Thực tiễn áp dụng chế độ pháp lý về quản trị nội bộ tại Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương

môc lôC Danh mục các chữ viết tắt DN Doanh nghiệp CTCP Công ty cổ phần TNHH Trách nhiệm hữu hạn TTCK Thị trường chứng khoán CTCK Công ty chứng khoán UBCKNN Ủy ban chứng khoán Nhà nước HASTC Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội HOSE Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông HĐQT Hội đồng quản trị LỜI NÓI ĐẦU Ở nước ta, sau hơn 20 năm song hành với sự nghiệp đổi mới đất nước và hơn 1 năm gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, nền kinh tế Việ

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1296 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực tiễn áp dụng chế độ pháp lý về quản trị nội bộ tại Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, lớn mạnh về mọi mặt kể cả quy mô và chất lượng; đã có những đóng góp xứng đáng vào công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nói chung và quá trình hội nhập với kinh tế thế giới nói riêng. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự hội nhập với các nước trên thế giới và trong khu vực, Thị trường chứng khoán bắt đầu phát triển và bùng nổ tại Việt Nam trong hơn 2 năm trở lại đây. Các công ty chứng khoán lần lượt ra đời dẫn đến hoạt động thương mại trong nước có sự thay đổi đáng kể, hoạt động của các công ty chứng khoán đã từng bước được hoàn thiện, đa dạng và phong phú hơn, góp phần tích cực mở rộng vốn đầu tư cho những người tham gia vào thị trường chứng khoán, tạo điều kiện thu hút vốn nước ngoài để tăng trưởng kinh tế trong nước. Từ những lợi ích kinh tế từ việc phát triển thị trường chứng khoán, việc nghiên cứu và tìm hiểu đối với hoạt động này là rất cần thiết và hữu ích đối với một sinh viên Luật. Vì thế, em đã lựa chọn đề tài " Thực tiễn áp dụng chế độ pháp lý về Quản trị nội bộ tại công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương" với mong muốn qua việc nghiên cứu tìm hiểu hoạt động của công ty - Hội sở chính sẽ giúp em có thêm kiến thức và hiểu rõ hơn hoạt động kinh doanh trên một thị trường đầy năng động và trong một công ty chứng khoán đang phát triển với tốc độ nhanh chóng - một trong mười Công ty chứng khoán lớn nhất Việt Nam. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến toàn thể các thầy cô giáo trong Khoa Luật - Đại học Kinh tế Quốc dân, những người đã giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập tại trường, đặc biệt là TS. Nguyễn Hợp Toàn và ThS. Vũ Văn Ngọc cùng toàn thể các anh chị trong Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương - Hội sở chính đã hướng dẫn tận tình, giúp đỡ tạo điều kiện để em hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này. Chương I. Cơ sở pháp lý trong quản trị doanh nghiệp I. Quyền tự do kinh doanh trong thành lập và quản trị doanh nghiệp trong cơ chế thị trường Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 xác định: "Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của Pháp luật( Điều 57). Tự do kinh doanh là một trong những nội dung của quyền con người và được Hiếp pháp ghi nhận trở thành một trong những nội dung của quyền công dân. Pháp luật của Nhà nước ta ghi nhận quy định nội dung và bảo đảm thực hiện quyền tự do kinh doanh trên tinh thần tôn vinh và khuyến khích các doanh nhân. Quyền tự do kinh doanh bao gồm nhiều nội dung: Quyền tự do thành lập và quản trị doanh nghiệp; quyền tự do xác lập và giải quyết các quan hệ hợp đồng; quyền tự do thực hiện các hoạt động kinh doanh trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh. Tự do thành lập và quản trị doanh nghiệp là một nội dung quan trọng trong quyền tự do kinh doanh, đồng thời là một chế định chủ yếu của pháp luật kinh tế Việt Nam và thường được gọi là Pháp luật về doanh nghiệp. Những nội dung khác của quyền tự do kinh doanh được quy định trong pháp luật về đầu tư liên quan đến nhiều văn bản về các lĩnh vực chuyên ngành như thuế, tài chính tín dụng, đất đai. Quyền tự do kinh doanh trong thành lập và quản trị doanh nghiệp đã được thay đổi đáng kể sau khi Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tư 2005 được ban hành. Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư đã có những quy định thể hiện rõ ràng quan điểm của Đảng và Nhà nước là mở rộng quyền tự do kinh doanh cho tất cả các đối tượng thuộc mọi thành phần kinh tế. Nội dung chính của quyền tự do trong thành lập và quản trị doanh nghiệp là quyền của nhà đầu tư được lựa chọn và đăng ký loại hình doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh phù hợp với điều kiện và sở thích của nhà đầu tư, quyền của chủ doanh nghiệp quyết định các vấn đề trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là quyền đầu tư kinh doanh và quyền huy động vốn. Mở rộng quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp có nghĩa là hạn chế sự can thiệp hành chính tùy ý của các cơ quan Nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp. Sự mở rộng quyền tự do kinh doanh trong quản trị và thành lập doanh nghiệp được hiểu như sau: Thứ nhất là hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước. So với Luật Doanh nghiệp Nhà nước 2003 thì Luật Doanh nghiệp 2005 đã đưa ra các quy định hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Nếu như các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài được quyền tự quyết về công việc kinh doanh của mình thì doanh nghiệp Nhà nước vẫn phải chịu sự ràng buộc hay chi phối bởi sự can thiệp mang tính chất hành chính, chủ quan và thiếu phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước. Với Luật Doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp Nhà nước được chủ động trong quyền kinh doanh, việc quản trị sẽ được cải thiện và ít phải phụ thuộc vào Ngân sách Nhà nước. Như vậy, khi doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp 2005 thì sẽ có 3 điểm lợi: Thuận lợi hơn trong giao dịch nhất là với đối tác nước ngoài; không bị phân biệt đối xử trong buôn bán và nâng cao hiệu lực quản trị mở rộng quyền năng và kinh doanh đa ngành. Thứ hai là sự ra đời về Công ty TNHH 1 thành viên trong Luật Doanh nghiệp 2005. Có thể nói Luật Doanh nghiệp 2005 đã thể hiện rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc mở rộng quyền tự do trong thành lập và quản trị doanh nghiệp khi quy định 4 loại hình doanh nghiệp để các nhà đầu tư lựa chọn. Luật cho phép cá nhân muốn thành lập một doanh nghiệp độc lập được lựa chọn thêm hình thức mới là Công ty TNHH có thành viên là cá nhân( trước đây quyền thành lập này chỉ thuộc về một tổ chức) thay cho loại hình Doanh nghiệp tư nhân như trước. Như vậy, doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ này sẽ chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần vốn mà chủ sở hữu đã đăng ký cho hoạt động đăng ký kinh doanh. Thứ ba là thay đổi được coi là mang tính đột phá của Luật Doanh nghiệp 2005, đó là quyền năng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được mở rộng đáng kể. Với Luật Doanh nghiệp 2005, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được kinh doanh tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm chứ không chỉ bị giới hạn trong nội dung của Giấy phép đầu tư như quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và Luật sửa đổi một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000. Đồng thời, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ được hưởng chế độ đăng ký kinh doanh giống như các doanh nghiệp tư nhân trong nước, nhờ đó việc thành lập doanh nghiệp trở nên đơn giản, nhanh chóng và ít chi phí hơn so với chế độ cấp phép đầu tư phức tạp, tùy tiện và tốn kém hiện nay. Với Luật Doanh nghiệp 2005, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ không bị giới hạn ở một loại hình công ty TNHH như trước mà sẽ được tự do lựa chọn các loại hình doanh nghiệp phù hợp. Ví dụ, Công ty cổ phần với lợi thế về huy động vốn trên thị trường tài chính. Việc khống chế mức sở hữu 30% đối với đầu tư nước ngoài về cơ bản sẽ được xóa bỏ. Đối với một số ngành nghề hạn chế kinh doanh áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ có quy định những điều kiện nhất định mà nhà đầu tư nước ngoài phải đáp ứng theo hướng công khai, minh bạch hơn. Những thay đổi này chắc chắn sẽ góp phần tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư và thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, góp phần thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển và hội nhập với các nước trên thế giới. II. Sự phát triển của Pháp luật về doanh nghiệp và quản trị nội bộ từ Luật Doanh nghiệp 1999 đến Luật Doanh nghiệp 2005 1. Sự phát triển của pháp luật về doanh nghiệp: Trong những năm qua, gắn liền với tiến trình phát triển của nền kinh tế là quá trình hình thành và phát triển đa dạng của các loại hình doanh nghiệp. Nhằm tạo cơ sở pháp lý bảo đảm cho doanh nghiệp phát triển bền vững, pháp luật về doanh nghiệp ở nước ta từng bước đã được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập đòi hỏi phải được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với xu thế phát triển và hội nhập hiện nay. Với mục đích tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá, việc cải cách và hoàn thiện Luật doanh nghiệp là một bước đi quan trọng trong định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về doanh nghiệp ở nước ta. Ngày 19 tháng 11 năm 2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ hợp thứ VIII đã thông qua Luật doanh nghiệp thống nhất thay thế Luật doanh nghiệp 1999 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2006( sau đây gọi là Luật doanh nghiệp 2005). Đây là lần đầu tiên nước ta ban hành một văn bản pháp luật chung điều chỉnh thống nhất tất cả các loại hình doanh nghiệp. Sự phát triển của pháp luật về doanh nghiệp từ Luật DN 1999 đến Luật DN 2005 được khái quát qua những điểm chính sau đây: 1.1. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được đặt vào một khung pháp lý chung: Điều 1 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định “Luật này quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, quy định về nhóm công ty". Luật Doanh nghiệp 2005 với tư cách là luật chung cho các loại hình doanh nghiệp thay thế cho Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp Nhà nước 2003 (trừ trường hợp vẫn còn được áp dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước đang trong thời kỳ chuyển đổi nếu Luật Doanh nghiệp 2005 không quy định), các quy định về tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000. Trước đây, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài về cơ bản chịu sự điều chỉnh của hai hệ thống văn bản pháp luật khác nhau. Điều này ít nhiều tạo ra lợi thế cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước do có sự khác biệt về thủ tục. Với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp 2005, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bất kể là trong nước hay ngoài nước, vốn sở hữu nhà nước hay vốn sở hữu tư nhân đều hoạt động trong một khuôn khổ pháp lý chung. Các quy định nói trên tạo ra môi trường pháp lý minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế đối với hoạt động của các doanh nghiệp, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp. 1.2. Quy định về đăng ký kinh doanh. Trong thời gian xây dựng Luật doanh nghiệp 2005, Chính phủ đã thể hiện rất rõ quyết tâm trong việc khuyến khích các hoạt động đầu tư kinh doanh thông qua việc loại bỏ một loạt các giấy phép đã lỗi thời, không cần thiết và chỉ giữ một số lượng rất nhỏ các giấy phép kinh doanh thông qua một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Thay cho việc phải có Đơn đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã quy định về Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh, có những quy định cụ thể về hồ sơ đăng ký kinh doanh của từng loại hình doanh nghiệp bao gồm hồ sơ đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Một điểm mới khác của Luật Doanh nghiệp năm 2005 là gắn thủ tục đăng ký kinh doanh với thủ tục đăng ký đầu tư. Điều này xuất phát từ quan điểm đổi mới, đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp gia nhập thị trường và thực hiện các hoạt động đầu tư. Rút ngắn hơn thời hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Theo khoản 2 Điều 15 Luật Doanh nghiệp 2005, “”Cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm xem xét hồ sơ đăng ký kinh doanh và cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ”. Hồ sơ, trình tự, thủ tục, điều kiện và nội dung đăng ký kinh doanh, đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài lần đầu tiên đầu tư vào Việt Nam được thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 và pháp luật về đầu tư. Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. 1.3. Quy định về các loại hình Công ty a. Quy định về Công ty hợp danh: Luật Doanh nghiệp 2005 thừa nhận tư cách pháp nhân của Công ty hợp danh. b. Quy định về Công ty TNHH một thành viên: Điểm mới nổi bật của Luật Doanh nghiệp năm 2005 về công ty trách nhiệm hữu hạn là Luật cho phép một cá nhân có thể thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (Điều 63 Luật doanh nghiệp) và đã đưa ra quy định về cơ cấu tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân. Đạo luật cũng đã đưa ra những quy định cụ thể về người đại diện theo pháp luật của công ty. Theo đó, chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty. c. Quy định về công ty TNHH hai thành viên trở lên: Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã đưa ra quy định cụ thể khác biệt và cụ thể hơn so với Luật Doanh nghiệp năm 1999 về người đại diện theo pháp luật đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Theo đó Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty. Người đại diện theo pháp luật của công ty phải thường trú tại Việt Nam, trường hợp vắng mặt ở Việt Nam trên 30 ngày thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác theo quy định tại Điều lệ công ty để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty. Những quy định về người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên cũng tương đồng với quy định về vấn đề này của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. d. Quy định về Nhóm công ty và quản trị Nhóm công ty Luật doanh nghiệp 2005 bổ sung quy định về nhóm công ty, trong đó điển hình là mô hình công ty mẹ - công ty con. Theo đó, tổ hợp công ty mẹ - công ty con không có tư cách pháp nhân; bản thân công ty mẹ và từng công ty con thành viên đều có tư cách pháp nhân. Điều này có nghĩa, công ty mẹ và các công ty con thành viên đều có tài sản riêng, đều có khả năng tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi kinh doanh của mình. Tuỳ thuộc vào loại hình pháp lý của công ty con, công ty mẹ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách là thành viên, chủ sở hữu hoặc cổ đông trong quan hệ với công ty con. Điều này có nghĩa, nếu công ty con là công ty TNHH thì công ty mẹ sẽ thực hiện quyền của mình với tư cách là thành viên của công ty đó. Nếu công ty con là công ty TNHH 1 thành viên thì công ty mẹ thực hiện quyền của chủ sở hữu công ty. Nếu công ty con là công ty cổ phần thì công ty mẹ sẽ thực hiện quyền với tư cách là cổ đông của công ty. Thực chất, quy định về nhóm công ty nhằm mục đích tăng cường sự công khai, minh bạch trong hoạt động kinh doanh cũng như hạn chế chế độ trách nhiệm hữu hạn và bảo vệ lợi ích của cổ đông thiểu số. Đây là một bước phát triển mới của Pháp luật doanh nghiệp Việt Nam trong việc tạo ra cơ sở pháp lý để hình thành các tập đoàn kinh tế có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. e. Quy định về công ty cổ phần: Trong Luật Doanh nghiệp 1999, quy định về công ty cổ phần là phần quy định chặt chẽ nhất, chi tiết nhất. Tuy nhiên, với Luật Doanh nghiệp 2005, các quy định này còn cụ thể hơn, chi tiết hơn và tiến dần tới chuẩn mực chung của thế giới về công ty cổ phần. Trong 111 Điều quy định về các hình thức doanh nghiệp, có tới 52 điều quy định về công ty cổ phần. Điều này thể hiện rất rõ chính sách khuyến khích của Nhà nước đối với việc phát triển loại hình doanh nghiệp này. Về cơ bản, quy định về công ty cổ phần vẫn giữ nguyên theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp 1999, tuy nhiên Luật Doanh nghiệp 2005 có một số điểm mới sau: - Mở rộng quyền của cổ đông phổ thông: Cổ đông phổ thông được quyền xem xét, tra cứu, trích lục các thông tin trong danh sách cổ đông, có quyền biểu quyết và quyền yêu cầu sửa đổi các thông tin không chính xác, xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chép điều lệ Cty, sổ biên bản họp Đại hội đồng cổ đông và các nghị quyết của ĐHĐCĐ. Bảo vệ quyền của cổ đông hoặc nhóm cổ đông thiểu số + Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 65% cổ phần có quyền biểu quyết, trước đây là 51%. + Quyết định của Đại hội đồng cổ đông được thông qua tại cuộc họp khi được số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định, trước đây là 51%. + Trường hợp thông qua quyết định dưới hình thức lấy ý kiến bằng văn bản thì quyết định của Đại hội đồng cổ đông được thông qua nếu được số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết chấp thuận; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định, trước đây là 51%. Nâng cao trách nhiệm cá nhân của cổ đông phổ thông. Cổ phần phổ thông phải chịu trách nhiệm cá nhiệm cá nhân khi nhân danh công ty dưới mọi hình thức để thực hiện một trong các hành vi sau: + Vi phạm pháp luật + Tiến hành kinh doanh và các giao dịch khác để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác + Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn trước nguy cơ tài chính có thể xảy ra đối với công ty. Quy định cơ chế xử lý đối với cổ đông sáng lập không thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua. Luật doanh nghiệp 2005 quy định xử lý như sau: + Các cổ đông sáng lập còn lại góp đủ số cổ phần đó theo tỷ lệ sở hữu cổ phần của họ trong công ty; + Một hoặc một số cổ đông sáng lập nhận góp đủ số cổ phần đó; + Huy động người khác không phải là cổ đông sáng lập nhận góp đủ số cổ phần đó; người nhận góp vốn đó đương nhiên trở thành cổ đông sáng lập của công ty. Quy định thành viên HĐQT không nhất thiết là cổ đông. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 thì số lượng tối thiểu của Hội đồng quản trị là 03 người, thành viên của Hội đồng quản trị không nhất thiết là cổ đông của công ty. Vì vậy, Luật quy định thêm tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên Hội đồng quản trị. Như vậy, chủ tịch Hội đồng quản trị không nhất thiết là cổ đông của công ty. Quy định tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên của Ban Kiểm soát, quy định cụ thể hơn quyền và nhiệm vụ của Ban Kiểm soát. Mở rộng thẩm quyền của Ban Kiểm soát như “Khi phát hiện có thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty quy định tại Điều 119 của Luật này thì phải thông báo ngay bằng văn bản với Hội đồng quản trị, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục hậu quả”, “sử dụng tư vấn độc lập để thực hiện các nhiệmvụ được giao”… Ngoài ra Luật còn quy định về việc miễn nhiệm, bãi nhiệm Ban Kiểm soát. Khi kết thúc năm tài chính, Hội đồng quản trị phải chuẩn bị các báo cáo và tài liệu về tình hình kinh doanh, tài chính, đánh giá công tác quản lý để nộp cho Ban Kiểm soát… 1.4. Tăng cường quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp: Quy định về quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp được tăng cường và cụ thể hơn. Điều này được thể hiện bằng các quy định về cung cấp thông tin giữa các cơ quan Nhà nước; quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của từng cơ quan Nhà nước; cấp chính quyền trong quản lý doanh nghiệp; quy định cụ thể điều kiện giải thể doanh nghiệp; quy định cụ thể các hành vi bị cấm; bổ sung thêm trường hợp thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đổi mới cơ bản cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước tại các doanh nghiệp, trong đó tách chức năng thực hiện quyền chủ sở hữu ra khỏi chức năng quản lý hành chính Nhà nước, thực hiện tập trung và thống nhất các quyền chủ sở hữu, đồng thời tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra Luật còn quy định rõ hơn quyền lợi và nghĩa vụ của người quản lý: Thiết lập chế độ thù lao, tiền lương gắn với kết quả và hiệu quả kinh doanh của công ty (các Điều 58,73,117,125); Nghĩa vụ của người quản lý, nhất là đối với thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc, đặc biệt là nghĩa vụ trung thành, trung thực và cẩn trọng (Điều 56,72,119,126,134); Nâng cao, tăng cường và quy định cụ thể hơn vai trò, vị trí và trách nhiệm của Ban kiểm soát, Thành viên Ban kiểm soát (các Điều 123,124,126). 2. Sự phát triển của pháp luật về quản trị nội bộ 2.1. Các quy định về quản trị nội bộ trong điều lệ công ty. So với Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp 2005 đã có nét đột phá khi đi theo hướng chỉ quy định những vấn đề cơ bản, có tính nguyên tắc về nhiều nội dung trong quản trị nội bộ doanh nghiệp, cho phép Điều lệ công ty quy định thêm những vấn đề cụ thể để đáp ứng nhu cầu điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có quyền quyết định trong Điều lệ của mình các quan hệ ứng xử nội bộ và cách thức quản lý, điều hành cụ thể trong hoạt động nội bộ của doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa các quy định của luật doanh nghiệp 2005 với các yêu cầu của quản trị doanh nghiệp ghi trong điều lệ cty được thể hiện trong nhiều điều khoản của Luật này. Các quy đinh này của Luật doanh nghiệp 2005 nhằm hình thành khung quản trị nội bộ tiên tiến của doanh nghiệp. 2.2. Hoàn thiện quản trị doanh nghiệp Khung quản trị doanh nghiệp được hoàn thiện hơn, rõ ràng hơn và bảo vệ mạnh mẽ hơn quyền và lợi ích của thành viên, cổ đông. cụ thể: Khung quản trị được thiết kế tuỳ theo loại hình doanh nghiệp và được áp dụng thống nhất đối với doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay doanh nghiệp có chủ sở hữu tư nhân, doanh nghiệp sở hữu vốn nhà nước. Xác định rõ hơn các nghĩa vụ của người quản lý, nhất là đối với thành viên HĐQT và Giám đốc, đặc biệt là nghĩa vụ trung thành, trung thực và cẩn trọng. Quy định rõ điều kiện và tiêu chuẩn của chức danh quản lý quan trọng trong công ty. Tăng thêm quy định yêu cầu công khai và minh bạch, nhất là đối với những người quản lý. Nâng cao, tăng cường và quy định cụ thể hơn vai trò, vị trí và trách nhiệm của ban kiểm soát. Tăng cường thêm các quy định về quản lý vốn, hạn chế nguy cơ lạm dụng trách nhiệm hữu hạn. III. Đặc điểm riêng của Công ty cổ phần 1. Đặc điểm về loại hình công ty cổ phần Trong nền kinh tế thị trường, các Công ty cổ phần hình thành theo con đường tự nhiên là dựa trên nhu cầu vốn lớn của doanh nghiệp khi công nghệ, kỹ thuật phát triển, nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh đòi hỏi quy mô sản xuất lớn, đầu tư nhiều trang thiết bị kỹ thuật hiện đại mà cá nhân các nhà đầu tư không thể có đủ vốn để thực hiện thì Công ty cổ phần - loại hình doanh nghiệp hoạt động dựa trên vốn góp của các cổ đông - bắt đầu hình thành và phát triển. Công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của Công ty đối vốn. Trong đó, vốn của Công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu. Theo quy định tại khoản 1 điều 77 Luật Doanh nghiệp 2005, công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau, gọi là cổ phần. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào DN. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác trừ trường hợp quy định tại khoản 3 điều 81 và khoản 5 điều 84 của Luật Doanh nghiệp 2005. Dựa vào khái niệm trên có thể rút ra những đặc điểm riêng của Cty cổ phần, từ đó chúng ta có thể phân biệt được công ty cổ phần với công ty TNHH và công ty hợp danh: Thứ nhất, về thành viên công ty: Trong quá trình hoạt động ít nhất phải có 3 thành viên tham gia công ty cổ phần. Công ty cổ phần là loại hình công ty đặc trưng cho công ty đối vốn nên cần có sự liên kết của nhiều thành viên và vì vậy, việc quy định số thành viên tối thiểu phải có đã trở thành thông lệ quốc tế trong mấy trăm năm tồn tại của công ty cổ phần. Thứ hai, vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phần và được phản ánh trong cổ phiếu. Một cổ phiếu có thể phản ánh mệnh giá của một hoặc nhiều cổ phần. Việc góp vốn vào công ty được thực hiện bằng cách mua cổ phần, mỗi cổ đông có thể mua nhiều cổ phần. Luật không hạn chế mỗi thành viên được mua tối đa bao nhiêu phần trăm vốn điều lệ nhưng các thành viên có thể thỏa thuận trong Điều lệ giới hạn tối đa số cổ phần mà một thành viên có thể mua nhằm chống lại việc một thành viên nào đó có thể nắm quyền kiểm soát công ty. Thứ ba, tính tự do chuyển nhượng phần vốn góp: phần vốn góp của các thành viên được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ phiếu do công ty phát hành là một loại hàng hóa. Người có cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng theo quy định của pháp luật. Thứ tư, về chế độ trách nhiệm: Công ty cổ phần chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của công ty. Các cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty ( tức là đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu) Thứ năm, trong quá trình hoạt động, công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán (như cổ phiếu, trái phiếu) ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán để huy động vốn. Thứ sáu, công ty cổ phần là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, công ty có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Và cuối cùng, công ty cổ phần là loại hình công ty thông thường có rất nhiều thành viên và việc tổ chức quản lý rất phức tạp, do đó cần phải có một cơ chế quản lý thật chặt chẽ. Việc quản lý điều hành công ty cổ phần được đặt dưới quyền của 3 cơ quan: Đại hội đồng cổ đông, HĐQT và Ban kiểm soát quy định cụ thể trong Luật doanh nghiệp 2005. Từ những đặc điểm trên, ta có thể rút ra được những thuận lợi đối với công ty cổ phần là: Trách nhiệm pháp lý có giới hạn: trách nhiệm của các cổ đông chỉ giới hạn ở số tiền đầu tư của họ. Tính chất ổn định, lâu bền, sự thừa nhận hợp pháp, khả năng chuyển nhượng các cổ phần và trách nhiệm hữu hạn, tất cả có nghĩa là nhà đầu tư có thể đầu tư mà không sợ rủi ro cho các tài sản cá nhân khác và có sự đảm bảo trong một chừng mực nào đó giá trị vốn đầu tư sẽ tăng lên sau mỗi năm. Điều này tạo khả năng cho hầu hết các Công ty cổ phần tăng vốn tương đối dễ dàng. Được chuyển nhượng quyền sở hữu Các cổ phần hay quyền sở hữu công ty có thể được chuyển giao dễ dàng. Chúng được ghi vào danh mục chuyển nhượng tại sở giao dịch chứng khoán và có thể mua hay bán trong các phiên mở cửa một cách nhanh chóng. Vì vậy, các cổ đông có thể duy trì tính thanh khoản của cổ phiếu và có thể chuyển nhượng các cổ phiếu một cách thuận tiện khi họ cần tiền mặt. Bên cạnh những thuận lợi trên thì việc thành lập và hoạt động của Công ty cổ phần cũng gặp phải những khó khăn sau: + Công ty cổ phần phải chấp hành các chế độ kiểm tra và báo cáo chặt chẽ. + Khó giữ bí mật: vì lợi nhuận của các cổ đông và để thu hút các nhà đầu tư tiềm tàng, công ty thường phải tiết lộ những tin tức tài chính quan trọng, những thông tin này có thể bị đối thủ cạnh tranh khai thác. + Phía các cổ đông thường thiếu quan tâm đúng mức, rất nhiều cổ đông chỉ lo nghĩ đến lãi cổ phần hàng năm và ít hay không quan tâm đến công việc của công ty. Sự quan tâm đến lãi cổ phần này đã làm cho một số ban lãnh đạo chỉ nghĩ đến mục tiêu trước mắt chứ không phải sự thành đạt lâu dài. Với nhiệm kỳ hữu hạn, ban lãnh đạo có thể chỉ muốn bảo toàn hay tăng lãi cổ phần để nâng cao uy tín của bản thân mình. + Công ty cổ phần bị đánh thuế hai lần. Lần thứ nhất thuế đánh vào công ty. Sau đó, khi lợi nhuận được chia, nó lại phải chịu thuế đánh vào thu nhập cá nhân của từng cổ đông. 2. Đặc điểm về quản trị công ty cổ phần Mỗi công ty cổ phần là tổng hoà các mối quan hệ phức tạp, vì vậy luôn tiềm ẩn những xung đột về lợi ích có thể nảy sinh sau các quyết định cụ thể của công ty. Trong nội bộ doanh nghiệp, người quản lý, người lao động và cổ đông đều mong muốn công ty kinh doanh có hiệu quả và phát triển bền vững. Tuy nhiên, do sự khác biệt về lợi ích giữa các cổ đông, sự tách biệt giữa người quản lý và quyền sở hữu đã tạo nên những xung đột về lợi ích có thể kể đến như sau: Xung đột về lợi ích giữa cổ đông thiểu số với nhóm cổ đông sở hữu đa số cổ phần nắm quyền kiểm soát công ty. Xung đột giữa cổ đông với những người quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, sự xung đột quyền lợi của các nhóm người này không gay gắt đến mức chúng chỉ có thể được giải quyết bằng pháp luật, mà cơ chế của thị trường luôn tác động góp phần vào sự giải quyết các xung đột đó. Bởi vì, tất cả những người tham gia đều cần sự thành công của doanh nghiệp và những người tham gia này cần một cách thức nào đó để dung hòa các mối quan tâm về lợi ích, kết hợp hiệu quả các nguồn lực và mở rộng khả năng phát triển. Như đã phân tích ở trên, các cổ đông của công ty cổ phần không có quyền trực tiếp đối với tài sản trong công ty. Cổ đông thực hiện quyền cổ đông bằng cách biểu quyết trong cuộc họp ĐHĐCĐ. Việc điều hành công ty giao cho HĐQT và ban giám đốc là những người có khả năng quản lý và kinh doanh. Cơ cấu quản trị công ty cổ phần ở nước ta theo mô hình: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc và Ban kiểm soát. Chức năng nhiệm vụ của các bộ phận này như sau: Đại hội đồng cổ đông: là những người cung cấp vốn đầu tư hoặc vốn cổ phần, có một số quyền cơ bản sau: - Bầu và bãi nhiệm HĐQT hoặc Hội đồng giám sát - Thông qua hoặc không thông qua một số vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc của công ty như thay đổi Điều lệ; sáp nhập, tăng giảm vốn công ty - Quyết định mức lãi cổ tức và hưởng thụ lãi. Hội đồng quản trị: là cơ quan thay mặt cổ đông thực hiện việc quản lý công ty thông qua việc thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Bổ nhiệm, miễn nhiệm giám đốc điều hành - Giám sát hoạt động quản lý điều hành của giám đốc điều hành - Xem xét và thông qua các quyết định quan trọng khác không trực tiếp do cổ đông quyết định. Ban giám đốc của công ty thường không phải là một người mà là một số người do HĐQT lựa chọn và bổ nhiệm. Thực chất Ban giám đốc được gọi là bộ máy điều hành công ty hoặc các quản trị gia của công ty. Ban giám đốc thực hiện chức năng điều hành các hoạt động hàng ngày của công ty. Ban kiểm soát: do ĐHĐCĐ bầu ra, có vai trò giám sát HĐQT, gám đốc hoặc tổng giám đốc trong việc quản lý và điều hành công ty; chịu trách nhiệm trước Đ._.HCĐ trong thực hiện các nhiệm vụ được giao. Mô hình công ty cổ phần tương đối rõ ràng giúp chúng ta dễ dàng nhận thấy cơ chế phân quyền đã định rõ quyền hạn và nghĩa vụ giữa các thành viên, cơ quan trong công ty như cổ đông, HĐQT, Ban giám đốc và Ban kiểm soát. Các cơ quan này có sự độc lập tương đối trong hoạt động và chi phối lẫn nhau. Đồng thời, đảm bảo cho cổ đông quản lý giám sát một cách tốt nhất với các nhà quản trị điều hành công ty. IV. Khái quát về Thị trường chứng khoán và Công ty chứng khoán: 1. Thị trường chứng khoán 1.1. Khái niệm Thị trường chứng khoán Cho đến thời điểm này có rất nhiều quan điểm khác nhau về TTCK, do đó khó có thể đưa ra một khái niệm thống nhất. Tuy nhiên, để có một cái nhìn toàn diện về TTCK, chúng ta có thể tham khảo các ý kiến sau: Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Như vậy, xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán, trong đó chứng khoán là các giấy tờ có giá hoặc bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền sở hữu hoặc quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành. Các quyền yêu cầu này là khác nhau giữa các loại chứng khoán tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Từ những quan điểm trên, ta thấy rằng TTCK không giống với thị trường hàng hóa thông thường, bởi vì hàng hóa được mua bán, trao đổi, chuyển nhượng trên TTCK là các loại chứng khoán, hay chính là quyền sở hữu về tư bản. Với mục tiêu hội nhập theo sự phát triển của nền kinh tế thế giới và phù hợp với tình hình phát triển của đất nước, TTCK Việt Nam ra đời. Sự ra đời của TTCK Việt Nam được đánh dấu bằng sự kiện thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chính Minh, bắt đầu hoạt động vào ngày 20/07/2000 và giao dịch phiên đầu tiên ngày 28/07/2000. 1.2. Phân loại Thị trường chứng khoán Căn cứ vào hình thức hoạt động của thị trường, TTCK được chia thành hai loại là: TTCK tập trung và TTCK phi tập trung. TTCK tập trung: Hình thái điển hình của TTCK tập trung là Sở giao dịch chứng khoán( hay Stock Exchange). Tại VN, Sở giao dịch chứng khoán như đã nói ở trên chính là Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (HASTC) và Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh (HOSE). TTCK phi tập trung còn có tên gọi khác là thị trường OTC( viết tắt của Over the Counter). Trên TTCK phi tập trung, giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán. Căn cứ vào tính chất của sự luân chuyển nguồn vốn: TTCK được chia thành hai loại là TTCK sơ cấp và TTCK thứ cấp: TTCK sơ cấp là nơi mua bán các chứng khoán mới phát hành TTCK thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã phát hành trên thị trường sơ cấp. Căn cứ vào phương thức giao dịch: Thị trường chứng khoán được chia thành thị trường giao ngay và thị trường giao sau Thị trường giao ngay: là thị trường mua bán chứng khoán theo giá tại thời điểm giao dịch. Thị trường giao sau: Là thị trường mua bán chứng khoán theo một loại hợp đồng định sẵn. Căn cứ vào đặc điểm hàng hoá lưu hành: Tthị trường chứng khoán còn được chia thành thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu và thị trường các công cụ phái sinh. 1.3. Các chủ thể trên TTCK Việt Nam 1.3.1 Tổ chức phát hành chứng khoán Các tổ chức phát hành gồm có: Chính phủ( Kho bạc Nhà nước), Chính quyền địa phương, các công ty cổ phần, doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa, Công ty quản lý quỹ và các quỹ đầu tư chứng khoán. 1.3.2 Nhà đầu tư chứng khoán: Nhà đầu tư chứng khoán là tổ chức, cá nhân Việt Nam và các tổ chức nước ngoài tham gia đầu tư trên TTCK. Các nhà đầu tư cá nhân, hộ gia đình, nhà đầu tư có tổ chức và các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như Ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ. Các nhà đầu tư nước ngoài: các tổ chức, cá nhân nước ngoài có thể tham gia mua chứng khoán trên TTCK Việt Nam. 1.3.3 Chủ thể trung gian trên TTCK. Ủy ban chứng khoán Nhà nước: Ủy ban chứng khoán Nhà nước là một cơ quan trực thuộc Chính phủ, được thành lập theo Nghi định 75/ NĐ- CP ngày 28 tháng 01 năm 1996. Ủy ban thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK, quản lý việc cấp giấy phép, đăng ký phát hành và kinh doanh chứng khoán, tổ chức công tác thanh tra giám sát các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán để đảm bảo cho thị trường hoạt động ổn định, công bằng và minh bạch. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội: Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội có tên Tiếng Anh là Hanoi Stock Trading Centre, viết tắt là HASTC. Đây là đơn vị trực thuộc có thu của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, có tư cách pháp nhân, thực hiện các chức năng tổ chức và quản lý điều hành trong lĩnh vực chứng khoán. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội thực hiện quản lý trên TTCK phi tập trung. Trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh: Trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh cũng thực hiện các chức năng giống như Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, nhưng quản lý trên thị trường tập trung. Theo quyết định số 599/ QĐ- TTg ngày 11 tháng 05 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ thì Trung tâm Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chính thức đổi tên thành Sở Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh với tên Tiếng Anh là Ho Chi Minh Stock Exchange, viết tắt là HOSE. Công ty chứng khoán: Theo điều 59 Luật Chứng khoán 2006, Công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức Công ty TNHH hoặc Công ty cổ phần. Công ty chứng khoán được thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh sau: Môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, dịch vụ tư vấn tài chính và các dịch vụ tài chính khác. Các tổ chức hỗ trợ khác: Các tổ chức hỗ trợ khác có thể kể đến là các tổ chức lưu ký, thanh toán và bù trừ chứng khoán, các tổ chức kiểm toán, Ngân hàng … 2. Công ty chứng khoán 2.1 Khái niệm Công ty chứng khoán Điều 59 của Luật chứng khoán 2006 chỉ quy định về hình thức tổ chức pháp lý của Công ty chứng khoán. Sau đây, để hiểu rõ về Công ty chứng khoán, chúng ta hãy xem xét một số khái niệm: Công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty TNHH thành lập theo Pháp luật Việt Nam để kinh doanh chứng khoán theo giấy phép do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp. Công ty chứng khoán là một tổ chức kinh doanh chứng khoán có tư cách pháp nhân, có vốn riêng hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế, hoạt động theo giấy phép do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp. Công ty chứng khoán có chức năng của người môi giới, người chuyên viên & người bảo lãnh chứng khoán. Tuy Luật Chứng khoán 2006 không quy định nhưng theo khoản 1 Điều 2 Quy chế Tổ chức và hoạt động của Công ty chứng khoán thì: Công ty chứng khoán là tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh chứng khoán, bao gồm một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán. Theo quy định tại Luật Chứng khoán 2006, Ủy ban chứng khoán Nhà nước là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh cho các công ty cổ phần hoặc công ty TNHH được thành lập để hoạt động kinh doanh chứng khoán nếu như những công ty này đáp ứng được đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật hiện hành về mức vồn pháp định, cơ sở vật chất kỹ thuật, nhân viên Công ty phải có chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán do Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp. 2.2 Phân loại công ty chứng khoán: Có thể phân loại CTCK thành các loại sau: - Công ty môi giới chứng khoán: là công ty cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán cho khách hàng và nhận hoa hồng. - Công ty kinh doanh chứng khoán: là công ty tự bỏ vốn và tự kinh doanh chứng khoán. Giống như mọi nhà đầu tư, họ kinh doanh trên vốn của mình và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. - Công ty bảo lãnh phát hành: là công ty cung ứng các dịch vụ bảo lãnh đối với những công ty có dự định phát hành chứng khoán và hưởng phí từ dịch vụ đó hoặc hưởng lợi từ sự chênh lệch giá chứng khoán ( trong trường hợp bảo lãnh có cam kết mua số chứng khoán còn dư). - Công ty tư vấn tài chính và tư vấn đầu tư chứng khoán: là công ty cung cấp các dịch vụ tư vấn như tư vấn cổ phần hóa, tư vấn niêm yết, tư vấn phát hành trái phiếu, tư vấn định giá, thẩm định đầu tư và thu phí dịch vụ. - Công ty quản lý danh mục đầu tư (các quỹ): là công ty nhận uỷ quyền hay nguồn vốn từ khách hàng, đại diện cho khách hàng, thông qua việc giao dịch mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán để kiếm lời cho mình và cho khách hàng. - Công ty trái phiếu: là công ty chuyên mua bán các loại trái phiếu - Công ty chứng khoán phi tập trung : là các công ty hoạt động chủ yếu trên thị trường OTC và đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường. 2.3 Đặc điểm của Công ty chứng khoán 2.3.1 Các quy chế pháp lý đối với Công ty chứng khoán a. Loại hình tổ chức của Công ty chứng khoán Công ty chứng khoán là công ty cổ phần: Công ty cổ phần là công ty mà vốn được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân và có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của Pháp luật. Công ty chứng khoán thành lập dưới hình thức công ty TNHH: Công ty TNHH là doanh nghiệp trong đó thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Công ty TNHH không được quyền phát hành cổ phiếu. b. Các điều kiện và thủ tục được cấp giấy phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán Điều kiện cấp phép thành lập và hoạt động Điều kiện về cơ sở vật chất Công ty chứng khoán phải có trụ sở, trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh chứng khoán (Đối với nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán không phải đáp ứng điều kiện này). Theo quy định tại khoản 1 điều 3 Quy chế Tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán thì Điều kiện cấp Giấy phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán là công ty chứng khoán phải có trụ sở đảm bảo các yêu cầu sau: - Quyền sử dụng trụ sở làm việc tối thiểu một năm, trong đó diện tích làm sàn giao dịch phục vụ nhà đầu tư tối thiểu 150 m2; - Có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ hoạt động kinh doanh, bao gồm: Sàn giao dịch phục vụ khách hàng; thiết bị văn phòng, hệ thống máy tính cùng các phần mềm thực hiện hoạt động giao dịch chứng khoán; trang thông tin điện tử, bảng tin để công bố thông tin cho khách hàng; hệ thống kho, két bảo quản chứng khoán, tiền mặt, tài sản có giá trị khác và lưu giữ tài liệu, chứng từ giao dịch đối với công ty chứng khoán có nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán; - Hệ thống phòng cháy chữa cháy theo quy định của pháp luật; - Có hệ thống an ninh, bảo vệ an toàn trụ sở làm việc. Điều kiện về vốn góp theo quy định của Chính phủ Theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 14/ NĐ - CP ngày 19 tháng 01 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán 2006 thì Vốn pháp định cho các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán trong nước, công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh công ty chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam là: + Môi giới chứng khoán: 25 tỷ VNĐ + Tự doanh chứng khoán: 100 tỷ VNĐ + Bảo lãnh phát hành chứng khoán: 165 tỷ VNĐ + Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ VNĐ Trong trường hợp Công ty xin cấp giấy phép cho nhiều hoạt động kinh doanh thì vốn pháp định là tổng số vốn pháp định theo từng loại hình kinh doanh mà công ty được cấp phép. Điều kiện đối với Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc và các nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc và các nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán phải có chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán do Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp. Ngoài ra, Quy chế Tổ chức và hoạt động của Công ty chứng khoán còn quy định các tiêu chuẩn đối với Tổng Giám đốc, Phó tổng giám đốc, Giám đốc chi nhánh, Phó giám đốc chi nhánh của công ty chứng khoán. Hơn nữa Điều 3 khoản 3 còn quy định có tối thiểu ba (03) người hành nghề chứng khoán cho mỗi nghiệp vụ kinh doanh. Điều kiện đối với cá nhân góp vốn Đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 62 Luật Chứng khoán; Chỉ được phép sử dụng vốn của chính mình để góp vốn, không được sử dụng nguồn vốn ủy thác đầu tư của pháp nhân và cá nhân khác. Cá nhân góp vốn từ 5% trở lên vốn điều lệ của công ty chứng khoán phải chứng minh tài sản bằng tiền, chứng khoán hoặc các tài sản khác. Đối với tài sản bằng tiền, phải có xác nhận của ngân hàng về số dư tại ngân hàng. Đối với tài sản bằng chứng khoán, phải có xác nhận của công ty chứng khoán hoặc của tổ chức phát hành về số chứng khoán đó. Đối với tài sản khác, phải có tài liệu chứng minh quyền sở hữu và tài sản đó phải được định giá bởi tổ chức định giá đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Điều kiện đối với pháp nhân Đang hoạt động hợp pháp; Vốn chủ sở hữu (không tính các khoản đầu tư dài hạn) đảm bảo đủ góp vốn theo cam kết; hiệu số giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn tại thời điểm báo cáo tài chính năm gần nhất có kiểm toán tối thiểu bằng số vốn góp; Không được dùng vốn ủy thác của các tổ chức, cá nhân khác để góp vốn. Điều kiện về vốn điều lệ thực góp Cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% vốn điều lệ thực góp ban đầu của công ty chứng khoán. Phần vốn góp ban đầu của cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập không được chuyển nhượng trong vòng ba năm kể từ ngày được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, trừ trường hợp chuyển nhượng cho cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp và phù hợp với Điều lệ công ty. Cơ quan cấp giấy phép thành lập và hoạt động Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chỉ có các công ty chứng khoán được Chính phủ( Bộ Tài chính, Ủy ban chứng khoán Nhà nước) cấp giấy phép mới được kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam. Ngoài công ty chứng khoán, không một cá nhân hoặc thực thể pháp lý nào khác được cấp giấy phép hành nghề tương tự. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho công ty chứng khoán( Trích khoản 1 Điều 65 Luật Chứng khoán 2006) 2.3.2 Đặc điểm về các loại hình nghiệp vụ kinh doanh của Cty chứng khoán: Như đã đề cập ở trên, các loại hình nghiệp vụ kinh doanh mà Cty chứng khoán thực hiện gồm có: Môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, tư vấn tài chính và các dịch vụ tài chính khác. Chỉ có công ty chứng khoán mới được phép thực hiện các nghiệp vụ nói trên và đây chính là đặc điểm của công ty chứng khoán so với các công ty khác. Để hiểu rõ hơn về sự khác biệt này, chúng ta nên đi sâu vào việc tìm hiểu từng loại hình nghiệp vụ. a. Môi giới chứng khoán: Môi giới chứng khoán là việc công ty chứng khoán làm trung gian thực hiện mua, bảo lãnh chứng khoán cho khách hàng (Điều 6.20 Luật chứng khoán 2006) Thông qua hoạt động môi giới chứng khoán, Công ty chứng khoán sẽ thay mặt khách hàng của mình để tiến hành các giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC, và chính khách hàng phải tự chịu trách nhiệm về kết quả giao dịch của mình. Hoạt động môi giới chứng khoán là hoạt động mang lại lợi nhuận cao cho các công ty chứng khoán. Hoạt động này là sự liên kết giữa nguồn cung và cầu trên TTCK. Công ty chứng khoán là điều kiện để các nhà đầu tư giao dịch với nhau thông qua việc các công ty chứng khoán sẽ thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch và nhận tiền hoặc chứng khoán thay cho khách hàng đã mở tài khoản tại công ty chứng khoán đó. b. Hoạt động tự doanh chứng khoán Tự doanh chứng khoán là việc công ty chứng khoán mua hoặc bán chứng khoán cho chính mình (Điều 6.21 Luật chứng khoán 2006) Trong hoạt động tự doanh, công ty chứng khoán dùng chính nguồn vốn của công ty để kinh doanh chứng khoán. Mục đích của hoạt động tự doanh là mang đến thu nhập cho chính công ty chứng khoán. Lúc này, công ty nắm giữ một số lượng chứng khoán nhất định và thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán với khách hàng để hưởng chênh lệch giá. Khi một công ty chứng khoán thực hiện hoạt động tự doanh, đôi khi công ty chứng khoán còn tham gia với tư cách là Nhà tạo lập thị trường. Nếu như vậy, ngoài mục tiêu lợi nhuận, công ty chứng khoán còn phải thực hiện một mục tiêu với vai trò quan trọng là bình ổn giá chứng khoán. Để thực hiện các mục tiêu đó, công ty chứng khoán phải đảm bảo có đủ tiền và chứng khoán để thanh toán các lệnh giao dịch của chính mình. c. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành trong việc phân phối chứng khoán ra công chúa (Điều 6.22 Luật chứng khoán 2006) d. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc công ty chứng khoán cung cấp cho nhà đầu tư kết quả phân tích, công bố báo cáo phân tích và khuyến nghị liên quan đến chứng khoán (Điều 6.23 Luật chứng khoán 2006). e. Hoạt động tư vấn tài chính Tư vấn tài chính là dịch vụ mà công ty chứng khoán cung cấp cho khách hàng trong lĩnh vực tái cơ cấu tài chính, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc phát hành, niêm yết chứng khoán. f. Các hoạt động khác Ngoài 5 hoạt động nghiệp vụ cơ bản trên, Công ty chứng khoán còn thực hiện một số hoạt động hỗ trợ để tạo thuận lợi hơn cho khách hàng như: Hoạt động lưu ký chứng khoán: là việc công ty chứng khoán cung cấp cho nhà đầu tư kết quả phân tích, công bố báo cáo phân tích và khuyết nghị liên quan đến chứng khoán. Hoạt động đăng ký chứng khoán: là việc ghi nhận quyền sở hữu và các quyền khác của người sở hữu chứng khoán. Qua những phân tích trên, ta có thể thấy rõ rằng các nghiệp vụ hoạt động của công ty chứng khoán hết sức đa dạng, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau và tạo nên sự khác biệt trong hoạt động của công ty chứng khoán so với các công ty khác. 2.3.3 Đặc điểm về hoạt động của Công ty chứng khoán: a. Quy mô đầu tư lớn: Pháp luật Việt Nam quy định cụ thể mức vốn pháp định cho từng loại hình nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán. Theo đó, mức vốn pháp định thấp nhất là 10 tỷ VNĐ và cao nhất là 165 tỷ VNĐ. Như vậy, ta có thể thấy rằng việc thành lập một công ty chứng khoán để thực hiện các nghiệp vụ cần nguồn vốn đầu tư lớn hơn rất nhiều so với những ngành nghề kinh doanh khác. Đây chính là đặc điểm nổi bật trong việc thành lập và hoạt động của công ty chứng khoán. b. Hoạt động đa dạng Ngoài những nghiệp vụ chính theo quy định của Luật Chứng khoán 2006, công ty chứng khoán còn thực hiện cả những nghiệp vụ khác như hoạt động lưu ký chứng khoán và hoạt động đăng ký chứng khoán. Hơn nữa, trên thực tế các công ty chứng khoán hiện nay còn thực hiện một số nghiệp vụ chính do công ty quản lý quỹ thực hiện, cụ thể là quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư. Như vậy, với tất cả các đặc điểm nêu trên như điều kiện thành lập và hoạt động, nghiệp vụ kinh doanh, quy mô đầu tư lớn thì ta thấy hoạt động của công ty chứng khoán vô cùng đa dạng. Từ đó ta thấy được tầm ảnh hưởng của các công ty chứng khoán đến sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam nói riêng và các quốc gia trên thế giới nói chung. V. Chế độ pháp lý về quản trị nội bộ đối với công ty cổ phần chứng khoán 1. Luật Doanh nghiệp 2005 Công ty chứng khoán là một công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán. Do đó việc thành lập cũng như quản trị nội bộ công ty chứng khoán trước hết phải tuân theo các quy định của Luật Doanh nghiệp 2005. Luật Doanh nghiệp với tư cách là Luật chung cho tất cả các doanh nghiệp được lựa chọn để áp dụng đầu tiên. Luật Doanh nghiệp 2005 được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2006 bao gồm 10 chương với 172 điều, trong đó có 39 điều quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn và 52 điều quy định về công ty cổ phần. Đây chính là cơ sở để các công ty chứng khoán quản trị nội bộ doanh nghiệp mình. Trong 52 điều quy định đối với loại hình công ty cổ phần có các quy định về: ĐHĐCĐ: từ điều 96 đến điều 107 HĐQT: từ điều 108 đến điều 115 Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty: từ điều 116 đến điều 119 Ban kiểm soát: từ điều 121 đến điều 127. 2. Luật Chứng khoán 2006 Luật chứng khoán là Luật chuyên ngành để điều chỉnh các lĩnh vực liên quan đến chứng khoán như thị trường chứng khoán, công ty chứng khoán và các hoạt động giao dịch trên thị trường chứng khoán… Do đó, việc quản trị nội bộ doanh nghiệp cũng phải tuân theo các quy định của Luật chứng khoán 2006. Luật Chứng khoán 2006 được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 06 năm 2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2007 bao gồm 11 chương với 136 điều, trong đó Chương XI là chương quy định về Công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ. 3. Văn bản dưới Luật 3.1 Nghị định số 139/ 2007/ NĐ-CP Nghị định số 139/ 2007/ NĐ-CP ngày 05 tháng 09 năm 2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp 2005. 3.2 Nghị định số 14/ 2007/ NĐ- CP Nghị định số 14/ 2007/ NĐ- CP ngày 19 tháng 01 năm 2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán 2006. 3.3 Quyết định số 27/ 2007/ QĐ- BTC Quyết định số 27/ 2007/ QĐ- BTC ngày 24 tháng 04 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Công ty chứng khoán. Đây là quy chế áp dụng riêng đối với công ty chứng khoán, gồm 46 điều quy định chi tiết việc tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán. 4. Văn bản riêng của Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương 4.1 Điều lệ công ty Điều lệ công ty là bản cam kết của tất cả thành viên về thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty. Do đó, công ty có thể có những quy định cụ thể hơn so với các văn bản Luật, hoặc đề cập những vấn đề mà Luật không nói đến nhưng không được trái với quy định của pháp luật. Điều lệ công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương gồm có 56 Điều, trong đó: Quy định về ĐHĐCĐ: tại VI từ điều 13 đến điều 23 Quy định về HĐQT: tại VII từ điều 24 đến điều 27 Quy định về Tổng giám đốc và các cán bộ quản lý khác: tại VIII và IX, từ điều 28 đến điều 34 Quy định về Ban kiểm soát: tại X điều 35 và điều 36 4.2 Nội quy lao động Nội quy lao động là những quy định về kỷ luật lao động mà người lao động phải thực hiện khi làm việc tại doanh nghiệp; quy định việc xử lý đối với người lao động có hành vi vi phạm kỷ luật lao động; quy định trách nhiệm vật chất đối với người lao động vi phạm kỷ luật lao động làm thiệt hại tài sản của công ty. Nội quy lao động công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương gồm có 46 điều quy định về các trách nhiệm và quyền hạn của nhân viên trong công ty cũng như hình thức kỷ luật đối với nhân viên vi phạm. Đây là một trong những văn bản để ban lãnh đạo công ty quản trị nội bộ doanh nghiệp. Chương II. Thực tiễn áp dụng chế độ pháp lý về quản trị nội bộ tại Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương I. Tổng quan về công ty cổ phần Châu Á - Thái Bình Dương: Quá trình ra đời và sự phát triển của công ty Quá trình ra đời Tên công ty: Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương Tên giao dịch: Asia – Pacific Securities Joint Stock Company Tên viết tắt: APEC Securities.,JSC Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương (APEC) được thành lập theo Giấy phép đăng ký kinh doanh số 0103015146 ngày 21 tháng 12 năm 2006 do Sở kế hoạch đầu tư Thành phố Hà Nội cấp và Giấy phép kinh doanh chứng khoán số 37/UBCK – GPHĐKD ngày 26/12/2006 do Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp với số vốn điều lệ là 80.000.000.000 đồng. Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương là một trong những công ty chứng khoán được thành lập vào thời điểm thị trường chứng khoán của Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ, nhưng hầu hết những người tham gia chưa có kiến thức chuyên sâu về Thị trường chứng khoán. Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương được tổ chức theo mô hình định chế tài chính hiện đại với phương pháp hoạt động khoa học và phong cách làm việc chuyên nghiệp với mục tiêu chiến lược là trở thành một tập đoàn đầu tư tài chính có tên tuổi ở khu vực cũng như trên toàn thế giới, kinh doanh nhiều lĩnh vực như đầu tư, tài chính, chứng khoán, bảo hiểm, ngân hàng và giáo dục… Quá trình phát triển Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương hình thành và phát triển qua các giai đoạn chính như sau: Ngày 26/12/2006: Quyết định của Chủ tịch uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh cho công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương với số vốn điều lệ là 60.000.000.000 đồng, trụ sở chính đặt tại số 66 Ngô Thì Nhậm, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội. Ngày 02/01/2007: Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương chính thức là thành viên lưu ký của Trung tâm Lưu ký chứng khoán thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Ngày 23/01/2007: Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương trở thành thành viên của Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội. Ngày 26/02/2007: Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương trở thành thành viên của Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 19/07/2007: Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á – Thái Bình Dương chuyển trụ sở chính đến tầng 8, Toà nhà Trung tâm thương mại Quốc tế, số 9 Đào Duy Anh, phường Phương Liệt, quận Đống Đa, TP Hà Nội. Ngày 01/10/2007: Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á – Thái Bình Dương tăng vốn điều lệ lên 80.000.000.000 đồng. Ngày 12/11/2007: Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á – Thái Bình Dương chính thức khai trương Đại lý nhận lệnh thứ 15 tại phố Hoàng Đạo Thuý, Trung Hòa, Nhân Chính, Hà Nội. Cơ cấu tổ chức quản lý Theo quy định tại điều 59.1 Luật chứng khoán 2007 thì " công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty TNHH hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp". Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương được tổ chức dưới hình thức Công ty cổ phần và theo mô hình quản lý dưới đây: DỊCH VỤ CHỨNG KHOÁN CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TƯ VẤN TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP PHÂN TÍCH & NGHIÊN CỨU ĐẦU TƯ & BẢO LÃNH PHÁT HÀNH HÀNH CHÍNH TÀI CHÍNH KẾ TOÁN TƯ VẤN ĐẦU TƯ VÀ QUẢN LÝ VỐN PHÁT TRIỂN KINH DOANH HỘI SỞ CHI NH¸NH HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ BAN KIỂM SOÁT BAN GIÁM ĐỐC ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG VP TRỢ LÝ HĐQT 2.1 Đại hội đồng cổ đông: Đại hội đồng cổ đông là cơ quan có thẩm quyền cao nhất, quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ và quyền hạn được pháp luật và Điều lệ công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương quy định. 2.2 Hội đồng quản trị: Hội đồng quản trị là cơ quan quản trị của công ty, có toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Hiện nay, ông Nguyễn Đỗ Lăng giữ chức Chủ tịch Hội đồng quản trị. HĐQT công ty hiện có 04 người, gồm 01 chủ tịch, 01 phó chủ tịch và 02 thành viên. 2.3 Ban kiểm soát: Ban kiểm soát do Đại hội đồng cổ đông bầu ra. Vai trò của Ban kiểm soát là đảm bảo các quyền lợi của cổ đông và giám sát các hoạt động của công ty. Ban kiểm soát công ty Châu Á Thái Bình Dương do ông Nguyễn Nhật Quang làm Trưởng ban. Ban Kiểm soát gồm có 03 thành viên: 01 trưởng ban & 02 phó ban. 2.4 Văn phòng trợ lý HĐQT Văn phòng trợ lý HĐQT có vai trò giúp việc cho HĐQT và Tổng Giám đốc. Hiện nay văn phòng trợ lý HĐQT gồm 6 thành viên do ông Phạm Duy Hưng phụ trách. 2.5 Ban giám đốc Ban giám đốc gồm có 01 Tổng giám đốc, 01 Phó tổng giám đốc và các Giám đốc phụ trách Khối chuyên môn. Tổng Giám đốc công ty Châu Á Thái Bình Dương là ông Nguyễn Mạnh Hào. 2.6 Hội sở chính Hội sở chính được phân chia dưới dạng các Phòng ban và Khối chuyên môn. Khối Dịch vụ chứng khoán: do ông Dương Song Hà làm Giám đốc. Phòng Công nghệ thông tin: do ông Nguyễn Hữu Hùng làm Trưởng phòng. Phòng Tư vấn tài chính doanh nghiệp: do ông Hà Minh Kiên làm Trưởng phòng. Khối Phân tích và nghiên cứu; đầu tư và bảo lãnh phát hành; tư vấn đầu tư và quản lý vốn: do ông Đinh Văn Hùng làm Giám đốc. Phòng Tài chính kế toán: Do ông Nguyễn Văn Hùng làm Trưởng phòng. Khối Phát triển kinh doanh: Do bà Phạm Hồng Vân làm Giám đốc. Phòng Tổ chức hành chính nhân sự: do ông Vũ Quang Huy làm Trưởng phòng. 2.7. Chi nhánh: Hiện nay, công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương có 04 chi nhánh và gần 25 đại lý nhận lệnh. Con số này tiếp tục thay đổi vì công ty đang triển khai kế hoạch phát triển thị trường. Chi nhánh: gồm có chi nhánh tại Hà Nội, TP Hồ Chính Minh, Huế và Hải Phòng. Đại lý nhận lệnh: Trung Hòa Nhân Chính, Chương Dương - Gia Lâm, Việt Trì, Hải Dương, Thái Bình, Móng Cái, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Vinh, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Gia Lai, Đak Nông, Vũng Tàu, Nha Trang … 3. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh Cho đến tháng 04 năm 2008, công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương đã đạt được nhiều thành tựu trong hoạt động kinh doanh, có thể kể đến như sau: Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương trở thành một trong các công ty chứng khoán có mạng lưới lớn nhất Việt Nam với gần 25 chi nhánh, sàn giao dịch và đại lý nhận lệnh. Tổng giá trị giao dịch lên đến 6 triệu USD mỗi ngày. Đến cuối năm 2007, tỷ suất lợi nhuận trên vốn điều lệ là 50%. Đến cuối quý 3 năm 2007, Công ty có tổng cộng 10.000 tài khoản giao dịch và chiếm khoảng 5% thị phần. Công ty chứng khoán Châu Á - Thái Bình Dương đã ký kết hợp đồng cổ đông chiến lược với đối tác Nhật Bản JICS. Theo đó, JICS trở thành cổ đông chiến lược của công ty và sẽ đầu tư 200 triệu USD vào Việt Nam thông qua công ty chứng khoán C._. cuối năm 2007 ) Một số công ty còn tìm cách lách luật, bằng cách đi thuê bằng hành nghề cho đủ điều kiện nộp lên UBCKNN. Các quy định về kiểm soát hoạt động nhân viên trong CTCK không được thực hiện chặt chẽ, các nhân viên trong CTCK có thể mở cùng lúc nhiều tài khoản tại nhiều CTCK khác nhau, hoạt động môi giới bên ngoài cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Vi phạm nghiêm trọng nhất đã từng xảy ra là nhân viên CTCK tự ý sử dụng tài khoản của khách hàng để mua bán chứng khoán. Điều này cho thấy, hoạt động quản trị nội bộ của các CTCK thực hiện chưa nghiêm túc, dẫn tới những vi phạm đáng tiếc. Điều kiện nguồn nhân lực cũng là yếu tố gây đau đầu cho nhiều CTCK, đặc biệt là các CTCK nhỏ. Do điều kiện nhân sự luôn luôn biến động, các đối thủ cạnh tranh luôn tìm cách lôi kéo nhân viên từ các công ty khác, đặc biệt là từ các công ty có uy tín về làm cho mình. Điều này gây ra một tiền lệ xấu và có khả năng dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh là thu hút nhân tài của nhau, đồng thời còn lôi kéo khách hàng thông qua những nhân viên đó. Cạnh tranh nguồn nhân lực chắc chắn vẫn còn gay gắt trong thời gian tới, đòi hỏi các CTCK phải có chính sách, chủ trương đối với những khó khăn này. 2. Một số kiến nghị đối với Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương 2.1 Cơ cấu lại tổ chức các phòng ban theo hướng tăng cường hỗ trợ hệ thống kiểm soát nội bộ Muốn nâng cao năng lực quản trị của ĐHĐCĐ, HĐQT, Ban giám đốc thì trước hết hệ thống kiểm soát nội bộ của công ty phải hoạt động thực sự có hiệu quả. Việc làm cần thiết đầu tiên là cơ cấu lại tổ chức theo hướng mở rộng các phòng chuyên môn phục vụ trực tiếp cho hệ thống kiểm soát nội bộ. Dựa vào nhu cầu thực tế của công ty, có thể thành lập thêm 1 đến 2 phòng chức năng trên cơ sở cơ cấu lại hoặc tách từ bộ phận hành chính. Đó là các phòng chuyên môn cho vấn đề tuyển dụng, đào tạo, hệ thống kiểm toán nội bộ cũng như phát triển quan hệ với khách hàng. Khi các nghiệp vụ đã được chuyên môn hóa thì mới có thể dễ dàng thực hiện các chiến lược chính sách tiếp theo của công ty. Cơ cấu lại các phòng ban cũng gắn liền với việc nâng cao vai trò của Ban kiểm soát. Thực tế, mặc dù đã có khái niệm được đưa ra trong Luật Doanh nghiệp 2005 nhưng vai trò của ban kiểm soát trong các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Công ty APEC nói riêng còn rất mơ hồ. Hoạt động của ban kiểm soát nhìn chung vẫn là mang tính chất đột xuất, theo yêu cầu chứ không phải hoạt động thường xuyên. Hơn nữa, Ban kiểm soát được coi như là một bộ phận trực thuộc ban lãnh đạo, điều này làm giảm tính khách quan và độc lập của Ban kiểm soát trong công ty. Đã đến lúc cần đưa vị trí của ban kiểm soát về đúng vị trí và nhiệm vụ của nó, là bộ phận do ĐHĐCĐ bầu ra, có nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra giám sát thường xuyên hoạt động của công ty từ đó phát hiện ra những sai xót, hạn chế để ban lãnh đạo có biện pháp khắc phục kịp thời. 2.2 Tăng cường quản lý nhân sự, có chính sách lương thưởng hợp lý và chính sách thu hút nhân tài Đây là những vấn đề thực sự cần thiết vì nhân lực luôn là vấn đề đau đầu trong quản trị các CTCK. Sự cạnh tranh nhân tài giữa các công ty, vấn đề trình độ đào tạo cũng như những hạn chế về lương thưởng là những tồn tại bấy lâu nay. Khi có bộ phận chuyên môn phụ trách vấn đề nhân sự, công ty có điều kiện phát triển hơn nữa về quy mô nhưng vẫn đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực. Thực tế một vài CTCK lớn trên TTCK Việt Nam đều có riêng bộ phận quản lý đào tạo nguồn nhân sự, do vậy mà mặc dù bị các công ty khác thu hút không ít chất xám, họ vẫn đáp ứng đủ nhu cầu và tiếp tục phát triển. Đi kèm với việc thành lập phòng chuyên môn cho vấn đề đào tạo tuyển dụng, là việc đào tạo các chuyên viên HR( Human Resources) phụ trách lên chiến lược quản trị nhân sự cho công ty. Đây là vấn đề quản lý được áp dụng rộng rãi trên thế giới, tại Việt Nam tuy mới manh nha hình thành nhưng chắc chắn sẽ trở nên cần thiết trong thời gian tới. Khi công ty đã có chiến lược phát triển nguồn nhân lực thì từ đó mới đề ra đối sách để thu hút nhân tài, cũng như có chế độ lương thưởng hợp lý để giữ nhân viên của mình. Theo kinh nghiệm của các CTCK hàng đầu thế giới, lương nhân viên nhận được ngoài phần lương cứng còn có chế độ thưởng theo khối lượng công việc mà nhân viên đó đã làm được một cách thường xuyên và hợp lý. Điều này khuyến khích nhân viên đóng góp tích cực hơn vào hoạt động của công ty. Nó khác với cách làm hiện nay của các CTCK Việt Nam là thực hiện thưởng theo quý, theo năm và theo đầu người. Một cách làm khác là có thể cho phép nhân viên hưởng hoa hồng theo số hợp đồng đã ký được. Công ty cũng cần có những chính sách phù hợp thu hút nhân tài về làm việc cho mình, đặc biệt là đội ngũ nhân sự cao cấp được đào tạo ở nước ngoài về. Mặc dù thị trường nhân sự cao cấp đang gặp phải những cạnh tranh lớn từ nhiều phía, nhưng nếu tạo được hình ảnh và môi trường làm việc thân thiện, chắc chắn CTCK APEC sẽ ngày càng trở thành nơi thu hút nguồn chất xám có trình độ cao đến làm việc cho mình. 2.3. Xây dựng văn hóa công ty Văn hóa công ty bao gồm những quy tắc ứng xử, phong cách làm việc, những quy định trong quan hệ trong và ngoài công ty, đồng thời là những nguyên tắc kinh doanh mà công ty đang hướng tới. Xây dựng văn hóa công ty là vấn đề lâu dài, cần nhiều kinh nghiệm và phải phù hợp với thực trạng của doanh nghiệp. Nên chăng, công ty có thể thuê tư vấn của nước ngoài về vấn đề này, từ đó xây dựng nên một bộ quy chuẩn các quy tắc cơ bản nhất, hợp lý nhất, xây dựng nên thương hiệu và tạo nên sự khác biệt của CTCK APEC so với các công ty khác. Văn hóa công ty sẽ kích thích động lực làm việc của các nhân viên trong công ty, khiến họ cùng đóng góp vào sự phát triển chung của APEC mà không phải là đi làm cho xong việc. Xây dựng văn hóa công ty trong đó nêu bật vai trò làm gương đi đầu của ban lãnh đạo, chính họ là tấm gương cho nhân viên soi vào, là động lực cho nhân viên phấn đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Văn hóa công ty cũng phải gắn với việc giải quyết mối quan hệ giữa các nhân viên với nhau, làm sao để họ có thể giúp đỡ nhau cùng làm việc vì mục đích chung, chứ không phải kiềm chân nhau, hủy hoại lẫn nhau. 2.4. Nâng cao vai trò của kiểm toán nội bộ Kiểm toán nội bộ cũng là vấn đề cần được coi trọng. Trước đây, mọi hoạt động tài chính của công ty đều thông qua phòng kế toán, sau đó bộ phận này báo cáo trực tiếp cho Ban giám đốc công ty. Nếu có thêm bộ phận kiểm toán nội bộ, thì mọi hoạt động báo cáo lên Ban giám đốc sẽ không còn bị bó hẹp trong phạm vi các báo cáo tài chính nữa mà sẽ mở rộng không bị giới hạn trong bất cứ phạm vi nào, nghiệp vụ, phòng ban nào. Đây là yếu tố tối cần thiết, nhất là với một loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nhạy cảm như CTCK. Kiểm toán nội bộ sẽ không chỉ giúp việc cho Ban giám đốc, mà có thẩm quyền báo cáo lên ĐHĐCĐ, HĐQT tăng tính công khai minh bạch, tạo sự tin tưởng cho các cổ đông trong công ty. Kiểm toán nội bộ cũng giúp cho ban lãnh đạo nhìn nhận ra những yếu kém, sai sót trong hệ thống của mình để từ đó kịp thời khắc phục, hạn chế những sai sót đó. Muốn nâng cao hệ thống kiểm toán nội bộ thì phải có đội ngũ kiểm toán viên nội bộ có trình độ. Kiểm toán nội bộ khác với kiểm toán báo cáo tài chính nên cần thiết phải có nhân viên chuyên thực hiện việc làm này. Xây dựng được đội ngũ kiểm toán viên nội bộ chuyên nghiệp sẽ giúp ích rất nhiều cho Ban giám đốc trong việc hỗ trợ ra quyết định, đảm bảo tính chính xác của thông tin tài chính, kịp thời phát hiện những rủi ro và tư vấn việc sử dụng các nguồn lực hiệu quả và hợp lý. 2.5. Nâng cấp hệ thống CNTT và ứng dụng vào việc kiểm soát nội bộ. Hiện tại hệ thống core-broking mà APEC đang sử dụng được đánh giá là tiên tiến nhất trên thế giới hiện nay. Từ thuận lợi này mà công ty có thể ứng dụng nó vào trong hoạt động kiểm soát nội bộ của mình. Trước hết là có thể kiểm soát các giao dịch theo thời gian, xử lý thông tin tài chính một cách nhanh chóng và chính xác. Đây là điều thực sự cần thiết khi APEC đang là công ty có hệ thống chi nhánh lớn nhất trên TTCK hiện nay. Việc quản lý tập trung thông tin sẽ giúp Ban lãnh đạo công ty có thể nhanh chóng đưa ra quyết sách kịp thời và đúng đắn. Ứng dụng CNTT vào quản trị nội bộ, còn giúp giảm thiểu rủi ro cho công ty, ngăn chặn những hành vi xấu từ trong nội bộ công ty như: sử dụng tài khoản khách hàng để kinh doanh chứng khoán, đem bán thông tin nội bộ, tăng tính bảo mật và kiểm soát việc ra vào các luồng tiền. Hệ thống CNTT còn có chức năng và vai trò hỗ trợ cho việc ra quyết định. CTCK APEC có thể xây dựng một hệ thống phân tích nhằm cung cấp các công cụ phân tích, đánh giá dựa trên dữ liệu thu thập từ các hệ thống khác. Kết quả phân tích được biểu thị sáng sủa, đa dạng( bảng, đồ thị, biểu đồ) giúp Ban lãnh đạo nắm được tình trạng hoạt động nhanh và hiệu quả. Ngoài ra, hệ thống phân tích còn cho phép thiết lập các mô hình giả định để dự đoán, ngoại suy những xu hướng thay đổi của thị trường, năng lực, chi phí v.v… Qua đó, nó giúp cho công ty luôn sẵn sàng đón nhận các cơ hội, khắc phục những rủi ro và ra quyết định nhanh, chính xác. Những ứng dụng tuyệt vời của CNTT sẽ là sự hỗ trợ hoàn hảo cho hệ thống quản trị nội bộ của công ty. 3. Một số kiến nghị đối với việc ban hành Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Chứng khoán 2006 3.1 Luật Doanh nghiệp 2005 3.1.1 Hạn chế của Luật Doanh nghiệp trong lĩnh vực quản trị nội bộ Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời với tư cách là Luật chung điều chỉnh hoạt động của tất cả loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã có nhiều thay đổi phù hợp với tình hình phát triển của đất nước. Tuy nhiên sau gần 03 năm thực thi Luật Doanh nghiệp, cộng đồng doanh nghiệp cũng như dư luận vẫn có nhiều ý kiến về đạo luật này. Dưới đây là một số ý kiến của cá nhân em về Luật Doanh nghiệp trong lĩnh vực quản trị nội bộ: Theo Bộ Tài chính, trong quản trị doanh nghiệp Nhà nước hiện nay nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, đó là có quá nhiều cơ quan cùng thực hiện một số quyền tài sản trong doanh nghiệp; người quản trị doanh nghiệp không sở hữu tài sản của đơn vị đó nhưng lại tham gia vào quyết định và định đoạt tài sản... Thực tế trên đã làm cho quy trình quản lý và ra quyết định của doanh nghiệp nhà nước phải qua nhiều thang nấc, khâu phê duyệt và bản thân người quản trị doanh nghiệp có cơ hội để tư lợi cá nhân, cơ quan quản lý lại ôm đồm những công việc đáng ra thuộc về giới quản trị, chi phí quản lý doanh nghiệp cao. Về quyền cổ đông: Quyền của cổ đông thành viên trên thực tế vẫn chưa được đối xử công bằng. Trong Điều lệ công ty có không ít các công ty vẫn chưa áp dụng nguyên tắc mỗi cổ phần một phiếu bầu, vẫn còn quy định các cổ đông nhỏ không được tham gia họp ĐHĐCĐ. Hơn nữa, tình trạng cổ đông nhỏ không được cung cấp thông tin về kết quả kinh doanh và tình hình tài chính còn phổ biến. Bên cạnh đó, các cổ đông nhỏ thường không biết các quyền cổ đông của mình cũng như cách thức để thực hiện các quyền đó. Vấn đề quản trị trong các công ty cổ phần có vốn chi phối của chủ sở hữu nhà nước thường xuyên có những bất ổn, dẫn tới sự can thiệp của cơ quan hành chính Nhà nước bên ngoài vào công ty. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp hiện không có quy định nào về vấn đề này. Điểm khiếm khuyết lớn của quản trị doanh nghiệp ở Việt Nam là các quy định luật pháp về kế toán, kiểm toán ít có hiệu lực thực tế. Điều này dẫn đến những sai phạm chậm được phát hiện, các chế tài chưa đủ hiệu lực để răn đe, tạo lỗ hổng cho phép một số giám đốc điều hành lạm dụng quyền hạn, chức vụ để mưu lợi bất chính. Rất nhiều doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả trong khi đó giám đốc lại giàu có sau khi thôi chức vụ là biểu hiện cụ thể của tình trạng này. Mức độ công khai hóa yếu kém: Yếu kém trong việc công khai thông tin là một trong số các vấn đề lớn của quản trị nội bộ công ty hiện nay ở nước ta. Các cổ đông không nhận được kịp thời, chính xác và đầy đủ thông tin cơ bản về công ty. Các thông tin cơ bản đó là tổng số tài sản, thực trạng tài chính, thông tin lưu chuyển tiền tệ, dự đoán của HĐQT hay cán bộ quản lý khác về những biến đổi có thể xảy ra trên thị trường. Đó là những thông tin chuẩn mực cho phép nhà đầu tư đánh giá chính xác giá trị công ty, dự tính được những thay đổi có thể xảy ra trong tương lai... Giao dịch của công ty với các bên có liên quan chưa được kiểm soát chặt chẽ: Luật Doanh nghiệp nước ta ngay từ đầu đã không cấm các giao dịch giữa công ty với các bên có liên quan. Điều đó xuất phát từ những lý do thực dụng. Đó là thành viên HĐQT, những người trong ban lãnh đạo hoặc các cổ đông lớn thường là những đối tác mà các công ty thường giao dịch. Tuy không cấm nhưng Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định khá chi tiết và cụ thể các bên có liên quan của công ty, chế độ và biện pháp kiểm soát giao dịch của công ty với các bên có liên quan. Trên thực tế, kiểm soát giao dịch của công ty với các bên có liên quan ở nước ta còn rất yếu kém, thậm chí có thể còn chưa hiện diện trong chế độ quản trị công ty ở Việt Nam. Vai trò và vị thế của HĐQT chưa tương xứng: Theo pháp luật, HĐQT được quy định là cơ quan quản lý công ty, có quyền nhân danh công ty thực hiện tất cả các quyền và nghĩa vụ của công ty, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ. Trên thực tế, trong hầu hết các công ty, thành viên HĐQT đều là cổ đông lớn hoặc đại diện của cổ đông lớn trong công ty. Thêm vào đó, các thành viên HĐQT đều tham gia trực tiếp vào quản lý hoạt động kinh doanh của công ty nên không có sự tách biệt rõ giữa sở hữu với quản lý và quản lý với điều hành. Trong cơ cấu công ty cổ phần, HĐQT không thực hiện được đầy đủ vai trò của mình khi quản trị công ty. Các thành viên HĐQT đã phải tập trung nhiều hơn vào công tác điều hành, và ít hoặc thậm chí không chú ý đến vai trò định hướng chiến lược, giám sát và đảm bảo công ty phát triển phù hợp với chiến lược. Thêm vào đó, các thành viên HĐQT thường chịu ảnh hưởng nhiều bởi lợi ích của các cổ đông lớn hơn là phục vụ cho lợi ích của công ty. Do đó, vai trò của HĐQT trong quản trị công ty là không rõ ràng. Kiểm soát nội bộ còn hình thức và kém hiệu quả: Luật Doanh nghiệp 2005 đã bổ sung nhiều quy định với nội dung chi tiết và rõ ràng về địa vị pháp lý, cơ cấu tổ chức, quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm soát. Tuy vậy, kiểm soát nội bộ công ty thông qua hoạt động của Ban kiểm soát mới chỉ trên danh nghĩa và chưa đem lại hiệu quả. Thông thường, thành viên Ban kiểm soát do HĐQT chỉ định mà theo Luật Doanh nghiệp 2005 phải là do ĐHĐCĐ bầu ra. Như vậy, thành viên Ban kiểm soát chỉ là những kiểm soát viên kiêm nhiệm, và nhiệm vụ chính của họ nghiêng về thực hiện các công việc với vai trò là người lao động trong công ty hơn là thực hiện giám sát nội bộ công ty. Quản trị nội bộ, nhất là quản lý tài chính, còn thiếu minh bạch; lối quản trị phi chính thức, quản lý dựa trên kinh nghiệm bản thân, thiếu chiến lược và kế hoạch kinh doanh cụ thể... đang là hiện tượng phổ biến. Công tác ghi chép, cập nhật, lưu trữ sổ sách của công ty còn yếu, chưa đúng với yêu cầu theo quy định của pháp luật; việc lập sổ sách kế toán, thống kê vẫn chưa phải để công khai hóa giúp những ai quan tâm đều có thể hiểu đúng và đủ về thực trạng tài chính công ty, về các điểm mạnh, yếu của công ty mà chỉ để đối phó với các cơ quan Thuế. 3.1.2 Kiến nghị các giải pháp để hoàn thiện quản trị nội bộ ở Việt Nam Nâng cao vai trò của HĐQT sao cho phù hợp với địa vị pháp lý và ý nghĩa thực tế của HĐQT trong quản trị nội bộ công ty Cơ cấu tổ chức HĐQT nên gồm cả những thành viên không điều hành. Nói cách khác, một số thành viên sẽ không trực tiếp giữ các chức vụ điều hành công ty mà chỉ tập trung chuyên trách vào định hướng chiến lược giám sát, đảm bảo công ty phát triển đúng theo định hướng chiến lược đó. Nâng cao và thống nhất nhận thức về nghĩa vụ của các thành viên HĐQT và người quản lý. Bên cạnh nghĩa vụ tuân thủ pháp luật thì nghĩa vụ ủy thác, nghĩa vụ cẩn trọng và chuyên cần là hai nghĩa vụ cơ bản của thành viên HĐQT và những người quản lý khác. Nghĩa vụ ủy thác có nghĩa là thành viên được cổ đông tin cậy ủy thác quản lý tài sản của họ. Do đó, các thành viên HĐQT phải luôn đảm bảo sự tin cậy đó của các cổ đông, trung thành với lợi ích của cổ đông và của công ty. Nghĩa vụ cẩn trọng và chuyên cần có nghĩa là thành viên HĐQT trong khi thực hiện quyền và nhiệm vụ của mình phải luôn suy xét, đánh giá và cân nhắc với mức cẩn trọng tối đa mà bất cứ một người bình thường nào trong địa vị, hoàn cảnh chuyên môn tương ứng đều làm như vậy. Cải thiện một bước chế độ công khai hóa thông tin và mức độ minh bạch trong quản trị công ty Cải thiện chế độ công khai hóa thông tin và minh bạch hóa quản trị công ty đòi hỏi nỗ lực từ cả hai phía là Doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước. Về phía Nhà nước, pháp luật và chính sách phải được xây dựng rõ ràng, hợp lý, cụ thể và nhất quán, đồng thời hạn chế tối đa khả năng các cán bộ, công chức Nhà nước sách nhiễu nhân dân nhằm mục đích trục lợi. Bên cạnh đó, các quy định liên quan đến chế độ công khai hóa thông tin của doanh nghiệp cần được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Yêu cầu đối với các công ty cổ phần đại chúng niêm yết và chưa niêm yết, các công ty có ít nhất 50% sở hữu Nhà nước phải công khai báo cáo tài chính, báo cáo đánh giá về HĐQT và thành viên HĐQT. Các cơ quan thực thi pháp luật về quản trị công ty như UBCKNN, Sở giao dịch chứng khoán, cơ quan đăng ký kinh doanh cần phải được tăng cường năng lực chuyên môn và trang thiết bị phù hợp đáp ứng được các quy định bắt buộc về công khai hóa thông tin và minh bạch hóa quản lý. Về phía doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp và người quản lý doanh nghiệp cần ý thức được những thay đổi của điều kiện và môi trường kinh doanh. Quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nước ta đã thoát khỏi thời kỳ đơn lẻ, ngắn hạn và ăn may. Lối kinh doanh đó không thể đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, làm mất đi những cơ hội có được từ hội nhập kinh tế và còn bị đào thải bởi chính quá trình hội nhập. Vì vậy, công khai hóa và minh bạch hóa trong quản trị công ty đã trở thành yếu tố nội tại xuất phát từ chính nhu cầu phát triển công ty trong quá trình phát triển kinh tế và hội nhập với các quốc gia trên thế giới. Giám sát có hiệu quả giao dịch với các bên có liên quan Lạm dụng công khai hóa và minh bạch hóa đối với giao dịch của công ty với các bên có liên quan đang là một thực trạng đáng lo ngại trong quản trị công ty ở Việt Nam, tạo cơ hội cho một số người quản lý lạm dụng quyền và địa vị của mình chiếm đoạt giá trị và tài sản của công ty một cách hợp pháp. Do đó, việc xóa bỏ thực trạng này là việc làm cấp thiết đối với từng công ty. Luật Doanh nghiệp 2005 yêu cầu giao dịch giữa công ty với các bên có liên quan phải được HĐQT hoặc ĐHĐCĐ chấp thuận. Để giám sát được giao dịch giữa công ty với các bên có liên quan, việc đầu tiên cần phải làm là xác định rõ những người có liên quan của công ty. Điều này có thể thực hiện được thông qua các biện pháp sau: Yêu cầu tất cả những người quản lý công ty, các cổ đông lớn khai báo với công ty về những người có liên quan với họ. Thông tin này cần phải xác định lại hàng năm. Nâng cao nhận thức về quyền và nghĩa vụ cổ đông thiểu số trong công ty; khuyến khích và tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền của mình, kể cả giám sát các cổ đông lớn. Khuyến khích và tạo điều kiện để người lao động có thể tích cực tham gia vào việc giám sát hoạt động kinh doanh của công ty. Tập hợp, lập danh sách những người có liên quan với công ty. Danh sách này cần được lưu giữ ở trụ sở chính của công ty, đồng thời gửi cho mỗi cổ đông, người quản lý và thậm chí là đại diện có thẩm quyền của người lao động. Nâng cao tính độc lập, chuyên nghiệp và hiệu lực của kiểm soát nội bộ Giải pháp đầu tiên là nâng cao nhận thức về ý nghĩa và tác dụng của Ban kiểm soát chuyên nghiệp và độc lập với lợi ích và sự phát triển của công ty, với lợi ích của cổ đông; coi kiểm soát nội bộ có năng lực, độc lập và chuyên nghiệp là yêu cầu thiết yếu đối với sự phát triển ổn định và lâu dài của công ty. Những cổ đông lớn, thành viên HĐQT và những người quản lý khác coi việc bị giám sát là một yêu cầu giúp ngăn chặn và phát hiện sớm những nhược điểm trong quản trị công ty để có giải pháp khắc phục kịp thời. Giải pháp tiếp theo là yêu cầu bắt buộc các công ty đại chúng bổ nhiệm người bên ngoài công ty, tức là họ không làm việc trong công ty làm thành viên Ban kiểm soát. Kiểm soát viên này phải là những chuyên gia tư vấn độc lập, có trình độ nghề nghiệp cao đặc biệt trong lĩnh vực tài chính và giàu kinh nghiệm. Giải pháp thứ ba là nghiên cứu, soạn thảo và đưa vào sử dụng những biện pháp đánh giá hoạt động của Ban kiểm soát và từng kiểm soát viên. Giải pháp cuối cùng là cần có chế độ thù lao, khuyến khích vật chất hợp lý đối với các thành viên Ban kiểm soát. 3.1.3 Kiến nghị các giải pháp tiếp tục phát huy hiệu lực của Luật Doanh nghiệp 2005 Chính Phủ: nhanh chóng trình Quốc hội dự thảo sửa đổi bổ sung Luật Doanh nghiệp 2005 để phù hợp với tình hình phát triển của đất nước và xu thế của thế giới. Bộ Tư pháp: Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan nghiên cứu soạn thảo nghị định quy định về phạm vi và điều kiện kinh doanh đối với dịch vụ điều tra dân sự, kinh tế. Bộ Tài chính: Chủ trì nghiên cứu soạn thảo nghị định quy định điều kiện kinh doanh (không phân biệt thành phần kinh tế) đối với các dịch vụ đòi nợ, định giá tài sản, đánh giá tín nhiệm, v.v.. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Chủ trì, phối hợp với Tổ Công tác thi hành Luật Doanh nghiệp rà soát, đánh giá lại hồ sơ, trình tự, thủ tục, điều kiện và thẩm quyền cấp một số giấy phép kinh doanh được dư luận xã hội cho là bất hợp lý; phát hiện các bất hợp lý, kiến nghị hợp lý hóa báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Chủ trì nghiên cứu bổ sung sửa đổi các nội dung còn thiếu, hoặc không còn phù hợp trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp. Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với Tổ Công tác thi hành Luật Doanh nghiệp tập hợp các văn bản trái với Luật Doanh nghiệp và Nghị định hướng dẫn thi hành luật do các bộ, ngành và các cấp chính quyền địa phương ban hành báo cáo Thủ tướng Chính phủ để quyết định hủy bỏ. Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì nghiên cứu soạn thảo nghị định sửa đổi về trình tự, thủ tục, điều kiện và thẩm quyền chuyển đổi quyền sử dụng đất theo hướng đơn giản hóa, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng giá trị hàng hóa/diện tích đất, tăng số lao động và giá trị lao động/diện tích đất, công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Tòa án Nhân dân tối cao đăng tải công khai các bản án có hiệu lực của Tòa án về giải quyết các tranh chấp liên quan đến Luật Doanh nghiệp. Các phương tiện thông tin đại chúng tiếp tục tuyên truyền, giáo dục giá trị, vai trò xã hội của doanh nhân trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để thu hút được ngày càng nhiều người, nhất là giới trẻ, định hướng lập nghiệp bằng con đường kinh doanh. Khuyến khích, hỗ trợ các trường đại học, cao đẳng, các viện nghiên cứu, nhà nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy lập doanh nghiệp để họ vừa nghiên cứu khoa học, vừa có điều kiện áp dụng nhanh chóng các kết quả nghiên cứu của họ vào thực tiễn kinh doanh. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp với các cơ quan nhà nước có liên quan, các hiệp hội doanh nghiệp khác xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng chủ doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp; xây dựng các quy tắc đạo đức và văn hóa kinh doanh; xây dựng mô hình liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp và các nhà khoa học, các viện nghiên cứu, các trường đại học nhằm huy động tiềm năng phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Các chủ sở hữu và người quản lý doanh nghiệp: Xây dựng ý thức thường xuyên cải thiện, nâng cao tính minh bạch trong quản trị nội bộ công ty; cần nhận thức rằng quản trị minh bạch cũng là yếu tố tăng thêm giá trị của công ty; là một trong những yếu tố của sự phát triển bền vững của công ty; nó cũng là công cụ hữu hiệu để đấu tranh loại bỏ lối can thiệp tuỳ tiện vị lợi cá nhân của một số công chức nhà nước có liên quan, qua đó, sẽ giảm được những khoản chi phí tiêu cực, góp phần làm lành mạnh môi trường kinh doanh chung của cả nước. Lợi ích nhiều mặt của quản lý minh bạch như trình bày trên đây có thể vượt xa "khoản thuế" trốn lậu được nhờ quản lý không minh bạch. 3.2 Luật chứng khoán 2006 3.2.1 Hạn chế của Luật Chứng khoán trong lĩnh vực quản trị công ty Trên thực tế, Luật Chứng khoán không quy định về quản trị công ty chứng khoán mà chỉ quy định về các hoạt động của Công ty chứng khoán, do đó không có cơ sở để nhận xét về tính ứng dụng của Luật Chứng khoán. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu chuyên đề thực tập, em thấy Luật Chứng khoán còn nhiều bất cập ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của Công ty chứng khoán. Do đó, trong Luận văn tốt nghiệp này em xin có kiến nghị với các cơ quan soạn thảo Luật Chứng khoán. 3.2.2 Kiến nghị các giải pháp hoàn thiện Luật Chứng khoán Có thể khẳng định rằng, để thị trường chứng khoán phát triển bình thường theo đúng quy luật kinh tế thì hành lang pháp lý cho việc gia nhập thị trường của các nhà đầu tư, các tổ chức phát hành hay các tổ chức kinh doanh chứng khoán phải đảm bảo các yêu cầu về tính minh bạch, tính tự do, nhanh chóng, thuận lợi, tính an toàn và giảm thiểu các chi phí giao dịch. Nếu các quy định của Luật chứng khoán không rõ ràng, khó hiểu, quá phức tạp, kém độ an toàn và không thể dễ dàng tiếp cận được đối với các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán, đặc biệt là đối với người dân thì chắc chắn các quy định đó sẽ bị xem là không hiệu quả về mặt kinh tế, nghĩa là có thể làm gia tăng các chi phí giao dịch cho các bên khi gia nhập thị trường. Vậy, làm thế nào để cho Luật chứng khoán có khả năng giảm thiểu các chi phí gia nhập thị trường chứng khoán? Đây là bài toán tương đối khó giải quyết đối với các nhà làm luật về chứng khoán. Tuy nhiên, có thể hình dung các yêu cầu cơ bản khi thiết kế ban hành và hoàn thiện Luật chứng khoán mà người soạn luật cần đáp ứng, bao gồm: Thứ nhất, làm cho các quy định của Luật chứng khoán trở nên rõ ràng, minh bạch, công khai, dễ tiếp cận đối với mỗi người dân, mỗi tổ chức hay mỗi công chức chính quyền. Khi người ta có thể tìm hiểu và nghiên cứu pháp luật về chứng khoán một cách dễ dàng, nhanh chóng và hiệu quả ở mọi nơi, bằng mọi phương tiện thì hiển nhiên là chi phí cho việc tìm hiểu thị trường, gia nhập thị trường và thực thi các giao dịch trên thị trường chứng khoán sẽ giảm đi đáng kể. Dĩ nhiên, khi các chi phí cho việc gia nhập thị trường chứng khoán được giảm thiểu đáng kể, với một mức chi phí ngày càng rẻ hơn thì sẽ có tác dụng khuyến khích nhà đầu tư, các tổ chức phát hành và các nhà kinh doanh chứng khoán tham gia thị trường một cách tích cực và thiện chí. Thứ hai, làm cho các quy định của Luật chứng khoán ngày càng hợp lí và được thực thi nghiêm túc trong bất kì hoàn cảnh nào. Yêu cầu này liên quan đến quan niệm về tính hợp lí của các quy định luật pháp. Tuy còn nhiều ý kiến tranh luận về vấn đề này nhưng ở mức khái quát, có thể hiểu tính hợp lí của các quy định pháp luật, trong đó bao gồm các quy định của Luật chứng khoán, chính là sự phù hợp hay tương thích của các quy định đó với tình trạng xã hội hiện tại, bao gồm cả sự phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và yêu cầu hội nhập quốc tế. Mặt khác, muốn cho các quy định của Luật chứng khoán có thể được thực thi nghiêm túc thì ngoài việc đảm bảo tính hợp lí cho các quy định đó, Luật chứng khoán cần thể hiện được tính nghiêm khắc trong việc áp dụng các chế tài xử lí đối với những hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán, bất luận người vi phạm là ai. Kinh nghiệm thực tiễn còn cho thấy, nếu người dân không được tiếp cận đầy đủ với hệ thống pháp luật và họ không được khuyến khích hành xử theo tinh thần tôn trọng pháp luật, không được trang bị những khả năng và phương tiện pháp lý để kiên quyết đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật thì hiệu quả trong việc thi hành pháp luật nói chung và Luật chứng khoán nói riêng sẽ là không đáng kể. Trong trường hợp như vậy, đương nhiên các quy định của Luật chứng khoán có thể bị xem là không hiệu quả vì khi đó người dân nói chung và các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán nói riêng sẽ phải bỏ ra nhiều chi phí hơn cho việc tuân thủ những quy định không hợp lý và khắc phục các hậu quả tổn thất do những hành vi vi phạm pháp luật gây ra. Kết luận Trong hơn hai năm qua, để phát triển nền kinh tế, Nhà nước Việt Nam đã chú trọng hơn đến việc tạo vốn cho nền kinh tế bằng những cam kết và ủng hộ đối với hoạt động của Thị trường chứng khoán và hệ thống Công ty chứng khoán, đồng thời khuyến khích được cá nhân và các tổ chức kinh tế có điều kiện tham gia. Thị trường chứng khoán và các Công ty chứng khoán ngày càng phát triển, hoạt động của Thị trường chứng khoán ngày càng có ảnh hưởng đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống sinh hoạt của con người. Qua hơn 2 năm hoạt động, cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, các Công ty chứng khoán đã và đang nỗ lực xây dựng và thực hiện những chiến lược, chiến thuật nhằm tạo ra những bước đột phá, khẳng định vị thế của mình trên thị trường trong nước và quốc tế. Để đạt được những mục tiêu đó thì trước mắt các công ty chứng khoán phải làm tốt công tác quản trị nội bộ mà quan trọng nhất là củng cố và hoàn thiện bộ máy lãnh đạo công ty. Quản trị nội bộ tốt thôi chưa đủ mà phải gắn liền việc quản trị đó với những quy định của Pháp luật. Làm được như vậy các công ty chứng khoán không những phát triển nhanh chóng mà còn dành được niềm tin và sự hợp tác từ các đối tác trong nước và đặc biệt là các đối tác muốn đầu tư vàp thị trường Việt Nam. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Một số vấn đề cơ bản về quyền tự do kinh doanh trong cơ chế thị trường ( TS. Bùi Ngọc Cường NXB chính trị quốc gia, 2004) 2. Giáo trình Pháp luật kinh tế, NXB Đại học kinh tế quốc dân 3. Điều lệ Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương 4. Bản cáo bạch Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương 5. Các trang Web gồm có: www.apec.com.vn www.chinhphu.vn www.mof.gov.vn www.dddn.com.vn www.ckvn.com www.chungkhoan24h.com.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH2724.doc