MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lý xã hội bằng pháp luật là phương thức quản lý cơ bản của hầu hết các nhà nước đương đại trên thế giới. Để quản lý xã hội, đòi hỏi mỗi nhà nước phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhưng điều đó vẫn chưa đủ, vấn đề quan trọng hơn là tổ chức thực hiện như thế nào để pháp luật đó đi vào cuộc sống thực tiễn, để những quy định của nhà nước được thực thi trong thực tế nhằm ổn định và phát triển xã h
118 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1450 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội theo định hướng của giai cấp cầm quyền.
Ở nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những mặt hạn chế, yếu kém: Việc triển khai thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa tốt; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm, tình trạng thiếu hiểu biết pháp luật, coi thường pháp luật, vi phạm pháp luật... là một trong những nguyên nhân dẫn đến những khuyết điểm, yếu kém trong thời gian qua. Do đó, việc đề cao pháp luật, tôn trọng tính tối cao của pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm túc là một yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Giáo dục và đào tạo là nền tảng phát triển của mọi quốc gia. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước ta đã có những mặt tiến bộ, nhất là từ khi có Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và Luật Giáo dục (năm 1998) đã thực sự coi phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển, cho nên hệ thống giáo dục quốc dân đã được xây dựng ngày càng hoàn chỉnh, góp phần vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh những thành tựu đó, giáo dục và đào tạo nước ta còn nhiều mặt yếu kém, bất cập, chưa đáp ứng kịp thời những đòi hỏi to lớn ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Hòa nhịp với tiến trình đổi mới của đất nước, cũng như các tỉnh, thành phố khác trong cả nước, tỉnh Bình Định đã ra sức phấn đấu và đạt được những thành tựu trên các mặt của đời sống xã hội. Riêng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo đã có những bước phát triển: Quy mô trường lớp tiếp tục tăng, mạng lưới trường lớp phát triển rộng khắp đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân. Trình độ dân trí được nâng lên rõ rệt, chất lượng và hiệu quả giáo dục đã có những chuyển biến tích cực. Chính quyền các cấp ở tỉnh Bình Định đã tăng ngân sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo, đồng thời huy động nhiều nguồn vốn trong xã hội để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật nhà trường đảm bảo cho việc giảng dạy và học tập. Chủ trương xã hội hóa bước đầu có tác dụng, làm cho giáo dục và đào tạo thực sự là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Công tác thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định đã đạt được nhiều kết quả trên cả ba phương diện: tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo.
Tuy nhiên, vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định cũng còn những khiếm khuyết và yếu kém, dẫn đến tình trạng chất lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp; những biểu hiện tiêu cực, thiếu kỷ cương trong giáo dục chưa ngăn chặn kịp thời; công tác quản lý đối với giáo dục và đào tạo còn có những biểu hiện tùy tiện chưa tuân thủ pháp luật...nên có ảnh hưởng đến yêu cầu ổn định, phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh nhà.
Với những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài: “Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định hiện nay ” là vấn đề cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta trong những năm gần đây, vấn đề thực hiện pháp luật đang được đặt ra và là nhiệm vụ cấp bách của các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Thực hiện pháp luật trên một số lĩnh vực đã có những công trình nghiên cứu như:
- “Thực hiện pháp luật trong hoạt động của lực lượng Công an nhân dân để bảo vệ trật tự, an toàn xã hội ở nước ta hiện nay ”, Luận án phó tiến sĩ Luật học của Đỗ Tiến Triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1996.
- “Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở ở tỉnh Bình Thuận hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ Luật học của Lê Trung Quân, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2004.
Riêng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau như:
- “Tiếp tục đổi mới và phát triển giáo dục-đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX ”, của GS.VS. Phạm Minh Hạc, Tạp chí Giáo dục số 10, tháng 8-2001.
- “Ngành giáo dục-đào tạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và triển khai Nghị quyết Đại hội IX ” của Nguyễn Minh Hiển, Tạp chí Cộng sản số 22, tháng 8-2002.
- “Khái niệm giáo dục và vai trò quan trọng của giáo dục qua các thời kỳ lịch sử ” của Nguyễn Đăng Tiến, Tạp chí Giáo dục, số 36, tháng 8-2002.
- “Nỗ lực phấn đấu toàn diện làm cho giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu ” của Nguyễn Khoa Điềm, Tạp chí Giáo dục, số 38, tháng 9-2002.
- “Tổ chức thực hiện chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 ” của Tiến sĩ Phạm Văn Kha, Tạp chí Giáo dục, số 53, tháng 3-2003.
- “Một số vấn đề cơ bản cần quan tâm khi triển khai đổi mới giáo dục bậc tiểu học ” của Đặng Huỳnh Mai, Tạp chí Giáo dục, số 54, tháng 3/2003.
- “Nhận diện một số khó khăn trong quản lý nhà nước đối với giáo dục ở nước ta hiện nay ” của PGS.TS. Đặng Quốc Bảo, Tạp chí Giáo dục số 66, tháng 9-2003.
- “Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục-chính sách và các mô hình ” của PGS.TS.Trần Khánh Đức, Tạp chí Giáo dục số 67, tháng 9-2003.
- “Về phát triển sự nghiệp giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, các lĩnh vực văn hóa-xã hội ”, Tạp chí Giáo dục, số 81, tháng 3-2004.
- “Một số vấn đề về hoàn thiện Luật Giáo dục ” của PGS.TS Chu Hồng Thanh, Tạp chí Quản lý nhà nước, số tháng 11-2004.
- “Hoàn thiện pháp luật về giáo dục ở Việt Nam hiện nay ” của Lê Thị Kim Dung, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2004.
Các công trình nghiên cứu trên đây chủ yếu tập trung vào các vấn đề về: chính sách hoàn thiện hệ thống giáo dục và đào tạo; chính sách nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo; nghiên cứu lý luận và thực tiễn để xác định phương hướng và nội dung hoàn thiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở Việt Nam... Đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo. Vì vậy, luận văn là công trình đầu tiên thực hiện đề tài này trong phạm vi một địa phương. Tuy vậy, các công trình nghiên cứu nêu trên là nguồn tài liệu quý giá để tác giả tham khảo trong việc thực hiện đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo với tư cách là những phương thức để đưa pháp luật về giáo dục và đào tạo vào cuộc sống thực tiễn, là biện pháp cơ bản để thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo mà Đảng và Nhà nước đề ra, góp phần phòng ngừa, hạn chế các vi phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo nói chung và ở tỉnh Bình Định nói riêng.
- Luận cứ sự cần thiết phải đảm bảo vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo trong phạm vi cả nước nói chung và ở tỉnh Bình Định nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định bao gồm cả những mặt đã làm được, những mặt chưa làm được, xác định nguyên nhân của những kết quả đạt được và những hạn chế, thiếu sót, từ đó rút rút ra những kinh nghiệm thực tiễn.
- Trên cơ sở thực trạng thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định, cùng với những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, luận văn bước đầu xây dựng các giải pháp nhằm góp phần bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là vấn đề rộng và được thông qua các hình thức: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo. Nhưng chủ yếu vẫn là hình thức thi hành (chấp hành) pháp luật và áp dụng pháp luật, do đó thi hành pháp luật và áp dụng pháp luật được xác định là đối tượng nghiên cứu chính của luận văn.
Phạm vi vấn đề nghiên cứu chủ yếu tập trung làm rõ việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo về các nội dung: Tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo.
Trọng tâm của luận văn giới hạn nghiên cứu tình hình thực hiện pháp luật ở tỉnh Bình Định từ khi Nhà nước ban hành Luật Giáo dục (năm 1998) cho đến trước khi Quốc hội thông qua Luật Giáo dục (sửa đổi, bổ sung).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; bám sát đường lối, chủ trương của Đảng về thực hiện pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa gắn với việc quản lý xã hội bằng pháp luật nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin theo quan điểm phát triển, toàn diện, lịch sử, cụ thể. Ngoài ra luận văn còn kết hợp các phương pháp như: lôgíc, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở một địa phương cụ thể. Vì vậy, có thể coi những vấn đề sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn:
- Xây dựng khái niệm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo.
- Khái quát được những đặc thù của việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định trên các mặt tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo. Từ đó luận văn đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định.
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Thông qua việc làm rõ thực trạng của vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định - kết quả đã đạt được và những hạn chế, bất cập. Từ đó khẳng định nhu cầu thực tiễn của việc bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định.
Khẳng định, củng cố nhận thức về vị trí, vai trò và ý nghĩa của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo trong việc phát huy tính tích cực, chủ động trong thực hiện pháp luật, phòng ngừa và giảm thiểu các vi phạm pháp luật để phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo, từ đó làm phong phú thêm lý luận chung về Nhà nước và pháp luật. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho cấp ủy và chính quyền của tỉnh Bình Định trong việc xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo của Sở Giáo dục-Đào tạo của tỉnh trong việc nghiên cứu và chỉ đạo các hoạt động về giáo dục-đào tạo trong phạm vi tỉnh Bình Định.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1.1. QUAN NIỆM VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
Để quản lý xã hội, quản lý nhà nước trước hết nhà nước phải quan tâm xây dựng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm đảm bảo lợi ích của nhân dân, lợi ích của Nhà nước. Mục đích đó chỉ có thể đạt được khi mà các chủ thể tự giác thực hiện một cách nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật. Pháp luật vớiăt cách là những qui tắ xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận không chỉ thể hện ý nghĩa quan trọng của nó bằng các văn bản qui phạm pháp luật, mà vấn đề quan trọng hơn là “Pháp luật phải trở thành chế độ pháp chế, được thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân; trở thành phương thức quản lý xã hội, quản lý nhà nước; cơ sở cho sự tự quản xã hội, cho tổ chức đời sống xã hội ” [89, tr.225].
Với ý nghĩa thiết thực đó, vấn đề thực hiện pháp luật có vị trí, vai trò quan trọng trong quá trình đưa pháp luật đi vào cuộc sống.
Khái niệm thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là hoạt động tiếp nối sau khi văn bản pháp luật được ban hành nhằm làm cho các qui định của pháp luật đi vào cuộc sống và trở thành qui tắc xử sự của các chủ thể pháp luật.
Hiện nay đang có những định nghĩa khác nhau về thực hiện pháp luật.
Theo tài liệu học tập và nghiên cứu môn Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa Nhà nước và pháp luật thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, thực hiện pháp luật được hiểu là “quá trình hoạt động có mục đích làm cho những qui định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [42, tr.270].
Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa Luật- Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội thì: “Thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật ” [23, tr.369].
Theo giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội thì: “Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật ”[21, tr. 463].
Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Học viện Hành chính Quốc gia thì: “Thực hiện pháp luật là hoạt động, là quá trình làm cho những quy tắc của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [38, tr.344].
Có thể nhận xét rằng, các định nghĩa trên đều có quan niệm tương đối đồng nhất về những nội dung cơ bản, đó là: Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm thực hiện những yêu cầu của pháp luật, thực hiện pháp luật là hoạt động thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống. Tuy nhiên, cũng có sự khác nhau trong các định nghĩa trên. Có định nghĩa nêu thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động, các định nghĩa khác lại chỉ nêu thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình.
Theo chúng tôi, hiện tượng, quá trình hay quá trình hoạt động đều là những phạm trù có nội hàm riêng của nó nhưng có cùng mục đích là thực hiện những quy định của pháp luật, làm cho những quy định ấy trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật, đáp ứng yêu cầu đặt ra của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, hoạt động thực hiện pháp luật không chỉ là những hành vi đơn lẻ, độc lập, cắt khúc mà nó luôn luôn là một quá trình. Vì vậy, về khái niệm thực hiện pháp luật chúng tôi đồng ý với nội dung cơ bản trong các định nghĩa nêu trên và sắp xếp lại như sau:
Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các qui định của pháp luật trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật và được thực hiện trong thực tế cuộc sống.
1.1.2. Hình thức thực hiện pháp luật
Trong xã hội tồn tại rất nhiều quan hệ xã hội khác nhau, vì vậy các qui phạm pháp luật rất phong phú, đồng thời chúng cũng xác định quyền, nghĩa vụ thực hiện đối với các chủ thể khác nhau, vì thế hình thức thực hiện chúng cũng rất đa dạng. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, theo tài liệu học tập và nghiên cứu môn học Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật (tập1) của Khoa Nhà nước và pháp luật thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa Luật Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội đều cho rằng có bốn hình thức thực hiện pháp luật nhằm mục đích chuyển tải các qui phạm pháp luật vào cuộc sống thực tiễn, đó là:
Tuân theo (tuân thủ) pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hành động mà pháp luật ngăn cấm. Những qui phạm pháp luật cấm trong luật hình sự, luật hành chính... được thực hiện dưới hình thức này. Ví dụ: Một công dân kiềm chế không thực hiện những hành vi mà Luật Hình sự ngăn cấm, tức là công dân đó đã tuân thủ các quy định của Luật Hình sự.
Thi hành (chấp hành) pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Những qui phạm pháp luật bắt buộc (những quy định nghĩa vụ phải thực hiện những hành vi tích cực nhất định) được thực hiện ở hình thức này. Ví dụ: Công dân chấp hành tốt nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc với hành động dũng cảm và tinh thần hy sinh quên mình.
Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép). Hình thức này khác với hình thức tuân thủ pháp luật và thi hành pháp luật ở chỗ chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, mà không bị bắt buộc phải thực hiện. Ví dụ: Pháp luật qui định công dân có quyền kết hôn. Trên thực tế, công dân có thể kết hôn (hoặc không kết hôn). Như vậy công dân đó đã sử dụng (hoặc không sử dụng) pháp luật (quyền được kết hôn).
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt, luôn gắn với công quyền, vì nó chỉ được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền. Bằng hoạt động này, các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách đã cá biệt hoá các qui định của pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các đối tượng cụ thể làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật.. Ví dụ: Luật Hôn nhân và gia đình qui định: việc kết hôn phải được đăng ký tại Uỷ ban nhân dân cấp xã. Như vậy khi Uỷ ban nhân dân cấp giấy đăng ký kết hôn cho công dân, tức là Uỷ ban nhân dân đã thay mặt nhà nước áp dụng các qui định của Luật Hôn nhân và gia đình vào một trường hợp cụ thể. Bằng hoạt động này, đã làm phát sinh quan hệ pháp luật về hôn nhân và gia đình cho đối tượng xin đăng ký kết hôn.
Như vậy, thực hiện pháp luật được thực hiện thông qua bốn hình thức: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Trong đó, hình thức áp dụng pháp luật có sự khác biệt với các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật. Sự khác biệt này thể hiện ở chỗ, nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức mà mọi chủ thể thực hiện pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật là hình thức luôn luôn có sự tham gia của nhà nước (thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền).
1.1.3. Vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật
Một yêu cầu quan trọng đặt ra đối với việc xây dựng pháp luật của Nhà nước ta là pháp luật phải là cơ sở của việc tổ chức và hoạt động của nhà nước, pháp luật phải là công cụ gìn giữ trật tự, kỷ cương xã hội, là phương tiện xử sự của mọi công dân. Đường lối, quan điểm của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước, nhu cầu khách quan của đời sống xã hội phải được phản ánh thông qua hệ thống pháp luật.
Quản lý xã hội bằng pháp luật không đơn giản chỉ dừng lại ở việc nhà nước xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đầy đủ, điều quan trọng hơn cả là pháp luật của nhà nước phải được mọi thành viên trong xã hội tôn trọng và chấp hành một cách nghiêm chỉnh và triệt để, pháp luật phải đi vào cuộc sống, phải biến thành hành động của mọi công dân, mọi tổ chức trong xã hội.
Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đầy đủ cũng chưa có thể nói lên điều gì, vì “pháp luật ở trạng thái đó vẫn là trạng thái “tĩnh” nó có thể tác động đến trật tự pháp luật, thúc đẩy quá trình phát triển của các quan hệ xã hội nhưng mức độ rất hạn chế và chủ yếu mới chỉ là thông qua ý thức pháp luật của công dân ở một bộ phận không đáng kể” [89, tr.225]. Pháp luật chỉ có thể phát huy hết tác dụng và có ý nghĩa thực sự khi nó được tổ chức thực hiện tốt trong đời sống xã hội, tức là khi các qui định của pháp luật trở thành những hành vi, cách xử sự thực tế của các cá nhân, tập thể trong cuộc sống hằng ngày.
Trong đời sống xã hội có rất nhiều lĩnh vực khác nhau, đòi hỏi nhà nước phải xây dựng và ban hành nhiều văn bản pháp luật để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội đó. Thực tiễn cho thấy, có rất nhiều văn bản pháp luật phát huy tác dụng tốt, đem lại hiệu quả thiết thực trong công tác quản lý, nhưng vẫn còn không ít văn bản pháp luật chưa phát huy được hiệu lực thi hành, không mang lại hiệu quả như mong muốn. Mặt tồn tại đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là do chưa tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật. “Khi giữa hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật có một khoảng cách lớn, tức là pháp luật được ban hành với khối lượng lớn mà ít đi vào cuộc sống, thì sẽ dẫn đến tình trạng pháp luật bị coi thường, không hiệu quả ” [89, tr.226]. Vì vậy, thực hiện pháp luật có vai trò to lớn trong việc đưa pháp luật của nhà nước đi vào đời sống thực tiễn, biến chung thành những hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
Để quản lý xã hội bằng pháp luật, nhà nước phải có phương thức thực hiện tốt các hoạt động liên quan đến pháp luật, từ khâu xây dựng pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật đến tổ chức thực hiện pháp luật và kiểm tra, xử lý những hành vi vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ pháp luật. Đồng thời, muốn pháp luật phát huy tối đa hiệu lực, hiệu quả trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội, thì nhà nước, ngoài việc tạo lập môi trường chính trị-xã hội ổn định, nâng cao trình độ pháp lý cho cán bộ và nhân dân, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đòi hỏi phải xác lập cơ chế thực hiện pháp luật một cách có hiệu quả.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, thực hiện pháp luật có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong toàn bộ các hoạt động về pháp luật. Thực hiện pháp luật là hoạt động đưa pháp luật vào cuộc sống, biến những qui phạm pháp luật thành những hành vi, xử sự thực tế, hợp pháp của cá nhân, tập thể trong thực tiễn xã hội. Nếu không tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật thì ý chí của nhà nước sẽ không thể đi vào đời sống thực tiễn, pháp luật sẽ không phát huy được hiệu lực, sẽ không đạt hiệu quả trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật không chỉ thể hiện trong toàn bộ các hoạt động về pháp luật (xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật bảo vệ pháp luật) mà nó còn là “một mặt quan trọng của nền pháp chế ” [21, tr.515]. Kết quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật là một trong những tiêu chuẩn để xác định tính chất của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi vì pháp chế là một phạm trù thể hiện những yêu cầu và sự đòi hỏi đối với các chủ thể pháp luật phải tôn trọng và triệt để thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Có thể khẳng định rằng sự thực hiện pháp luật là trung tâm của pháp chế.
Xét trong mối quan hệ giữa pháp luật và thực hiện pháp luật, Lênin cho rằng dù pháp luật có tốt đến đâu thì đó cũng chỉ là khả năng quản lý, khả năng đấu tranh. Để biến khả năng đó thành hiện thực cuộc sống nhất thiết phải biết sử dụng khả năng đó như là phương tiện tổ chức quần chúng thì mới thắng được trật tự xã hội cũ cũng như mọi biểu hiện vô chính phủ.
Pháp luật Xô - viết rất tốt vì những pháp luật này đã đem lại cho mọi người cái khả năng đấu tranh chống bệnh quan liêu và lề mề....Thế nhưng có ai sử dụng khả năng đó không? Hầu như không có một ai ! Không những nông dân, chính cả một số rất lớn đảng viên cộng sản cũng không biết dùng pháp luật Xô - viết để đấu tranh chống bệnh lề mề và bệnh quan liêu... [44, tr.214].
Thật vậy, nếu như không có sự tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác của các chủ thể pháp luật thì sẽ không có pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những điều kiện đảm bảo sự thành công của sự nghiệp đổi mới, bởi vì việc yêu cầu tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật, việc thực hiện nghiêm chỉnh những qui định Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân là yêu cầu bắt buộc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức vấn đề này, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật” [25, tr.132]. Quan điểm, tư tưởng trên của Đảng ta đã được thể chế hoá trong Hiến pháp năm 1992 và được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 năm 2001 của Quốc hội. Điều 12 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) qui định:
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật [54, tr.17].
1.2. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1.2.1. Khái niệm pháp luật về giáo dục và đào tạo
Theo Đại từ điển Tiếng Việt (1998) của Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo. “Giáo dục là tác động có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của con người, để họ dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra” [18, tr.734]; “Đào tạo là dạy dỗ, rèn luyện để trở lên người có hiểu biết, có nghề nghiệp” [18, tr 593]
Năm 1866, trong "Chỉ thị về các vấn đề gửi tới các đại biểu Ban Chấp hành Trung ương lâm thời", Các Mác đã viết:
Chúng tôi hiểu giáo dục là gồm ba việc sau đây: Một là: trí dục. Hai là: thể dục - giống như những điều người ta dạy ở các trường thể dục và trong luyện tập quân sự. Ba là: dạy kỹ thuật bách khoa, việc dạy kỹ thuật bách khoa này làm cho các em biết những nguyên tắc cơ bản của tất cả mọi quá trình sản xuất, đồng thời làm cho trẻ em và thiếu niên có được những kỹ năng sử dụng những công cụ đơn giản nhất của tất cả các ngành sản xuất [45, tr.22-23].
Từ thế kỷ XX, sự biến đổi về kinh tế - xã hội và sự phát triển mau lẹ về khoa học kỹ thuật, khái niệm giáo dục được nhận thức ngày một sâu sắc hơn, đầy đủ hơn. Trong sách "Giáo dục học" của Ilina, nhà giáo dục học Xô - viết, khái niệm giáo dục được định nghĩa như sau: “... giáo dục là một quá trình truyền thụ kinh nghiệm lịch sử - xã hội cho các thế hệ mới nhằm chuẩn bị cho họ bước vào cuộc sống xã hội và bước vào lao động sản xuất” [40, tr.6].
Ở nước ta, cố giáo sư Hà Thế Ngữ đã nêu ra một định nghĩa như sau: “Giáo dục là quá trình đào tạo con người một cách có mục đích, nhằm chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản xuất, bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử-xã hội của loài người ” [69, tr. 32].
Trong luận văn thạc sĩ Luật của Lê Thị Kim Dung (năm 2004) có nêu:
Giáo dục là hoạt động có mục đích, có chương trình, tác dộng vào con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỷ năng và lối sống, chuẩn bị cho đối tượng của giáo dục tham gia lao động, đi vào đời sống xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Giáo dục là hoạt động tất yếu của phát triển xã hội loài người, là một bộ phận cơ bản của quá trình tái sản xuất mở rộng lao động xã hội. Theo khái niệm rộng, giáo dục bao gồm cả đào tạo, cung cấp các nguồn nhân lực cần thiết cho từng lĩnh vực kinh tế-xã hội [20, tr.7].
Các định nghĩa, khái niệm về giáo dục, đào tạo nêu trên tuy diễn đạt khác nhau nhưng có những nội dung cơ bản tương đối đồng nhất, thể hiện ở chỗ hoạt động giáo dục, đào tạo là hoạt động có mục đích nhằm trang bị tri thức, kinh nghiệm cho con người tham gia đời sống kinh tế - xã hội.
Tác giả luận văn đồng ý với những nội dung cơ bản đó và cho rằng: Giáo dục và đào tạo là hoạt động có mục đích, có chương trình nhằm trang bị cho con người những tri thức, kinh nghiệm lịch sử - xã hội cần thiết và những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp nhất định để sẵn sàng tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản xuất.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm về sự nghiệp giáo dục. Người chỉ ra rằng: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn cho dân mạnh nước giàu mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà mà trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ ” [47, tr.3]. Người cũng chỉ cho chúng ta con đường thoát khỏi cảnh yếu hèn đó là con đường phát triển giáo dục: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu ”. Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập (tháng 9/1945), Bác đã viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu” [47, tr.33]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thể hiện qua câu nói bất hủ của Người: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác giáo dục luôn toả sáng tính cách mạng, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Cả cuộc đời cách mạng, Người chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là: “Làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành ” [47, tr.161].
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách và biện pháp phát triển nền giáo dục của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hệ thống mạng lưới trường lớp đã được phủ kín khắp các bản làng, thôn xóm trong cả nước, để thực hiện mục tiêu xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, rồi phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, tiến tới phổ cập trung học cơ sở, phổ cập trung học ph._.ổ thông...Vấn đề phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã và đang được toàn xã hội quan tâm. Đảng và Nhà nước ta đang tập trung và ưu tiên hơn trong việc đầu tư đối với các vùng khó khăn và thu được một số kết quả, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta trong giáo dục.
Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 là đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại “con đường công nghiệp hoá-hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt...” [25, tr.159]. Để đạt được các mục tiêu nói trên, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ có vai trò quyết định, là nhu cầu bức thiết của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là phát triển kinh tế đi đôi với thúc đẩy tiến bộ xã hội. Ngay từ đầu thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời đổi mới tư duy và cách làm giáo dục, đề ra những chủ trương chuyển đổi hệ thống giáo dục quốc dân từ mục tiêu phục vụ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ quan điểm, đường lối của Đảng về giáo dục và đào tạo, Nhà nước ta đã thể chế hóa thành các văn bản pháp luật để tổ chức thực hiện trong thực tế: Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001): "Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài..." (Điều 35); Luật Giáo dục được Quốc hội thông qua vào tháng 12/1998; Nghị định số 43/2000/NĐ-CP ngày 30/8/2000 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục; Nghị quyết số 40/2000/QH10 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và Nghị quyết 41/2000/QH10 về thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở của Quốc hội khóa X thông qua ngày 09/12/2000...
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 xác định mục tiêu, giải pháp và các bước đi theo phương châm đa dạng hoá, chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, xây dựng một nền giáo dục có tính chất thực tiễn và hiệu quả, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, đưa nền giáo dục nước ta sớm tiến kịp các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần đắc lực thực hiện mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2001-2010.
Như vậy, pháp luật về giáo dục và đào tạo đã thể chế hoá quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về giáo dục và đào tạo để đưa quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng vào cuộc sống, trở thành hiện thực trong cuộc sống. Pháp luật về giáo dục và đào tạo bao gồm cả các quy định trong Hiến pháp, Lụât Giáo dục, các Nghị quyết của Quốc hội, các văn bản dưới luật nhằm quy định chi tiết hoặc hướng dẫn thi hành luật.
Từ đó, có thể khái quát rằng: Pháp luật về giáo dục và đào tạo là hệ thống các qui phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về giáo dục và đào tạo, bảo đảm phát triển vững chắc sự nghiệp giáo dục và đào tạo, thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
1.2.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là thực hiện pháp luật về một lĩnh vực trong xã hội mà cụ thể, đó là giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào tạo có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra những con người Việt Nam phát triển toàn diện, những người lao động có đạo đức, có tri thức, có khả năng thích ứng nhanh chóng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, có đủ sức mạnh để cạnh tranh trong quá trình phân công lao động quốc tế. Phát triển giáo dục và đào tạo là biện pháp tốt nhất để phát huy và làm trường tồn những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc và làm phong phú thêm những tinh hoa văn hoá của nhân loại.
Giáo dục và đào tạo là một trong ba lĩnh vực then chốt cần đột phá để làm chuyển biến tình hình kinh tế-xã hội, tạo bước chuyển mạnh để phát triển nguồn nhân lực. Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định: Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện phát huy nguồn lực con người-yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Trên cơ sở đó, Đại hội IX chủ trương giải quyết dứt điểm những vấn đề bức xúc trong giáo dục-đào tạo, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện trong phát triển giáo dục-đào tạo; thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, tiếp tục nâng cao chất lưọng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp, công tác quản lý giáo dục và đào tạo; chăm lo phát triển giáo dục mần non; củng cố thành tựu xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; đẩy nhanh tiến độ phổ cập trung học cơ sở; coi trọng và đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp và phân luồng sau trung học cơ sở, tăng nhanh tỉ lệ lao động được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội; mở rộng hợp lý qui mô và làm chuyển biến rõ nét về chất lượng và hiệu quả giáo dục đại học; đẩy mạnh xã hội hoá, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo, tạo điều kiện cho mọi người ở mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên, học tập suốt đời, xây dựng một xã hội học tập.
Những quan điểm, chủ trương của Đảng về giáo dục và đào tạo nêu trên đã được thể chế hóa trong pháp luật về giáo dục-đào tạo và để đi vào cuộc sống, được thực hiện trên thực tế phải làm tốt công tác thực hiện pháp luật. Vì thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là thực hiện pháp luật trong một lĩnh vực cụ thể-lĩnh vực giáo dục và đào tạo cho nên khái niệm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo cũng có đầy đủ các nội dung cơ bản của khái niệm thực hiện pháp luật nói chung; đồng thời phải nêu được những phương hướng, mục tiêu cụ thể của giáo dục và đào tạo theo đường lối, chủ trương của Đảng về giáo dục-đào tạo. Trên cơ sở đó, có thể nêu khái niệm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo như sau:
Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các qui phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong thực hiện pháp luật, phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các vi phạm pháp luật để phát triển vững chắc sự nghiệp giáo dục và đào tạo, thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2.2.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ngoài những đặc điểm của thực hiện pháp luật nói chung, còn có những đặc điểm mang tính chất đặc thù. Những đặc điểm đặc thù của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo được qui định bởi vị trí, vai trò của nó trong đời sống xã hội.
- Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo vừa mang tính quyền lực nhà nước vừa mang tính xã hội rộng lớn.
Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những qui phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo đi vào cuộc sống. Các qui phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo là những qui tắc xử sự chung do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ về giáo dục và đào tạo phát triển theo định hướng nhất định.
Các qui phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo là những qui tắc xử sự của mọi công dân, của các nhà chức trách có thẩm quyền, là những qui định về nội dung chương trình, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động, về bộ máy quản lý nhà nước, là những qui định về địa vị pháp lý của các chủ thể khác...trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Do đó nó có tính bắt buộc thực hiện đối với mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội, bảo đảm tính quyền lực của nhà nước được thực thi trong đời sống thực tiễn.
Lĩnh vực giáo dục và đào tạo có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội. Pháp luật về giáo dục và đào tạo có tác dụng điều chỉnh mọi hành vi của các chủ thể và bắt buộc các chủ thể có trách nhiệm thực hiện nó. Do đó, pháp luật về giáo dục và đào tạo còn mang tính xã hội rộng lớn.
- Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc xuyên suốt của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị-xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước, nhân viên của các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác. Vì lẽ đó nên việc tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, tổ chức và hoạt động của các đơn vị, cơ sở giáo dục phải tuân theo những qui định của pháp luật. Mọi công dân xử sự với nhau theo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, phải tôn trọng pháp luật một cách triệt để, phải xử sự đúng theo yêu cầu của pháp luật nói chung và pháp luật về giáo dục và đào tạo nói riêng. Nguyên tắc này còn đòi hỏi mọi công dân có trách nhiệm tham gia vào quản lý các công việc của Nhà nước bằng các hình thức kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan quản lý về giáo dục và đào tạo, cũng như các cơ sở giáo dục và đào tạo khác.
- Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo có phạm vi rộng lớn và chủ thể thực hiện rất đa dạng và phong phú.
Mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội đều quan tâm đến giáo dục và đào tạo và chịu sự tác động của pháp luật về giáo dục và đào tạo. Mặt khác, những qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo đều nhằm phục vụ lợi ích thiết thân của công dân, vì thế, nói chung, pháp luật về giáo dục và đào tạo được các chủ thể pháp luật tự giác thực hiện. Bên cạnh đó, nó cũng được các cấp, các ngành, mọi tổ chức tích cực, chủ động tham gia chỉ đạo, quản lý, điều hành làm cho giáo dục và đào tạo phát triển theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá và xã hội hoá. Có thể nói phạm vi tác động của pháp luật về giáo dục và đào tạo rất rộng lớn, tác động đến mọi thành viên trong xã hội từ cá nhân đến các tổ chức, từ thành thị đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa trong cả nước.
- Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là hoạt động tích cực để thực hiện mục tiêu của giáo dục và đào tạo.
Để phát triển xã hội, các quốc gia đều có các chiến lược phát triển giáo dục của mình và để thực hiện được chiến lược ấy, mỗi Nhà nước đều đặt ra những qui định của pháp luật. Trong những yêu cầu đặt ra trong xây dựng pháp luật về giáo dục và đào tạo, vấn đề trọng tâm là đề ra các biện pháp nhằm thực hiện yêu cầu đó. Vì vậy, việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là nhằm thực hiện các mục tiêu mà giáo dục và đào tạo đặt ra, đó là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng nhu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo luôn có sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Để pháp luật về giáo dục và đào tạo phát huy hết hiệu lực, hiệu quả cần có sự kết hợp hài hoà giữa nhà trường, gia đình và xã hội, trong đó các cơ quan quản lý nhà nước, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt trong thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo. Trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý có vai trò đặc biệt quan trọng, làm nòng cốt để nâng cao chất lượng giáo dục. Do đó, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm và xây dựng được một đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đông đảo, phần lớn có đạo đức, trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn. Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ mới đòi hỏi phải có sự quan tâm nhiều hơn nữa để đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tránh được những hạn chế và bất cập, vươn lên thực hiện tốt nhiệm vụ của ngành, thực sự làm nòng cốt trong việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo.
1.2.3. Hình thức và nội dung thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
1.2.3.1. Hình thức thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo là một lĩnh vực của đời sống xã hội. Hình thức của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo cũng có những nét chung của các hình thức thực hiện pháp luật, đó là:
Tuân theo (tuân thủ) pháp luật về giáo dục và đào tạo là hình thức thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hành vi mà pháp luật ngăn cấm. Ví dụ: Điều 63a Luật Giáo dục năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2005) qui định: “Nhà giáo không được có hành vi ảnh hưởng xấu đến phẩm chất và nghề nghiệp của nhà giáo; xúc phạm danh dự, phẩm chất, xâm phạm đến thân thể của người học; gian lận trong tuyển sinh, thi cử và cố ý đánh giá sai kết quả học tập và rèn luyện của người học...” [55, tr.43]. Như vậy, khi nhà giáo tuân thủ những qui định trên là đã tuân thủ pháp luật về giáo dục và đào tạo.
Thi hành (chấp hành) pháp luật về giáo dục và đào tạo là một hình thức thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Ví dụ: Điều 74 Luật Giáo dục năm 1998 qui định:
Người học có các nghĩa vụ sau đây:
1. Thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình kế hoạch giáo dục của nhà trường, cơ sở giáo dục khác;
2. Kính trọng nhà giáo, cán bộ quản lý, công nhân, nhân viên của nhà trường, cơ sở giáo dục khác, tuân thủ pháp luật của nhà nước; thực hiện nội qui, điều lệ nhà trường;
3. Tham gia lao động và hoạt động xã hội phù hợp với lứa tuổi, sức khoẻ và năng lực;
4. Giữ gìn, bảo vệ tài sản của nhà trường, cơ sở giáo dục khác;
5. Góp phần xây dựng, bảo vệ phát huy truyền thống của nhà trường, cơ sở giáo dục khác [55, tr.46].
Người học có trách nhiệm thi hành những qui định này một cách tích cực là đã chấp hành pháp luật về giáo dục và đào tạo.
Sử dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo là một hình thức thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình. Ví dụ: Khoản 3 Điều 64 Luật Giáo dục năm 1998 qui định về quyền của nhà giáo: “Được hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học tại các trường, cơ sở giáo dục và nghiên cứu khác với điều kiện đảm thực hiện đầy đủ chương trình, kế hoạch do nhà trường giao cho” [55, tr.43].
Các nhà giáo khi đảm bảo thực hiện đầy đủ chương trình, kế hoạch do nhà trường giao cho có thể tham gia hoặc không tham gia hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học tại các trường, cơ sở giáo dục và nghiên cứu khác.
Áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo là một hình thức thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo, trong đó nhà nước (thông qua các cơ quan hoặc nhà chức trách) tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo, hoặc tự mình căn cứ vào những qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo để ban hành các quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể trong lĩnh vực giốa dục và đào tạo. Ví dụ: Điều 104 Luật Giáo dục năm 1998 qui định việc phong tặng danh hiệu nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú: “Nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, cán bộ nghiên cứu giáo dục có đủ tiêu chuẩn theo qui định của pháp luật thì được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú” [55, tr.55].
Khi nhà giáo có đủ tiêu chuẩn trên, Nhà nước có trách nhiệm áp dụng pháp luật theo những nội dung qui định này để phong tặng các danh hiệu cho nhà giáo.
1.2.3.2. Nội dung thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là hoạt động có mục đích nhằm thực hiện các qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo, đưa các qui phạm pháp luật này vào thực tiễn cuộc sống, biến nó thành những hành vi xử sự thực tế góp phần phát huy tính tích cực, chủ động trong thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo. Pháp luât về giáo dục và đào tạo được thực hiện trong đời sống xã hội thông qua các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Các qui phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo của nước ta hiện nay được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật (Hiến pháp 1992 (Sửa đổi, bổ sung năm 2001), Luật, Nghị quyết, Nghị định, Chỉ thị, Thông tư, Quyết định...) của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, với nội dung rất rộng, liên quan đến tất cả các mặt của lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Tuy vậy, có thể khái quát nội dung của pháp luật về giáo dục và đào tạo bao gồm ba vấn đề chủ yếu:
- Tổ chức hệ thống giáo dục và đào tạo;
- Hoạt động giáo dục và đào tạo;
- Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo.
Như vậy, nội dung thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo cũng bao gồm 3 nội dung cơ bản là: Thực hiện qui định của pháp luật về tổ chức hệ thống giáo dục và đào tạo; thực hiện các qui định của pháp luật về hoạt động giáo dục và đào tạo; thực hiện các qui định của pháp luật về quản lý nhà nước đối với giáo dục và đào tạo.
a) Thực hiện qui định của pháp luật về tổ chức hệ thống giáo dục và đào tạo.
Thực hiện qui định của pháp luật về tổ chức hệ thống giáo dục và đào tạo là thực hiện các qui định của pháp luật về phát triển các ngành học, cấp học, bậc học trong toàn quốc. Hệ thống giáo dục quốc dân nước ta cho đến nay đã bao gồm đủ các cấp học, bậc học, ngành học và phương thức giáo dục, đó là:
1. Giáo dục mầm non có: nhà trẻ và mẫu giáo;
2. Giáo dục phổ thông có: hai bậc học là bậc tiểu học và bậc trung học; bậc trung học có hai cấp học là cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông;
3. Giáo dục nghề nghiệp có: trung học chuyên nghiệp và dạy nghề;
4. Giáo dục đại học: đào tạo hai trình độ là trình độ cao đẳng và trình độ đại học; giáo dục sau đại học đào tạo hai trình độ là trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ.
Ngoài hệ thống các trường công lập còn có hệ thống các trường ngoài công lập bao gồm các trường bán công, dân lập và tư thục từ mầm non đến đại học.
Phương thức giáo dục gồm giáo dục chính qui và giáo dục không chính qui. Bên cạnh hệ thống các trường lớp chính qui, ở các địa phương đều phát triển hệ thống các trung tâm, cơ sở giáo dục không chính qui thực hiện nhiệm vụ giáo dục thường xuyên cho mọi người, đáp ứng nhu cầu được học, được đào tạo một cách đa dạng từ xoá mù chữ, nâng cao trình độ kiến thức cho đến học nghề, học tin học và ngoại ngữ.
b) Thực hiện qui định của pháp luật đối với hoạt động giáo dục và đào tạo
Thực hiện các qui định của pháp luật về hoạt động giáo dục và đào tạo là quá trình vận động của các chủ thể pháp luật giáo dục và đào tạo trong việc thực hiện các qui định, các yêu cầu của pháp luật về tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục tiêu chương trình của các cấp học, các hệ đào tạo; quản lý người dạy người học; tuyển sinh, cấp bằng tốt nghiệp; quản lý các nguồn lực, trang thiết bị phục vụ cho giáo dục và đào tạo...
Nội dung hoạt động giáo dục và đào tạo đã được xác định trong Luật Giáo dục. Nội dung này bao gồm những qui định chung về nhiệm vụ, quyền hạn của các nhà trường thể hiện ở Điều 53 Luật Giáo dục năm 1998.
c) Thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo
Thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo là quá trình hoạt động của các chủ thể trong việc thực hiện các qui định của pháp luật bao gồm: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục; ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản qui phạm pháp luật về giáo dục; ban hành Điều lệ nhà trường; ban hành qui định về tổ chức và hoạt động của các cơ sở giáo dục khác; qui định mục tiêu, chương trình nội dung giáo dục; tiêu chuẩn nhà giáo; tiêu chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường học; việc biên soạn, xuất bản, in và phát hành sách giáo khoa, giáo trình; qui chế thi cử và cấp bằng; tổ chức bộ máy quản lý giáo dục; tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục; tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu khoa học, công nghệ trong ngành giáo dục; tổ chức, quản lý công tác quan hệ quốc tế về giáo dục; qui định việc tặng các danh hiệu vinh dự cho những người có nhiều công lao đối với sự nghiệp giáo dục; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục; giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về giáo dục.
Những nội dung về quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo nói trên được qui định tại Điều 86 Luật Giáo dục năm1998.
Để thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, Luật Giáo dục xác định các chủ thể quản lý và những nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể đó tại Điều 87 Luật Giáo dục năm 1998:
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục.
Chính phủ trình Quốc hội trước khi quyết định những chủ trương lớn có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ học tập của công dân trong phạm vi cả nước, những chủ trương về cải cách nội dung chương trình của cả một bậc học, cấp học; hàng năm báo cáo Quốc hội về hoạt động giáo dục và thực hiện ngân sách giáo dục;
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục;
3. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục theo qui định của Chính phủ. Chính phủ qui định cụ thể trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo để thực hiện việc thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục;
4. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục ở địa phương theo qui định của Chính phủ [55, tr.51].
1.2.4. Chủ thể và yêu cầu của việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
1.2.4.1. Chủ thể thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo.
Chủ thể thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là những người tham gia vào các quan hệ xã hội do pháp luật về giáo dục và đào tạo điều chỉnh. Tại Điều 1 Luật Giáo dục qui định phạm vi điều chỉnh như sau: "Luật Giáo dục qui định về hệ thống giáo dục quốc dân; nhà trường, cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân, của cơ quan hành chính nhà nước, của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, của lực lượng vũ trang nhân dân; tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động giáo dục" [46, tr.1].
Căn cứ vào qui định trên, chúng ta thấy chủ thể của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là cá nhân và tổ chức.
a. Cá nhân
Trong tất cả các quan hệ xã hội, cá nhân bao giờ cũng là chủ thể thường xuyên và chủ yếu, trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cũng vậy, cá nhân được coi là chủ thể đầu tiên và là chủ thể thường xuyên.
Với chủ trương xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập, một nền giáo dục cho mọi người, học tập suốt đời, Nhà nước ta đã tạo điều kiện cho mọi công dân có thể tham gia học tập tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh, lứa tuổi... của mỗi người. Khi cá nhân đã tham gia học tập dù dưới bất kỳ hình thức nào thì đồng thời họ cũng trở thành chủ thể của thực hiện pháp luật về giáp dục và đào tạo, bởi khi đó họ phải thực hiện đầy đủ các qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo.
Cá nhân - với tư cách là chủ thể của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo rất đa dạng và đông đảo, chiếm tuyệt đại bộ phận trong xã hội, bởi mấy ai trong cuộc đời lại không tham gia bất kỳ một hình thức học tập nào. Điều đó có thể xảy ra nhưng chỉ chiếm số lượng hết sức khiêm tốn Chủ thể của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là cá nhân có hai loại: Loại thứ nhất là người đi học (thường được gọi là học sinh, sinh viên, học viên…); Loại thứ hai, không thể thiếu đó là đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các cấp. Đây được xem là lực lượng nòng cốt, đóng vai trò chủ lực, có trách nhiệm thường xuyên tiếp cận, phổ biến, giáo dục và thực hiện những qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo.
b. Tổ chức
Chủ thể của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ngoài cá nhân còn có các tổ chức. Cũng giống như cá nhân, các tổ chức với tư cách là chủ thể của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo rất đa dạng và phong phú. Ở nước ta hiện nay có các tổ chức sau đây tham gia với tư cách là chủ thể của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo:
- Các tổ chức của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lãnh đạo sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Do đó tổ chức đảng phải gương mẫu thực hiện và thông qua tổ chức của mình, giáo dục đảng viên tự giác thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo một cách nghiêm túc và triệt để.
- Các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội nghề nghiệp... có trách nhiệm thực hiện những qui định pháp luật về giáo dục và đào tạo.
- Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là chủ thể có tầm quan trọng đặc biệt trong việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo. Thông qua các cơ quan nhà nước, các qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo được hướng dẫn và tổ chức thực hiện một cách đầy đủ và nghiêm túc.
- Ngoài ra phải kể đến các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, các cơ sở đào tạo, trường học. Đây được xem là các chủ thể thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo nòng cốt, chủ đạo, không thể thiếu trong việc đưa pháp luật về giáo dục và đào tạo đi vào cuộc sống.
Để đảm bảo thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo, các chủ thể cần nắm vững nội dung, tư tưởng, ý nghĩa của những qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo, tuỳ thuộc điều kiện, hoàn cảnh và đối tượng cụ thể mà có những hình thức thực hiện phù hợp, đảm bảo những yêu cầu của pháp luật được thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ, góp phần đưa sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước nhà phát triển đúng theo quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước.
1.2.4.2. Yêu cầu của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng, tiếp tục quán triệt các quan điểm chỉ đạo về giáo dục và đào tạo theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII), nổ lực phấn đấu làm cho giáo dục, đào tạo thực sự là quốc sách hàng đầu cả về 4 yêu cầu: đầu tư tài chính, đầu tư cán bộ, chính sách ưu tiên, tổ chức quản lý. Tập trung phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo mạnh hơn, khẩn trương và hiệu quả hơn theo định hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, đưa nền giáo dục và đào tạo nước nhà hoạt động bảo đảm chất lượng toàn diện, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng đầy đủ và kịp thời yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện những tư tưởng chỉ đạo trên, cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giáo dục và đào tạo, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho các hoạt động giáo dục và đào tạo. Điều quan trọng là để việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo được thực hiện một cách nghiêm túc và đạt hiệu quả cao, cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Nhận thức đúng đắn và thống nhất những nội dung, quan điểm của Đảng và qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo trong phạm vi cả nước.
Đây là yêu cầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, trước hết nó đòi hỏi tất cả các quan hệ xã hội quan trọng nói chung phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Nhà nước phải xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật tạo ra sự thống nhất của hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về giáo dục và đào tạo. Từ cơ sở có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đầy đủ thì việc nhận thức đúng đắn và thống nhất những qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo phải được thực hiện trên phạm vi cả nước, nghĩa là ở bất cứ nơi đâu, mọi cá nhân, mọi tổ chức phải nhận thức đúng về tư tưỏng, nội dung và ý nghĩa của pháp luật về giáo dục và đào tạo để làm cơ sở cho việc thực hiện trong thực tiễn.
Hiến pháp và luật là những văn bản do Quốc hội ban hành, thể hiện một cách tập trung ý chí và những lợi ích cơ bản của nhân dân lao động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiến pháp và các luật là những văn bản qui phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao, là cơ sở của hệ thống pháp luật, do đó các văn bản khác phải tuân thủ nghiêm túc những qui định của Hiến pháp và luật trong phạm vi cả nước.
- Việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo phải chính xác và triệt để.
Pháp luật về giáo dục và đào tạo là cơ sở để thực hiện trong thực tế nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Khi một văn bản pháp luật được ban hành đúng thẩm quyền và trình tự thủ tục, có nội dung hợp pháp, phù hợp với thực tế thì nó có hiệu lực trong thực tiễn. Khi văn bản pháp luật có hiệu lực thi hành thì nó được thực hiện một cách chính xác, triệt để đúng với nội dung, tinh thần của văn bản. Trong quá trình thực hiện pháp luật không coi nhẹ một văn bản hay một qui định pháp luật nào. Để đảm bảo tính chính xác, triệt để trong việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo đòi hỏi các chủ thể trong mọi hoạt động của mình phải dựa trên cơ sở những qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo.
- Phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, các hành vi vi phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo.
Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều có ảnh hưởng không tốt đến quá trình thực hiện những qui định của pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo, cho nên cần phải phát hiện và xử lý kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo. Những khiếu nại, tố cáo các vấn đề có liên quan đến giáo dục và đào tạo phải được các cấp có thẩm quyền xem xét và giải quyết nhanh chóng, đúng đắn trong thời hạn theo qui định của pháp luật.
- Việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo phải được kiểm tra, thanh tra và giám sát một cách thường xuyên.
Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát là một hoạt động phải được tiến hành thường xuyên nhằm đánh giá việc thực hiện những qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo; xem xét các biện pháp hoạt động của các cấp, các ngành, cũng như phát hiện những hạn chế để từng bước củng cố bộ m._., tr.4].
Thực trạng đó đã làm ảnh hưởng không ít đến việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở địa phương trong thời gian qua.
Để bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định, nhằm nâng cao chất lượng, ngăn ngừa, hạn chế những vi phạm, pháp luật về giáo dục và đào tạo, yêu cầu đặt ra là cấp uỷ và chính quyền các cấp ở tỉnh Bình Định phải quan tâm đầu tư kinh phí đúng vị trí, ngang tầm với nhiệm vụ của giáo dục và đào tạo, bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để hoạt động thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo được tiến hành một cách bình thường và đạt hiệu quả.
3.2.7. Tăng cường công tác quản lý của Nhà nước trong việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định
Công tác quản lý của Nhà nước về giáo dục và đào tạo là một nội dung quan trọng của pháp luật về giáo dục và đào tạo. Nó không những là một nội dung của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo mà còn là hoạt động nhằm bảo đảm pháp luật về giáo dục và đào tạo được tổ chức và thực hiện nghiêm chỉnh trong đời sống xã hội. Có thể nói rằng toàn bộ những nội dung của pháp luật về giáo dục và đào tạo có bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh hay không phụ thuộc rất lớn vào công tác quản lý của Nhà nước về giáo dục và đào tạo. Do đó, để bảo đảm vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo thì yêu cầu bắt buộc là phải có hoạt động quản lý của Nhà nước về giáo dục và đào tạo.
Trong thời gian qua, sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng công tác quản lý của Nhà nước về giáo dục và đào tạo cũng bộc lộ những mặt còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo. Thể hiện là đã ban hành khá nhiều văn bản pháp luật về giáo dục và đào tạo, song vẫn còn những lĩnh vực chưa đề cập, đặc biệt là công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện; việc sơ tổng kết tiến hành chưa kịp thời; công tác bồi dưỡng đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước hiệu quả chưa cao... đã làm giảm hiệu quả thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định. Để công tác quản lý của Nhà nước về giáo dục và đào tạo trở thành yếu tố quan trọng bảo đảm việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo cần phải tăng cường công tác quản lý của Nhà nước về giáo dục và đào tạo. Các mặt cần làm tốt để tăng cường quản lý của Nhà nước về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định hiện nay là:
- Quan tâm hơn nữa công tác ban hành văn bản pháp qui để cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về giáo dục và đào tạo; chú trọng ban hành các văn bản có nội dung xây dựng cơ chế, chính sách, hình thức tổ chức và phương thức thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo phù hợp với đặc thù của tình hình của địa phương.
- Tăng cường hơn nữa công tác bồi dưỡng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thường xuyên quan tâm việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
- Tăng cường công tác sơ kết, tổng kết, làm tốt công tác thi đua khen thưởng, nhân rộng điển hình tiên tiến trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; đặc biệt quan tâm chỉ đạo việc thực hiện đối với những địa bàn còn khó khăn.
- Thực hiện Nghị định phân cấp quản lý giáo dục của Chính phủ. Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm cụ thể hóa các chính sách giáo dục, huy động nguồn lực, xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục, đảm bảo phát triển quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục tại địa phương.
- Khẩn trương triển khai thực hiện Nghị định 166/2004/NĐ-CP ngày 16/9/2004 về quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục với các yêu cầu: Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của bộ máy quản lý giáo dục ở địa phương; xây dựng cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý giáo dục của Sở Giáo dục - Đào tạo và Phòng Giáo dục - Đào tạo.
3.2.8. Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý các vi phạm trong việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
Pháp luật về giáo dục và đào tạo có được thực hiện trong đời sống xã hội, ngoài những giải pháp như nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo, xây dựng cơ chế thực hiện phù hợp, kiện toàn tổ chức và đội ngũ, tạo lập môi trường xã hội thuận lợi, bảo đảm điều kiện vật chất, tăng cường quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo... còn phải chú ý đến việc đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm trong thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo. Đây là giải pháp đặc biệt quan trọng để bảo đảm pháp luật về giáo dục và đào tạo được thực hiện trong đời sống xã hội.
Pháp luật về giáo dục và đào tạo được tuân thủ như thế nào, thực hiện đến đâu đều thể hiện bằng hành động thực tế, bằng một kết quả cụ thể, nhất định trong thực tiễn. Để đánh giá mức độ thực thi pháp luật phải thực hiện việc kiểm tra, thanh tra, giám sát và thông qua đó phát hiện những hạn chế, thiếu sót để có những biện pháp khắc phục; đồng thời cũng thông qua kiểm tra, thanh tra, giám sát mà phát hiện những vi phạm pháp luật để có cách thức xử lý phù hợp. Hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý các vi phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo được tiến hành thường xuyên, có tác động tích cực nhằm bảo đảm cho pháp luật về giáo dục và đào tạo được thực hiện một cách nghiêm túc trong đời sống xã hội.
Để đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý các vi phạm trong thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo, bảo đảm việc thực hiện những quy định của pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định, các cơ quan và các nhà chức trách có thẩm quyền cần thực hiện tốt các hoạt động sau:
- Tiến hành một cách thường xuyên hoạt động kiểm tra của cơ quan Đảng và tăng cường hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp đối với việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo của các địa phương trong tỉnh. Xem đây là hoạt động cơ bản nhằm bảo đảm việc thực hiện nghiêm túc những qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo.
- Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra của các cơ quan hành chính nhà nước đối với việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo trên địa bàn thuộc phạm vi quản lý của mình. Tiến hành thường xuyên hoạt động kiểm tra, thanh tra chuyên ngành của cơ quan quản lý giáo dục và đào tạo các cấp đối với tất cả các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo.
- Hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát phải gắn với việc kết luận đánh giá mức độ thực thi pháp luật, về trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo. Xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm trong thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo. Gắn việc xử lý vi phạm với hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo, bảo đảm việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh.
- Củng cố tổ chức, bộ máy cơ quan thanh tra giáo dục các cấp. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra; thực hiện thanh tra, kiểm tra thường xuyên kết hợp với thanh tra, kiểm tra đột xuất có trọng tâm, trọng điểm. Phát hiện và xử lý nghiêm minh các vụ việc, các hiện tượng tiêu cực trong thực hiện chương trình đào tạo, trong quản lý và sử dụng tài sản, tài chính; trong tuyển sinh, thi cử, đánh giá; trong cấp phát, sử dụng văn bằng, chứng chỉ.
- Tiếp tục thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục - Đào tạo bố trí số cán bộ thanh tra đạt ít nhất 10% tổng biên chế quản lý nhà nước của cơ quan Sở Giáo dục - Đào tạo. Cán bộ làm công tác thanh tra cần được lựa chọn từ những người có trình độ chuyên môn, đã kinh qua công tác quản lý, có phẩm chất tốt, có năng lực đánh giá, kết luận, kiến nghị biện pháp giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn thanh tra giáo dục.
- Chú ý xây dựng đội ngũ thanh tra quản lý tài chính, tài sản. Bên cạnh số thanh tra chuyên trách cần tăng cường lựa chọn, bổ nhiệm cộng tác viên thường xuyên (thanh tra viên kiêm nhiệm) để đủ lực lượng hoàn thành các chỉ tiêu thanh tra. Các Phòng Giáo dục - Đào tạo phải bố trí ít nhất một cán bộ chuyên trách công tác thanh tra.
3.2.9. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định
Sự lãnh đạo của Đảng vừa là nguyên tắc vừa là điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước, đảm bảo gữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung và phương pháp giáo dục.
Hoạt động thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo không những chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước mà còn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và cuả toàn dân, do đó để bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
Qua thực tiễn công tác thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định cho thấy rằng ở đâu các cấp uỷ nhận thức đúng đắn quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu và vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo trong đời sống xã hội, từ đó quan tâm lãnh đạo việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo thì ở đó sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển, phục vụ tốt cho nhu cầu học tập của nhân dân. Ngược lại nơi nào, cấp uỷ chưa nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo thì sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở đó yếu kém. Từ thực tiễn trên, có thể khẳng định rằng sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện, biện pháp tiên quyết bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định trong thời gian qua.
Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện trước hết việc Đảng đề ra chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, đồng thời đề ra chiến lược toàn diện về việc xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân... Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo đòi hỏi Đảng phải có phương thức lãnh đạo phù hợp không những bằng cách vạch ra phương hướng chỉ đạo việc tổ chức và hoạt động đối với giáo dục và đào tạo, thông qua các nghị quyết, chỉ thị của Đảng bảo đảm việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo được thống nhất, nghiêm minh; bằng sự quan tâm củng cố, kiện toàn tổ chức và họat động giáo dục và đào tạo; bằng sự kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo; bằng sự gương mẫu của đội ngũ cán bộ đảng viên; bằng công tác vận động và tổ chức các lực lượng quần chúng tham gia phong trào giáo dục và đào tạo ... mà còn phải đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp với đặc thù của việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở địa phương mình, bảo đảm pháp luật về giáo dục và đào tạo được thực hiện một cách nghiêm túc, chính xác, đầy đủ.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định, các cấp uỷ của tỉnh cần lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể quần chúng thực hiện tốt các mặt công tác sau:
- Nâng cao nhận thức trong Đảng, chính quyền, các tổ chức và nhân dân về quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu và vị trí, vai trò, ý nghĩa của vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo. Xác định vai trò, trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị đối với việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở địa phương. Đây là nội dung rất quan trọng, bởi vì nếu không nhận thức đúng đắn, đầy đủ quan điểm giáo dục của Đảng và vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo sẽ không có sự quan tâm đầu tư, củng cố, kiện toàn đối với công tác này.
- Thường xuyên xây dựng, củng cố tổ chức và hoạt động về giáo dục và đào tạo; qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục có phẩm chất đạo đức tốt, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng và tâm huyết với nghề nghiệp. Xem đây là biện pháp rất quan trọng có tính quyết định cho việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo; lãnh đạo thực hiện tốt Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
- Tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 30/5/1998 của Bộ Chính trị về việc tăng cường công tác tư tưởng chính trị, củng cố tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng trong các trường học. Coi trọng việc phát triển và nâng cao chất lượng về giáo dục và đào tạo là một chỉ tiêu phấn đấu xây dựng đảng bộ trong sạch vững mạnh. Chú trọng việc phát triển đảng viên mới trong giáo viên, học sinh, phấn đấu mỗi trường học đều có chi bộ Đảng. Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng trong trường học, xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh để trở thành hạt nhân chính trị lãnh đạo toàn diện nhà trường.
- Kịp thời ra chỉ thị, nghị quyết để xây dựng tổ chức và hoạt động về giáo dục - đào tạo phù hợp với đặc thù của địa phương, sớm ban hành chính sách thu hút, động viên các tổ chức và quần chúng tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Tăng cường lãnh đạo hoạt động kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, thi đua khen thưởng và xử lý các vi phạm pháp luật trong thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo nhằm mục đích bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo trong đời sống xã hội, bảo đảm cho giáo dục và đào tạo phát triển đúng với quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước, đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kết luận chương 3
Xuất phát từ vị trí, vai trò giáo dục và đào tạo đối với đời sống xã hội và yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay; cùng với thực trạng thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định thời gian qua; bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu tất yếu khách quan.
Căn cứ vào đặc điểm tình hình của địa phương, luận văn đã bước đầu xây dựng các giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định. Các giải pháp được xác định là:
- Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa của vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo để thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta: giáo dục là quốc sách hàng đầu.
- Hoàn thiện pháp luật về giáo dục và đào tạo và các văn bản pháp quy về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định.
- Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về giáo dục và đào tạo.
- Kiện toàn tổ chức và hoạt động về giáo dục và đào tạo.
- Xây dựng cơ chế phù hợp và tạo lập môi trường xã hội thuận lợi trong việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo.
- Bảo đảm điều kiện vật chất cho việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo.
- Tăng cường công tác quản lý của Nhà nước trong thực hiện pháp luật giáo dục và đào tạo.
- Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý các vi phạm trong thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định.
KẾT LUẬN
Pháp luật về giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, tạo cơ sở cho sự phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước, cũng như trong việc phát huy truyền thống hiếu học của nhân dân ta. Pháp luật giáo dục và đào tạo là sự thể chế hóa quan điểm của Đảng về giáo dục và đào tạo, tạo hành lang pháp lý bảo đảm cho hoạt động giáo dục và đào tạo. Song hiệu quả và giá trị của nó phụ thuộc rất lớn vào quá trình tổ chức thực hiện với tư cách là những phương thức, biện pháp để đưa pháp luật về giáo dục và đào tạo đi vào cuộc sống hiện thực của xã hội.
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã đạt nhiều thành tựu to lớn. Hiện nay, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để đến năm 2020 nước ta căn bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thì vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo trở nên vô cùng quan trọng. Vì vậy, giáo dục và đào tạo phải đáp ứng được yêu cầu cung cấp nguồn nhân lực cần thiết để thực hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Để giáo dục và đào tạo được phát triển thuận lợi thì việc ngăn ngừa, hạn chế những vi phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ rất quan trọng, góp phần để ổn định, xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng phấn khởi. Tuy nhiên, để bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định trong thời gian tới thì còn nhiều mặt phải bổ sung, kiện toàn và hoàn thiện, nhất là cơ chế thực hiện cho phù hợp với đặc điểm của tình hình địa phương và cần có những văn bản pháp quy nhằm cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước để đưa sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển hơn nữa, đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước và của tỉnh nhà.
Trong luận văn đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo, thực trạng thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo, các yêu cầu bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định. Kết quả nghiên cứu những vấn đề nói trên bước đầu đã cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ việc nghiên cứu và xây dựng các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định hiện nay, làm cơ sở cho việc phát triển hơn nữa sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh Bình Định trong thời gian đến.
Để đạt được những mong muốn trên, thì việc bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định hiện nay là một yêu cầu tất yếu khách quan. Do đó, các cấp ủy đảng và chính quyền ở tỉnh Bình Định cần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa của vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo để thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta: giáo dục là quốc sách hàng đầu; hoàn thiện pháp luật về giáo dục và đào tạo và các văn bản pháp quy về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định; đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về giáo dục và đào tạo; kiện toàn tổ chức và hoạt động về giáo dục và đào tạo; xây dựng cơ chế phù hợp và tạo lập môi trường xã hội thuận lợi trong việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo; bảo đảm điều kiện vật chất cho việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo; tăng cường công tác quản lý của Nhà nước trong thực hiện pháp luật giáo dục và đào tạo; đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý các vi phạm trong thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
Võ Thành Long (2005), "Xây dựng pháp luật phải đi đôi với thực hiện pháp luật", Báo Bình Định (2553), tr.5.
Võ Thành Long (2005), "Nhà nước cách mạng Việt Nam trong việc chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo", Kỷ yếu hội thảo Viện Nhà nước và pháp luật thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Chấp hành Trung ương (1996), Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII.
Ban Chấp hành Trung ương (2002),Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX.
Ban Chấp hành Trung ương (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX.
Ban Chấp hành Trung ương (2005), Dự thảo đề cương các văn kiện trình Đại hội X của Đảng, Lưu hành nội bộ.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định (2000), Văn kiện Đại hội lần thứ XVI Đảng bộ tỉnh Bình Định.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định (Khoá XV), Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (Khoá VIII).
Ban Tuyên Giáo Tỉnh uỷ Bình Định (2000), Báo cáo đánh giá tình hình 4 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 ( Khoá VIII ) về giáo dục - đào tạo.
Báo Bình Định số 144, ngày 9/4/2001, “Về sự nghiệp giáo dục - đào tạo tỉnh ta sau 15 năm đổi mới”.
Báo Bình Định số 1766, ngày 27/8/2002, “Những tiến bộ trong sự nghiệp giáo dục - đào tạo”.
Báo Bình Định số 1712, ngày 10/6/2002, “Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông yêu cầu cấp bách giáo dục hiện nay”
Đặng Quốc Bảo (2003), “Nhận diện một số khó khăn trong quản lý nhà nước đối với giáo dục nước ta hiện nay”, Tạp chí Quản lý giáo dục, (66), tr.5-6
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2001), Các văn bản pháp luật hiện hành về giáo dục và đào tạo Tập 1,2,3, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2003), “Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về nhiệm vụ của toàn ngành trọng năm học 2003-2004”, Tạp chí Giáo dục, (66), tr.2-4.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2004), Báo cáo về tình hình giáo dục, Lưu hành nội bộ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2004), Báo cáo tình hình thi hành Luật Giáo dục trong 5 năm 1998-2003 và những nội dung cần sửa đổi, bổ sung đối với các qui định của Luật Giáo dục, Lưu hành nội bộ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2004), “Kết quả thực hiện các nhiệm vụ phát triển giáo dục trong năm học 2003-2004 ”, Tạp chí Giáo dục, (94), tr.2-3.
Bộ Giáo đục và Đào tạo (2004), “Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về nhiệm vụ của toàn ngành trong năm học 2004-2005”, Tạp chí Giáo dục, (95), tr.2-4
Bộ Giáo dục và Đào tạo - Trung tâm Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam (1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
Cục Thống kê tỉnh Bình Định, Niên giám thống kê (từ năm 1998 đến năm 2004).
Lê Thị Kim Dung (2004), Hoàn thiện pháp luật về giáo dục ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân , Hà Nội.
Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân , Hà Nội.
Đại học Tổng hợp Hà Nội (1993), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Khoa Điềm (2002), “Nỗ lực phấn đấu toàn diện làm cho giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu”, Tạp chí Giáo dục, (67), tr.2-3.
Nguyễn Minh Đoàn (1997), Hiệu quả pháp luật - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Trần Khánh Đức (2003), “Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục - Chính sách và mô hình”, Tạp chí Giáo dục, (67), tr.3-6.
Trần Ngọc Đường (2004), “Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức thực hiện pháp luật - Nhiệm vụ trung tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (7), tr. 3-10.
Nguyễn Công Giáp (3/2003), “Đóng góp của giáo dục và đào tạo trong tăng trưởng kinh tế ”, Tạp chí Giáo dục, tr. 8-9.
Phạm Minh Hạc (2001), “Tiếp tục đổi mới và phát triển giáo dục - đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX ”, Tạp chí Giáo dục, (10), tr.3-5
Phạm Minh Hạc (1997), Giáo dục nhân cách đào tạo nhân lực, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Phạm Minh Hạc (2/2001), "Phát huy thành quả chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đẩy nhanh tốc độ và bảo đảm chất lượng phổ cập giáo dục trung học cơ sở ”, Tạp chí Cộng sản , (5), tr. 41-44.
Phạm Minh Hạc (9/2002), “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện”, Tạp chí Cộng sản, (25), tr. 22-27.
Phạm Minh Hạc (1/2004), “Phát triển con người bền vững là trọng điểm của chất lượng giáo dục ”, Tạp chí Khoa giáo, (1), tr.7-9.
Nguyễn Minh Hiển (4/2001), “Chống mù chữ và phổ cập giáo dục - sự nghiệp to lớn và lâu dài của toàn xã hội”, Tạp chí Cộng sản, (11), tr. 17-20.
Nguyễn Minh Hiển (8/2002), “Ngành giáo dục - đào tạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (Khoá VIII) và triển khai Nghị quyết Đại hội IX ”, Tạp chí Cộng sản, (22), tr.31-35.
Học viện Hành chính Quốc gia (2001), Lý luận chung về nhà nước và pháp luật , Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Lê Văn Hoè (2001), “Cải cách sâu rộng hơn hoạt động xây dựng pháp luật”, Tạp chí Lý luận chính trị , (2), tr.19-23.
T.A.Ilina (1973), Giáo dục học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Phạm Văn Kha (2003), "Tổ chức thực hiện chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010", Tạp chí Giáo dục, (53), tr.14-15.
Khoa Nhà nước và pháp luật - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Tài liệu học tập và nghiên cứu môn học lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, tập 1, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
V.I.Lênin (1970), Bàn về pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin, I.V.Stalin (1974), Về công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Nông Đức Mạnh (2002), “Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt hơn nữa những nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII)”, Tạp chí Giáo dục, (35), tr.1
Hồ Chí Minh (1998), Toàn tập , tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đặng Huỳnh Mai (2003), “Một số vấn đề cơ bản cần quan tâm khi triển khai đổi mới giáo dục bậc tiểu học”, Tạp chí Giáo dục, (54), tr.14-15
Nguyễn Văn Mạnh (2001), “Cải cách nền hành chính, thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Lý luận chính trị, (11), tr.12-16.
Phan Thanh Ngọc (2001), "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo ở tỉnh Bình Định", Tạp san Giáo dục - đào tạo Bình Định, (8), tr. 8 -10.
Lê Trung Quân (2004), Thực hiện pháp luật hoà giải cơ sở ở tỉnh Bình Thuận hiện nay - thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Trần Văn Quý (2002), Đổi mới và tiếp tục phát triển giáo dục và đào tạo ở Bình Định đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận văn cao cấp lý luận chính trị, Phân viện Đà Nẵng.
Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ về việc phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 ”.
Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Quốc hội (1998), Luật Giáo dục, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội (2002), Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Bình Định, Tổng kết năm học 1998 - 1999.
Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Bình Định, Tổng kết năm học 1999 - 2000.
Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Bình Định, Tổng kết năm học 2000 - 2001.
Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Bình Định, Tổng kết năm học 2001 - 2002.
Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Bình Định, Tổng kết năm học 2002 - 2003.
Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Bình Định, Tổng kết năm học 2003 - 2004.
Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Bình Định, Tổng kết năm học 2004 - 2005.
Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Bình Định, Kế hoạch nâng cao chất lượng giáo dục từ năm 2001-2005.
Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Bình Định (1998), Báo cáo tình hình thực hiện chủ trương xã hội hoá hoạt động giáo dục và đào tạo.
Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Bình Định (2002), Đề án chương trình kiên cố hoá trường lớp học ngành giáo dục - đào tạo Bình Định giai đoạn 2003-2005.
Vũ Xuân Thái (1998), Gốc và nghĩa tiếng Việt thông dụng, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
Chu Hồng Thanh (2004) “Một số vấn đề về hoàn thiện Luật Giáo dục”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (11), tr.9-12.
Nguyễn Đăng Tiến (2002), “Khái niệm giáo dục và vai trò quan trọng của giáo dục qua các thời kỳ lịch sử ”, Tạp chí Giáo dục, (36), tr.15-16
Tỉnh uỷ Bình Định (2002), Chỉ thị về việc đẩy mạnh thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Tỉnh uỷ Bình Định (2002), Chỉ thị về việc phát huy sức mạnh toàn dân xây dựng xã hội học tập từ cơ sở.
Tỉnh uỷ Bình Định (2004), Thông tri về việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng.
Tỉnh uỷ Bình Định (2005), Dự thảo tóm tắt Báo cáo Chính trị trình Đại hội XVII Đảng bộ tỉnh Bình Định.
Tỉnh ủy Bình Định, Sơ kết 2 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (Khoá VIII) và Nghị quyết 7 của Tỉnh uỷ (Khoá XV) về giáo dục-đào tạo.
Tỉnh ủy Bình Định, Kế hoạch thực hiện kết luận Hội nghị Trung ương 6 (Khoá IX) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 2 (Khoá VIII).
Đỗ Tiến Triển (1996), Thực hiện pháp luật trong hoạt động của lực lượng Công an nhân dân để bảo vệ trật tự an toàn xã hội ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Trường phổ thông dân tộc nội trú (2000), Phương pháp quản lý dạy và học phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc trong trường trung học phổ thông dân tộc nội trú.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Định (1998), Chỉ thị về việc đẩy mạnh công tác phổ cập giáo dục trung học cơ sở từ nay đến năm 2000.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Định (1998), Chỉ thị về việc duy trì, củng cố và phát triển thành quả về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Định (1998), Quyết định về việc ban hành qui định tạm thời một số chế độ ưu đãi đối với cán bộ, giáo viên, học sinh của ngành giáo dục-đào tạo Bình Định.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Định (1999), Chỉ thị về việc đẩy mạnh phát triển sự nghiệp giáo dục trong năm 1999-2000.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Định (1999), Quyết định ban hành qui định tạm thời về việc luân chuyển giáo viên tỉnh Bình Định.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Định (1999), Quyết định bổ sung một số biện pháp tăng cường quản lý việc dạy thêm, học thêm.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Định (2001), Phê duyệt đề án qui hoạch mạng lưới trường học ngành giáo dục-đào tạo Bình Định đến năm 2010.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Định (2002), Phê duyệt đề án điều chỉnh, qui hoạch mạng lưới trường học cho học sinh dân tộc thiểu số tỉnh Bình Định.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Định (2001), Phê duyệt đề án qui hoạch mạng lưới trường chuyên nghiệp và dạy nghề tỉnh Bình Định giai đoạn 2001-2010.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Định (2001), Phê duyệt đề án qui hoạch sử dụng đất đai phục vụ phát triển ngành giáo dục-đào tạo Bình Định đến năm 2010.
Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng (2002), Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1995), Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Vụ phổ biến giáo dục pháp luật - Bộ Tư pháp (1997), Một số vấn đề về phổ biến giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2737.doc