Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử tại Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện

Tài liệu Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử tại Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện: ... Ebook Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử tại Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1297 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử tại Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đề tài: “Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử tại Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện” Nội dung đề tài gồm một số phần chính như sau : Phần I: Những vấn đề lí luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử Phần II: Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử tại công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện Phần III: Một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử. Phần I NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ A> KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ 1-Sự cần thiết phải bảo hiểm thiết bị điện tử a-Khái niệm về thiết bị điện tử Thiết bị điện tử là các loại thiết bị có chứa linh kiện bán dẫn và các mạch điện tử, thông thường các thiết bị này không phải thực hiện phải thực hiện bất kỳ hoạt động cơ khí nào. Các hoạt động như truyền và lưu trữ thông tin đo lường và điều khiển, thử nghiệm, thẩm định và báo động đều do thiết bị điện tử thực hiện.Với ưu điểm là có tốc độ truyền cực nhanh và chính xác tuyệt đối, kích cỡ các linh kiện rất nhỏ, do đó chúng trở nên rất quan trọng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Đơn giản lấy ví dụ như kĩ thuật điện tử được ứng dụng vào giải quyết vấn đề nghiêm trọng là nạn giao thông mật độ cao .Thông qua kĩ thuật máy tính, kĩ thuật điện tín và các kĩ thuật khác lắp trên ô tô và dọc đường để đạt được mục đích cải thiện tình hình an toàn giao thông và nâng cao khả năng giao thông trên đường. Hiện nay do mật độ xe cộ dày đặc mà mỗi năm Mỹ thiệt hại về kinh tế lên tới 100 tỷ đô la, số người chết do tai nạn giao thông mỗi năm tới 41.000 người và 5 triệu người bị thương. Các thiết bị điện tử cho phép tự động hoá trong các quả trình công nghệ và kiểm tra sản phẩm ở các xí nghiệp dệt ,nhà máy chế tạo mô tơ, hoá chất trong hầm mỏ, nhà máy đóng tàu. Các thiết bị điện tử trực tiếp làm tăng năng xuất lao động ,nâng cao chất lượng sản phẩm, cải thiện điều kiện làm việc. Chẳng hạn, trong việc học ngoại ngữ chỉ cần dùng máy vi tính và hệ thống loa âm thanh ta có thể nghe chính xác như người nước ngoài nói mà không phải có giáo viên trực tiếp dạy . Ta có thể áp dụng những thành tựu của điện tử trong những thiết bị sử dụng hàng ngày như vô tuyến truyền hình, máy ghi âm máy thu thanh. Ngoài ra do sử dụng cáp quang và hệ thống vệ tinh mà khả năng liên lạc toàn cầu sẽ được thực hiện một cách dễ dàng khả năng lựa chọn bất cứ chương trình vô tuyến và radio hoậc thậm chí thực hiện chương trình riêng từ băng ghi hoặc phím, khả năng thu tại nhà những bản in như; tin tức báo chí, những tư liệu khác nhau từ trung tâm tính toán . Để tìm hiểu một cách chi tiết về thiết bị điện tử phục vụ cho đề tài này, có thể phân loại thiết bị điện tử ra làm các loại như sau: - Các thiết bị EDP (Electronic Data processing) và các thiết bị điện tử dùng trong văn phòng (máy vi tính, máy tính trung tâm), các thiết bị ngoại vi như máy in, máy đếm, máy photocopy, máy chiếu... -Thiết bị viễn thông: thiết bị điện thoạI (ở các tổng đài điện tử), thiết bị truyền xa (hệ thống telex,selex .. .) - Thiết bị thu thanh truyền hình: các thiết bị rada, trạm vệ tinh mặt đất, các bộ kính thiên văn..., camêra truyền hình, thiết bị ghi hình, thiết bị tạo hình, phòng ghi và sao video. - Thiết bị chiếu sáng và thiết bị hàng hải: thiết bị đèn chiếu, đèn pha, đèn huỳnh quang, các hệ thống tín hiệu, các hệ thống vô tuyến điện thoại và thiết bị hàng hải bằng điện tử . - Thiết bị y tế: thiết bị tia X quang dùng cho chẩn đoán, thiết bị bức xạ đẳng hướng dùng để trị liệu, thiết bị phân tích dùng trong y học ... - Các bộ truyền dẫn và phát tín hiệu: các hệ thống báo động ,hệ thống đồng hồ đo, máy dò tìm và các hệ thống liên lạc bên trong. Vì phạm vi bài viết có hạn, nên em chỉ đi sâu vào các thiết bị mà thực tế công ty Bảo hiểm Bưu điện (gọi tắt là PTI) đã triển khai về nghiệp vụ. Đó là thiết bị EDP, thiết bị viễn thông, thiết bị thu phát thanh, truyền hình. b, Sự cần thiết phải bảo hiểm thiết bị điện tử : Bước vào thế kỉ 21, sự phát triển của khoa học kĩ thuật sẽ là vấn đề then chốt cho sự đI lên của thế giới văn minh. Các máy móc thiết bị đa số liên quan đến điện tử, từ các máy tính cá nhân cho đến những vệ tinh đang bay quanh trái đất của chúng ta. Do đó đòi hỏi phải có sự đảm bảo về mặt tài chính nhằm tiến triển liên tục nhanh chóng và có hiệu quả . Các rủi ro được bảo hiểm trong bảo hiểm thiết bị điện tử cũng rất đa dạng, từ các rủi ro thiên tai: mưa, bão, lụt ... cho tới các rủi ro do con người gây ra như: sai lầm trong thiết kế, sai lầm của người điều khiển, hành động phá hoại ... chỉ cần một sai sót nhỏ, có thể rất nhỏ xảy ra cũng có thể dẫn đến nhứng hậu quả to lớn không thể lường trước được . Nó gây tác hại không chỉ cho một ngành hay một khu vực kinh tế quốc đân mà còn cho nhiều ngành nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau. Nó cũng có thể làm chậm hẳn lại sự tiến triển của một ngành khoa học. Đặc biệt ngày nay nhiều công trình, máy móc, thiết bị với các chức năng tự động hoá, chuyên môn hoá cao, có giá trị rất lớn. Nếu tai nạn xảy ra có thể dẫn tới thiệt hại to lớn, thậm chí có thể dẫn đến phá sản. Cũng giống như loại hình bảo hiểm khác, bảo hiểm thiết bị điện tử nhằm ổn định hoạt động của các tổ chức kinh tế trong trường hợp chẳng may gặp các rủi ro nói trên. Với việc thu phí bảo hiểm của nhiều tổ chức kinh tế và cá nhân có liên quan trong xã hội để lập qũi bảo hiểm và quan hệ tái bảo hiểm có đủ khả năng bồi thường ngay tổn thất cho người được bảo hiểm, cho dù tổn thất có lớn tới mức nào đi chăng nữa, giúp họ nhanh chóng khắc phục hậu quả tổn thất, khôi phục sản xuất kinh doanh và đời sống. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, mỗi tổ chức, đơn vị, xí nghiệp đều phảI tự chủ về mặt tài chính và chủ động trong kinh doanh. Với cơ sở vật chất sẵn có của mình, họ phải lo liệu làm sao sản xuất kinh doanh đạt được hiệu quả cao nhất. Cơ chế mới đó vừa thúc đẩy sự phát triển sản xuất của các xí nghiệp, mặt khác đòi hỏi các xí nghiệp phải tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh vì với việc xoá bỏ cơ chế bao cấp, các xí nghiệp sẽ không được Nhà nước trợ cấp trong các trường hợp làm ăn không có hiệu quả hoặc không may gặp phải rủi ro làm ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh. Điều đó, buộc các doanh nghiệp phải quan tâm đến vấn đề bảo hiểm. Nếu tham gia bảo hiểm, trong trường hợp gặp phải các rủi ro gây ra thiệt hại tới tài sản, tiền vốn của họ thì bảo hiểm sẽ bồi thường kịp thời các tổn thất đó, giúp người được bảo hiểm giải quyết ngay khó khăn về mặt tài chính, không cần xin ngân sách nhà nước trợ cấp. Căn cứ vào điều kiện tài chính của mình, chỉ với một khoản phí bảo hiểm rất nhỏ trả cho người bảo hiểm, khi gặp tổn thất người được bảo hiểm sẽ nhận được khoản tiền bồi thường của người bảo hiểm và sẽ chủ động nhanh chóng khôI phục ,đưa sản xuất kinh doanh trở lại bình thường . Ngoài ra, khi tiến hành bảo hiểm thiết bị điện tử Người bảo hiểm cùng với các ngành, các cơ quan hữu quan khác phối hợp tiến hành công tác đè phòng, hạn chế tổn thất nhằm ngăn chặn có hiệu quả các rủi ro có thể gây ra thiệt hại đối với tài sản, con người. Đặc biệt trong lĩnh vực bảo hiểm thiết bị điện tử, các biện pháp đề phòng, chữa cháy, kiểm tra, giám định các thiết bị máy móc, đóng vai trò quan trọng. Theo thông lệ, trước khi tiến hành bảo hiểm, người bảo hiểm phải theo rõi, kiểm tra và đánh giá mức độ rủi ro của đối tượng được yêu cầu bảo hiểm, trên cơ sở đó sẽ đóng góp kịp thời cho người được bảo hiểm các biện pháp cần thiết để hạn chế kha năng xảy ra các rủi ro gây nguy hại cho tài sản được bảo hiểm. c,Vai trò và tác dụng của bảo hiểm thiết bị điện tử Bảo hiểm thiết bị điện tử (Electronic Equipment Insurance-EEI) có một số ưu điểm so với các loại hình bảo hiểm khác như : Một là, EEI đưa ra khái niệm bảo hiểm rộng rãi nhất trong ngành bảo hiểm. Dựa trên đơn bảo hiểm mọi rủi ro với rất ít các điều kiện loại trừ ,nó bảo đảm việc bồi thường sau khi tổn thất hay hư hỏng, thậm chí cả trong các trường hợp không đáng quan tâm hay không quan trọng đối với tài sản khác ví dụ như việc vận hành không có chuyên môn, dao động điện áp, ám khói ,ẩm ướt và nổ đèn chân không .Tuy nhiên ,các hiểm hoạ ấy đã gây ra một rủi ro rất nghiêm trọng cho thiết bị điện tử có độ nhạy cảm về tần số và tính khốc liệt. Cũng như vậy, một nguyên nhân tương đối nhỏ nhưng cũng có thể ảnh hưởng lớn về tài chính đối với tính liên tục của hoạt động kinh doanh bởi vì các hoạt động này có thể hoàn toàn phụ thuộc vào tình trạng sức khoẻ của “trái tim" thiết bị điện tử . Hai là, điều khoản tiêu chuẩn trong bảo hiểm thiết bị điện tử có đưa ra điều kiện hoàn trả tiền trên cơ sở giá trị thay thế mới. Điều này đã đặt người được bảo hiểm vào một vị trí sẵn có nguồn tiền đầy đủ để thay thế ngay lập tức và không có sự khấu trừ thông thường theo điều kiện “mới thay cũ" . Ba là, Bảo hiểm thiết bị điện tử mở rộng cả với thiệt hại mọi lĩnh vực phần mềm và sự ứng dụng của nó. Ngày nay ,dữ liệu gốc và dữ liệu giao dịch được lưu trữ vào máy tính là nguồn thông tin phổ biến của mỗi công ty do đó cả phần mềm và dữ liệu là những tài sản rất có giá trị đối với mọi doanh nghiệp. Sự tồn tại và tính chính xác của chúng bị đe doạ bởi rất nhiều rủi và hiểm hoạ đa dạng khi so sánh với chính thiết bị đó . Các hoạt động có thể bị gián đoạn cho tới khi việc phục hồi đầy đủ thông tin được tiến hành. Bốn là, để chiều theo ý khách hàng, bảo hiểm thiết bị điện tử có thể thay đổi phù hợp với từng nhu cầu thông qua các bản sửa đổi bổ xung và cơ cấu định giá rủi ro. 2. Lịch sử phát triển bảo hiểm thiết bị điện tử a) Khái quát về lịch sử bảo hiểm kĩ thuật So với các loại hình bảo hiểm khác như: Bảo hiểm hàng hải ,bảo hiểm cháy... thì bảo hiểm kĩ thuật ra đời chậm hơn. Có thể nói rằng: Bảo hiểm kĩ thuật ra đời cùng với sự xuất hiện của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và chính sự phát triển của khoa học kĩ thuật là động lực thúc đẩy sự lớn mạnh không ngừng của lĩnh vực bảo hiểm này. Ta có thể đưa ra một vàI số liệu để so sánh như sau: - Bảo hiểm cháy ra đời từ năm 1667 - Bảo hiểm hàng hải ra đời vào năm1687 - Đơn bảo hiểm kĩ thuật đầu tiên xuất hiện vào năm 1859 Đó là đơn bảo hiểm về máy móc và năm 1859 xuất hiện đơn bảo hiểm đầu tiên cho nồi hơi. Tuy sinh sau đẻ muộn hơn so với các loại hình bảo hiểm khác, nhưng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, đặc biệt trong thế kỷ 20 này, bảo hiểm kĩ thuật cũng đã tiến được những bước dài quan trọng và trở thành một trong những loại hình bảo hiểm quan trọng nhất hiện nay. Trong năm 1972, tổng số phí BHKT tại CHLB Đức chỉ đạt 567 triệu DM, nhưng năm 1981 đã tăng lên tới 1294 triệu DM BHKT hiện nay đã xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực của hoạt động kinh tế, khoa học trên toàn thế giới, từ việc bảo hiểm các máy móc trong các xí nghiệp sản xuất ,các dụng cụ tinh vi trong y tế, trong các phòng thí nghiệp cho tới việc bảo hiểm cho công trình xây lắp khổng lồ, các công tá lắp ráp máy bay, tàu biển cỡ lớn và cho cả con tàu vũ trụ... công ty Munich Re, một công ty tái bảo hiểm đứng đầu thế giới,là một trong những công ty đã sáng lập và phổ biến rộng rãi loại hình bảo hiểm này cùng với các công ty khác trên thị trường bảo hiểm Lon don -trung tâm bảo hiểm thế giới. b) Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm thiết bị điện tử Bảo hiểm thiết bị điện tử là một nghiệp vụ bảo hiểm tuy ra đời muộn hơn so với các loại hình bảo hiểm khác nhưng đã phát triển rất nhanh và chiếm một tỷ lệ lớn trong doanh thu phí bảo hiểm kĩ thuật. Gọi là ra đời muộn nhưng nhìn lại lịch sử phát triển của loại hình bảo hiểm này, chúng ta thấy nó cũng đã có trên 70 năm phát triển. Từ những năm 20 của thế kỉ này đã xuất hiện những hợp đồng bảo hiểm thiết bị điện tử như là những phần bổ xung cho các hợp đồng thuê mướn và bảo dưỡng thiết bị .Vào năm 1921 công ty chuyên về bảo hiểm thiết bị điện tử đầu tiên trên thế giới đã được thành lập . Với nguồn gốc của nó trong những năm 1920 ở Đức, bảo hiểm điện áp thấp, như tên gọi của nó sau đó được bắt đầu như một loại hình bảo hiểm chuyên biệt cho thiết bị điện thoại, chủ yếu là để bảo vệ các công ty thuê bao điện thoại chống lại ảnh hưởng về mặt tài chính có tính chất hậu quả của tổn thất hay hư hỏng thiết bị. Trong những năm 30, phạm vi vủa những thiết bị được bảo hiểm được mở rộng bao gồm các hệ thống loa chuyên dùng, hệ thống tín hiệu ánh sáng và hệ thống báo cháy cũng như các thiết bị viễn thông khác, tiếp đến là xuất hiện của thế hệ máy tính điện tử . Công nghệ máy tính hiện đại đã phát triển và được hoàn chỉnh bởi KONZADZNSE tai Đức vào năm 1941. Trong cùng thời gian đó ở Mỹ ,hình thành chuỗi máy tính điều khiển tự động, bước tiếp theo là sử dụng các ống điện tử cho việc tính toán. Máy tính lớn nhất ENIAC là một hệ thống khổng lồ với hơn 18000 ống điện tử, 1500 thiết bị ngoại vi khác và có mức tiêu thụ trên 150KW. Sau đó là một chương trình ghi nhớ được phát hiện bởi nhà toán học John Newman trong năm 1948. Cho đến năm 1950, có sự thay thế các ống điện tử bằng transito và diot. Từ trước đến năm 1960 vi mạch điện tử mở đường cho “cách mạng công nghiệp lần thứ 3" Tiếp đến năm 1970: những yếu tố rủi ro mới xuất hiện đòi hỏi phải có những điều kiện bảo hiểm mới dẫn đến sự ra đời đơn bảo hiểm thiết bị điện tử (EEI). Năm 1980 EEI trở thành hợp đồng bảo hiểm được yêu cầu nhiều nhất trong lĩnh vực bảo hiểm kĩ thuật. Không còn nghi ngờ gì nữa, sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp điện tử trong thế kỉ 20 cùng với sự xâm nhập có nhiều đổi mới của loại hình bảo hiểm thiết bị điện tử đã tạo ra loại hình bảo hiểm chuyên dụng này có tầm quan trọng hiện nay của thế giới bảo hiểm. Ngày nay nhiều doanh nghiệp không thể cạnh tranh khi thiếu vô số các loại công nghệ mà nghành điện tử cung cấp và trong trường hợp tổn thất hay hư hỏng thiết bị điện tử của mình nhiều công ty có thể không có khả năng tồn tại lâu dài. Tình hình này đã có lợi cho sự phát triển của loại hình bảo hiểm thiết bị điện tử trong quá khứ và sẽ phát triển liên tục trong nhiều năm tới . Hiện nay theo ước tính thì tại thị trường bảo hiểm đức, một thị trường được coi là phát triển nhất vê bảo hiểm kĩ thuật nói chung và bảo hiểm thiết bị điện tử nói riêng. Năm 1992 ở đức ,bảo hiểm thiết bị điện tử đã tạo ra doanh thu phí bảo hiểm vượt hơn 450.000.000 U S D chiếm gần 33% tổng doanh thu phí bảo hiểm kĩ thuật . Ở Việt nam, bảo hiểm thiết bị điện tử đến thời điểm này có thể coi là một trong những sản phẩm mới nhất được tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Baoviet) nghiên cứu triển khai bắt đầu vào tháng 10 năm 1996 3. Một số điều kiện thuận lợi của Việt nam trong việc hình thành và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử Để hình thành và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử không thể đơn thuần áp dụng một cách máy móc, một sự tiếp thu thiếu chọn lọc từ nhiều nước trên thế giới mà ngoài tính lí thuyết đầy thuyết phục thì xuất phát điểm thứ hai đó là tình hình thực tế, nó có phù hợp có khả thi hay không. Cũng một nghiệp vụ bảo hiểm nhưng chỉ có thể thành công ở nước này nhưng lại hoàn toàn không triển khai được ở nước khác, điều này cũng chính là do điều kiện nội tại của bản thân mỗi nước, có đặc điểm và ưu thế riêng .Các điều kiện đó chính là: điều kiện về kinh tế, điều kiện về dân số và điều kiện về môi trường pháp lí. Ở Việt nam các điều kiện đó như sau : a,Điều kiện về kinh tế Kinh tế là một trong những biểu thức quan trọng nhất ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển nghiệp vụ này. Khi một nền kinh tế nghèo nàn thì điều kiện đầu tư cho cơ sở vật chất sẽ không được trang bị hiện đại do đó sẽ không có bảo hiểm thiết bị điện tử. Nhưng thực tế là ở Việt nam kinh tế chưa phải là phát triển song những gì mà nền kinh tế đã đạt được như hiện nay quả là một điều kiện hết sức thuận lợi cho nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử phát triển. Sau khi có chính sách đổi mới về kinh tế, mở cửa ra thị trường thế giới thì thị trường việt nam về công nghệ thông tin đã được khởi sắc từ đầu những năm 90. Bước khẳng định cho sự phát triển thị trường này là tác động vĩ mô của nhà nước về chính sách công nghệ thông tin. Ngày 7 tháng 4 năm 1993 chính phủ ban hành Nghị định 49/CP xác định chính sách, quan điểm và mục tiêu của việc phát triển công nghệ thông tin đến năm 2000 . Các công ty máy tính tầm cỡ thế giới bắt đầu bước vào thị trường Việt Nam như Compaq, IBM, ACER ... Một yếu tố hết sức thuận lợi nữa là khi nền kinh tế Việt nam có mức độ tăng trưởng cao và ổn định thì đi đôi với nó là yêu cầu phục vụ về thông tin, phục vụ về sức khoẻ cho người dân, phục vụ sinh hoạt giải trí hết sức được quan tâm. Đó là các nghành như: truyền hình,thiết bị phục vụ y tế, các trung tâm điện tử, viện nghiên cứu... bắt buộc phải có các thiết bị điện tử có giá trị lớn nhập từ nước ngoài về. Do đó muốn bảo đảm cho chúng trong điều kiện hết sức phức tạp ở Việt nam, các cơ quan như truyền hình bệnh viện, bưu điện, phải tham gia nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử. Bảng 1:Minh hoạ về tốc độ tăng trưởng GDP của Việt nam trong thời gian 1994-1998 Năm 1994 1995 1996 1997 1998 Tốc độ tăng trưởng(%) 8,8 9,5 9,3 9,0 6,1 Môi trường kinh tế nói chung đang tạo điều kiện thuận lợi cho những nước kém phát triển như Việt nam những cơ hội thuận lợi để mau chóng hội nhập vào mạng lưới thông tin quốc tế . Tính toàn cầu hoá của mạng lưới thông tin quốc tế biến bất cứ một quốc gia nào không phải là chiều đi hay chiều đến thì cũng trở thành nơi quá cảnh của các luồng thông tin và do đó việc nâng cao tính đồng bộ của hệ thống thông tin toàn cầu trở thành yêu cầu khách quan . Với một đất nước hơn 70 triệu dân, mặt bằng thông tin còn nhiều trống vắng nhưng lại có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, rõ ràng thị trường công nghệ thông tin Việt nam có sức hút lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này . Trong những năm gần đây, dưới tác động của chính sách đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đã mở ra những nhu cầu to lớnvề thông tin trong hoạt động kinh doanh và mức sống của dân cư được nâng lên đã kéo theo những nhu cầu mới trong giao tiếp và trao đổi thông tin không những trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong đời sống tình cảm tinh thần và nâng cao kiến thức. Như vậy, tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống đang và sẽ mở rộng thị trường công nghệ thông tin ngày càng lớn hơn . Đồng thời chính sách mở cửa và quá độ sang kinh tế thị trường còn hình thành một khuôn khổ thể chế mới cho các quan hệ hợp tác và đầu tư quốc tế phát triển hơn nữa, đặc biệt là thời kì sau khi quan hệ giữa Việt nam và Mỹ được bình thường hoá . Trong lúc đó, việc Việt nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, quan hệ kinh tế Việt nam với Nhật bản, với các nước EU và các quốc gia khác trên thế giới đang tiến triển tốt, đã giúp cho thị trường công nghệ thông tin có điều kiện không hạn chế trong việc tìm kiếm đối tác liên doanh đáp ứng kịp thời đòi hỏi của tình hình mới. b, Điều kiện về dân số : Dân số là một trong những vấn đề quan trọng, là cơ sở để công ty PTI dự đoán tiềm năng trong tương lai, những lỗ hổng của thị trường mà công ty chưa khai thác được. Do đó nghiên cứu dân số để tìm ra được thực tế của nó trên các mặt này sẽ là một trong những điều kiện tiên quyết giúp công ty thành công trên con đường kinh doanh bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ này nói riêng. Bảng 2 :Công nghệ thông tin và dân số các nước Stt Quốc gia Dân số (triệu người) Số máy tính/1000người 1 Việt nam 72 0,5 2 Trung quốc 1178 1,00 3 Ấn độ 903 1,00 4 Philipin 68 4,00 5 Thái lan 59 9,00 6 Hàn quốc 45 37,00 7 Đài loan 21 74,00 8 Nhật 125 97,00 9 Hồng kông 6 101,00 10 Singapo 3 125,00 11 New Zealand 3 147,00 12 Úc 18 192,00 13 Mỹ 258 287,00 Nguồn :PC WoRLD 12/1995 Từ bảng trên cho ta thấy mức cầu của công nghệ thông tin một số nước trên thế giới. Qua bảng này ta thấy số máy vi tính /1000người dân của Việt nam là rất thấp, chứng tỏ rằng Việt nam còn là một thị trường công nghệ thông tin tiềm năng lớn. Do đó bảo hiểm trong lĩnh vực này có nhiều cơ hội để phát triển và đạt kết quả khả quan trong tương lai. c,Điều kiện môi trường pháp lí: Chúng ta không thể phủ nhận được tầm quan trọng của môi trường luật pháp đối với nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử . Một môi trường luật bảo hiểm thông thoáng ra đời sớm sẽ có nhiều ưu thế đối với các công ty bảo hiểm. Ở Việt nam bước đầu đã có được ưu thế đó : + Từ cuối năm 1993 chính phủ Việt nam ban hành nghị định 100/CP định hướng phát triển thị trường bảo hiểm Việt nam với việc cho phép các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm kể cả thành phần kinh tế tư nhân và nước ngoài. Cho phép các loại hình bảo hiểm tồn tại và phát triển bao gồm công ty bảo hiểm gốc, công ty chuyên tái bảo hiểm kể cả mạng lưới trung gian bảo hiểm (môi giới và đại lí ) Một môi trường như vậy sẽ tạo điều kiện cho ngành bảo hiểm nói chung và bảo hiểm thiết bị điện tử nói riêng tồn tại và phát triển một cách ổn định và vững chắc . + Bộ tài chính đã ban hành các văn bản dưới luật nhằm hướng dẫn thực hiện nghị định 100/CP (thông tư 46):qui định chế độ quản lí tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm (thông tư 45):qui định chế độ hoa hồng bảo hiểm (thông tư 76 và 02 )qui định tái bảo hiểm bắt buộc (qui định 1235)hướng dẫn bảo hiểm các công trình xây dựng theo nghị định 117/CP(thông tư 105) + Luật bảo hiểm đang được nghiên cứu và soạn thảo Các văn bản pháp qui khác liên quan đến hoạt động bảo hiểm đang được soạn thảo ,hoàn chỉnh sửa đổi bổ xung như :chế độ kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp bảo hiểm ,luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam Tất cả những tình hình trên thể hiện một môi trường pháp lí tương đối ổn định và đang được hoàn thiện theo một định hướng phù hợp xu thế chung của thế giới. B- NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ I- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI BẢO HIỂM CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ 1- Đối tượng bảo hiểm Trong bảo hiểm thiết bị điện tử đối tượng bảo hiểm là các loại máy móc thiết bị điện tử (tức là những máy móc thiết bị có lắp cac mạch và các linh kiện điện tử )dùng trong các ngành các lĩnh vực khác nhau như bưu điện ,viễn thông, tin học, y tế, điện ảnh, phát thanh truyền hình ,hàng hải ,hàng không, khí tượng khoa học kĩ thuật vv..... 2-Phạm vi bảo hiểm Phạm vi bảo hiểm thiết bị điện tử được chia ra làm 3 phần. Đó là bảo hiểm vật chất đối với các thiết bị điện tử, bảo hiểm cho phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài và bảo hiểm chi phí gia tăng. Người tham gia bảo hiểm có thể tham gia một hoặc cả 3 phần này và khi đó mức phí bảo hiểm và quyền lợi của người được bảo hiểm cũng phụ thuộc tương ứng vào việc lựa chọn các phạm vi bảo hiểm này. Phần I-Tổn thất vật chất đối với thiết bị Công ty PTI sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm những thiệt hại vật chất bất ngờ không lường trước xảy ra đối với thiết bị điện tử do các nguyên nhân như: cháy nổ, sét đánh trực tiếp hoặc gián tiếp, đoản mạch, nước, sơ xuất của người sử dụng và các sự cố ngẫu nhiên khác không bị loại trừ theo các điều kiện của đơn bảo hiểm . Ngoài ra, nếu các thiết bị điện tử đã được công ty PTI bảo hiểm theo phần I nói trên người được bảo hiểm có thể mua bảo hiểm thêm cho các phần II và III như đề cập dưới đây. Phần II:Phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài Công ty PTI sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm những chi phí để sửa chữa hoặc thay thế các phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài trong trường hợp chúng bị tổn thất do các rủi ro được bảo hiểm như qui ddịnh ở phần I gây ra và các chi phí để khôi phục lại những thông tin đã mất .Phần II chỉ có hiệu lực khi người được bảo hiểm tham gia cả phần I của đơn bảo hiểm này Phần III-Chi phí gia tăng Nếu hệ thống xử lí dữ liệu điện tử (EDP) bị tổn thất vật chất thuộc pham vi bảo hiểm, công ty PTI sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các chi phí cho việc tạm thời thuê mướn các thiết bị thay thế cũng như các chi phí về nhân công và các chi phí gia tăng khác theo qui định của Đơn bảo hiểm nhằm đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh hoặc nghề nghiệp của người được bảo hiểm không bị gián đoạn khi tổn thất xảy ra. II-RỦI RO BẢO HIỂM VÀ NHỮNG ĐIỂM LOẠI TRỪ 1-Rủi ro bảo hiểm Có thể nói rủi ro bảo hiểm là một trong những khái niệm cơ bản cùng với "bảo hiểm", "đối tượng bảo hiểm". Rủi ro bảo hiểm là yếu tố cấu thành phạm vi bảo hiểm, là tiêu chuẩn để xác định một sự cố có phải là sự cố bảo hiểm hay không. Và do đó, rủi ro bảo hiểm là khái niệm chi phối mạnh mẽ kết cục xử lí một khiếu nại bảo hiểm, một vấn đề tài chính -pháp lí tập trung và phức tạp nhất trong lĩnh vực bảo hiểm . Thiết bị bảo hiểm phải chịu rất nhiều yếu tố rủi ro có thể dẫn đến tổn thất. Một số rủi ro chính là :các rủi rỏ về kĩ thuật như: Cháy, nước, động đất, bão, sét đánh. Các yếu tố môi trường như :sự thay đổi về nhiệt độ, độ ẩm, khói bụi ... Tăng điện áp đột ngột ,chập mạch điện, hỏng hóc cơ học, lỗi do bất cẩn, cẩu thả của những người vận hành, phá ngầm trộm cắp . Tất cả các rủi ro thường hay xảy ra đối với thiết bị điện tử kể trên đều được bảo hiểm theo Đơn bảo hiểm thiết bị điện tử của PTI .Đơn bảo hiểm thiết bị điện tử là dạng đơn bảo hiểm mọi rủi do, chỉ không bảo hiểm những nội dung được ghi trong phần “các điểm loại trừ “Như vậy, có thể thấy phạm vi bảo hiểm của đơn bảo hiểm này là rất rộng so với các loại đơn bảo hiểm khác có thể bảo hiểm cho loại hình tài sản này, ví dụ như đơn bảo hiểm cháy ,nổ, sét đánh (trực tiếp) và một và rủi ro khác không điển hình đối với các thiết bị điện tử (như rủi ro do máy bay và các phương tiện hàng không khác rơi vào ; gây rối, bạo loạn, đình công, giông bão.... Nhưng hầu hết những rủi ro được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm cháy không phải là rủi ro điển hình cuả thiết bị điện tử. Bảng 3: Bảo hiểm cho các TBĐT (Các rủi ro chính được bảo hiểm theo các đơn BH khác nhau) Các rủi ro bảo hiểm Loại hình bảo hiểm Cháy (bao gồm cả các tổn thất phát sinh từ các công việc chữa cháy và cứu hộ) Sét đánh, nổ, đâm va của máy bay Cháy xém, cháy âm ỉ phủ bụi bồ hóng Thiệt hại do điện (đoản mạch, quá điện áp..) Trộm cắp Cướp bóc, phá hoại ngầm, hành động cố ý Rò rỉ nước Lũ lụt, ngập nước Vận hành sai (bất cẩn, cẩu thả, thiếu kỹ năng..) Bảo hiểm TBĐT n n n n n n n n n BH Cháy n Chỉ sét đánh trực tiếp, nổ hoá học BH Trộm n BH thiệt hại do nước n BH Máy móc Chỉ sét đánh gián tiếp,nổ lý học n n n n n 2.Những điểm loại trừ a) Điểm loại trừ chung : Công ty PTI không bồi thường những thiệt hại là hậu quả trực tiếp của sự hao mòn hay hư hỏng dần theo thời gian,chiến tranh và bạo lực, trộm cắp (trừ khi có thoả thuận riêng) hành động ác ý hoặc có chủ ý của người được bảo hiểm, phản ứng hạt nhân và nhiễm phóng xạ, lập chương trình sai, các chi phí để thực hiện công tác bảo dưỡng nhằm mục đích hạn chế và ngăn ngừa tổn thất và đảm baỏ cho các thiết bị hoạt động an toàn. b.Các điểm loại trừ riêng : Các điểm loại trừ riêng được áp dụng cho từng phần: - Phần tổn thất vật chất đối với thiết bị - Phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài - Chi phí gia tăng Cụ thể ta đi vào từng phần : * Tổn thất vật chất đối với thiết bị điện tử : Công ty PTI sẽ không chịu trách nhiệm đối với: -Mức khấu trừ qui định trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm (gọi tắt là BTTĐKBH) mà người được bảo hiểm phải chịu trong mọi sự cố. Tuy nhiên nếu tronng một sự cố có 2 hạng mục trở lên bị tổn thất thì người được bảo hiểm chỉ chịu mức khấu trừ cao nhất trong các mức khấu trừ áp dụng cho các hạng mục bị tổn thất đó -Tổn thất trực tiếp hay gián tiếp gây nên bởi núi lửa động đất, sóng thần, gió xoáy và bão mạnh từ cấp 8 trở lên -Tổn thất trực tiếp hay gián tiếp do trộm cướp . -Tổn thất mà hậu quả của nó là do tác động như hao mòn ,nứt vỡ ,ăn mòn kim loại, mài mòn đóng cặn hoặc hư hỏng dần theo thời gian bởi các yếu tố bên ngoài tác động . - Tổn thất trực tiếp hay gián tiếp do các dịch vụ hoặc nguồn cung cấp ví dụ: điện nước, khí ga bị hỏng hóc. - Tổn thất do sự sai sót trong đơn bảo hiểm tại thời điểm có hiệu lực mà người được bảo hiểm nhận ra điều đó cho dù công ty PTI có nhận ra hay không. - Tổn thất thuộc trách nhiệm cuả các nhà chế tạo hoặc nhà cung cấp các hạng mục thiết bị được bảo hiểm theo qui định của pháp luật hoặc theo hợp đồng. - Bất cứ khoản phát sinh chi phí nào có liên quan đến việc bảo dưỡng cho các hạng mục được bảo hiểm - Bất cứ các chi phí nào bỏ ra có liên quan đến việc khắc phục những trục trặc về các chức năng hoạt động trừ khi các trục trặc đó là do một tổn thất có thể được bồi thường theo đơn bảo hiểm đó gây ra . - Tổn thất đối với các thiết bị cho thuê hay được thuê mà người chủ các thiết bị đó phải có trách nhiệm theo luật định hoặc theo một thoả thuận thuê mướn hay thoả thuận bảo dưỡng nào đó. -Tất cả các loại tổn thất có tính chất hậu quả. -Tổn thất đối với các bộ phận như bóng đèn, đèn điện tử, ống điện tử,ruy băng, cầu chì, vòng điện kín, dây đai (dây cu loa). Dây dẫn hoậc dây thép, xích, lớp cao su, các dụng cụ có thể thay đổi được, xi lanh, các vật bằng thuỷ tinh, gốm sứ, lưới lọc hoặc lưới thép hay bất kì chất liệu sử dụng nào (ví dụ như dầu bôi trơn, nhiên liệu, các loại hoá chất ) - Các khuyết tật ảnh hưởng đến thẩm mỹ, ví dụ :các vết tỳ xước trên bề mặt đã được sơn,đánh bóng hoặc tráng men . * Phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài : Công ty PTI thoả thuận với người được bảo hiểm rằng nếu các phương tiện EDM (phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoaì ghi trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm (bao gồm các thông tin lưu trữ trên đó mà các thông tin này có thể được xử kí trực tiếp trong các hệ thống EDP) bị bất kì một tổn thất vật chất nào có thể được bồi thường theo phần thiệt hại vật chất. Công ty PTI sẽ bồi thường những tổn thất đó với mức bồi thường trong bất cứ năm bảo hiểm nào cũng không vượt quá số tiền ghi trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm với điều kiện là các tổn thất đó xảy ra trong thời hạn bảo hiểm ghi trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm hoặc trong bất cứ giai đoạn bảo hiểm nào tiếp theo mà người được bảo hiểm đã trả và công ty PTI đã nhận một khoản phí bảo hiểm để gia hạn cho đơn bảo hiểm đó . Tuy nhiên công ty PTI sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường : - Mức khấu trừ qui định trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm mà người được bảo hiểm phải chịu trong mọi sự cố. - Các chi phí phát sinh do lập chương trình,đục lỗ ghi nhãn hoặc chèn thông tin sai, xoấ thông tin do nhầm lẫn hoặc loại bỏ không dùng các phương tiện chứa dữ liệu hoặc mất thông tin do tác động của từ trường - Tất cả các loại tổn thất có tính chất hậu quả dưới bất kì hình thức nào *Chi phí gia tăng Công ty PTI thoả thuận với người được bảo hiểm rằng nếu tổn thất vật chất có thể được bồi thường theo phần thiệt hại vật chất của đơn bảo hiểm làm cho hoạ._.t động của các thiết bị EDP thay thế (mà các thiết bị thay thế này chưa được bảo hiểm theo đơn) tuy nhiên mức bồi thường sẽ không vượt quá số tiền bảo hiểm tính theo ngày như đã thoả thuận và cũng không vượt quá tổng số tiền bảo hiểm ghi trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm với điều kiện là việc gián đoạn đó xảy ra trong thời hạn bảo hiểm ghi trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm hoặc trong bất cứ giai đoạn nào tiếp theo mà người được bảo hiểm đã trả và công ty PTI đã nhận một khoản phí để gia hạn cho đơn bảo hiểm. Nhưng công ty PTI sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường cho bất cứ chi phí tăng thêm nào đó phát sinh do: - Có những qui định của hạn chế do các nhà chức trách ban hành liên quan đến việc thiết kế, chế tạo lại thiết bị EDP được bảo hiểm hoặc hoạt động của các thiết bị đó. - Người được bảo hiểm không có sẵn các quĩ cần thiết nhằm đáp ứng kịp thời việc sửa chữa hoặc thay thế các thiết bị hư hại hay phá huỷ III-SỐ TIỀN BẢO HIỂM VÀ PHÍ BẢO HIỂM 1-Số tiền bảo hiểm Là giá trị tài sản được công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm . Trong mọi trường hợp đó là giới hạn trách nhiệm tối đa của công ty bảo hiểm đối với tài sản được bảo hiểm bị thiệt hại Ở nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử số tiền bảo hiểm được áp dụng như sau: a. Bảo hiểm thiệt hại vật chất đối với các thiết bị điện tử: - Yêu cầu của loại hình bảo hiểm này là số tiền bảo hiểm của mỗi hạng mục không được thấp hơn giá trị thay thế mới đầy đủ của nó, bao gồm cả cước phí, thuế và các chi phí về hải quan và chi phí lắp đặt... và người được bảo hiểm phải cam kết điều chỉnh lại số tiền bảo hiểm trong trường hợp có bất kỳ biến động lớn nào về tiền lương hoặc giá cả. Trong trường hợp xảy ra tổn thất, nếu số tiền bảo hiểm được phát hiện thấp hơn số tiền cần phải được bảo hiểm như đề cập ở trên thì số tiền bồi thường sẽ được giảm tương ứng với tỉ lệ giữa số tiền bảo hiểm thực tế và số tiền lẽ ra cần phải được bảo hiểm như yêu cầu. Điều kiện này áp dụng riêng rẽ đối với từng hạng mục được bảo hiểm. Khi đã xác định được số tiền bảo hiểm, nên tiếp tục xem xét để cộng thêm vào số tiền bảo hiểm phần chi phí có thể gia tăng thêm về giá nguyên vật liệu hoặc tiền lương trong giai đoạn bảo hiểm đầu tiên. b.Bảo hiểm cho phương tiện chứa dữ liệu bên ngoài. Số tiền bảo hiểm phải được xác định phù hợp với các chi phí cần thiết để thay thế tất cả các phương tiện chứa dữ liệu bên ngoài và để phục hồi lại những thông tin đã được lưu trữ trên đó. Vì chỉ có thể ước tính các chi phí để phục hồi lại thông tin nên việc bảo hiểm cho các chi phí này dựa trên cơ sở tổn thấy đầu tiên (first loss) với một hạn mức bồi thường phải được ước tính hết sức kỹ càng trên cơ sở đánh giá tổn thất lớn nhất có thể xảy ra đối với các chi phí này. Không áp dụng điều khoản bảo hiểm dưới giá trị cho phần này. c. Bảo hiểm chi phí gia tăng. Số tiền bảo hiểm được xác định trên cơ sở các chi phí có thể bỏ ra tính theo ngày và tháng trong thời hạn 1 năm do phải sử dụng một hệ thống EDP thay thế. Các chi phí phát sinh thêm một lần nữa để lập trình và chuyên chở có thể được bảo hiểm theo điều khoản sửa đổi bổ sung tới một hạn mức được quy định riêng cũng trên cơ sở tổn thất đầu tiên. 2. Nguyên tắc và phương pháp tính phí a. Nguyên tắc chung để xác định phí bảo hiểm Để xác định phí bảo hiểm thiết bị điện tử, ta dựa trên cơ sở tỉ lệ phí và giá trị bảo hiểm. Phí bảo hiểm =Tỉ lệ phí * Số đơn vị giá trị bảo hiểm Khi tính phí bảo hiểm thiết bị điện tử thì trong phí phải chứa đầy đủ các yếu tố lạm phát, thay đổi giá cả... Cần tránh bảo hiểm dưới giá trị .Khi kết thúc một thời hạn bảo hiểm (1 năm), nếu NĐBH muốn tái tục hợp đồng thì người bảo hiểm phải xem xét điều chỉnh phí bảo hiểm cho phù hợp với giá trị của bảo hiểm. b.Phí bảo hiểm áp dụng cho phần thiệt hại vật chất đối với các thiết bị điện tử : Dưới đây là các mã số của từng chủng loại máy móc thiết bị điện tử sử dụng trong các ngành khác nhau : 0100 Các hệ thống và thiết bị xử lí dữ liệu (EDP) 0200 Thiết bị viễn thông 0300 Thiết bị thu phát ,dùng trong phát thanh truyền hìnhvà thiết bị điện ảnh 0400 Thiết bị chiếu sáng và thiết bị hàng hải 0500 Thiết bị dùng cho nghiên cứu 0600 Thiết bị điện tử dùng trong y tế 0700 Bộ phận phát tín hiệu và truyền dẫn 0900 Máy móc thiết bị dùng trong văn phòng 1000 Bộ phận kiểm tra và ghi Đối với các hệ thống thiết bị xử lý dữ liệu (001), thiết bị viễn thông (002), thiết bị thu phát dùng trong phát thanh truyền hình (003) có biểu tỉ lệ phí bảo hiểm (trong phần phụ lục). Tỉ lệ phí đề cập trong biểu phí chỉ là tỉ lệ phí tối thiểu tương ứng với các điều kiện bảo hiểm cơ bản áp dụng với điều kiện rủi ro bình thường mà không có các yêú tố làm tăng mức độ hoặc khả năng rủi ro . Nếu có những yếu tố làm tăng mức độ và khả năng rủi ro thì phải tăng thêm phí (trong những trường hợp đó phải thông báo những thông tin cụ thể về công ty để công ty xem xét và quyết định ).Biểu phí này cũng áp dụng với thời hạn bảo hiểm tiêu chuẩn là một năm và với một mức khấu trừ tối thiểu, vì vậy nếu áp dụng thời hạn bảo hiểm ngắn hơn hoặc mức khấu trừ cao hơn thì có thể giảm phí . Biểu phí được đề cập trong bảng phụ lục áp ụng đối với các thiết bị điện tử và phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài hoạt động và được bảo quản trong những điều kiện làm việc bình thường, tức là không có tình huống làm tăng thêm khả năng xảy ra rủi ro và tuổi của các thiết bị này không quá 7 năm. * Phí bảo hiểm rủi ro động đất Tỉ lệ phí cơ bản đề cập trong các biểu phí trên chưa kể đến rủi ro về động đất . Nếu bảo hiểm thêm rủi ro này thì phải cộng thêm phụ phí bảo hiểm như đề cập trong bảng dưới đây . Bảng 4: Tỷ lệ phí rủi ro do động đất Đơn vị : %o tính theo năm Độ nhạy cảm đối với rủi ro động đất Hệ số khả năng xảy ra động đất ở từng vùng 0 1 2 Loại C Loại D Loại E Loại F Loại G 0 0.20 0.40 0 0.25 0.45 0 0.29 0.57 0 0.35 0.68 0 0.42 0.82 Kí tự ghi trong bảng Kí tự Số tiền bảo hiểm (USD) C 17000 D 35000 E 85000 F 170000 G 350000 Các rủi ro động đất, thiệt hại do sóng thuỷ triều gây ra do tác động của động đất và núi lửa phun là các rủi ro bị loại trừ trong đơn bảo hiểm chính. Nếu khách hàng yêu cầu bảo hiểm thêm các rủi ro này thì áp dụng ĐKSĐBS 505 với hạn mức bồi thường không vượt quá 1000.000USD nhưng với điều kiện là thu thập đầy đủ các thông tin có liên quan như đề cập trong phiếu điều tra về rủi ro này. Nếu bảo hiểm thêm những rủi ro này thì phải tính thêm phụ phí vì tỉ lệ phí cơ bản ghi trong biểu phí chưa tính đến những rủi ro này. Phụ phí cho các rủi ro này áp dụng cho phần thiệt hại vật chất đối với thiết bị điện tử và bảo hiểm phương tiện chứa dữ liệu bên ngoài. Theo bản đồ của khu vực động đất của Munich Re các khu vực trên trái đất được chia thành 5 khu vực : Từ 0 đến 4. Khu vực có rủi ro động đất tăng dần theo thứ tự, chẳng hạn khu vực có rủi ro động đất mức độ 0 là hầu như không có động đất xảy ra và cấp động đất là V và dưới V tính theo độ Mercalli đã được sửa đổi . Khả năng xảy ra động đất ở mỗi vùng là khác nhau, ví dụ ở Việt nam có 3 vùng xảy ra động đất như : Đà nẵng , Hà nội, Lai châu (theo bản đồ thì các tỉnh miền bắc Việt nam thuộc khu vực có rủi ro động đất là 1 tức là ít xảy ra động đất). * Phí bảo hiểm các rủi ro lốc, xoáy, gió giật và bão lớn (mạnh trên cấp 8) Tỉ lệ phí cơ bản đề cập ở trên cũng chưa tính đến các rủi ro này, nếu bảo hiểm thêm thì phải tính thêm phụ phí theo bảng sau . Bảng 5: Tỷ lệ phí rủi ro do thiên tai Đơn vị : %o tính theo năm Địa điểm các hạng mục được bảo hiểm Cấp độ gió bão theo từng vùng 1 2 3 Đặt trong nhà Đặt ngoài trời 0.1 0.80 1.5 0.40 TCT TCT Khu vực 1: cấp độ thấp Khu vực 2: cấp độ trung bình Khu vực 3: cấp độ cao Mức TCT có nghĩa là địa điểm các hạng mục được bảo hiểm đặt ngoài trời và có gió bão từ cấp 2 trở lên vì vậy phải thông báo về công ty để công ty quyết định. Thông thường mức độ tác động của gió bão đối với các vùng ven biển được coi là cao còn ở các vùng sâu vào đất liền thì thấp hoặc trung bình. Tỉ lệ phí cho trong bảng trên chỉ áp dụng nếu các hạng mục được bảo hiểm đặt ở các khu vực có độ cao cao hơn mực nước cao nhất đã thống kê được ở khu vực đó kể từ khi bắt đầu hiệu lực bảo hiểm trỏ về trước. Nếu các thiết bị điện tử đặt ở độ cao bằng hoặc thấp hơn so với qui định trên thì không được tự động chấp nhận bảo hiểm các rủi ro này mà phải xin ý kiến chỉ đạo của công ty PTI. c.Phí bảo hiểm áp dụng đối với phương tiện chứa dữ liệu bên ngoài .Tỉ lệ phí cơ bản Đây là tỉ lệ phí tối thiểu ứng với các điều kiện bảo hiểm cơ bản của đơn bảo hiểm và được áp dụng đối với số tiền bảo hiểm tổn thất đầu tiên (first loss) mà người được bảo hiểm phải kê khai cụ thể trong bản trả lời câu hỏi như đề cập ở phần sau. Phần tiền bảo hiểm đối với các phương tiện lưu trữ này phải tương ứng với chi phí khôi phục lại các phương tiện này. Chi phí toàn bộ ước tính cho việc khôi phục lại các thông tin hiện tại từ các văn bản gốc và /hoặc chí phí ước tính để chuyển dữ liệu sang phương tiện lưu trữ mới nếu như có các bản sao phải tương ứng với phần tiền bảo hiểm trên cơ số tổn thất đầu tiên (first loss) để bảo hiểm cho việc khôi phục lại các thông tin được lưu trữ trên các phương tiện được bảo hiểm. Tỉ lệ phí cơ bản áp dụng đối với số tiền bảo hiểm với điều kiện số tiền bảo hiểm không vượt quá 700.000 USD hoặc tương đương với mức khấu trừ thông thường được tính bằng phần nghìn số tiền thiệt hại như đề cập trong Bảng dưới đây nhưng không được thấp hơn 700USD hoặc tương đương. Bảng 6: Nếu tăng mức khấu trừ thì tỉ lệ phí có thể được giảm như sau : Mức khấu trừ tăng 5 lần 10 lần Tỉ lệ phí giảm 5% 10% * Tăng và giảm phí : Việc tăng hoặc giảm tỷ lệ phí cơ bản phụ thuộc vào các điều kiện rủi ro đề cập đến trong bản trả lời câu hỏi. Việc tăng hoặc giảm phí đối với phần bảo hiểm thiệt hại vật chất đối với các hệ thống xử lý dự liệu điện tử (EDP) cũng áp dụng cho phần bảo hiểm các phương tiện lưu trữ bên ngoài (mất thông tin) một cách thính hợp. Cũng có thể giảm phí trong trường hợp các thông tin, dữ liệu sự phòng được lưu trữ trong các phòng có khả năng chống cháy Nơi lưu trữ trong phòng đặt thiết bị EDP bên ngoài phòng đặt thiết bị EDP Tỷ lệ giảm phí 5% 10% Phí bảo hiểm cho phần bảo hiểm chi phí gia tăng đối với các hệ thống có sử dụng máy tính Chỉ có thể nhận bảo hiểm phần này nếu sau khi hệ thống EDP bị tổn thất vật chất có thể được bồi thường theo phần bảo hiểm thiệt hạI vật chất mà vẫn có thể tránh được những tác động bất lợi hoặc gián đoạn hoạt động kinh doanh bằng các biện pháp sau : - Sử dụng hệ thống xử lí dữ liệu của một bên thứ ba (trên cơ sở một thoả thuận đã kí trước khi bảo hiểm có hiệu lực ) - Tăng cường thêm việc sử lí dữ liệu bằng tay - Sử dụng lao động dịch vụ sản xuất của một bên thứ ba * Xác định số tiền bảo hiểm Số tiền bảo hiểm (Theo năm) phải ngang bằng với số tiền có thể phải bỏ ra trong phạm vi 12 tháng cho các chi phí gia tăng được bảo hiểm ngay cả khi người được bảo hiểm lựa chọn thời gian bảo hiểm ngắn hơn. Phải ấn định riêng số tiền bảo hiểm ứng với mỗi hệ thống EDP độc lập. Số tiền bảo hiểm tính theo năm bao gồm: x 12 tháng Chi phí gia tăng - Ví dụ: Tiền thuê các hệ thống xử lý dữ liệu của bên thứ 3 hoặc áp dụng các quá trình sc hoặc quá trình làm việc khác + Chi phí do tăng thêm nhân công sử dụng lao động dịch vụ và các hoạt động sản xuất củabên thứ 3 + Chi phí vận chuyển theo giá cước hiện tại đối với các phương tiện lưu trữ hoặc nguyên vật liệu và nhân công - Chi phí tiết kiệm như tiết kiệm về cước phí sử dụng điện hàng ngày Nếu số tiền bảo hiểm tính theo năm vượt quá 1.700 USD hoặc tương đương thì phải xin ý kiến chỉ đạo của Công ty * Tỷ lệ phí bảo hiểm Tỷ lệ phí cơ bản là tỷ lệ phí tối thiểu tương ứng với các điều kiện bảo hiểm tiêu chuẩn đề cập trong đơn bảo hiểm và phụ thuộc vào quy mô của các thiết bị thuộc hệ thống EDP được bảo hiểm và được áp dụng trong các điều kiện sau: (i) Thời gian bồi thường tối đa là 12 tháng, thời gian miễn thường ít nhất là 2 ngày làm việc (mức khấu trừ đối với chi phí phát sinh thêm chỉ một lần là 20%) (ii) Các điều kiện của rủi ro là bình thường và hạng mục được bảo hiểm không xê dịch. iii) Các quyền lợi của người được bảo hiểm đã được bảo hiểm bởi đơn bảo hiểm thiết bị điện tử tiêu chuẩn với phạm vi đầy đủ tại công ty PTI. 3. Điều chỉnh số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm phải được điều chỉnh mỗi khi có những thay đổi lớn về giá cả hoặc tiền lương, đặc biệt là vào những thời điểm tái tục đơn bảo hiểm cũ đã hết hạn. Để làm được điều này có thể tham khảo giá cả từ các nhà chế tạo hoặc nhà cung cấp. a) Điều chỉnh số tiền bảo hiểm Số tiền bảo hiểm được điều theo công thức sau: E S = So ------- Eo Trong đó : S: Số tiền bảo hiểm của năm hiện tại So:Số tiền bảo hiểm khi bắt đầu bảo hiểm E:Chỉ số giá sản xuất thiết bị trong năm hiện tại Eo:Chỉ số giá sản xuất thiết bị khi bắt đầu bảo hiểm b).Điều chỉnh phí bảo hiểm E L P = Po 0,3 ---------- + 0,7--------- E0 L0 Trong đó : P: Phí bảo hiểm của năm hiện tại Po:Phí bảo hiểm khi bắt đầu bảo hiểm L:Chỉ số giá lao động trong năm hiện tại Lo: Chỉ số giá lao động khi bắt đầu bảo hiểm. Các hệ số 0,3 và 0,7 chỉ là các giá trị trung bình trên cơ sở giá trị nguyên vật liệu chiếm 30% và giá nhân công chiếm 70%. Nếu cần thiết thì các hệ số trên có thể thay đổi để phù hợp với điều kiện thực tế. Nếu tại thời điểm bắt đầu bảo hiểm mà một hạng mục nào đó đã được sử dụng 05 năm thì có thể áp dụng một hệ số phản ánh được sự gia tăng vê giá trị thay thế mới tới thời điểm đó. Hệ số này được xác định trên cơ sở các chỉ số áp dụng trong các năm trước đó tại nước mà hạng mục đó được chế tạo 4. Mức khấu trừ a) Đối với thiệt hại vật chất Mức khấu trừ thông thường áp dụng cho mỗi hạng mục thiết bị đươc tính theo phần ngàn số tiền bảo hiểm và không được thấp hơn 200 USD hoặc số tiền tương đương. b) Đối với phương tiện chứa dữ liệu bên ngoài Mức khấu trừ thông thường được tính theo phần ngàn số tiền tổn thất và không được thấp hơn 700 USD hoặc số tiền tương đương. c) Đối với chi phí gia tăng Mức khấu trừ được tính toán theo thời gian miễn thường. Thời gian miễn thường tối đa là 02 ngày ứng với tỷ lệ phí tối thiểu. Thời gian thường dài hơn thì sẽ áp dụng các hệ số giảm phí . 5. Phí bảo hiểm tối thiểu cho mỗi đơn bảo hiểm Phí bảo hiểm tối thiểu hàng năm cho mỗi đơn bảo hiểm là: - Đối với thiết bị EDP : 200 USD - Đối với tất cả các hệ thống và thiết bị điện tử khác và phương tiện chứa dữ liệu : 700 USD - Đối với chi phí gia tăng : 100USD IV-HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ 1. Giấy yêu cầu bảo hiểm Người được bảo hiểm phải kê khai đầy đủ vào giấy yêu cầu bảo hiểm thiết bị điện tử , sau đó gửi tới công ty PTI để công ty tiến hành kiểm tra thực tế địa điểm đặt các thiết bị được bảo hiểm và hiện trạng của những máy móc được yêu cầu bảo hiểm .Trên cơ sở xem xét đánh giá thực tế và những thông tin mà khách hàng khai báo, nếu thấy đầy đủ các điều kiện cấp đơn bảo hiểm thì cấp đơn bảo hiểm. 2. Điều khoản của hợp đồng bảo hiểm Trên cơ sở Người được bảo hiểm (dưới đây gọi tắt là NĐBH) đã gửi Giấy yêu cầu bảo hiểm (Giấy yêu cầu này được xem như là một bộ phận không tách rời của Đơn bảo hiểm) cho Công ty cổ phần bảo hiểm Bưu Điện (Dưới đây gọi tắt là PTI), đã nộp cho PTI số phí bảo hiểm nêu trong Bản tóm tắt điều kiện bảo hiểm (BTTĐKBH) kèm theo và tuân thủ các điều khoản, điều kiện và các điểm loại trừ quy định trong Đơn bảo hiểm này, PTI sẽ trả tiền bồi thường cho NĐBH theo cách thức và tới mức độ như quy định dưới đây. Đơn bảo hiểm này áp dụng cho các thiết bị có tên trong danh mục được bảo hiểm cho dù các thiết bị này đang hoạt động hoặc không hoạt động, đang được tháo dỡ hoặc lau chùi bảo dưỡng, đại tu hoặc để di chuyển trong khu vực được bảo hiểm, đang trong quá trình thực hiện chính các công việc nêu trên hoặc trong quá trình được lắp ráp trở lại sau đó, nhưng dù trong bất kỳ trường hợp nào thì Đơn bảo hiểm này cũng chỉ áp dụng khi các thiết bị này đã qua chạy thử thành công. Các điều kiện chung: 1. Điều kiện tiên quyết để ràng buộc trách nhiệm của PTI là NĐBH phải tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quy định ghi trong Đơn bảo hiểm này, trung thực khai báo và trả lời các câu hỏi ghi trong giấy yêu cầu bảo hiểm theo mẫu đính kèm theo Đơn bảo hiểm này. 2. BTTĐKBH và các phần của Đơn bảo hiểm được xem là các bộ phận không thể tách rời và là một bộ phận hợp thành của Đơn bảo hiểm này, và cụm từ "Đơn bảo hiểm này "bất cứ lúc nào được sử dụng trong hợp đồng này sẽ được hiểu là bao gồm BTTĐKBH và các phần đó. Bất kỳ một từ hoặc một cụm từ nào đã mang một nghĩa xác định nào đó tại bất cứ phần nào trong đơn bảo hiểm này, trong BTTĐKBH hoặc trong các phần của Đơn bảo hiểm thì dù xuất hiện ở đâu từ hoặc cụm từ đó cũng mang cùng một nghĩa như vậy. 3. NĐBH, bằng chi phí riêng của mình, phải thực hiện mọi biện pháp hợp lý và tuân theo mọi kiến nghị hợp lý của PTI nhằm ngăn chặn tổn thất và phải tuân thủ mọi quy định pháp luật và khuyến nghị của nhà chế tạo. 4. a)Vào bất kỳ thời gian hợp lý nào, đại diện của PTI cũng có quyền xem xét và kiểm tra rủi ro được bảo hiểm và NĐBH phải cung cấp cho đại diện của PTI mọi chi tiết, thông tin cần thiết để đánh giá rủi ro được bảo hiểm. b)NĐBH phải lập tức thông báo cho PTI bằng điện tín và văn bản về bất cứ thay đổi nào đối với rủi ro được bảo hiểm và bằng chi phí riêng của mình thực hiện những biện pháp mà tình thế đòi hỏi để đảm bảo an toàn cho quá trình hoạt động của các hạng mục thiết bị được bảo hiểm. Phạm vi bảo hiểm cũng như chi phí bảo hiểm sẽ được điều chỉnh thích hợp nếu thấy cần thiết. NĐBH không được thực hiện hoặc chấp nhận những sự thay đổi nào làm tăng thêm rủi ro trừ khi PTI có văn bản xác nhận rằng Đơn bảo hiểm vẫn tiếp tục có hiệu lực trong các trường hợp đó. 5. Trong trường hợp xảy ra những sự cố có thể dẫn đến việc bồi thường theo Đơn bảo hiểm này, NĐBH phải: a) Lập tức thông báo ngay cho PTI bằng điện thoại hoặc điện tín cũng như bằng văn bản nêu rõ tính chất và mức độ tổn thất; b) Thực hiện mọi biện pháp phù hợp với khả năng của mình để hạn chế tổn thất ở mức thấp nhất; c) Giữ gìn các chi tiết hay bộ phận bị hư hại và sẵn sàng để cho đại diện hay giám định viên của PTI giám định các chi tiết hay bộ phận đó ; d) Cung cấp mọi thông tin và chứng từ văn bản theo yêu cầu của PTI; e)Thông báo cho cơ quan công an nếu tổn thất do trộm cướp. Trong mọi trường hợp PTI sẽ không chịu trách nhiệm đối với những tổn thất mà trong vòng 14 ngày kể từ khi xảy ra tổn thất PTI không nhận được thông báo về những tổn thất đó. Ngay sau khi thông báo cho PTI theo điều kiện này, NĐBH có thể tiến hành sửa chữa hay thay thế các hư hỏng nhỏ, còn trong mọi trường hợp khác, nhất thiết phải có đại diện của PTI để giám định tổn thất trước khi thực hiện việc sửa chữa thay thế. Nếu đại diện của PTI không tiến hành giám định trong một thời gian được xem là hợp lý xét theo tình hình thực tế thì NĐBH có quyền xúc tiến việc sửa chữa hay thay thế. Trách nhiệm của PTI đối với bất kì hạng mục bị tổn thất nào thuộc đối tượng bảo hiểm sẽ chấm dứt nếu hạng mục đó vẫn được sử dụng sau khi khiếu nại mà không được sửa chữa như yêu cầu của PTI hoặc nếu chỉ được sửa chữa tạm thời mà không được sự đồng ý của PTI. 6. NĐBH, với chi phí do PTI chịu, phải thực hiện, kết hợp thực hiện và cho phép thực hiện mọi hành động và mọi công việc xét thấy cần thiết hay theo yêu cầu của PTI để bảo vệ những lợi ích liên quan đến các quyền hạn hoặc các biện pháp nhằm được các bên thứ ba (không được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm này ) cho miễn giảm trách nhiệm hay đòi được bồi thường từ các bên thứ ba đó mà PTI được hưởng hay có thể được hưởng hoặc được thế quyền hay có thể được thế quyền ngay sau khi PTI đã bồi thường thiệt hại theo Đơn bảo hiểm này cho dù những hành động hay công việc như vậy cần phải được thực hiện hoặc được yêu cầu thực hiện trước hay sau khi PTI bồi thường cho NĐBH. 7. Trong trường hợp có bất cứ tranh chấp nào giữa PTI và NĐBH về số tiền được bồi thường theo Đơn bảo hiểm này (mà nếu không có việc tranh chấp này thì trách nhiệm đã được thừa nhận), những tranh chấp đó sẽ được chuyển cho một trọng tài quyết định mà trọng tài này do hai bên chỉ định bằng văn bản. Nếu hai bên không nhất trí được việc chỉ định một trọng tài thì mỗi bên bằng văn bản sẽ chỉ định một trọng tài riêng và tranh chấp này sẽ được chuyển cho hai trọng tài đó quyết định với điều kiện là việc chỉ định đó phải được thực hiện trong vòng một tháng kể từ khi bên này hoặc bên kia đưa ra yêu cầu về việc chỉ định này bằng văn bản. Trong trường hợp những trọng tài nói trên không đi đến nhất trí thì tranh chấp sẽ được chuyển cho một trọng tài do các trọng tài đó chỉ định bằng văn bản trước khi đưa tranh chấp ra giải quyết. Trọng tài này sẽ ngồi lại cùng với các trọng tài đó và chủ trì các cuộc họp để giải quyết tranh chấp. Phán quyết do trọng tài chủ trì đưa ra sẽ là điều kiện tiên quyết đối với bất cứ việc kiện tụng nào nhằm chống lại PTI. 8.a) Nếu những thông tin đề cập trong Giấy yêu cầu bảo hiểm hoặc những khai báo của NĐBH có bất cứ khía cạnh cơ bản nào không đúng sự thật hoặc nếu NĐBH đưa ra bất cứ khiếu nại gian lận nào hoặc mức độ khiếu nại bị thổi phồng lên quá mức hoặc nếu có bất cứ sự khai báo sai lệch nào nhằm bảo vệ cho những khiếu nại đó thì hiệu lực của Đơn bảo hiểm này sẽ chấm dứt và PTI sẽ không chịu trách nhiệm chi trả bất cứ khoản bồi thường nào theo Đơn bảo hiểm này. Trong trường hợp PTI từ chối trách nhiệm đối với bất kì khiếu nại nào mà không có việc kiện tụng nào được tiến hành trong vòng ba tháng kể từ khi có sự từ chối đó hoặc trong vòng ba tháng kể từ khi các trọng tài đã đưa ra phán xét (trong trường hợp xảy ra việc phân xử như đề cập trong Điều 7 kể trên) thì tất cả mọi quyền lợi liên quan đến khiếu nại này sẽ không còn giá trị. Nếu vào thời điểm phát sinh bất kì khiếu nại nào mà có bất cứ Đơn bảo hiểm nào khác cũng bảo hiểm cho những tổn thất được khiếu nại đó thì số tiền bồi thường mà PTI có thể phải chi trả cho tổn thất đó sẽ không vượt quá phần tỉ lệ của PTI đối với khiếu nại về tổn thất đó. Đơn bảo hiểm này có thể chấm dứt hiệu lực theo yêu cầu của NĐBH vào mọi thời điểm và trong các trường hợp như vậy PTI sẽ giữ lại phần phí bảo hiểm được tính theo biểu phí ngắn hạn ứng với thời gian Đơn bảo hiểm này có hiệu lực. Theo đề nghị của PTI, Đơn bảo hiểm này cũng có thể chấm dứt hiệu lực sau 7 ngày kể từ ngày PTI thông báo đề nghị này cho NĐBH và trong các trường hợp đó PTI sẽ hoàn trả lại phần phí bảo hiểm được tính theo tỉ lệ tương ứng với thời gian Đơn bảo hiểm này không còn hiệu lực nữa kể từ ngày chấm dứt hiệu lực sau khi trừ đi bất cứ khoản chi phí hợp lí nào về điều tra giám định mà PTI có thể đã bỏ ra và cũng trừ đi bất cứ khoản chiết khấu nào về phí bảo hiểm áp dụng trong trường hợp bảo hiểm dài hạn mà NĐBH đã được hưởng. Nếu bảo hiểm được thu xếp cho một bên thứ ba thừa hưởng thì dưới danh nghĩa của NĐBH bên thừa hưởng quyền lợi (BTH) có quyền thực hiện các quyền hạn của NĐBH. Ngoài ra BTH cũng có quyền nhận bất cứ khoản bồi thường nào theo Đơn bảo hiểm này của NĐBH và chuyển giao các quyền hạn của NĐBH cho PTI mà không cần phải có sự chấp nhận của NĐBH ngay cả trong trường hợp BTH không sở hữu Đơn bảo hiểm này. Ngay sau khi thanh toán bồi thường, PTI có thể yêu cầu BTH xác nhận rằng họ đã đồng ý với các điều kiện, điều khoản của hợp đồng bảo hiểm này và NĐBH đã chấp nhận để họ nhận các khoản bồi thường theo Đơn bảo hiểm này. 12. Một tháng sau khi xác định được toàn bộ số tiền phải bồi thường, PTI sẽ chi trả bồi thường. Tuy nhiên, một tháng sau khi PTI đã nhận được thông báo thích hợp về vụ tổn thất và đã thừa nhận trách nhiệm, NĐBH có thể yêu cầu PTI tạm ứng số tiền bồi thường tối thiểu phù hợp với hoàn cảnh thực tế tại thời điểm đó. Chừng nào số tiền bồi thường chưa được xác định hoặc xét thấy chưa cần tạm ứng theo yêu cầu của NĐBH thì việc tạm ứng bồi thường sẽ không được thực hiện. PTI có quyền giữ lại số tiền bồi thường trong trường hợp : Có sự nghi ngờ về quyền được nhận bồi thường của NĐBH chừng nào PTI chưa nhận được các bằng chứng cần thiết. Đang có sự điều tra của cảnh sát hoặc công việc điều tra nào khác theo qui định của Luật hình sự đối với NĐBH mà các công việc điều tra này chưa kết thúc. V-TÁI BẢO HIỂM TRONG NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ Tái bảo hiểm là hình thức phân tán những rủi ro đã được bảo hiểm bởi công ty bảo hiểm gốc. Nhằm phát huy tối đa qui luật số đông để dàn mỏng, chia nhỏ những rủi ro đã được bảo hiểm bởi công ty bảo hiểm gốc cho một tập thể các công ty tái bảo hiểm trên toàn thế giới. Chính vì lẽ đó mà một rủi ro mang tính chất tai hoạ khốc liệt hoặc có độ tích tụ cao vẫn được bảo hiểm .Đối với công ty bảo hiểm : tái bảo hiểm làm cho công ty có khả năng nhận bảo hiểm nhiều hơnvà giúp cho công ty bảo hiểm gốc có thể nhận được các dịch vụ mà vượt quá khả năngcủa mình ,ngoài ra nó còn tạo sự ổn địch trong quá trình kinh doanh ,củng cố khả năng tài chính của công ty bảo hiểm . Trong nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT có đặc điểm là giá trị tài sản bảo hiểm rất lớn do vậy khi kí những hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn công ty PTI phải luôn xem xét để cần thiết phải tái đi cho các công ty bảo hiểm khác có khả năng tài chính lớn hơn. Các loại bảo hiểm như : bảo hiểm mọi rủi ro cho chủ thầu-bảo hiểm xây dựng (Contractor All Risks), bảo hiểm rủi ro lắp đặt(Erection All Risks),bảo hiểm TBĐT(Electronic Equipment).Công ty PTI áp dụng hợp đồng số thành kết hợp mức dôi (Quota Share-surplus).Tái bảo hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT do phòng tái bảo hiểm của công ty PTI đảm nhận . Phần II THỰC TẾ TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM BƯU ĐIỆN (GỌI TẮT LÀ PTI) I- VÀI NÉT SƠ LƯỢC VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG TY PTI Công ty PTI chính thức triển khai hoạt động từ ngày 01 .09. 1998 theo quyết định số 3633 /GP-UD của UBND thành phố Hà nội .Công ty PTI có một số chức năng chính như sau : - Kinh doanh trực tiếp các dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ trong phạm vi của cả nước và quốc tế . - Kinh doanh nhận và nhượng tái bảo hiểm liên quan đến các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ. - Tham mưu tư vấn cho các tổ chức kinh tế xã hội trong việc đánh giá và quản lí rủi ro . - Thực hiên các dịch vụ liên quan như: Giám định, điều tra tính toán, phân bổ tổn thất, đại lí giám định, xét giải quyết bồi thường và đòi người thứ 3 - Hoạt động đầu tư tài chính theo qui định của pháp luật - Giúp các tổ chức khách hàng bảo hiểm đào tạo cán bộ chuyên ngành bảo hiểm. Hoạt động của công ty dưới sự điều khiển của hội đồng quản trị sau đó đến giám đốc và các phó giám đốc . Sơ đồ tổ chức bộ máy công ty PTI Phó giám đốc Phó giám đốc Hội đồng quản trị Giám đốc Phòng bảo hiểm tài sản kĩ thuật Phòng tái bảo hiểm Phòng bảo hiểm hàng hải Phòng tổng hợp Phòng bảo hiểm phi hàng hải Phòng kinh tế kế hoạch Ở sơ đồ trên nổi bật lên là phòng bảo hiểm tài sản kĩ thuật có chức năng là chỉ đạo và thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản. Một trong những nghiệp vụ ưu thế của phòng là nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử, nghiệp vụ này đã được triển khai từ rất lâu trên thế giới nhưng ở Việt nam thì đơn bảo hiểm thiết bị điện tử đầu tiên mới có từ cuối tháng 10 năm 1996 do BAO VIET cấp cho trung tâm kĩ thuật sản xuất chương trình Đài truyền hình Việt nam. Đây là nghiệp vụ rất mới mẻ cho nên việc công ty PTI triển khai gặp không ít khó khăn . II-KẾT QUẢ KINH DOANH CỦA CÔNG TY PTI Ở NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ 1. Công tác khai thác : Khai thác là khâu đầu tiên của quá trình kinh doanh bảo hiểm. Vì thế nó có ý nghĩa quyết định đối với sự thành bại của công ty bảo hiểm nói chung và của từng nghiệp vụ bảo hiểm nói riêng. Khâu khai thác bảo hiểm là việc huy động tập chung nguồn đóng góp từ các đơn vị tham gia bảo hiểm và được bổ xung một phần lợi nhuận của hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, khâu khai thác hình thành nên quĩ dự trữ bảo hiểm chi phối rất lớn đến hiệu quả kinh doanhcủa ngành bảo hiểm . Như chúng ta đã biết trước đây ở Việt nam chỉ tồn tại một công ty bảo hiểm, đó là Tổng công ty bảo hiểm Việt nam gọi tắt là BAO VIET. Khi đó khách hàng tham gia bảo hiểm không có cơ hội lựa chọn nơi mình muốn tham gia và việc độc quyền này gây nhiều bất lợi cho khách hàng, tuy nhiên từ cuối năm 1995 đã có sự ra đời của nhiều công ty bảo hiểm nên tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ và kết quả là có nhiều loại hình bảo hiểm mới ra đời và phát triển như bảo hiểm mọi rủi ro về tài sản, tổn thất lợi nhuận, các đơn bảo hiểm toàn diện và trách nhiệm tổng quát. Những mẫu đơn bảo hiểm chuẩn đang được áp dụng trên thị trường bảo hiểm thế giới cũng được giới thiệu trên thị trường bảo hiểm Việt nam. Sự thay đổi nhanh chóng và đáng kể trên tạo nhiều ảnh hưởng tốt, khách hàng tham gia được chăm sóc chu đáo và quyền lợi được thực sự bảo đảm. Nắm bắt được tình hình trên, công ty PTI mới ra đời và triển khai ngay một nghiệp vụ rất mới đó là nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử. Để có thể xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường về nghiệp vụ mới này công ty PTI đã có chiến lược khách hàng là mở rộng địa bàn hoạt động ra hầu hết bưu điện các tỉnh trên cả nước đồng thời đưa ra chính sách khách hàng hợp lí đặc biệt là chính sách khách hàng lớn thể hiện trên các mặt ưu đãi phí bảo hiểm, tiền thưởng không có tổn thất hoặc ít tổn thất, về chi phí đề phòng hạn chế tổn thất, về việc bồi thường.... Thực hiện chiến lược trên và phân công cụ thể cho từng cán bộ quản lí khách hàng, rà soát lại khách hàng trọng điểm, có tiềm năng để tập trung công sức, thường xuyên theo dõi để phản ánh với ban giám đốc nắm được tình hình khách hàng và những thông tin mới của đối tác đưa ra để thâm nhập thị trường. Sau đây là kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT của công ty PTI từ 01 tháng 9 năm 1998 đến 30 tháng 4 năm 1999 Bảng 8: Tình hình khai thác bảo hiểm TBĐT tại công ty PTI Chỉ tiêu Đơn vị 4 tháng cuối năm 1998 4 tháng đầu năm 1999 1.Số đơn bảo hiểm TBĐT Đơn 9 11 2.Số tiền bảo hiểm -Lượng tăng tuyệt đối -Tốc độ phát triển liên hoàn Triệu đồng Triệu đồng._.heo thị trường đối với các thiết bị trên ta có: - Phí đối với EDP : 0,35% - Phí thiết bị văn phòng : 0,7% - Phí viễn thông : 0,40% - Phí thiết bị thông tin liên lạc : 0,6% - Phí thiết bị y tế : 0,75% - Phí thiết bị tự động : 0,45% Từ đây ta có thể tính được tổng số phí tiềm năng thu được từ nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử ở Việt Nam là: Phí tiềm năng = Tổng giá trị lắp đặt x 15% x tỷ lệ phí = 566.090USD (tương đương với 6793.000.000VNĐ) Đến tháng 5/1998 riêng Bảo việt Hà Nội mới khai thác được 578.051.000 VNĐ tức là mới khai thác được 8,5% thị trường (578.051.000/6.793.000.000). Điều này chứng tỏ thị trường bảo hiểm thiết bị điện tử còn bỏ ngỏ do đó công ty PTI cần đưa ra phương án thiết thực để khai thác tối đa tiềm năng thị trường. Phương hướng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử thời gian tới của Công ty PTI: Công ty bảo hiểm PTI đã và sẽ triển khai các sản phẩm sau: máy móc văn phòng, thiết bị xử lý dữ liệu điện tử, các thiết bị truyền thanh truyền hình, các thiết bị viễn thông, các thiết bị kiểm tra đo đạc và tự động, các thiết bị điện tử sử dụng trong y tế, các thiết bị điện tử trong các ngành công nghiệp khác. Sau đây là những phương hướng triển khai của công ty PTI đối với từng loại hình thiết bị này trong tương lai. * Bảo hiểm cho các thiết bị máy tính Theo kinh nghiệm từ nước ngoài về bảo hiểm thiết bị điện tử, việc phát triển sản phẩm qua hệ thống đại lý là các hãng sản xuất và cung cấp thiết bị điện tử là rất quan trọng, ở Việt Nam hiện nay có các đại lý như: FPT, ACER, IBM, Lạc việt... Tất cả các đại lý máy tính trên có thể làm trung gian cho công ty bảo hiểm thu phí và khi có sự có tổn thất xảy ra đối với các thiết bị thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường cho người tham gia thông qua các đại lý này. Nếu làm đựoc điều này thì công ty bảo hiểm PTI sẽ rất nhàn vì mọi công việc liên quan đến người tham gia các đại lý được các đại lý xử lý rồi, đồng thời người được bảo hiểm cũng rất tiện lợi vì chỉ liên hệ với 1 người khi có tổn thất. Hiện nay mặc dù công ty PTI chưa áp dụng được ngay nhưng cần có ý tưởng qua kinh nghiệm từ nước ngoài để phát triển sản phẩm này. * Bảo hiểm các thiết bị văn phòng khác: Có thể ta cũng sẽ khai thác nghiệp vụ thông qua các đại lý cung cấp sản phẩm. Hoặc là sẽ khai thác trực tiếp tại các văn phòng làm việc nước ngoài và các bên liên doanh, nơi có khối lượng thiết bị văn phòng mang giá trị lớn và ý thức bảo hiểm cao. * Các đài truyền hình trung ương và địa phương: Những cơ quan này có khối lượng tài sản thiết bị điện tử lớn, hiện tại công ty PTI mới khai thác đuợc một phần nhỏ. Vì vậy trong thời gian tới cần khai thác tối đa mảng này. Nếu họ đã tham gia theo đơn bảo hiểm cháy thì công ty cần thuyết phục để chuyển dần sang bảo hiểm theo đơn bảo hiểm thiết bị điện tử vì phạm vi bảo hiểm rộng hơn, khách hàng được bảo vệ tốt hơn, về phía công ty cũng tăng doanh thu phí hơn. * Bảo hiểm thiết bị viễn thông, thông tin liên lạc: Hiện nay thiết bị viễn thông và thông tin được đầu tư tăng đáng kể. Vì vậy khai thác được những thiết bị này sẽ là điều kiện tiên quyết cho công ty tăng được thị phần của mình ở nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử. Một trong những thiết bị viễn thông quan trọng nhất ở Việt Nam hiện giờ là hệ thống vệ tinh, do đó công ty PTI cũng đã phối hợp với công ty bảo hiểm Groupama-GAN của Pháp tổ chức hội thảo để triển khai nghiệp vụ này. Ngày 12/5/1999 công ty PTI và đại diện của tổng công ty bưu chính viễn thông (VNPT), VINASAT, Bộ Tài chính và Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE) đã tới dự hội thảo để trao đổi kinh nghiệm và kỹ thuật của nước ngoài trong việc thực hiện bảo hiểm vệ tinh của công ty PTI. II. KIẾN NGHỊ: Nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử là nghiệp vụ hoàn toàn mới mẻ không chỉ đối với người tham gia bảo hiểm mà còn cả đối với cán bộ của công ty PTI. Do đó bước đầu triển khai hoạt động tất nhiên là sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Công ty mới hoạt động được hơn 8 tháng, ở nghiệp vụ này công ty khai thác khá thành công so với toàn bộ các sản phẩm khác của công ty, đem lại được kết quả đáng chú ý, song bên cạnh những thành quả đó vẫn đang tồn tại một số vấn đề, chính nó là những vướng mắc có thể là nguyên nhân cản trở sự phát triển của công ty. Khắc phục những khó khăn ấy có thể giúp công ty phát triển nghiệp vụ này trên thị trường Việt nam một cách mạnh mẽ .Là một sinh viên thực tập tại công ty PTI, sau một thời gian nghiên cứu và tìm hiểu việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử, với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử để hiệu quả kinh doanh ngày càng tốt hơn, em xin đưa ra một số kiến nghị sau : 1-Về công tác khai thác : Để khai thác có hiệu quả công ty nên chú ý vào những vấn đề như : 1.1.Vấn đề tuyên truyền quảng cáo : Tuyên truyền quảng cáo là bộ phận quan trọng của marketing bảo hiểm nhằm giới thiệu rộng rãi hoạt động của các nghiệp vụ bảo hiểm cho khách hàng biết đồng thời làm cho họ thấy lợi ích của việc tham gia các nghiệp vụ bảo hiểm này để từ chỗ bàng quan, do dự chuyển sang quyết định tham gia những nghiệp vụ bảo hiểm mới của công ty như nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử. Để tuyên truyền quảng cáo có hiệu quả cao cần tiến hành có tổ chức, chỉ huy thống nhất, để tránh những thiếu sót, lãng phí có thể xảy ra. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử thì phương tiện quảng cáo có thể là các tờ rơi, tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử, kèm theo Bản câu hỏi kiêm giấy yêu cầu bảo hiểm... Những tài liệu này nên đưa đến tận tay khách hàng để họ tìm hiểu được những ích lợi của việc tham gia. Ngoài việc tuyên truyền quảng cáo và nâng cao uy tín của công ty, bằng mọi cách công ty phải luôn giữ được mối quan hệ gắn bó với các khách hàng truyền thống của công ty như: Bưu điện, Đài truyền hình... và với các chính quyền địa phương để có biện pháp kiên quyết hơn trong việc đôn đốc các đơn vị tham gia bảo hiểm . Một yếu tố nữa tưởng là đơn giản nhưng mang một yếu tố quyết định đến thành công của khâu khai thác là :cán bộ nhân viên đi khai thác không những phải thông thạo về nghiệp vụ mà còn phải có dáng vẻ bề ngoài cân đối, ưa nhìn, nói năng hoạt bát nhanh nhẹn tạo cho khách hàng có cảm tình và cảm giác thoải mái. Nên chăng công ty PTI có những tài trợ cho các sự kiện văn hoá thể thaovà đóng góp xã hội . Những hoạt động này nhằm mục đích không chỉ tạo sự nhân thức về công ty mà còn làm tăng thêm mối thiện cảm của công chúng đối với các sản phẩm của công ty. Thông qua các hoạt động tài trợ, công ty PTI tạo ra mối quan hệ tương hỗ cho môi trường kinh doanh được thuận tiện hơn . Hoạt động tài trợ của công ty nên nhằm vào những chương trình lớn gây tiếng vang tốt, các hoạt động văn hoá thanh niên được quan tâm nhiều hơn vì đây là thế hệ tương lai có nhận thức nhanh chóng . Đồng thời cũng nên tài trợ cho các hoạt động ca nhạc và văn hoá, các sự kiện thể thao và các hoạt động xã hội khác như quĩ học bổng cho học sinh, sinh viên tại cac trường đại học, đóng góp các hoạt động gây quĩ hỗ trợ tài năng trẻ . Hoạt động tài trợ nếu được thực hiện tốt thì chắc chắn nó sẽ là một phần làm cho tên tuổi của công ty PTI được nhiều người biết đến . Đó là phần thưởng từ phía công chúng dành cho công ty PTI mà không phải công ty nào cũng có được. 1.2. Mở rộng đối tượng tham gia Công ty PTI nên có chính sách để mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thiết bị điện tử vì hiện nay số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm hầu hết là nằm trong cổ đông, mà chủ yếu là thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt nam . Chúng ta có thể đồng ý là do mới thành lập nên việc xâm nhập thị trường là điều rất khó khăn, hơn nữa bước đầu chúng ta cần khai thác hết đối tượng tham gia trong cổ đông cũng là một cố gắng lớn rồi. Thực tế là theo như số liệu về đối tượng tham gia bảo hiểm thiết bị điện tử của công ty PTI thì tất cả đều thuộc phạm vi trong cổ đông. Đây là điều dễ hiểu, bởi công ty PTI khi chào hàng các sản phẩm của mình thì ban đầu do công chúng còn chưa hiểu hết tường tận về công ty, nên đối tượng tham gia đa số chỉ thuộc các lĩnh vực mà nằm trong cổ đông như: bảo hiểm thiết bị điện tử thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt nam, bảo hiểm xây dựng lắp đặt thuộc VINACONEX và công ty xây dựng Hà Nội. Tuy nhiên về lâu dài để đạt được mục tiêu lợi nhuận cao và doanh thu lớn thì công ty PTI cần có một chiến lược mở rộng phạm vi kinh doanh của mình. Thật vậy, khi đã có kinh nghiệm và mối quan hệ rộng rãi với khách hàng thì công ty PTI một mặt phải giữ được lượng khách hàng truyền thống đồng thời phải mạnh dạn tấn công vào thị trường tiềm năng nằm ngoài cổ đông của công ty. Muốn làm được điều này thì trước hết công ty PTI phải đủ mạnh về tài chính, uy tín với khách hàng và có đội ngũ nhân viên giỏi, sự phục vụ nhiệt tình, chu đáo khi đó chắc chắn là việc giành được khách hàng từ đối thủ cạnh tranh sẽ không còn khó khăn như hiện nay nữa. Kết quả là thị phần của công ty trên thị trường sẽ được tăng lên và do đó vị thế của công ty ngày càng lớn mạnh đủ tiềm lực để tồn tại và phát triển trong một môi trường mở và cạnh tranh quyết liệt của thị trường bảo hiểm Việt nam. 1.3. Khai thác theo phương thức "vết dầu loang" Trong khâu khai thác, đối với các tổ chức, cơ quan, công ty... thì nên khai thác theo "vết dầu loang". Điều này có nghĩa là khi quan hệ với các tổ chức, cơ quan, công ty... nhân viên khai thác nên tiếp xúc trực tiếp bằng mọi cách khơi dậy nhu cầu mua bảo hiểm ngay từ lãnh đạo tổ chức đó. Và kết quả là khi lãnh đạo đã quyết định mua thì hầu như các tổ chức, cơ quan cấp dưới cũng sẽ mua theo. Công ty PTI cần chú ý đến việc nhắc nhở các nhân viên đi khai thác để không bao giờ được làm phật ý các cán bộ lãnh đạo của các tổ chức cơ quan đó bởi vì khi xảy ra điều này cũng có nghĩa là ta đã bị mất một khách hàng và khó có thể khơi dậy họ tiếp tục tham gia trong tương lai. 1.4. Áp dụng hình thức khuyến mãi: Nên chăng công ty có thể thêm các hình thức khuyến mãi thích hợp đối với các tổ chức, cơ quan có giá trị bảo hiểm lớn đồng thời công ty nên có khoản hoa hồng hợp lí hấp dẫn cho khách hàng,người giới thiệu môi giới dịch vụ để giành khách hàng và giữ mối quan hệ lâu dài .Với các hình thức như vậy có thể khuyến khích người tham gia nhiều hơn tạo cho công ty có được nhiều khách hàng hơn với số tiền bảo hiểm lớn hơn . 1.5. Quản lí hợp đồng Với số lượng hợp đồng ngày một nhiều nhưng ngược lại số lượng cán bộ quản lí hợp đồng như hiện nay chưa tăng thêm nên có những vất vả đối với số cán bộ này. Do đó việc quản lí nhiều lúc chưa khoa học, còn lộn xộn gây ra trở ngại khi truy tìm hợp đồng cần thiết . Các đối tượng tham gia ở các tỉnh xa chưa kịp thời gửi hồ sơ về công ty để đưa vào lưu trữ nhằm tránh tình trạng thất lạc mất mát .Thực tế đã có trường hợp công ty gửi công văn giấy tờ đến các đối tượng tham gia bảo hiểm ở các tỉnh xa thì bị thất lạc do đó gây khó khăn cho cả hai bên trong việc truy cập tài liệu khi cần thiết . Để công tác quản lí hợp đồng được hoàn thiện hơn, đảm đương đúng ý nghĩa của việc quản lí đó thì nhất thiết công ty phải quán triệt được vấn đề này. Có thể nói rằng trong khâu khai thác có nhiều vấn đề cần phải giải quyết và giải quyết bằng nhiều biện pháp khác nhau, điều cơ bản là chúng ta phải biết lựa chọn biện pháp nào thích hợp nhất, phù hợp với tình hình thực tế của công ty đang trong thời kỳ khởi dựng, tránh tình trạng áp dụng nhiều biện pháp phi thực tế đưa đến cho công ty những sai lầm nghiêm trọng mà khó có thể khắc phục được . Trên đây là một số biện pháp trong khâu khai thác với hy vọng có thể đưa đến một tình huống tốt hơn cho công ty nhằm gây uy tín, chiếm lĩnh phần thị trường . 2-Công tác giám định và bồi thường 2.1.Khâu giám định : Thời gian hoạt động của công ty cũng như ở nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử chưa lâu, các tổn thất xảy ra rất ít do đó công việc giám định chưa thực sự trở thành kinh nghiệm, chưa có một phòng riêng biệt để quản lí vấn đề này. Song trong quá trình hoạt động lâu dài, số hợp đồng bảo hiểm thiết bị điện tử tăng lên mà nhất là trong các mùa mưa bão sắp tới thì các rủi ro xảy ra chắc chắn ngày càng nhiều lên và lúc này nảy sinh những tiêu cực từ phía người tham gia nhằm trút hết mọi rủi ro sang cho bảo hiểm thiết bị điện tử. Nếu như công ty không có đội ngũ cán bộ có năng lực, có kinh nghiệm nhằm tìm ra sự thật thì công ty không thể tránh khỏi những khoản chi trả, bồi thường phi lí. Bởi thế khi xét về khía cạnh này công ty nên xây dựng một đội ngũ giám định liêm khiết, làm việc đầy năng lực có thể phát hiện ra được mọi âm mưu, thủ đoạn của người tham gia để tìm ra sự thật, đem lại quyền lợi cho người tham gia và đảm bảo tình hình kinh doanh cho công ty . Trước mỗi đơn bảo hiểm thiết bị điện tử có giá trị lớn công ty cần phải cử cán bộ đi tới đó để làm công tác đánh giá rủi ro từ đó mới biết được các nguy cơ, sự an toàn và trách nhiệm với môi trường và sự đảm bảo. Điều này không những giúp công ty PTI nhận bảo hiểm an toàn, hiệu quả mà thông qua bản báo cáo giám định do các nhân viên điều tra rủi ro soạn thảo, họ có thể nắm vững các hiểm hoạ nội tại của dơn vị rủi ro cũng như những nguy cơ đạo đức có liên quan đến đơn vị rủi ro đó . 2.2.Khâu bồi thường: Công ty phải luôn quan tâm tới khách hàng và thật chu đáo khi giải quyết bồi thường thì mới duy trì được uy tín lâu dài của mình. Làm tốt công tác bồi thường là một biện pháp tuyên truyền quảng cáo hữu hiệu nhất trong hoạt động kinh doanh của công ty. Để làm tốt công tác này yêu cầu phải nhanh chóng trả tiền bồi thường khi tổn thất xảy ra nhằm khắc phục rủi ro cho người tham gia bảo hiểm. Cuối cùng cần giảm bớt các thủ tục giấy tờ, hồ sơ để chống các hiện tượng gây khó khăn cho khách hàng. Nói đến vấn đề này thực ra đã tồn tại ở một số công ty do một số nhân viên đi bán bảo hiểm, khi thu phí bảo hiểm thì cực kỳ chu đáo, niềm nở song đến khi khách hàng vì một lí do nào đó về tài chính mà người ta không thể tham gia được nữa hoặc giải quyết bồi thường cho họ tỏ ra những thái độ không nhiệt tình, chu đáo khiến cho khách hàng có ấn tượng không tốt từ đó uy tín của công ty đối với họ hoàn toàn không còn nữa và sẽ kéo theo rất nhiều khách hàng trước đây rất muốn tham gia bảo hiểm ở công ty PTI thấy được điều đó cũng chán nản, điều này ảnh hưởng tới việc mở rộng đối tượng tham gia trong tương lai. Đặc biệt trong vấn đề này ta nên chú trọng hơn nữa về việc giải quyết quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng tránh gây khó dễ cho người ta, mà phải làm sao cho việc giải quyết quyền lợi giống như khi ta thu phí khai thác phải chu đáo niềm nở mới có cơ hội tốt cho công ty trong tương lai. 3. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất Đề phòng và hạn chế tổn thất không chỉ là trách nhiệm mà còn là quyền lợi của công ty PTI. Nếu làm tốt khâu này, số vụ tổn thất sẽ giảm đi và do đó giảm được số tiền chi trả bồi thường cho các đối tượng tham gia bảo hiểm thiết bị điện tử. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử, công ty PTI đã thực hiện công tác đề phòng và hạn chế tổn thất ngay từ khi mới triển khai nghiệp vụ. Tuy nhiên do mới triển khai nên còn có nhiều vấn đề chưa làm được đầy đủ và triệt để. Vì vậy theo kinh nghiệm của nước ngoài có một số biện pháp để đề phòng và hạn chế tổn thất tốt hơn là: - Phải thông báo và hỗ trợ cho người tham gia bảo hiểm về các điều kiện an toàn như thiết bị chống sét, chống cháy và điều kiện môi trường xung quanh nơi đặt các thiết bị điện tử. - Khi có sự cố xảy ra cần có cách sơ cứu kịp thời sau mỗi loại tổn thất : * Đối với thiệt hại do cháy cần phải : - Giảm độ ẩm trong phòng xuống dưới 40% - Di chuyển phần ẩm ướt bên trông và mang chúng ra khỏi phòng - Di chuyển thiết bị điện tử ra khỏi môi trường cháy tới một phòng chứa thích hợp. - Không được khởi động lại thiết bị . - Không được bật bất cứ máy điều hoà hoặc quạt ở vùng vừa cháy . * Đối với thiệt hại do nước cần phải : - Ngay lập tức tắt thiết bị điện tử (nguồn cung cấp ,ắc qui) - Mang thiết bị tới vùng khô - Giảm độ ẩm xuống dưới 40% hoặc dùng máy hút ẩm . - Làm khô thiết bị với nhiệt độ tối đa là 500C -Không được khởi động lại thiết bị điện tử chờ đến khi có chuyên gia đã kiểm tra . * Đối với thiệt hại do bụi công nghiệp : - Ngay lập tức tắt thiết bị nhạy cảm về bụi - Tránh xa hoạt động thiết bị với bụi - Loại bỏ nguồn bụi - Thay đổi máy lọc không khí . Tóm lại, dù thực hiện việc đề phòng và hạn chế tổn thất theo phương pháp nào đi chăng nữa thì hàng năm công ty cần phải chi ra một khoản tiền thích hợp trong tổng số phí bảo hiểm thu được. Các biện pháp này sẽ hạn chế mức độ của tổn thất và giảm bớt thời gian ngừng việc . 4-Công tác tổ chức cán bộ và đào tạo Hiện nay trình độ của cán bộ cần được nâng cao bởi vì trước tình hình thị trường bảo hiểm Việt nam ngày càng phát triển việc bổ xung thêm cán bộ ,đào tạo, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn là điều hết sức cần thiết như vậy mới hy vọng chống chọi đối với đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa đối với nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử là một loại hình bảo hiểm kĩ thuật nên ngoài kiến thức chuyên môn về bảo hiểm, cán bộ nhân viên phụ trách nghiệp vụ này còn phải hiểu biết rõ về thiết bị điện tử nếu không muốn nói là chủ yếu am hiểu về các biện pháo sơ cứu sau khi hoả hoạn, lũ lụt... Nếu như cán bộ giỏi về nghiệp vụ thì chẳng những thực hiện một cách nhanh chóng, trôi chảy mà còn khi khách hàng thắc mắc, yêu cầu giải thích cán bộ có thể giải đáp một cách rõ ràng dễ hiểu tạo niềm tin cho khách hàng. Mặt khác, có nghiệp vụ giỏi, có trình độ ngoại ngữ thông thạo thì công ty mới dễ dàng thâm nhập thị trường nhanh chóng, trực tiếp đỡ tốn kém, không phải thông qua con đường môi giới. Mặt khác, như đã trình bày ở phần trên công ty bảo hiểm Bưu Điện là một công ty mới triển khai hoạt động, do vậy để phù hợp với mục tiêu phát triển lâu dài và tạo thêm lợi thế cạnh tranh, công ty bảo hiểm Bưu Điện cần phải quan tâm đến vấn đề đào tạo và tuyển dụng đội ngũ nhân viên. Trong thời đại ngày nay, sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ làm thay đổi đặc trưng của lao động, mỗi một nhân viên, cán bộ cần phải được cập nhật thêm thông tin mới nhất để làm chủ được tình hình, luôn sáng suốt trong kinh doanh và nhìn nhận được mục tiêu của công ty ở hiện tại cũng như trong tương lai. Khi công ty nguồn nhân lực tinh thông về nghiệp vụ, linh hoạt trong kinh doanh luôn tạo được niềm tin cho khách hàng thì nhất định yếu tố vô hình này sẽ làm nên được lợi thế cạnh tranh vững chắc cho công ty . Tuy nhiên, không phải cứ đưa ra nội dung của việc đào tạo, tuyển dụng mà công ty sẽ có được những cánh tay đắc lực cho mình, mà công ty bảo hiểm Bưu Điện cần phải xây dựng một chính sách tuyển dụng mới ngay từ đầu, thu hút những cán bộ trẻ đã được đào tạo ở các trường đại học có chất lượng tốt, mặt khác, phải khuyến khích học tập để giúp đỡ những cán bộ quản lí có năng lực thường xuyên được bổ xung thêm kiến thức lí luận kết hợp với thực tiễn thông qua các buổi hội thảo giữa công ty và các đối tác nước ngoài để học hỏi thêm được những kinh nghiệm kinh doanh của họ. Đồng thời các nhân viên trong công ty cũng cần phải cử đi học các khoá học ngắn hạn ở các trường đại học trong và ngoài nước. Đối với cán bộ giám định ở nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử, đây là nghiệp vụ còn mới mẻ, bởi vậy công ty có thể tuyển dụng cán bộ kỹ thuật đã được đào tạo chuyên ngành hoặc là trước mắt để giảm bớt chi phí quản lí chúng ta có thể thuê giám định từ bên ngoài cho đỡ tốn kém. Nhưng về lâu dài để cho khách hàng tin tưởng vào sự vững mạnh của công ty và chất lượng sản phẩm được nâng cao công ty bảo hiểm Bưu Điện nên có một đội ngũ giám định trung thực và giỏi về chuyên môn. Đối với việc sắp xếp cán bộ, công ty bảo hiểm Bưu Điện cần chú ý tới đội ngũ trẻ có năng lực, mạnh dạn sắp xếp họ vào các vị trí quản lí. Về tuyển dụng nhân viên mới, công ty bảo hiểm Bưu Điện kiên quyết phải thông qua thi tuyển. Đồng thời, công ty PTI cũng chú ý tới việc thu hút nhân tài từ công ty bảo hiểm khác vì một lí do nào đó muốn chuyển về công ty bảo hiểm Bưu Điện. 5. Công tác tài chính, kế toán, tin học và quản trị : Công ty PTI mới thành lập do đó có những khoản chi tiêu có phần chưa hợp lí do vậy công ty cần kịp thời điều chỉnh lại cho phù hợp với tình hình thực tế.Công ty tăng cường công tác tiêu chuẩn hoá chi phí ,công tác kiểm toán nội bộ nâng cao hiệu quả kinh doanh, định kỳ hàng tuần kiểm tra tình hình sử dụng hoá đơn, hàng tháng kiểm tra kế hoạch thu phí của cán bộ khai thác. Bên cạnh đó thì cán bộ tin học đang thiếu người, thực tế là các cán bộ nhân viên trong công ty kiêm luôn cả chức năng về tin học trong công việc của mình, điều này tiết kiệm được chi phí tuy nhiên đôi lúc cũng rất cần những nhân viên có trình độ chuyên môn về tin học giỏi để giải quyết những việc phức tạp mà công việc trong công ty đòi hỏi. Trước ttình hình mới này thì công tác tài chính kế toán, tin học và quản trị cũng cần được hoàn thiện, đổi mới và nâng cấp hơn nữa thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu. Cụ thể là công ty cần kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn các phòng ban, đại lý về việc thực hiện chi tiêu, các chế độ chi hoa hồng đối với các đại lý, lập kế hoạch và làm báo cáo quyết toán. Đồng thời công ty cũng nên tăng cường thêm cán bộ tin học có trình độ cao để đáp ứng nhu cầu quản lý của công ty. 6. Phí bảo hiểm Trong bảo hiểm, phí bảo hiểm luôn là vấn đề nhạy cảm đối với cơ chế thị trường, một tỉ lệ phí bảo hiểm thích hợp vừa bảo đảm quyền lợi cho công ty bảo hiểm vừa có thể thu hút được sự tham gia đông đảo của khách hàng. Phí bảo hiểm do người được bảo hiểm đóng chính là sự đóng góp của người được bảo hiểm vào quỹ chung để chia xẻ rủi ro. Sự đóng góp này cần phải công bằng và phải phản ánh được mức độ nguy cơ rủi ro mà người được bảo hiểm mang đến cho quỹ chung. Nói cách khác, phí bảo hiểm phải đủ để: * Bồi thường các khiếu nại dự tính trong suốt thời gian bảo hiểm Công ty PTI cần có nhiệm vụ ước tính mức độ bồi thường có thể phát sinh. Không thể đưa ra con số chính xác về số tiền sẽ thanh toán cho các khiếu nại nhưng nhờ những số liệu liên quan, công ty bảo hiểm PTI có thể đánh giá tương đối chính xác chi phí bồi thường. * Ước tính về khiếu nại chưa giải quyết Không phải là mọi khiếu nại đều được giải quyết trong năm thanh toán phí bảo hiểm. Vì vậy, phí bảo hiểm cũng cần tính đến những khiếu nại sẽ được giải quyết vào cuối năm do đó Công ty PTI cần lưu ý đến điều này khi tính phí. * Cung cấp một khoản dự phòng Công ty PTI cũng phải tính đến trường hợp ngẫu nhiên ngoài tầm kiểm soát và có liên quan đến trách nhiệm của công ty đối với việc đáp ứng các khiếu nại ở một thời điểm nào đó trong tương lai. Để giải quyết vấn đề này, công ty PTI phải trích nộp những khoản dự phòng. * Bù đắp chi phí hoạt động kinh doanh Công ty PTI phải chi một số tiền nhất định cho các hoạt động kinh doanh, bao gồm: - Lương của nhân viên - Chi phí văn phòng dưới mọi hình thức - Chi phí quảng cáo - Chi hoa hồng Phí bảo hiểm thu được từ mỗi hợp đồng bảo hiểm phải đủ để đáp ứng cho các chi phí hoạt động này. * Đem lại lợi nhuận Công ty PTI cũng phải bảo đảm rằng phí bảo hiểm phải đem lại một khoản lợi nhuận hợp lý. Ngoài ra công ty còn phải chịu trách nhiệm giữa các cổ đông và phải tạo ra một khoản lợi nhuận hợp lý cho việc đầu tư của các cổ đông vào công ty. Tuy nhiên, để có được mức phí bảo hiểm đưa ra cho khách hàng, không chỉ đơn thuần là việc tính phí bảo hiểm chính xác bằng một công thức toán học, mà còn phải cân nhắc tới cả những yếu tố thương mại. Bao gồm: * Lạm phát: Công ty PTI cần nhận thức rõ ràng, giá trị của đồng tiền luôn thay đổi, phí bảo hiểm thu ngày hôm nay sẽ được sử dụng để bồi thường khiếu nại xảy ra trong tương lai. Điều này có nghĩa là chi phí giải quyết khiếu nại có thể tăng không phải do sự gia tăng khiếu naị mà đơn giản chỉ là do giá trị đồng tiền giảm xuống, do vậy công ty PTI cũng không thể bỏ qua yếu tố này khi tính phí bảo hiểm. * Lãi suất: Công ty PTI là người đầu tư quỹ. Những quỹ này cũng tạo ra thu nhập đầu tư đáng kể nuôi sống công ty. Sự thay đổi trong lãi suất cũng cần được chú ý khi tính phí bảo hiểm. * Cạnh tranh: Yếu tố thương mại cuối cùng là cạnh tranh. Không phải trên thị trường chỉ có duy nhất một công ty bảo hiểm, do đó cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt. Việc tính phí bảo hiểm quá cao có thể dẫn đến mất dịch vụ nhưng nếu tính phí bảo hiểm quá thấp sẽ dẫn đến thua lỗ. Nên chăng công ty cần tiết kiệm các chi phí trong cơ cấu chi. Đặc biệt là chi bồi thường, nếu công ty luôn có ý thức xây dựng tốt các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất cho khách hàng đồng thời khi tổn thất xảy ra cần có biện pháp sơ cứu kịp thời nhằm giảm bớt thiệt hại tối đa thì chắc chắn rằng tổng chi sẽ giảm xuống và do đó công ty đã thu hút thêm một lượng khách hàng đáng kể từ phía đối thủ cạnh tranh và khách hàng tiềm năng nhờ việc chào phí với một mức phí mềm hơn so với các công ty khác hoạt động trên lĩnh vực này. 7. Hoàn chỉnh môi trường pháp lí trong lĩnh vực bảo hiểm Sắp tới chúng ta sẽ phải mở cửa cho các công ty bảo hiểm nước ngoài vào Việt Nam kinh doanh để phù hợp với xu thế toàn cầu hoá, hợp tác hoá. Việc phát triển một thị trường mở trong lĩnh vực bảo hiểm là rất cần thiết vì nó làm lợi cho người tiêu dùng và đạt được tính cạnh tranh trong cuộc ganh đua toàn cầu. Thật vậy, một trong những điều lo ngại lớn nhất của thị trường trong nước là sự mở cửa biên giới cho các công ty nước ngoài. Thậm chí nếu các công ty đó phải chịu cùng một luật lệ pháp lí, các nhà bảo hiểm trong nước thường thấy đó là không công bằng khi sự bước vào của các công ty nước ngoài làm tổn hại những lợi ích của nhiều năm lao động cần cù, cần có để phát triển thị trường bảo hiểm trong nước, sự cạnh tranh ngoài nước đến từ Nhật bản hay Mỹ hoặc các nước phát triển khác làm kinh hãi thị trường trong nước. Sự cạnh tranh đó thể hiện trên các mặt : -Về định phí : phí thực thu có xu hướng thấp . -Về sản phẩm : nhiều sản phẩm mới ra đời đáp ứng được nhu cầu mới nhất của người tiêu dùng . -Về sự phục vụ: càng ngày các công ty bảo hiểm càng nhấn mạnh và quan tâm đến sự phục vụ đối với khách hàng. Các công ty bảo hiểm trong tương lai để cạnh tranh được sẽ cực kỳ gần gũi với khách hàngvà sự phục vụ sẽ là hàng đầu. - Về độ an toàn: sức mạnh tài chính của một công ty bảo hiểm cùng với sự bảo hộ của tái bảo hiểm sẽ làm cho các công ty đủ khả năng cạnh tranh. Cạnh tranh là xu thế tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Hiện nay, trong lĩnh vực bảo hiểm ngoài sự ra đời một số công ty bảo hiểm mới như: PVIC, PJCO, BAOMINH, BAOLONG... còn có gần 40 văn phòng đại diện thuộc nhiều nước khác nhau như: Mỹ, Anh, Pháp, Nhật bản, Đức... Để đảm bảo công bằng trong cạnh tranh và cạnh tranh lành mạnh, cần phải có những văn bản pháp qui, nhưng hiện nay VIệt nam vẫn chưa ban hành luật về bảo hiểm . Vì vậy nhà nước sớm ban hành đạo luật về bảo hiểm sẽ làm nền tảng cho các quan hệ pháp lí trong lĩnh vực bảo hiểm để các công ty bảo hiểm trong nước đi vào hoạt động đúng hướng và tạo ra sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển chung và còn là cơ sở pháp lí ổn định để các đối tác nước ngoài tích cực triển khai hoạt động ở Việt Nam. KẾT LUẬN Nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT là lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ. Bởi thế bước đầu hoạt động công ty không thể không tránh khổi những khó khăn về nhiều mặt .Trong quá trình triển khai với một khoảng thời gian quá ngắn chưa đủ cho các cán bộ hân viên của công ty có được bề dầy kinh nghiệp nhưng thành quả mà công ty đã đạt được trong ngần ấy thời gian đã chứng minh cho ta thấy lòng nhiệt tình và đầy sáng tạo của mỗi thành viên trong công ty ,sự cần thiết và chấp nhận của thị trường đối với nghiệp vụ này . MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU 1 PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM TBĐT 2 A> Khái niệm chung về bảo hiểm TBĐT 2 1. Sự cần thiết của bảo hiểm TBĐT 2 a. Khái niệm về TBĐT 2 b. Sự cần thiết của bảo hiểm TBĐT 3 c. Vai trò và tác dụng của bảo hiểm thiết bị điện tử 5 2. Lịch sử phát triển của bảo hiểm TBĐT 6 a. Khái quát về lịch sử bảo hiểm kỹ thuật 6 b. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm TBĐT 7 3.Một số điều kiện thuận lợi của Việt nam trong việc hình thành và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT 9 a.Điều kiện về kinh tế 9 b.Điều kiện về dân số 10 c.Điều kiện về pháp lí 11 B.Nội dung chủ yếu của nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT 12 I-Đối tượng và phạm vị bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT 12 1.Đối tượng bảo hiểm 12 2.Phạm vi bảo hiểm 13 II-Rủi ro bảo hiểm và những điểm loại trừ 14 1.Rủi ro bảo hiểm 14 2. Những điểm loại trừ 15 III-Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm 18 1.Số tiền bảo hiểm 18 a.Đối với thiệt hại vật chất 19 b.Đối với thiệt hại về lưu trữ dữ liệu bên ngoài 19 c.Đối với chi phí gia tăng 19 2.Phương pháp tính phí và nguyên tắc tính phí 20 3.Điều chỉnh số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm 25 4. Mức khấu trừ 26 5. Phí bảo hiểm tối thiểu cho mỗi đơn bảo hiểm 27 IV-Hợp đồng bảo hiểm TBĐT 27 1.Giấy yêu cầu bảo hiểm 27 2.Điều khoản của hợp đồng bảo hiểm 27 V-Tái bảo hiểm trong bảo hiểm TBĐT 32 PHẦN II- THỰC TẾ TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TBĐT TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM BƯU ĐIỆN(PTI) 33 I-Vài nét sơ lược về quá trình hình thànhvà phát triển công ty PTI 33 II-Kết quả kinh doanh của công ty PTI ở nghiệp vụ bảo hiểm TBĐT 34 PHẦN III: MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ Ở CÔNG TY PTI 54 I/ Triển vọng về thị trường điện tử tin học và phương hướng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử của Công ty bảo hiểm bưu điện 54 II/ Kiến nghị 60 1. Về công tác khai thác 60 1.1. Vấn đề tuyên truyền quảng cáo 60 1.2. Mở rộng đối tượng tham gia 61 1.3. Khai thác theo phương thức "vết dầu loang" 62 1.4. Áp dụng hình thức khuyến mãi 63 1.5. Quản lý hợp đồng 63 2. Công tác giám định và bồi thường 63 2.1. Khâu giám định 63 2.2. Khâu bồi thường 64 3. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất 65 4. Công tác tổ chức cán bộ và đào tạo 66 5. Công tác tài chính kế toán, tin học và quản trị 68 6. Phí bảo hiểm 68 7. Hoàn chỉnh môi trường pháp lý trong lĩnh vực bảo hiểm 71 KẾT LUẬN 73 PHỤ LỤC 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO 81 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3856.doc