế của nó hay là vấn đề vật được đem là biện pháp bảo đảm là vật không được phép để đem ra làm vật thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh… Có thể nói, với những khó khăn như trên đã làm cho năng suất lao động và doanh thu của công ty giảm đi và ảnh hưởng rất lớn đến quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng tại công ty. Vì vậy, công ty cần đề ra các phương hướng để tháo gỡ, giải quyết các khó khăn trên một cách triệt để có thể làm tăng khả năng cạnh tranh của công ty trong hoạt động mua bán hàng hóa. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31598.doc
Tài liệu liên quan