LờI NóI ĐầU
Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế việc chuyển đổi toàn bộ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường - nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước đã thu được những thành tựu quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Để thể chế hoá đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm xâ
73 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1337 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực hiện hợp đồng kinh tế - Thực trạng & kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y dựng hệ thống pháp luật, ban hành những văn bản pháp luật mới điều chỉnh hoạt động kinh tế theo cơ chế mới.
Một trong những văn bản pháp luật mới là pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã được Quốc hội thông qua ngày 25 tháng 9 năm 1989. Kể từ đó cho đến nay pháp lệnh hợp đồng kinh tế và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta. Những kết quả đã đạt được trong mấy năm qua đã chứng minh điều đó, song thực tế áp dụng hợp đồng kinh tế và các văn bản hướng dẫn thi hành đã và đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cần phải nghiên cứu kịp thời để sửa chữa với yêu cầu thực tiễn, đáp ứng kịp thời tình hình mới, tạo một hành lang pháp lý thuận lợi cho các chủ thể trong nền kinh tế tự do, năng động, sáng tạo và nhạy bén, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế từng bước đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Để đáp ứng yêu cầu đó, nhiều nhà khoa học nghiên cứu luật học và kinh tế đã có nhiều công trình nghiên cứu các vấn đề liên quan tới chế định hợp đồng kinh tế, song các công trình nghiên cứu đó chưa làm sáng tỏ một số vấn đề đang được nhiều người quan tâm xung quanh việc thực hiện hợp đồng kinh tế.
Với lý do nêu trên và trên cơ sở kiến thức của bản thân trong 4 năm học tập, nghiên cứu tại ngành Tư vấn pháp luật kinh tế trường Đại học dân lập Đông Đô với sự giúp đỡ của các thầy cô giáo tôi đã chọn đề tài “Thực hiện hợp đồng kinh tế – thực trạng và kiến nghị “ để làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành tư vấn pháp luật kinh tế cho mình.
Khi nghiên cứu đề tài này, tôi đi sâu vào nghiên cứu, phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành thông qua việc thực hiện hợp đồng kinh tế, đồng thời chỉ ra những điểm bất cập và đề xuất một số ý kiến nhằm góp phần làm cho chế định hợp đồng kinh tế phát huy được vai trò tích cực của mình trong nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, trong phạm vi của một bài khoá luận, tôi không có điều kiện nghiên cứu một cách kỹ lưỡng tất cả mọi vấn đề của việc thực hiện hợp đồng kinh tế một cách hệ thống, mà thay vào đó tôi chỉ tập trung phân tích đánh giá một số vấn đề cơ bản của việc thực hiện hợp đồng kinh tế trên phương diện lý luận và thực tiễn để góp phần vào việc hoàn thiện những quy định của pháp luật về chế định hợp đồng kinh tế.
Với mục đích và phạm vi nghiên cứu như vậy, bài khoá luận này được kết cấu thành 3 chương :
Chương I : Khái quát chung về hợp đồng kinh tế .
Chương II : Thực hiện hợp đồng kinh tế .
Chương III : Thực trạng và kiến nghị .
Toàn bộ nội dung của khoá luận đều tập trung vào làm sáng tỏ các mục tiêu mà khoá luận đã đặt ra. Các chương đã được phân định sắp xếp theo một logic để tập trung vào giải quyết các vấn đề .
Trong chương I tôi đã đề cập tới khái quát chung về hợp đồng kinh tế tôi tập trung trình bày 5 vấn đề :
-Định nghĩa hợp đồng kinh tế .
-Nguyên tắc giao kết hợp đồng kinh tế .
-Nội dung hợp đồng kinh tế .
-Phân loại hợp đồng kinh tế .
-Chủ thể hợp đồng kinh tế .
Trong đó tôi phân tích và so sánh với hợp đồng thương mại và hợp đồng dân sự để người đọc có một cách nhìn khái quát nhất về hợp đồng kinh tế nhưng cũng qua đó người đọc có một cách nhìn toàn diện và rõ nét nhất, nêu bật được các đặc trưng cơ bản của hợp đồng kinh tế mà người đọc không bị nhầm lẫn với hợp đồng thương mại hay hợp đồng dân sự. Bên cạnh đó, tôi đã phân tích những quy định bất hợp lý của pháp luật đối với 5 vấn đề nêu trên để các nhà lập pháp có những quy định điều chỉnh phù hợp hơn tạo cơ sở lý luận cho việc thực hiện hợp đồng kinh tế.
Chuyển sang chương II tôi đề cập tới 5 vấn đề sau:
-Khái niệm thực hiện hợp đồng kinh tế
-Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế
-Cách thức thực hiện hợp đồng kinh tế
-Vi phạm hợp đồng kinh tế - trách nhiệm tài sản đối với vi phạm hợp đồng kinh tế.
-Thay đổi, đình chỉ, thanh lý hợp đồng kinh tế.
Trong 5 vấn đề nêu trên, tôi tập trung đi sâu vào 4 vấn đề đang được nhiều người quan tâm và đang gây nhiều tranh luận.
Một là: Khái niệm thực hiện hợp đồng kinh tế
Hai là: Các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng kinh tế, trong đó tôi đề cập tới 3 biện pháp là: biện pháp hành chính, biện pháp kinh tế và biện pháp chế tài. Song tôi đi sâu vào biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng kinh tế bằng biện pháp kinh tế và chỉ ra những quy định chưa chặt chẽ, còn nhiều bất cập đối với các biện pháp bảo đảm kinh tế.
Ba là: Cách thức thực hiện hợp đồng kinh tế tôi đi sâu vào 2 phương thức cơ bản là:
-Đối với hợp đồng kinh tế có hiệu lực pháp luật thì sẽ thực hiện ra sao.
-Đối với hợp đồng kinh tế vô hiệu thì thực hiện như thế nào.
Bốn là: Vi phạm hợp đồng kinh tế - trách nhiệm tài sản đối với vi phạm hợp đồng kinh tế.
Đối với từng vấn đề tôi đều phân tích đánh giá và nêu ra những quy định của pháp luật hiện hành chưa phù hợp, chưa rành mạch, rõ ràng dẫn tới nhiều cách hiểu khác nhau, gây lúng túng không chỉ đối với các chủ thể tham gia trong quan hệ hợp đồng kinh tế mà còn ngay cả với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Chuyển tiếp sang chương III tôi đề cập tới 2 vấn đề là thực trạng và kiến nghị.
Với toàn bộ nội dung đã nêu ở 3 chương, tôi muốn cung cấp cho người đọc một cách nhìn khách quan về thực pháp luật hợp đồng kinh tế nước ta hiện nay và vấn đề thực hiện hợp đồng kinh tế giữa lý luận và thực tiễn. Qua đó ở phần kết luận tôi có nêu ra một số kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền góp phần hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế. Đó là:
-Cần định nghĩa hợp đồng kinh tế một cách bao quát hơn để bao trùm hết các lĩnh vực cần điều chỉnh.
-Cần phải mở rộng hơn về chủ thể có trong pháp luật hợp đồng kinh tế hiện hành.
-Phải có quy định rõ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng kinh tế.
-Phải có quy định đầy đủ và cụ thể hơn về thế chấp tài sản.
-Nên quy định thêm biện pháp ký quỹ trong bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, phương pháp cơ bản được sử dụng là phương pháp tính tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tế, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm thực tiễn. Khoá luận cũng tham khảo và sử dụng nhiều tài liệu và bài viết của các chuyên gia pháp luật.
Mặc dù có nhiều cố gắng và nỗ lực song bài khoá luận này không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Vì vậy, em rất mong được sự chỉ đạo, quan tâm góp ý của các thầy cô giáo và các bạn để nâng cao nhận thức.
CHƯƠNG I KHái QUáT CHUNG Về HợP ĐồNG KINH Tế
Để tìm hiểu những vấn đề pháp lý cơ bản nhất của việc thực hiện hợp đồng kinh tế chúng ta cần làm rõ khái niệm hợp đồng kinh tế là gì ? Những nguyên tắc có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể khi thực hiện hợp đồng kinh tế. Cũng như các chủng loại hợp đồng khác, hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận giữa các bên nhằm xác lập, chấm dứt, thay đổi những quyền và nghĩa vụ pháp lý trong những quan hệ kinh doanh cụ thể.
Trong hợp đồng yếu tố cơ bản nhất là sự thoả hiệp giữa các ý chí tức là sự ưng thuận giữa các bên với nhau. Nguyên tắc này được các luật gia gọi là nguyên tắc hiệp ý và được coi là một tiến bộ của kỹ thuật pháp lý hiện đại. Hợp đồng có thể giao kết giữa những người ở cách xa nhau bằng Tebx. Nguyên tắc hiệp ý là hệ quả tất yếu của tự do hợp đồng, khi giao kết hợp đồng các bên được tự do quy định nội dung của hợp đồng, tự do xác định phạm vi nghĩa vụ của các bên. Đương nhiên tự do hợp đồng ở tất cả các nước trên thế giới không phải là tự do tuyệt đối đây là sự tự do trong giới hạn pháp luật. Nhà nước buộc các bên khi giao kết hợp đồng phải tôn trọng trật tự xã hội, trật tự công cộng. Nhân danh tổ chức quyền lực công Nhà nước có thể can thiệp vào việc ký kết hợp đồng và do đó giới hạn quyền tự do giao kết hợp đồng.
Trong nền kinh tế thị trường phải đề cao yếu tố thoả thuận trong giao kết hợp đồng. Tất cả các hợp đồng đều là sự thoả thuận. Tuy nhiên từ kết luận này không thể suy luận ngược lại : Mọi sự thoả thuận giữa các bên đều coi là hợp đồng. Chỉ được coi là hợp đồng những thoả thuận thực sự phù hợp với ý chí của các bên, tức là có sự ưng thuận đích thực giữa các bên. Hợp đồng kinh tế là giao dịch pháp lý hợp pháp do vậy sự ưng thuận ở đây phải là sự ưng thuận hợp lẽ công bằng, hợp pháp luật, hợp đạo đức. Các hợp đồng được giao kết dưới tác động của sự lừa dối, cưỡng bức, đe doạ hay mua chuộc là không có sự ưng thuận đích thực. Pháp luật của tất cả các nước đều quy định trong những trường hợp có sự lừa dối, đe doạ, cưỡng bức thì dù có thoả thuận cũng không được coi là hợp đồng, tức là có sự vô hiệu của hợp đồng. Sự thoả thuận không thể hiện ý chí thực của các bên thì không làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý.
ý chí phát sinh nghĩa vụ khi nào người giao kết có đầy đủ năng lực hành vi để thành lập hợp đồng. Các bên giao kết hợp đồng thông qua người đại diện của mình. Đó là người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo uỷ quyền. Người đại diện chỉ được giao kết hợp đồng trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Phạm vi thẩm quyền đại diện được quy định bởi pháp luật, điều lệ của tổ chức kinh tế hoặc văn bản uỷ quyền. Các hợp đồng do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với tổ chức và cá nhân được đại diện (trừ trường hợp được người đại diện chấp nhận ).
Yếu tố thứ 3 của hợp đồng chính là đối tượng. Mọi hợp đồng phải có đối tượng xác thực. Đối tượng của hợp đồng phải được xác định rõ rệt, phải có thể thực hiện được. Đối tượng của hợp đồng phải hợp pháp tức là dịch vụ hoặc tài sản là đối tượng của hợp đồng không bị pháp luật cấm đoán. Nếu đối tượng của hợp đồng là bất hợp pháp thì hợp đồng bị coi là vô hiệu.
Một khi hợp đồng được thành lập một cách hợp pháp thì có hiệu lực đối với các bên giao kết. Đây là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp hợp đồng được thừa nhận chung trên thế giới. Sau khi hợp đồng được thành lập với đầy đủ các yếu tố thì hợp đồng có hiệu lực ràng buộc như pháp luật, các bên bắt buộc phải thực hiện mọi cam kết trong hợp đồng, mọi sự vi phạm sẽ dẫn đến trách nhiệm tài sản mà bên vi phạm phải gánh chịu. Hợp đồng được thành lập một cách hợp pháp với cả cơ quan tổ chức được giao thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế. Khi giải quyết tranh chấp kinh tế, xử lý các vi phạm hợp đồng toà án hoặc trọng tài phải căn cứ vào các điều khoản mà các bên đã thoả thuận trong hợp đồng để ra bản án, hoặc quyết định công bằng đúng đắn.
I. Định nghĩa về hợp đồng kinh tế
ở Việt Nam thuật ngữ “Hợp đồng kinh tế “ lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1960. Khái niệm này được ghi nhận tại điều 1 bản điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế năm 1960 như sau: “Hợp đồng kinh tế là hợp đồng về sản xuất về cung cấp và tiêu thụ hàng hoá về vận tải, xây dựng và bao thầu ... Về nguyên tắc ký kết, điều 2 coi ký kết hợp đồng là một kỷ luật bắt buộc trong quan hệ kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh, các cơ quan Nhà nước“.
Cơ sở để ký kết là chi tiêu kế hoạch Nhà nước. Hợp đồng kinh tế chỉ được điều chỉnh hay huỷ bỏ khi Nhà nước điều chỉnh hay huỷ bỏ chỉ tiêu của Nhà nước.
Qua tìm hiểu bản điều lệ tạm thời năm 1960 thì ta thấy khái niệm hợp đồng kinh tế ở đây rất chung chung. Trong suốt một thời gian dài hợp đồng kinh tế bị coi là một công cụ để để thực hiện kế hoạch của Nhà nước. Rõ ràng hợp đồng kinh tế bị mất đi giá trị đích thực của nó, vì lợi ích của các bên trong quan hệ hợp đồng kinh tế ít được quan tâm. Việc thực hiện hợp đồng kinh tế trước hết là nghĩa vụ của hai bên ký kết đối với Nhà nước. Chính vì thế mà các việc xử lý vi phạm hợp đồng đặc biệt là các biện pháp bảo đảm thi hành hợp đồng không được bản điều lệ này đề cập tới.
Sau 15 năm thực hiện chế độ hợp đồng kinh tế theo điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế năm 1960 thì đến ngày 10/3/1975 lại cho ra đời một bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế mà ở bản điều lệ này khái niệm hợp đồng kinh tế được quy định như sau:
“Hợp đồng kinh tế là một công cụ pháp lý của Nhà nước trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế XHCN”. Nó góp phần quan trọng trong việc kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, gắn liền với công tác quản lý của nhà nước với sự tự chịu trách nhiệm của các tổ chức kinh tế cơ sở. Nó xác lập và thắt chặt mối quan hệ hợp tác XHCN giữa các bên có liên quan đến việc ký kết hợp đồng kinh tế và thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký kết, quy định rõ nghĩa vụ và chịu trách nhiệm cụ thể của từng bên đối với nhau và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên ký kết, giúp đỡ các bên chuẩn bị kế hoạch và xây dựng kế hoạch một cách vững chắc, thực hiện thắng lợi kế hoạch Nhà nước với hiệu quả kinh tế cao nhất “.
Vẫn với quan điểm hướng nền kinh tế là một công cụ để thực hiện kế hoạch nêu tại điều 2 bản điều lệ quy định ký kết hợp đồng kinh tế là một điều lệ Nhà nước .
Trong một thời gian dài, nền kinh tế nước ta quản lý theo lối kế hoạch hoá tập trung bao cấp nên có những quan niệm về hợp đồng kinh tế sai lệch, nó không thể hiện được giá trị đích thực của hợp đồng kinh tế với tính cách là hình thức pháp lý của các quan hệ kinh tế. Và khi đất nước ta chuyển sang cơ chế thị trường thì các khái niệm hợp đồng kinh tế nêu trên không còn phù hợp nữa mà tất cả các thành phần kinh tế trong quan hệ hợp đồng đều quan tâm đến lợi ích kinh tế, nó xác lập mối quan hệ trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Buộc các nhà lập pháp nước ta phải xem xét hợp đồng kinh tế dưới nhiều góc độ để đưa ra một khái niệm hợp đồng kinh tế phù hợp với nền kinh tế hiện thời. Theo phương diện khách quan HĐKT là tổng hợp các quy phạm pháp luật điểu chỉnh các quan hệ kinh tế giữa các đơn vị kinh tế (còn gọi là chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế ).
Là một chế định đặc thù của pháp luật về kinh doanh chế độ hợp đồng kinh tế quy định : Các nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế, điều kiện cụ thể của HĐKT, các điều kiện có hiệu lực của HĐKT, các nguyên tắc và nội dung thực hiện HĐKT, các điều kiện và giải quyết hậu quả của việc thay đổi, huỷ bỏ, đình chỉ HĐKT, trách nhiệm do vi phạm HĐKT.
Theo phương diện chủ quan: HĐKT là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất trao đổi hàng hoá dịch vụ nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình.
Như vậy thực chất HĐKT ở đây là gì ? Theo quy định của pháp luật hiện hành thì HĐKT ở đây được hiểu là một văn bản bao gồm tất cả các điều khoản được xác lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và phải có sự nhất trí của các bên ký kết nhằm mục đích kinh doanh trong dó thể hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của các bên đối với nhau.
Hơp đồng kinh tế theo pháp lệnh HĐKT (25-9-1989) là một hình thức pháp lý của quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá tiền tệ thể hiện được đầy đủ các yếu tố đặc trưng vốn có của HĐKT. Nó là một bước tiến mới của pháp luật HĐKT ở nước ta. Nó khác hẳn với HĐKT trước đây – HĐKT trước đây không chỉ thuần tuý mang yếu tố tài sản mà nó còn thể hiện yếu tố tổ chức kế hoạch, nó phải phục tùng ý chí của Nhà nước, Đặt lợi ích của Nhà nước lên hàng đầu trên cả lợi ích của hai bên ký kết. Thực tiễn lịch sử phát triển HĐKT nước ta đã chứng minh việc ra đời pháp lệnh HĐKT năm 1989 là phù hợp với quy luật khách quan. Bởi mỗi một cơ chế kinh tế, một mô hình kinh tế đều có một kiểu pháp luật HĐKT, các quan hệ kinh tế quyết định sự điều chỉnh của pháp luật đối với quan hệ kinh tế ấy.
II. Về nguyên tắc giao kết hợp đồng kinh tế
Các bên tham gia trong quan hệ hợp đồng phải được ký kết trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ và chỉ như vậy các bên mới xác lập được hợp đồng kinh tế có giá trị ràng buộc nhau. Điều này đòi hỏi các bên giao kết hợp đồng phải thể hiện ý chí chung đích thực. Mọi thoả thuận không phản ánh đúng ý chí của các bên ký kết hợp đồng thì hợp đồng kinh tế đó không có hiệu lực pháp luật hay vô hiệu.
Pháp luật nước ta mặc dù chưa có quy định về hợp đồng kinh tế vô hiệu do bị lừa dối, bị nhầm lẫn, bị đe doạ nhưng tất cả các hợp đồng được xác lập do bị nhầm lẫn, bị lừa dối đều coi là vô hiệu vì nó không đáp ứng điều kiện này.
1.Nguyên tắc tự nguyện
Nội dung chính của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ : Việc ký kết hợp đồng kinh tế phải dựa trên cơ sở tự do ý chí của các bên trong quan hệ hợp đồng: bất kỳ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào đều không được áp đặt ý chí của mình cho các bên tham gia trong quan hệ hợp đồng. Khi xác lập quan hệ hợp đồng các chủ thể có quyền tự do lựa chọn bán hàng, thời điểm ký kết và bàn bạc, thoả thuận nội dung hợp đồng. Điều 4 pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định rõ: "Ký kết HĐKT là quyền của các đơn vị kinh tế ". Đây là một quy định thể hiện sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước ta, từ chỗ ký kết hợp đồng kinh tế là nghĩa vụ bắt buộc thì nay ký kết hợp đồng kinh tế đã trở thành quyền lợi của các chủ thể. Nguyên tắc tự nguyện được thể hiện trong nội dung của nhiều điều khoản của pháp lệnh hợp đồng kinh tế và các văn bản về HĐKT.
Tuy nhiên, các bên khi sử dụng quyền ký kết hợp đồng phải tuân theo các quy định.
-Không được phép lợi dụng ký kết hợp đồng kinh tế để hoạt động trái phép.
-Đối với các tổ chức kinh tế có chức năng sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực thuộc đặc quyền của Nhà nước thì không được lợi dụng quyền ký kết hợp đồng để đòi hỏi những điều kiện bất bình đẳng đối với bạn hàng.
Quyền ký kết hợp dồng kinh tế của các tổ chức kinh tế bao gồm cả quyền được từ chối mọi sự áp đặt của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào trong việc ký kết hợp đồng kinh tế.
Riêng đối với loại hợp đồng kinh tế được ký kết theo chỉ tiêu pháp lệnh thì việc ký kết là kỷ luật của Nhà nước. Điều 3 quyết định số 18-HĐBT ngày 16-1-1990 của HĐBT (nay là chính phủ) quy định : “Ký kết hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh là nghĩa vụ của các đơn vị kinh tế được giao chỉ tiêu pháp lệnh. Trong trường hợp này, việc bảo đảm đủ các điều kiện cần thiết để ký kết các hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh như : giao chỉ tiêu đúng kỳ hạn, đồng bộ, cân đối giữa sản xuất với tiêu thụ, sản xuất với nguyên liệu, vật tư do Nhà nước quản lý ... là nghĩa vụ của cơ quan trực tiếp giao chỉ tiêu pháp lệnh cho đơn vị kinh tế.
2. Nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi
Trong quan hệ kinh doanh thì lợi ích chính là động lực thúc đẩy hành động của các chủ thể. Theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, các bên tự nguyện cùng nhau xác lập quan hệ hợp đồng phải đảm bảo nội dung của các quan hệ đó, thể hiện được sự tương ứng về quyền và nghĩa vụ, bảo đảm lợi ích kinh tế của các bên. Trong nền kinh tế thị trường các tổ chức thuộc bất kỳ thành phần kinh tế nào đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng.
Sự bình đẳng nói ở đây là sự bình đẳng pháp lý, sự bình đẳng theo pháp luật, chứ không phải là sự bình đẳng kinh tế. Đem pháp luật với tính cách là một đại lượng chung ta đo hành vi sử xự của chủ thể kinh tế có tiềm lực kinh tế khác nhau đã bao hàm trong đó sự bất bình đẳng. Nhưng để bảo đảm trật tự và ổn định trong quan hệ kinh tế và quan hệ hợp đồng không thể dùng thước đo pháp luật.
3. Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản.
Trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản có ý nghĩa là các bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế phải tự gánh vác trách nhiệm tài sản gồm phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại khi có hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế đã đăng ký. Các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế khác không thể đứng ra chịu trách nhiệm tài sản thay cho bên vi phạm.
4. Nguyên tắc không trái với pháp luật đòi hỏi việc ký kết.
Điều này có nghĩa là mọi thoả thuận trong hợp đồng phải hoàn toàn phù hợp với những quy định của pháp luật, không được lợi dụng ký kết hợp đồng kinh tế để hoạt động trái pháp luật. Đây là điều có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực hợp đồng kinh tế.
Các nguyên tắc của hợp đồng kinh tế được ghi nhận trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 đã thể hiện sự đổi mới trong nhận thức của mỗi chúng ta về hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên chung quanh các nguyên tắc này cũng có một số vấn đề được phân tích để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện.
Thứ nhất: Về nguyên tắc chịu trách nhiệm tài sản trong điều kiện kinh tế thị trường có nhiều trường hợp bên tham gia hợp đồng kinh tế không trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản. Đó là trường hợp cơ quan Nhà nước tổ chức kinh tế đứng ra chịu trách nhiệm tài sản thay cho bên vi phạm mà họ có khả năng. Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản không phù hợp với biện pháp bảo lãnh, theo đó người thứ ba cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện thay cho bên có nghĩa vụ.
Thứ hai: Trong điều kiện hiện nay, các văn bản pháp luật của Nhà nước trong đó có hiến pháp 1992 đã ghi nhận quyền tự do kinh doanh của các công dân, các doanh nghiệp. Một trong những nội dung không thể thiếu của quyền tự do kinh doanh chính là tự do hợp đồng. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế chưa khẳng định nguyên tắc tự do hợp đồng là không phù hợp với cơ chế mới. Do vậy, theo chúng tôi trong quan hệ hợp đồng kinh tế cũng phải khẳng định nguyên tắc tự do ký kết hợp đồng.
Thứ ba: Ngoài các nguyên tắc tự do, bình đẳng, tự nguyện trang pháp luật hợp đồng kinh tế cần ghi nhận các nguyên tắc khác nữa như: thiện chí, hợp tác chung thực và ngay thẳng cho phù hợp với hình thức và bản chất của hợp đồng, hình thức pháp lý của các quan hệ ngang nhau mang tính chất hàng hoá tiền tệ giữa các chủ thể kinh doanh.
Thứ tư: Trong thực tế hiện nay còn một loại hợp đồng trong đó một bên không được bàn bạc, thương lượng gì về các điều khoản của hợp đồng, họ bắt buộc phải ký kết hợp đồng vì không còn cách nào khác. Đó là những hợp đồng chuyên chở vận tải hàng không, hợp đồng cung cấp điện nước dịch vụ điện thoại ... Đối với những loại hợp đồng này khó có thể nói đến sự bình đẳng của các bên. Do vậy, Nhà nước cần có sự điều chỉnh thích hợp. Phải quy định rõ những điều khoản mà bên công ty điện lực, công ty cung cấp nước sạch, công ty bưu chính viễn thông phải làm hoặc những điều họ không được làm để ngăn ngừa ý chí áp đặt của họ đối với bạn hàng.
III. Chủ thể của hợp đồng kinh tế phải hợp pháp
Chủ thể của HĐKT là các bên tham gia vào quan hệ HĐKT hoàn toàn bình đẳng, tự nguyện thoả thuận để xác lập những quyền và nghĩa vụ đối với nhau: chủ thể của hợp đồng kinh tế có thể là cá nhân có thể là pháp nhân đảm bảo các điều kiện mà pháp luật quy định.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam tại Đ2 ,Đ42 ,Đ43 pháp lệnh HĐKT và tại Đ1 (NĐ 17) hợp đồng kinh tế quy định chi tiết thi hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 16\1\1990 mà dưới đây gọi tắt là NĐ 17 thì chủ thể của HĐKT bao gồm:
Pháp nhân, cá nhân (có đăng ký kinh doanh) người làm công tác khoa học kỹ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ngư dân, cá thể, tổ chức cá nhân nước ngoài tại Việt Nam. Nhưng chủ thể của HĐKT ít nhất một bên phải là pháp nhân.
Khi tiến hành ký kết HĐKT, mỗi bên tham gia quan hệ HĐKT phải cử ra một người đại diện hợp pháp để ký kết hợp đồng kinh tế .
Đại diện hợp pháp có hai trường hợp: Đại diện đương nhiên (hay còn gọi là đại diện hợp pháp theo luật) và đại diện hợp pháp theo uỷ quyền.
1.Đại diện hợp pháp đương nhiên
Theo quy định tại pháp lệnh HĐKT, NĐ 17, Thông tư 11 TT/PL ngày 25-5-1992 thì đại diện đương nhiên được quy định như sau:
Nếu bên ký kết là pháp nhân thì người đại diện đương nhiên là người đứng đầu pháp nhân do bổ nhiệm hay được bầu và là người đang giữ chức vụ đó.
Nếu bên ký kết là cá nhân (có đăng ký kinh doanh) thì người đại diện đương nhiên sẽ là người đứng tên trong đăng ký kinh doanh.
Nếu bên ký kết là người làm công tác khoa học, nghệ nhân thì người đại diện đương nhiên là người trực tiếp thực hiện công việc trong hợp đồng. Nếu có nhiều người cùng làm thì sẽ cử ra một người soạn thảo bằng văn bản trong đó có tất cả chữ ký của những người đó và phải đính kèm bản HĐKT.
Nếu bên ký kết là hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ngư dân, cá thể thì người đại diện đương nhiên là chủ hộ.
Nếu một bên là tổ chức nước ngoài tại Việt Nam thì người đại diện là người đại diện đương nhiên đứng đầu tổ chức đó và phải được uỷ quyền bằng văn bản.
Còn nếu là cá nhân nước ngoài tại Việt Nam thì người đại diện chính là cá nhân đó.
2.Đại diện hợp pháp theo uỷ quyền
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì người đại diện hợp pháp theo luật có thể uỷ quyền cho người khác thay mình ký kết hợp đồng kinh tế. Việc uỷ quền đó phải được lập thành văn bản.
Văn bản uỷ quyền phải được ghi rõ họ tên, chức vụ, nơi làm việc, số chứng minh nhân dân của người uỷ quyền và người được uỷ quyền. Văn bản uỷ quyền phải ghi rõ tính chất, nội dung, phạm vi và thời hạn uỷ quyền. Văn bản uỷ quyền phải có chữ ký của người uỷ quyền và người được uỷ quyền.
Người được uỷ quyền chỉ được ký kết những nội dung đã được uỷ quyền, không được vượt quá phạm vi nội dung được uỷ quyền và không được uỷ quyền cho người thứ ba.
Trong phạm vi đã uỷ quyền người uỷ quyền phải gánh chịu trách nhiệm về hành vi của người được uỷ quyền cũng như hành vi của chính mình.
Đối với các HĐKT được ký kết dưới hình thức giao dịch tài liệu, thì không được áp dụng cách ký kết theo chế định uỷ quyền.
Qua việc phân tích các quy định về người ký hợp đồng kinh tế phải là người đại diện hợp pháp của pháp nhân, chúng tôi thấy khái niệm “đại diện hợp pháp” dùng chưa được chính xác. Thường thì đại diện hợp pháp của pháp nhân chính là người đại diện mà pháp nhân uỷ quyền thay mặt pháp nhân trong các quan hệ, kể cả quan hệ HĐKT.
Việc sử dụng thuật ngữ này trong các văn bản về hợp đồng kinh tế của nước ta gây khó khăn trong cách hiểu về đại diện hợp pháp trong các quan hệ pháp luật cụ thể, nhất là trong quan hệ với các tổ chức kinh tế nước ngoài. Do vậy cần quy định như sau:
Pháp nhân có thể ký kết HĐKT thông qua đại diện theo pháp luật và theo uỷ quyền. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là người đứng đầu pháp nhân và chỉ được ký kết hợp đồng trong phạm vi thẩm quyền đại diện do pháp luật và điều lệ của pháp nhân quy định. Người được uỷ quyền chỉ được ký kết HĐKT trong phạm vi uỷ quyền mà người được uỷ quyền và người uỷ quyền đã thoả thuận, việc uỷ quyển phải được thông báo cho bên cùng ký kết hợp đồng.
Riêng ở phần này ta còn thấy quy định hiện hành có khiếm khuyết lớn là không quy định trách nhiệm đối với việc thực hiện hợp đồng là của người được uỷ quyền ký hay là người đứng đầu pháp nhân. Các văn bản pháp luật HĐKT trước pháp lệnh ngày 25-9-1989 đều có quy định rất rõ: Thủ trưởng đơn vị ký kết có thể uỷ quyền cho người khác ký thay nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm như chính mình ký.
IV. Nội dung của hợp đồng kinh tế phải hợp pháp
Nội dung của HĐKT là toàn bộ các điều khoản mà hai bên ký kết HĐKT thoả thuận hình thành sau khi đã bàn bạc thương lượng trên cơ sở tự nguyện, tự do ý chí của các bên, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể đối với nhau nhưng không được vi phạm điều cấm của pháp luật và phù hợp với chức năng hoạt động kinh doanh của các chủ thể. Điều đó sẽ quyết định tính thực hiện và hiệu lực pháp lý của hợp đồng. Các điều khoản trong hợp đồng phải được thể hiện rõ ràng cụ thể, ý chí của các bên phải được khẳng định không mập mờ mâu thuẫn. Thể hiện quyền và nghĩa vụ ràng buộc giữa các bên với nhau.
Về phương diện khoa học pháp lý, căn cứ vào tính chất vai trò của các điều khoản, nội dung của HĐKT được chia thành ba điều khoản sau:
Điều khoản chủ yếu
Điều khoản thường lệ
Điều khoản tuỳ nghi
1. Điều khoản chủ yếu
Điều khoản chủ yếu là những điều khoản cơ bản, quan trọng nhất của hợp đồng kinh tế, khi xác lập hợp đồng bắt buộc các bên phải thoả thuận trong quá trình ký kết hợp đồng và ghi các điều khoản chủ yếu vào văn bản hợp đồng, nếu không ghi các điều khoản đó vào hợp đồng thì hợp đồng đó không có giá trị.
2. Điều khoản thường lệ
Điều khoản thường lệ là điều khoản đã được pháp luật ghi nhận trong các văn bản pháp luật và được tập quán kinh doanh thừa nhận. Nếu các bên không thoả thuận và không ghi vào trong văn bản hợp đồng thì coi như các bên đã mặc nhiên thừa nhận và có ý nghĩa thực hiện các quy định đó. Nếu các bên thoả thuận và ghi vào trong văn bản hợp đồng thì không được ghi trái với quy định của pháp luật.
3. Điều khoản tuỳ nghi
Là điều khoản do các bên tự thoả thuận với nhau khi chưa có quy định của pháp luật hoặc đã có quy định của pháp luật nhưng các bên được phép vận dụng linh hoạt vào hoàn cảnh thực tế của mình và không được trái với những quy định của pháp luật. Điều khoản này các bên cũng phải ghi vào văn bản hợp đồng.
Theo điều 12 pháp lệnh HĐKT, nội dung của HĐKT bao gồm các điều khoản cụ thể sau:
-Ngày, tháng, năm ký kết HĐKT, tên, địa chỉ, số tài khoản ngân hàng giao dịch của các bên. Họ tên người đại diện, người đứng tên đăng ký kinh doanh.
-Đối tượng của HĐKT tính bằng số lượng, khối lượng hoặc giá trị quy ước đã thoả thuận.
-Chất lượng, chủng loại, quy cách phẩm chất, tính đồng bộ của sản phẩm hàng hoá hoặc yêu cầu kỹ thuật của công việc.
-Giá cả
-Bảo hành
-Điều kiện nghiệm thu giao nhận
-Phương thức hạch toán
-Trách nhiệm do vi phạm HĐKT
-Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng
-Các biện pháp bảo đảm thực hiện HĐKT
-Các thoả thuận khác.
Trong tất cả các điều khoản nêu trên thì 4 điều khoản đầu là 4 điều khoản chủ yếu bắt buộc phải có trong bất cứ HĐKT nào, những điều khoản còn lại tuỳ theo từng HĐKT mà chúng là điều khoản chủ yếu hoặc không là điều khoản chủ yếu. Có loại điều khoản là điều khoản chủ yếu đối với hợp đồng kinh tế này và không là điều khoản chủ yếu đối với loại hợp đồng kinh tế khác. Song để đảm bảo tính hợp pháp về mặt nội dung của HĐKT thì các chủ thể tham gia ký kết HĐKT đó phải thoả thuận các điều khoản nói trên không trái với quy định của pháp luật.
V. Hình thức của hợp đồng kinh tế phải hợp pháp
Hình thức của HĐKT là phương thức thể hiện nội dung của hợp đồng. Đối với từng loại hợp đồng khác nhau pháp luật có thể quy định những hình thức ký kết hợp đồng phù hợp theo quy định của nước ta thì HĐKT phải được thể hiện dưới hình thức văn bản hay tải liệu giao dịch khác mang tính văn bản có chữ ký của các bên xác nhận với nội dung trao đổi, thoả thuận như: công văn, đơn chào hàng, đơn đặt hàng, giấy chấp nhận ... thì hình thức đó mới được coi là hình thức hợp pháp của HĐKT, nếu HĐKT không đáp ứng được điều kiện này thì HĐKT đó trở thành vô hiệu, tức là không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với các._. bên.
VI. Phân loai hợp đồng kinh tế
1.Căn cứ vào tính chất hàng hoá- tiền tệ của mối quan hệ HĐKT phân thành:
Hợp đồng kinh tế mang tính chất đền bù là loại hợp đồng theo đó một bên có nghĩa vụ giao hàng và kết quả công việc, hoạt động dịch vụ đã thoả thuận, còn bên kia có nghĩa vụ nhận hàng, kết quả đó và thanh toán (quyền của bên này tương xứng với nghĩa vụ của bên kia và ngươc lại). Loại hợp đồng này trực tiếp phản ánh mối quan hệ hàng hoá tiền tệ và được sử dụng thường xuyên trong các lĩnh vực mua bán vật tư, tiêu thụ sản phẩm, nghiên cứu khoa học, vận chuyển hàng hoá, xây dựng cơ bản và các hoạt động kinh doanh khác.
Hợp đồng kinh tế mang tính chất tổ chức là loại hợp đồng theo đó trên cơ sở sự đồng ý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền các chủ thể của hợp đồng kinh tế thoả thuận thành lập ra một tổ chức kinh tế mới để thực hiện mục đích chung của họ.
Hợp đồng kinh tế mang tính tổ chức không phản ánh mối quan hệ hàng hoá tiền tệ, nó được ký kết nhằm thực hiện các mục tiêu của liên kết kinh tế. Chủ thể của hợp đồng này bắt buộc phải có tư cách pháp nhân đầy đủ, không phân biệt về quan hệ sở hữu và quan hệ quản lý.
Mục tiêu của liên kết kinh tế là tạo mối quan hệ kinh tế ổn định thông qua các hợp đồng kinh tế của các quy chế hoạt động của từng tổ chức liên kết, để tiến hành phân công sản xuất chuyên môn hoá và hợp tác hoá nhằm khai thác tốt tiềm năng của đơn vị tham gia liên kết, góp phần nâng cao sản lượng chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế và tạo ra thị trường chung nhằm bảo vệ lợi ích của nhau, có khoản thu nhập cao nhất đồng thời tăng nguồn thu ngân sách cho Nhà nước.
2. Căn cứ vào thời hạn của hợp đồng phân thành
Hợp đồng kinh tế dài hạn là hợp đồng có thời hạn từ một năm trở lên.
Hợp đồng kinh tế ngắn hạn là những hợp đồng có thời hạn từ một năm trở xuống (tháng, quý,hoặc một số ngày cụ thể).
3. Căn cứ vào tính kế hoạch của hợp đồng phân thành
Hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh là loại hợp đồng được ký kết dựa trên các chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước giao, ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh là nghĩa vụ của các đơn vị kinh tế đối với nhau và là nghĩa vụ bắt buộc đối với Nhà nước.
HĐKT không theo chỉ tiêu pháp lệnh là loại hợp đồng được ký dựa trên nguyên tắc tự nguyện giữa các bên. Việc ký kết các hợp đồng này là quyền của các đơn vị kinh tế, không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được áp đặt ý chí của mình cho các đơn vị khi ký kết hợp đồng.
Việc ký kết hợp đồng này không phải căn cứ vào chỉ tiêu pháp lệnh, nhưng nó là cơ sở để xây dựng kế hoạch và là công cụ để thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế.
4. Căn cứ vào nội dung cụ thể của mối quan hệ kinh tế ta có:
Hợp đồng mua bán hàng hoá
Hợp đồng liên doanh liên kết
Hợp đồng vận chuyển hàng hoá
Hợp đồng giao nhận thầu xây dựng cơ bản
Hợp đồng kinh tế dịch vụ
Hợp đồng nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật
Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu
Các loại hợp đồng uỷ thác và dịch vụ khác
5. Căn cứ vào hiệu lực pháp luật ta có
a)Hợp đồng kinh tế có hiệu lực pháp luật
Như đã nói ở trên HĐKT là sự thoả thuận nhằm mục đích kinh doanh. Tuy nhiên không phải sự thoả thuận nào nhằm mục đích kinh doanh cũng được coi là hợp đồng kinh tế mà nó phải đáp ứng đầy đủ các quy định của pháp luật thì mới được coi là một bản HĐKT có hiệu lực pháp luật. Sở dĩ nhắc đến điều này vì chỉ có những HĐKT có giá trị pháp luật mới có giá trị thực hiện còn không có giá trị pháp luật thì không có giá trị thực hiện. Mà nếu ai thực hiện HĐKT vô hiệu thì sẽ bị xử lý theo pháp luật. Điều đó giúp ta giải quyết vấn đề mà ta đề cập ở chương II.
Như vậy, một câu hỏi đặt ra HĐKT phải đáp ứng được những điều kiện gì thì mới được coi là HĐKT có hiệu lực pháp luật ?
Khi xây dựng pháp luật về hợp đồng, các quốc gia đều quan tâm đến các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, hoặc về hợp đồng vô hiệu. Các quy định có tác dụng đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng, bảo đảm và ổn định trật tự lưu thông, ổn định các quan hệ xã hội. Một hợp đồng muốn có hiệu lực pháp luật phải đảm bảo các điều kiện, các đòi hỏi nhất định của pháp luật.
Thông thường người ta quan tâm tới ba yếu tố
Năng lực chủ thể
Nội dung của hợp đồng
Hình thức của hợp đồng
Theo quan niệm chung của các nước, khi xuất hiện khái niệm của hợp đồng thì cũng là lúc xuất hiện khái niệm hợp đồng có hiệu lực và khái niệm hợp đồng vô hiệu.
Theo pháp luật chung của các nước đều công nhận nguyên tắc : “Các thoả thuận được hình thành một cách hợp pháp có giá trị ràng buộc đối với người ký kết nó” tức là khi thiết lập một bản hợp đồng các thoả thuận đó phải phù hợp với đòi hỏi của pháp luật. Tuy nhiên, ở các nước khác nhau sẽ có những quy định klhác nhau về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Đối với nước ta các điều kiện có hiệu lực của HĐKT chưa được quy định một cách rõ ràng và có hệ thống.
Theo cách nhìn chung, thì một HĐKT có hiệu lực pháp luật phải đáp ứng đủ 4 điều kiện sau:
Về nguyên tắc ký hợp đồng
Chủ thể của hợp đồng phải hợp pháp
Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp
Hình thức của hợp đồng phải hợp pháp
b)Hợp đồng kinh tế vô hiệu
HĐKT bị coi là vô hiệu khi nó không đáp ứng được một trong 4 điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mà ta đã trình bày ở trên. Bản chất của HĐKT vô hiệu nó thể hiện ở chỗ : Nội dung của HĐKT chứa đựng những khiếm khuyết làm cho HĐKT đó :
-Trái ngược hoặc xâm hại trật tự pháp lý lợi ích công cộng của xã hội được pháp luật bảo vệ và do đó hoàn toàn không có hiệu lực pháp luật.
-Nội dung của HĐKT mâu thuẫn với ý chí của một hoặc của cả hai chủ thể tham gia HĐKT.
-Không phù hợp với hình thức mà pháp luật quy định.
Trên cơ sở những vấn đề mang tính lý luận nêu trên về hợp đồng kinh tế vô hiệu. Pháp luật về HĐKT nước ta chia HĐKT vô hiệu ra làm hai loại: Đó là hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ và hợp đồng kinh tế vô hiệu từng phần.
Việc kết luận HĐKT đó vô hiệu toàn bộ hay từng phần phải do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định mà cụ thể là thuộc thẩm quyền của toà án kinh tế.
Theo quy định của pháp luật hiện hành (khoản 1 điều 8 - Pháp lệnh HĐKT) thì HĐKT có chứa đựng một trong các nội dung sau thì bị coi là HĐKT vô hiệu toàn bộ ngay từ khi hợp đồng chưa được hình thành.
-Nội dung của HĐKT đó vi phạm điều cấm của pháp luật.
-Một trong các bên ký kết HĐKT không có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng.
-Người ký kết HĐKT không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo.
HĐKT bị coi là vô hiệu từng phần khi nội dung của HĐKT đó có vi phạm một phần điều cấm của pháp luật, nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của hợp đồng (Điều 8 - pháp lệnh HĐKT) hoặc HĐKT ký kết vượt quá phạm vi được uỷ quyền thì phần vượt quá bị coi là vô hiệu (Điều 6 - NĐ17)
Việc xử lý những HĐKT vô hiệu được quy định trong điều 39 pháp lệnh HĐKT.
-Nếu nội dung công việc trong hợp đồng chưa thực hiện thì các bên không được phép thực hiện.
-Nếu nội dung công việc trong hợp đồng đã được thực hiện một phần thì các bên phải chấm dứt việc tiếp tục thực hiện và xử lý về tài sản.
-Nếu nội dung công việc trong hợp đồng đã được thực hiện xong thì các bên xử lý tài sản.
Việc xử lý tài sản được tiến hành theo nguyên tắc: Các bên có nghĩa vụ hoàn trả lại cho nhau tất cả tài sản đã nhận được từ việc thực hiện hợp đồng.
-Trong trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền, và tài sản đó không bị tịch thu theo quy định của pháp luật.
-Thu nhập bất hợp pháp phải nộp vào ngân sách Nhà nước
-Thiệt hại phát sinh các bên phải chịu
Cách đây 7 năm các nhà soạn thảo pháp lệnh HĐKT đã có những cố gắng lớn trong việc xây dựng về sự vô hiệu của HĐKT. Qua một thời gian đưa vào áp dụng HĐKT vô hiệu đã góp phần vào việc giữ gìn kỷ cương, nâng cao ý thức pháp luật, bảo vệ lợi ích chích đáng của các bên tham gia ký kết hợp đồng.
Theo thống kê của trọng tài kinh tế Nhà nước, thì kết quả xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu trong những năm đầu thực hiện pháp lệnh HĐKT như sau:
Năm 1990 trong tổng số 4732 vụ do ngành trọng tài kinh tế Nhà nước thụ lý giải quyết có 394 vụ phải xử lý HĐKT vô hiệu. Số vụ giải quyết HĐKT vô hiệu chiếm 8,32% tổng số vụ do trọng tài kinh tế giải quyết.
Năm 1991 con số này là 3420 và 526 vụ chiếm 15,38%
Năm 1992 con số này là 1648 và 324 vụ chiếm 19,72%
Như vậy số vụ giải quyết HĐKT vô hiệu chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số vụ do trọng tài kinh tế Nhà nước giải quyết.
Những năm sau này kể từ ngày ngành trọng tài chấm dứt hoạt động, toà án nhân dân klhông được giao nhiệm vụ phát hiện HĐKT vô hiệu thì việc xử lý HĐKT vô hiệu giảm đi.
Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề có hiệu lực của HĐKT và vấn đề vô hiệu của HĐKT thực tế còn nhiều vướng mắc cần được điều chỉnh để phù hợp hơn với tình hình thực tế.
Thứ nhất : Vấn đề chủ thể của HĐKT (được trình bày tại 2.AI). Bắt buộc một bên phải là pháp nhân. Tại điều 2 pháp lệnh HĐKT, điều 1 NĐ 17.
-Pháp nhân với pháp nhân
-Pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh (doanh nghiệp tư nhân).
Quy định này dẫn đến tình trạng bất hợp lý là hai doanh nghiệp tư nhân ký hợp đồng với nhau hay giữa doanh nghiệp tư nhân với cá nhân mục đích kinh doanh theo NĐ 66 không được coi là chủ thể của HĐKT, quy định này còn gây lúng túng cho bản thân các chủ thể tham gia vào nền kinh tế, bởi vì những chủ thể này ra đời vì mục đích kinh doanh đã được Nhà nước cho phép tồn tại như một chủ thể kinh doanh độc lập mà lại không được ký kết hợp đồng với tư cách là một hình thức pháp lý của các quan hệ kinh doanh thì thật là một điều khó lý giải. Hơn nữa quy định như thế không phù hợp với nguyên tắc bình đẳng và tự do kinh doanh giữa các thành phần kinh tế đồng thời gây những hậu quả bất lợi cho Nhà nước. Những hậu quả đó thể hiện ở các mặt sau:
-Tính chất của nền kinh tế thị trường nước ta đòi hỏi phải có sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh. Vì hạn chế tư cách chủ thể của các cá nhân kinh doanh theo NĐ66 là hạn chế khả năng tham gia thị trường của các chủ thể này.
-Trên thực tế thì Nhà nước đang gặp khó khăn trong việc quản lý cá nhân và nhóm kinh doanh theo NĐ66, Nhà nước không thể nắm được một cách thực chất các hoạt động kinh doanh của các chủ thể này, mặt khác tạo điều kiện cho chủ thể này lẩn tránh pháp luật.
Hay tại điểm b - k1 - Đ8 quy định như sau: Một trong các bên ký kết HĐKT mà không có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng thì HĐKT đó vô hiệu. Rõ ràng quy định đó đã bỏ sót các chủ thể của HĐKT theo quy định của Đ42 - Đ43 pháp lệnh HĐKT.
Những quy định trên đây còn nhiều bất cập và nhiều thiếu sót. Trong khuôn khổ bài viết này tôi không có điều kiện để trình bày tất cả, song các quy định đó đã gây nhiều lúng túng cho người làm công tác xét xử trong việc phân định thẩm quyền giữa toà kinh tế và toà dân sự (mà bài viết hợp đồng dân sự hay hợp đồng kinh tế của tác giả Nguyễn Đình Hoà là một điển hình).
Thứ hai :Vấn đề người đại diện
Pháp nhân chỉ có thể tham gia vào các quan hệ HĐKT thông qua người đại diện hợp pháp của mình và người đại diện nhất thiết phải hành động nhân danh pháp nhân, vì lợi ích của pháp nhân.
Trong điều kiện hiện nay, trước sự cám dỗ của lợi ích vật chất không ít người đại diện sẵn sàng bỏ lợi ích chung của pháp nhân ký kết HĐKT gây thiệt hại cho pháp nhân nhằm thu lợi riêng. Đã có những vụ việc được phát hiện đưa ra xử lý nhưng tình trạng này vẫn xảy ra trong khi đó pháp luật lại không có quy định ràng buộc trách nhiệm hình sự, trách nhiệm tài sản để ngăn chận tiêu cực xảy ra.
Thứ ba: Vấn đề hiệu lực của HĐKT và HĐKT vô hiệu
Các quy định của pháp luật về vấn đề này không nhất quán, không đầy đủ: Điều 1 và điều 11 pháp lệnh HĐKT xác định hình thức bắt buộc của HĐKT là văn bản, tài liệu giao dịch mang tính văn bản song điều 8 pháp lệnh HĐKT lại chưa quy định các trường hợp HĐKT vô hiệu về mặt hình thức.
Xét về nguyên tắc thì HĐKT là quan hệ ý chí của các nhà kinh doanh. Bất kỳ một sai lệch nào về việc biểu hiện ý chí cũng làm cho HĐKT hoặc điều khoản của HĐKT bị vô hiệu nhưng còn các điều kiện khác làm cho HĐKT bị vô hiệu chưa được pháp luật quy định: như một bên ký kết hợp đồng bị cưỡng bức, ký trái với ý chí chủ quan.
Rõ ràng những quy định của pháp luật mà ta có điều kiện đề cập ở trên còn nhiều bất cập cần phải được giải quyết một cách thoả đáng để làm tiền đề lý luận cho việc thực hiện HĐKT.
CHƯƠNG II
THựC HIệN HợP ĐồNG KINH Tế
I. Khái niệm về thực hiện hợp đồng kinh tế
1. Khái niệm
Thực hiện hợp đồng kinh tế là hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng nhằm làm cho các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng trở thành hiện thực và thực hiện các điều khoản trong bản hợp đồng kinh tế.
Hợp đồng kinh tế phải được các bên thực hiện. Để tình trạng vi phạm hợp đồng không xảy ra cần phải có những điều khoản chặt chẽ. Pháp luật hợp đồng kinh tế hiện hành đã có cố gắng thể hiện điều này. Pháp luật giành cho các bên quyền thoả thuận thay đổi, huỷ bỏ hợp đồng.
Khi một bên thừa nhận hoặc đã có kết luận của trọng tài kinh tế là có vi phạm thì bên kia có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng kinh tế đó nếu việc tiếp tục thực hợp đồng không có lợi cho mình. Thông báo đơn phương đình chỉ hợp đồng được lập thành văn bản và gửi cho bên vi phạm trong thời hạn mười ngày kể từ ngày bên vi phạm thừa nhận hoặc có quyết định của trọng tài kinh tế. Khi một bên ký hợp đồng kinh tế là pháp nhân phải giải thể thì trước khi giải thể 30 ngày, bên bị giải thể phải thông báo bằng văn bản cho các bên có quan hệ hợp đồng biết và tiến hành thanh lý hợp đồng kinh tế. Khi một bên chuyển giao toàn bộ hay từng phần nhiệm vụ sản xuất kinh doanh thì phải chuyển giao cả việc tiếp tục thực hiện hợp đồng kinh tế có liên quan.
Tuy nhiên, có vấn đề cần bàn bạc là nơi thực hiện hợp đồng cần quy định như thế nào trong trường hợp các bên không ghi rõ trong hợp đồng. Điều 16 pháp lệnh HĐKT có ghi "Nếu trong HĐKT không có sự thoả thuận của các bên và không có quy định của pháp luật đối với loại HĐKT đó, thì địa điểm giao nhận là kho chính của bên giao hàng, bán hàng và giao nhận hàng trên phương tiện vận chuyển của bên đặt hàng, mua hàng".
Như vậy, quy định này chỉ áp dụng được với hợp đồng mua bán, còn dạng hợp đồng khác thì chưa có lời giải đáp. Có thể quy định nơi thực hiện hợp đồng là nơi ở của bên phải thực hiện nghĩa vụ hoặc nơi có trụ sở doanh nghiệp của bên có nghĩa vụ (theo luật Anh - Mỹ nơi thực hiện hợp đồng là nơi ở của chủ nợ).
2. Các nguyên tắc khi thực hiện hợp đồng kinh tế
Theo tinh thần của pháp luật hiện hành, các bên phải tuân thủ một số nguyên tắc trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế. Cụ thể là các nguyên tắc sau đây:
-Nguyên tắc chấp hành thực hiện hợp đồng kinh tế
-Nguyên tắc chấp hành đúng hợp đồng kinh tế
-Nguyên tắc chấp hành HĐKT trên tinh thần hợp tác tương trợ
a. Nguyên tắc chấp hành thực hiện hợp đồng kinh tế
Nguyên tắc này được hiểu là chấp hành đúng đối tượng của hợp đồng, thực hiện đúng công việc, đúng đối tượng tài sản đã thoả thuận trong hợp đồng, không được tự ý thay thế đối tượng này bằng đối tượng khác.
Việc thực hiện nguyên tắc này góp phần đảm bảo tính cân đối giữa hiện vật và giá trị trong kế hoạch sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế.
b. Nguyên tắc chấp hành đúng hợp đồng kinh tế
Nguyên tắc này được hiểu là chấp hành và thực hiện đầy đủ tất cả các điều khoản trong hợp đồng. Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi bên đều phải thực hiện nghiêm chỉnh và đúng đắn tất cả các nghĩa vụ của mình trông quan hệ hợp đồng.
c. Nguyên tắc chấp hành HĐKT trên tinh thần hợp tác tương trợ
Nguyên tắc này đòi hỏi các bên phải hợp tác chặt chẽ thường xuyên theo dõi quá trình thực hiện hợp đồng, giúp đỡ nhau khắc phục khó khăn để thực hiện đầy đủ nghiêm chỉnh các cam kết. Ngay cả trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, các bên phải chủ động hiệp thương giải quyết nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và giải quyết kịp thời các tranh chấp hợp đồng kinh tế.
II. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế
Hợp đồng kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp là công cụ để xây dựng và thực hiện kế hoạch của Nhà nước. Chính vì thế mà các chủ thể tham gia ký kết hợp đồng kinh tế không quan tâm tới việc hợp đồng kinh tế có dược thực hiện đầy đủ hay không. Vì thực hiện hay không thực hiện đầy đủ thì cũng khồng ảnh hưởng đến "túi tiền" của họ. Kiểu gì thì họ cũng được Nhà nước bao cấp. Vì hợp đồng kinh tế là công cụ của Nhà nước, do đó Nhà nước có biện pháp của mình để đảm bảo cho việc thực hiện kế hoạch Nhà nước.
Còn hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường là hình thức pháp lý của quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá tiền tệ, nó là công cụ của các nhà kinh doanh. Do vậy mà các nhà kinh doanh phải luôn luôn quan tâm tới khả năng thực hiện HĐKT của bạn hàng. Bởi vì khi đã ký kết HĐKT mà một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới kế hoạch kinh doanh của bên kia. Do vậy mà trong quá trình đàm phán ký kết HĐKT các bên ký kết phải xem xét đến khả năng thực hiện hợp đồng của nhau và thoả thuận các biện pháp bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng kinh tế.
Đảm bảo thực hiện HĐKT là đảm bảo hoàn thành quan hệ hàng hoá tiền tệ. Vì vậy, các biện pháp bảo đảm mang tính chất kinh tế là các biện pháp bảo đảm thường được các chủ thể áp dụng. Bên cạnh đó còn có biện pháp bảo đảm mang tính chất hành chính (Đ6 - Pháp lệnh HĐKT và Đ4 - NĐ17) được pháp luật quy định là có thể đăng ký HĐKT hoặc làm chứng thư hợp đồng tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì biện pháp bảo đảm mang tính chất kinh tế bao gồm : Thế chấp, cầm cố và bảo lãnh tài sản. Việc áp dụng biện pháp nào là do các bên quyết định. Các bên có thể thoả thuận với nhau về việc áp dụng một trong các biện pháp đó hoặc kết hợp nhiều biện pháp nếu một biện pháp không đủ cho việc thực hiện hợp đồng. Song việc áp dụng bất kỳ một biện pháp bảo đảm nào cũng đều phải theo quy định của pháp luật trong trường hợp một bên đề nghị áp dụng bên kia chấp nhận. Trường hợp một bên đề nghị mà bên kia không có điều kiện để chấp nhận thì có thể HĐKT đó không được hình thành. Nếu các bên đều thấy không phải áp dụng các biện pháp bảo đảm trong thực hiện HĐKT thì các bên có quyền không áp dụng (trừ trường hợp pháp luật bắt buộc phải áp dụng đối với một số HĐKT).
1. Thế chấp tài sản
Thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ dùng tài sản (bất động sản, động sản) hoặc giá trị tài sản khác thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đó đối với bên có quyền. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ, bên có quyền sẽ xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo quyền lợi của mình.
Việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản riêng có xác nhận của cơ quan công chứng Nhà nước hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trường hợp không có cơ quan công chứng Nhà nước).
Người thế chấp tài sản có nghĩa vụ bảo đảm nguyên giá trị của tài sản thế chấp, không được chuyển dịch quyền sở hữu hoặc chuyển giao tài sản đó cho người khác trong thời gian văn bản thế chấp còn hiệu lực pháp luật.
2. Cầm cố tài sản
Cầm cố tài sản là việc bên có nghĩa vụ giao tài sản là động sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên có quyền để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ HĐKT đã ký kết.
Việc cầm cố tài sản được lập thành văn bản riêng, có chữ ký của các bên, có xác nhận của cơ quan công chứng Nhà nước hoặc cơ quan đăng ký kinh doanh (trong trường hợp không có cơ quan công chứng Nhà nước).
Người giữ vật cầm cố có nghĩa vụ đảm bảo nguyên giá trị của vật cầm cố, không được chuyển dịch quyền sở hữu vật cầm cố cho người khác trong thời gian văn bản cầm cố vẫn còn hiệu lực pháp luật.
3. Bảo lãnh tài sản
Bảo lãnh tài sản là một biện pháp bảo đảm thực hiện HĐKT trong đó cá nhân hay tổ chức (người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền trong hợp đồng sẽ dùng tài sản của mình chịu trách nhiệm thay cho bên có nghĩa vụ (người được bảo lãnh) khi người này không thực hiện được nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đã ký kết. Người nhận bảo lãnh phải có số tài sản không ít hơn số tài sản mà người đó nhận bảo lãnh.
Việc bảo lãnh tài sản phải được làm thành văn bản riêng có sự xác nhận về tài sản của ngân hàng nơi người bảo lãnh giao dịch và cơ quan công chứng Nhà nước hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trong trường hợp không có cơ quan công chứng Nhà nước).
Việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh khi có sự vi phạm HĐKT được thực hiện cùng với việc giải quyết tranh chấp kinh tế tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đó là toà án kinh tế thuộc toà án nhân dân hoặc các trung tâm trọng tài kinh tế.
III. Cách thức thực hiện hợp đồng kinh tế
A. Đối với hợp đồng kinh tế có hiệu lực pháp luật
Pháp luật hiện hành quy định các cách thức thực hiện như sau:
1) Thực hiện đúng các điều khoản về số lượng
Điều khoản về số lượng là một trong những điều khoản chủ yếu trong nội dung HĐKT. Thực hiện đúng điều khoản về số lượng tức là giao đầy đủ số lượng, trọng lượng hàng hoá và khối lượng công việc như đã thoả thuận trong HĐKT. Trong khi giao nhận các bên phải tiến hành kiểm tra số lượng, trọng lượng hàng hoá, công việc bằng phương pháp nhất định có thể là cân đong đo đếm ... chính xác và khi giao nhận phải lập biên bản giao hàng để xác định trách nhiệm của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Trong qúa trình kiểm tra khi giao nhận, nếu các bên phát hiện ra sự thiếu hụt hàng hoá thì phải tìm nguyên nhân của sự thiếu hụt để quy trách nhiệm vật chất. Sản phẩm giao đúng số lượng thì bên nhận sẽ nhận theo số lượng thực. Trường hợp giao hàng không đúng số lượng tức là giao thiếu hoặc giao thừa thì sẽ giải quyết như sau:
-Nếu bên giao, giao hàng thừa thì bên nhận có quyền nhận đủ và trả lại số thừa hoặc nhận cả số thừa. Trong cả hai trường hợp này đều không phát sinh trách nhiệm tài sản.
-Nếu bên giao, giao thiếu thì bên nhận chỉ nhận số thực giao (đã hoàn thành) và yêu cầu số sản phẩm còn thiếu bên giao sẽ phải giao tiếp sau đó .
Đối với sản phẩm không hoàn thành đồng bộ thì bên nhận chỉ nhận số thực giao và yêu cầu làm tiếp đồng thời phạt hợp đồng và đòi bồi thường thiệt hại.
Đối với sản phẩm thiếu không đồng bộ thì bên nhận có quyền từ chối nhận sản phẩm hàng hoá công việc và lựa chọn một trong hai cách xử lý sau:
+) Yêu cầu bên giao phải hoàn thành đồng bộ sản phẩm, hàng hoá, công việc rồi mới nhận. Nếu phải chờ hoàn thành đồng bộ mà hợp đồng không được thực hiện đúng thời hạn thì bên giao phải chịu phạt vi phạm hợp đồng vì không hoàn thành đồng bộ và bồi thường thiệt hại giống như trường hợp vi phạm thời hạn thực hiện hợp đồng.
+) Hoặc nhận sản phẩm hàng hoá chưa hoàn thành đồng bộ với điều kiện bên vi phạm hợp đồng chịu phạt vi phạm hợp đồng vì không hoàn thành đồng bộ và buộc bên giao phải trả các chi phí cần thiết cho việc hoàn thành đồng bộ.
Các trường hợp giao hàng thiếu đều bị coi là vi phạm hợp đồng kinh tế ở điều khoản số lượng và phải chịu trách nhiệm tài sản theo quy định của pháp luật hợp đồng kinh tế.
2. Thực hiện đúng điều khoản về chất lượng hàng hoá hoặc công việc
Điều khoản chất lượng cũng là một điều khoản chủ yếu của HĐKT. Điều khoản này được thoả thuận dựa trên các quy định về chất lượng tiêu chuẩn kỹ thuật của Nhà nước hoặc tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm của các đơn vị đã đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về tiêu chuẩn đo lường chất lượng. Các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng chất lượng hàng hoá công việc như đã thoả thuận.
Giao hàng đúng đúng chất lượng nghĩa là hàng được giao phải đảm bảo khả năng sử dụng (theo tiêu chuẩn chất lượng) đảm bảo đúng phẩm chất, bao bì, đóng gói, quy cách chủng loại của sản phẩm, của Nhà nước, của ngành của đơn vị cơ sở hoặc theo sự thoả thuận của các bên.
Khi giao nhận các bên phải tiến hành kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá, công việc. Trong trường hợp vi phạm điều khoản này bên nhận hàng có quyền:
-Hoặc không nhận sản phẩm, hàng hoá công việc không đúng chất lượng thoả thuận, phạt vi phạm và đòi bồi thường thiệt hại.
-Hoặc nhận sản phẩm hàng hoá với điều kiện bên vi phạm phải chịu phạt về vi phạm chất lượng hoặc phải giảm giá.
-Yêu cầu sửa chữa sai sót về chất lượng trước khi nhận và phạt hợp đồng về giao quá hạn.
-Đối với hàng được bảo hành thì trong thời hạn bảo hành bên nhận hàng hoá có phát hiện các sai sót về chất lượng thì phải kịp thời thông báo bằng văn bản cho bên kia biết để cùng nhau xác minh. Việc xác minh sai sót phải được tiến hành trong thời hạn không quá 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo. Nếu bên thông báo không trả lời thì coi như có sai sót và bên có sai sót phải sửa chữa sai sót bằng cách giảm giá hoặc đổi lấy sản phẩm hàng hoá khác .
3. Thực hiện đúng điều khoản về thời gian giao nhận hàng hoá - công việc
Giao nhận hàng hóa hoặc công việc đúng thời gian là yếu tố quan trọng giúp các bên thực hiện đúng tiến độ kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình. Thời gian giao nhận hàng hoá có thể là thời hạn và thời điểm mà trong khoảng thời gian đó, hàng hoá hoặc công việc phải được bàn giao, còn thời điểm là thời gian cụ thể mà công việc giao nhận được thực hiện.
Khi có sự vi phạm điều khoản về thời gian thực hiện hợp đồng thì sẽ giải quyết như sau:
-Trong trường hợp giao chậm bên bị vi phạm hợp đồng có quyền hoặc không nhận sản phẩm hàng hoá công việc hoàn thành chậm, phạt vi phạm thời hạn thực hiện hợp đồng và bồi thường thiệt hại.
-Trường hợp hoàn thành trước thời hạn, nếu trong hợp đồng không quy định bên nhận phải tiếp nhận trước thời hạn thì bên nhận có quyền chưa tiếp nhận hoặc tiếp nhận với điều kiện bên giao phải chịu mọi phí tổn bảo quản trong thời gian chưa đến thời điểm giao nhận quy định.
-Trường hợp bên giao thực hiện đúng thời hạn như đã thoả thuận ghi trong văn bản hợp đồng, bên nhận có nghĩa vụ tiếp nhận. Nếu không tiếp nhận sản phẩm hàng hoá công việc đã hoàn thành đúng chất lượng và thời hạn theo hợp đồng thì coi như đã vi phạm điều khoản về thời gian giao nhận. Khi đó bên giao hàng có quyền:
+) Buộc bên nhận chịu phạt vi phạm nghĩa vụ tiếp nhận sản phẩm hàng hoá công việc đã hoàn thành đúng theo hợp đồng.
+) Đòi bên nhận phải trả các chi phí chuyên chở, bảo quản và thiệt hại khác do vi phạm nghĩa vụ tiếp nhận.
+) Yêu cầu toà án hoặc tổ chức trọng tài giải quyết để tránh các thiệt hại khác do vi phạm nghĩa vụ tiếp nhận.
4. Thực hiện đúng điều khoản về địa điểm, phương thức giao hàng hoá dịch vụ
Địa điểm giao nhận hàng hoá hoặc dịch vụ là nơi mà bên giao hàng thực hiện nghĩa vụ giao hàng của mình cho bên đặt hàng. Phương thức giao nhận là cách thức mà các bên tiến hành giao nhận hàng hoá. Địa điểm phương thức giao nhận có thể do hai bên thoả thuận phù hợp với điều kiện thực tế thuận tiện và có lợi cho các bên.
Trong trường hợp các bên không thoả thuận thì địa điểm và phương thức giao nhận phải theo các quy định của pháp luật đối với từng loại HĐKT. Nếu trong HĐKT không có sự thoả thuận của các bên và không có quy định của pháp luật đối với loại HĐKT đó thì địa điểm giao nhận là kho chính của bên giao hàng - bên bán hàng và giao trên phương tiện vận chuyển của bên đặt hàng - bên mua hàng.
Các bên phải giao nhận hàng hoá dịch vụ đúng địa điểm dù địa điểm đó do hai bên thoả thuận hay do pháp luật định trước. Nếu giao không đúng địa điểm thì bên vi phạm phải chịu những hình thức trách nhiệm tài sản theo quy định của pháp luật.
5. Thực hiện đúng điều khoản giá cả thanh toán
Các bên có quyền thoả thuận về giá cả của hàng hoá hoặc dịch vụ và ghi cụ thể vào HĐKT, thoả thuận về nguyên tắc thủ tục thực hiện việc thay đổi giá khi có sự biến động giá cả của thị trường trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế.
Đối với sản phẩm hàng hoá do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã quy định giá cả, thoả thuận trong hợp đồng kinh tế phải phù hợp với những quy định đó, không bên nào có quyền gò ép giá hoặc nâng giá quá mức quy định.
Thanh toán theo hợp đồng là khâu cuối cùng kết thúc quá trình thực hiện HĐKT. Nghĩa vụ trả tiềnđược thực hiện theo phương thức và thời hạn thanh toán đã thoả thuận trong hợp đồng. Nếu trong HĐKT không ghi thời hạn trả tiền thì thời hạn trả tiền đó là 15 ngày kể từ ngày nhận được hoá đơn đòi tiền (chỉ được lập hoá đơn, giấy đòi tiền phù hợp với việc thực hiện từng phần hay toàn bộ HĐKT). Nghĩa vụ trả tiền được coi là hoàn thành từ khi chuyển đủ số tiền của mình trên tài khoản tại Ngân hàng cho bên đòi hoặc khi bên đòi trực tiếp nhận được số tiền mặt theo hoá đơn.
Ngoài ra, nghĩa vụ thanh toán cũng được coi là hoàn thành nếu bên trả tiền đề nghị và được bên đòi tiền chấp thuận trả bằng hiện vật hoặc tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh có giá trị tương đương với số tiền phải trả và việc trả hiện vật hoặc các tài sản đó đã thực hiện xong.
Bên vi phạm có nghĩa vụ thanh toán số tiền bị phạt do vi phạm HĐKT. Mức phạt có thể bằng mức lãi xuất tín dụng quá hạn theo quy định của pháp luật và phải chịu bồi thường thiệt hại cho bên kia, số lãi mà họ phải trả cho ngân hàng trên số tiền chưa được thanh toán. Trong trường hợp này số tiền phạt được tính căn cứ vào mức lãi suất tín dụng quá hạn nhận tương ứng thời gian chậm thanh toán không giới hạn mức tối đa.
6. Những điều khoản khác (thông thường, tuỳ nghi)
Nếu các bên có thoả thuận thì khi thực hiện phải thực hiện theo đúng thoả thuận của các bên.
B. Đối với hợp đồng kinh tế vô hiệu
Một hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu dù là từng phần hay toàn bộ thì việc thực hiện HĐKT vô hiệu bị coi là hành vi trái pháp luật và bị pháp luật nghiêm cấm. Tuy nhiên, trong thực tế ngay cả khi HĐKT vô hiệu các bên vẫn thực hiện HĐKT đó hoặc vì không ý thức được hoặc vì bị lừa dối, nhầm lẫn hay vì các nguyên nhân khác. Vì vậy muốn huỷ bỏ HĐKT đó cần phải có sự can thiệp của toà án thông qua việc tuyên bố vô hiệu. Không phải lúc nào HĐKT có sự vi phạm pháp luật cũng bị toà án tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng. Tuỳ từng mức độ vi phạm, toà án quyết định huỷ bỏ hay sửa đổi một phần hợp đồng vi phạm pháp luật cho phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Cụ thể pháp luật quy định như sau:
1. Đối với hợp đồng vô hiệu toàn bộ
-Nếu nội dung công việc chưa thực hiện thì các bên không được thực hiện.
-Nếu nội dung công việc đã được th._.p đồng kinh tế vô hiệu còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót mà vào năm 1989 các nhà soạn thảo pháp lệnh HĐKT không thể lường trước được sự phức tạp của vấn đề này. ở đây chúng tôi đề cập đến một số hạn chế, thiếu sót:
Thứ 1: Các văn bản pháp luật về HĐKT chưa quy định các điều kiện có hiệu lực của HĐKT. Trong lúc đó các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là cơ sở không thể thiếu để quy định và xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu.
Thứ 2: Quy định một HĐKT bị coi là vô hiệu toàn bộ khi nội dung của HĐKT vi phạm điều cấm của pháp luật là qúa rộng, chỉ nên nói đến những điều khoản chủ yếu của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật.
Thứ 3: Quy định: “Một trong các bên ký HĐKT không có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng” là không phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường, chỉ nên coi đây là điều kiện để xác định chủ thể của HĐKT.
Thứ 4: Cụm từ “hành vi lừa đảo” dùng không chính xác khi nói về sự vô hiệu của HĐKT, nên thay bằng thuật ngữ “Hành vi lừa dối”.
Thứ 5: Các quy định về sử lý hợp đồng vô hiệu khó có thể đem áp dụng đối với sử lý hợp đồng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và hợp đồng vận chuyển hàng hoá.
Thứ 6: Khái niệm “thu nhập bất hợp pháp” là gì chưa được làm rõ.
Thứ 7: Quy định thiệt hại phát sinh các bên phải chịu là không hợp lý và công bằng, nên quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên có lỗi.
Thứ 8: Pháp lệnh HĐKT chưa phân biệt hợp đồng vô hiệu tuyệt đối và hợp đồng vô hiệu tương đối (có thể vô hiệu) trong lúc đó sự phân biệt này là cần thiết để từ đó xử lý đối với mỗi loại hợp đồng vô hiệu được khách quan và công bằng hơn.
Từ sự nghiên cứu thực trạng chúng tôi nêu ra một số kết luận:
- Pháp lệnh HĐKT năm 1989 và các văn bản khác về HĐKT được ban hành trong thời đoạn chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Do vậy bên cạnh những điểm tiến bộ vượt bậc các văn bản pháp luật hiện hành về HĐKT còn nhiều thiếu sót, bất cập với nhu cầu của đời sống kinh tế đất nước. ở đây có nguyên nhân về mặt chủ quan và về mặt khách quan.
+) Về mặt chủ quan đó là nhận thức của chúng ta về kinh tế thị trường và pháp luật trong kinh tế thị trường chưa được đầy đủ.
+) Về mặt khách quan là các quan hệ kinh tế ở Việt Nam đang thay đổi và phát triển rất nhanh, do vậy pháp luật về hợp đồng kinh tế chóng trở nên lạc hậu.
Với việc ban hành Bộ luật Dân sự ngày 18/10/1995 trong hệ thống pháp luật hợp đồng đã có một văn bản gốc. Các quan hệ hợp đồng kinh tế vẫn do pháp lệnh HĐKT năm 1989 và các văn bản khác về HĐKT điều chỉnh. Nếu trong các văn bản này chưa quy định, hoặc có quy định nhưng chưa đầy đủ thì các chủ thể áp dụng các quy định cảu Bộ luật Dân sự khi ký kết thực hiện hợp đồng kinh tế.
Những thiếu sót bất cập HĐKT đặt ra yêu cầu xây dựng, đổi mới và hoàn thiện các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh giữa các chủ thể.
II. Kiến nghị
Việc xây dựng đổi mới và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về công việc rất nặng nề và phức tạp song vấn đề quan trọng không kém là phải đưa pháp luật vào đời sống, được mọi người tôn trọng và chấp hành đầy đủ. Nhiệm vụ hiện nay của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN là phải biết kết hợp làm tốt tất cả hai mặt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân đi đôi với nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ và nhân dân làm cho mọi người tự giác sống và làm việc theo pháp luật, kỷ cương xã hội được tôn trọng.
Xuất phát từ căn cứ và yêu cầu thực tiễn cuộc sống của Việt Nam và yêu cầu giao lưu kinh tế quốc tế. Việc nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật phải đáp ứng yêu cầu sau:
Một là, đường lối đổi mới kinh tế của Đảng cộng sản Sản Việt Nam. Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Cơ chế kinh tế mới cần được tiếp tục đổi mới và hoàn thiện theo hướng tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường. Phát triền mạnh hàng hoá và dịch vụ, quản lý chặt chẽ thị trường bất động sản, xây dựng thị trường vốn và từng bước hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh doanh phải căn cứ vào đường lối phát triển kinh tế của Đảng và góp phần đắc lực vào việc phảt triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường và tạo yếu tố đồng bộ của thị trường.
Hai là, về phát triển và thực tiễn hình thành của nền kinh tế thị trường Việt Nam.
Chúng ta cần thấy rõ những đặc điểm của nền kinh tế thị trường nước ta, xu hướng phát triển trong thời gian tới. Nền kinh tế nước ta hiện nay đang ở trong quá trình chuyển đổi giữa hai cơ chế kế hoạch hoá tập chung và cơ chế thị trường. Chúng ta xây dựng kinh tế thị trường trên cơ sở nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội, và con đường đi nên chủ nghĩa xã hội.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta trong điều kiện hiện nay vẫn là nền kinh tế hàng hoá kém phát triển. Trong lúc đó tri thức của chúng ta về kinh tế thị trường còn quá ít ỏi. Những nhân tố mới đang trong qua trình hình thành và phát triển kiểm toán, tư vấn, bảo hiểm kinh doanh nhiều vấn đề đã có chủ trương và quy định của Nhà nước nhưng triển khai rất chậm (Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, giải quyết phá sản...) nhiều vấn đề còn đang trong quá trình thử nghiệm (tổ chức thị trường vốn, thị trường chứng khoán Việt Nam...).
Từ hoàn cảnh thực tế của Việt Nam có thể thấy rằng chúng ta chưa có đầy đủ các tiền đề cần thiết để xây dựng một khung pháp luật hợp đồng đồng bộ và hoàn chỉnh. Hệ thống pháp luật hợp đồng còn mang tính quá độ. Trong bước chuyển sang kinh tế thị trường hệ thống pháp luật hợp đồng phải linh hoạt mềm dẻo có tính thích nghi cao. Trong việc xây dựng hệ thống pháp luật hợp đồng kinh doanh chúng ta cần tính đến cả nhu cầu phát triển thị trường và yêu cầu nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Ba là, hiện trạng pháp luật hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh ở Việt Nam và nhu cầu tiếp tục đổi mới và hoàn thiện pháp luật hợp đồng.
Như đã phân tích trong chương II, III luận văn này, cho đến thời điểm hiện nay pháp lệnh HĐKT năm 1989 vẫn là văn bản pháp luật chủ yếu điều chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh doanh. Ngoài pháp lệnh hợp đồng kinh tế các quan hệ hợp đồng kinh doanh còn được điều chỉnh bởi các quy định của nhiều văn bản pháp luật. Chẳng hạn Bộ luật Hàng hải Việt Nam ngày 30/06/1990 có nhiều quy định điều chỉnh các loại hợp đồng vận chuyển bằng tầu biển, hợp đồng cho thuê tàu biển, hợp đồng cứu hộ hàng hải, hợp đồng bảo hiểm hàng hải... Luật hàng không dân dụng Việt Nam ngày 26/12/1991 có quy định điều chỉnh các quan hệ vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không. Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành thể lệ tín dụng ngắn hạn đối với các tổ chức kinh tế và quyết định số 367/QĐNH ngày 21/12/1995 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành thể lệ tín dụng trung và dài hạn đã quy định về hợp đồng tín dụng.
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế do ban hành vào thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới nên chưa theo kịp được sự phát triển nhanh của các quan hệ hợp đồng kinh doanh. Nó chưa thực sự đóng vai trò là văn bản pháp luật chung, văn bản pháp luật chủ yếu về hợp đồng kinh doanh.
Sự bất cập của các văn bản pháp luật HĐKT là rõ ràng. Điều này đã được chúng tôi phân tích kỹ trong chương II và III của luận văn này. yêu cầu đặt ra là cần phải đổi mới từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp đồng kinh tế, làm cho pháp luật về hợp đồng điểu chỉnh một cách có hiệu quả các quan hệ kinh doanh giữa các chủ thể trong nền kinh tế thị trường.
Từ những thực trạng đã nêu ở phần trước, tôi xin nêu một vài ý kiến kiến nghị để ngày càng hoàn thiện hơn HĐKT ở nước ta hiện nay và trong tương lai.
1. Khái niệm HĐKT
Với quy định hiện hành đòi hỏi hợp đồng kinh tế ít nhất phải có một bên là pháp nhân và cả hai bên đều nhằm mục đích kinh doanh, pháp luật hợp đồng kinh tế không đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế với nhiều quan hệ đa dạng, phong phú, với nhiều chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh. Theo hai tiêu chí về mục đích và quan hệ của Hợp đồng dân sự, quy định bên ký Hợp đồng kinh tế phải là pháp nhân và bên kia có thể là pháp nhân hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật là quá cứng nhắc. Việc đòi hỏi một bên ký hợp đồng kinh tế là pháp nhân gây ra khó khăn cho toà án khi nhận định thẩm quyền xét xử.
Trước đây, công văn số 14/KHXH ngày 13/02/1996 của TANDTC cho rằng một hợp đồng được ký kết giữa pháp nhân với cá nhân và nhóm kinh doanh với mức vốn pháp định quy định cho doanh nghiệp tư nhân thì không phải hợp đồng kinh tế, quan điểm này không phù hợp với pháp lệnh HĐKT năm 1989 và không phù hợp với kinh tế thị trường. Chính vì vậy thông tư số 04/TTLN của TANDTC và VKSNDTC ngày 26/08/1996 đã hướng dẫn lại: Cần áp dụng quy định của điều 2 Pháp lệnh HĐKT để coi hợp đồng có mục đích kinh doanh được ký kết giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh dù không phải là doanh nghiệp tư nhân cũng là HĐKT, do đó các vụ án về tranh chấp hợp đồng kinh tế thuộc loại hợp đồng này do toà án giải quyết theo thủ tục giải quyết vụ án kinh tế. Thông tư số 04/TTLN ngày 26/08/1996 vẫn chưa giải quyết triệt để vấn đề điều kiện HĐKT, hơn nữa nó chỉ là văn bản hướng dẫn áp dụng quy định pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Nó không thể hướng dẫn trái với quy định của pháp lệnh HĐKT năm 1989 .
Để phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường, chúng tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm cho rằng HĐKT chỉ cần đáp ứng hai điều kiện:
- Có một bên tham gia quan hệ hợp đồng là cơ sở kinh doanh (cả doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh).
- Cơ sở kinh doanh giao kết hợp đồng nhằm thoả mãn các nhu cầu phát sinh từ hoạt động kinh doanh của mình.
Trong qúa trình nghiên cứu về HĐKT có nhiều tác giả đề nghị thay thuật ngữ “HĐKT” bằng thuật ngữ “Hợp đồng Kinh doanh”. điều đáng lưu ý là các tác giả mới đưa ra kiến nghị mà chưa phân tích, lập luận cho sự cần thiết phải thay đổi khái niệm này.
Như đã phân tích ở phần chương I, II của luận văn này, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung Nhà nước đã thiết lập chế độ HĐKT.
Tên gọi HĐKT phản ánh đúng mục đích của ciệc thiết lập các quan hệ hợp đồng là nhằm thực hiện thắng lợi kế hoạch Nhà nước, đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, chứ không phải nhằm mục đích thu kiếm lợi nhuận, không phải nhằm mục đích “kinh doanh thuần tuý”.
Phản ánh đúng phạm vi điều chỉnh của pháp luật HĐKT là các quan hệ hợp đồng vừa mang tính chất tài sản giữa các cơ quan Nhà nước với nhau, giữa các đơn vị kinh tế với nhau.
Thuật ngữ “HĐKT” ra đời trong cơ chế cũ không phản ánh đúng thực chất của quan hệ hợp đồng giữa các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế thị trường có sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế và các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng với nhau trong việc xác lập các quan hệ hợp đồng.
*Trong nền kinh tế thị trường nên thay thế thuật ngữ “HĐKT” bằng thuật ngữ “HĐKD” phù hợp với hoàn cảnh hiện nay. Vì:
Thuật ngữ này phản ánh đúng chính xác nội dung và tính chất của quan hệ hợp đồng giữa các tổ chức kinh tế diễn ra trong lĩnh vực kinh doanh, có tính chất kinh doanh và nhằm mục đích sinh lời.
Trong pháp luật hiện hành khái niệm kinh doanh đã được định nghĩa là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, tư sản luật đến tiêu thụ hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời Điều 3 Luật công ty ngày 21/12/1990, Điều 2 Luật doanh nghiệp tư nhân ngày21/12/1990.
Việc dùng khái niệm “Hợp đồng kinh doanh“ chứng tỏ đã thực sự quan điểm mới về vai trò của hợp đồng trong nền kinh tế thị trường, từ đó có những giải pháp thích hợp về việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật điều chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh doanh.
Về hình thức HĐKT, pháp lệnh HĐKT năm 1989 quy định hình thức hợp đồng là văn bản hoặc tài liệu giao dịch như đơn chào hàng, đơn đặt hàng... Tuy nhiên, trường hợp xét về thực chất các bên có quan hệ hợp đồng kinh tế với nhau cũng do không được ký kết với những hình thức của hợp đồng nên không được coi là HĐKT. Trong điều kiện hiện nay kỹ thuật thông tin rất phát triển, các doanh nghiệp tiết kiệm thời gian thường dùng phương tiện thông tin hiện đại để giao tiếp, ký kết hợp đồng. Do vậy nếu chỉ quy định hình thức của hợp đồng là một văn bản và một số tài liệu giao dịch là không phù hợp.
Chúng ta cần có cách quy định bao quát hơn. HĐKT được giao kết dưới hình thức văn bản và bằng lời (theo nghĩa rộng).
Ngoài ra, một số quy định của pháp luật về HĐKT và HĐDS chưa rõ ràng và thiếu tính thống nhất.
Bên cạnh yếu tố chủ thể thì mục đích của việc xác lập quan hệ hợp đồng kinh tế cũng có thể được xem là căn cứ để phân biệt HĐKT và HĐDS. Trước khi có Bộ luật dân sự thì vấn đền này được quy định rất rõ ràng trong pháp lệnh HĐKT và pháp lệnh HĐDS. Hiện nay, khi mục đích của giao dịch dân sự nói chung của HĐDS nói riêng không được quy định cụ thể là nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng mà được quy định chung ở mục đích “lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được”. Điều 132 BLDS thì sự HĐKT với HĐDS dựa vào tiêu chí mục đích của sự thảo thuận sẽ trở nên khó khăn hơn.
Khi pháp lệnh HĐKT vẫn có hiệu lực, để xác định một quan hệ trao đổi có phải HĐKT hay không thì bên cạnh các yếu tố chủ thể, hình thức giao dịch ta vẫn phải xác định mục đích kinh doanh hay không kinh doanh của chủ thể trong quan hệ đó. Nhưng chính cơ sở pháp lý cần thiết đó lại chưa được quy định rõ trong các quy định của pháp luật về HĐKT.
Điều 1 Pháp lệnh HĐKT quy định mục đích kinh doanh chưa rõ đòi hỏi cho cả 2 bên hay chỉ một bên. Mục đích của sự thoả thuận nếu không phải kinh doanh, sinh hoạt, tiêu dùng thì đó là mục đích gì? Ngoài ra cũng cần có quy định rõ hơn giá trị pháp lý của hợp đồng khi vi phạm hình thức ký kết.
Tính thiếu thống nhất trong các quy định của pháp luật về hợp đồng biểu hiện trước tiên ở quy định về chủ thể HĐKT Điều 2 Pháp lệnh HĐKT và điều 2 mục I Thông tư 11 TT-PL ngày 25/05/1992. HĐKT được mở rộng phạm vi chủ thể không nhất thiết phải có sự tham gia của pháp nhân. Tính thiếu thống nhất còn phản ánh trong các quy định khác nhau của pháp luật về cùng vấn đề trong nội dung của hợp đồng.
2. Nội dung của HĐKT:
Trong một văn bản pháp luật chung về HĐKT như Pháp lệnh HĐKT để có thể bao quát nhiều loại HĐKT theo chúng tôi thì chỉ nên quy định những nội dung chủ yếu của một HĐKT như: đối tượng của hợp đồng, số lượng, giá, phương thức thanh toán, thời hạn, địa điểm phương thức thực hiện hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Trong các văn bản về từng loại HĐKT sẽ quy định những điều khoản cụ thể của loại HĐKT đó. Các văn bản về từng loại HĐKT phải cụ thể và đầy đủ để ngăn ngừa việc lợi dụng ký hợp đồng vì mục đích kiếm lời cá nhân, đơn vị mình làm thiệt hại cho Nhà nước, xã hội trong hoàn cảnh Việt Nam việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Chính phủ, các Bộ) đưa ra những mẫu hợp đồng với những điều khoản đầy đủ, cụ thể là rất cần thiết.
3. Hợp đồng kinh tế vô hiệu:
Pháp lệnh HĐKT đã được Nhà nước ta ban hành ngày 25/09/1989, pháp lệnh ra đời là một bước phát triển mới của pháp luật về HĐKT của nước ta. Nó đã thể chế hoá được những tư tưởng lớn về đổi mới quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước. Pháp lệnh HĐKTvà các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo thành một hệ thống các quy phạm pháp luật, làm cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh các quan hệ HĐKT trong cơ chế kinh tế mới hiện nay.
Trong pháp lệnh, vấn đề HĐKT vô hiệu đã được đề cập tới trong đó quy định các trường hợp HĐKT vô hiệu toàn bộ và từng phần.
Để góp phần hoàn thiện việc xây dựng hệ thống pháp luật và HĐKT vô hiệu, hạn chế sự vi phạm pháp luật, chúng tôi xin đề xuất một số ý kiến nhằm góp phàn sửa đổi, bổ sung các quy định về HĐKT vô hiệu và các văn bản hướng dẫn liên quan.
Về hình thức: Điều 8 Pháp lệnh HĐKT chưa quy định các trường hợp hợp đồng kinh tế vô hiệu về hình thức. Vì vậy cần bổ sung các trường hợp HĐKT vô hiệu như: HĐKT không được ký kết dưới hình thức văn bản, không đựơc đăng ký công chứng, xin phép tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà pháp luật bắt buộc.
Về nội dung: HĐKT còn một số vấn đề cần thống nhất cụ thể là:
+ Đối với điểm A khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT, Nhà nước cần ban hành văn bản pháp lệnh hướng dẫn cụ thể, thống nhất về quy định nội dung HĐKT vi phạm điều cấm của pháp luật. Vì nhân dân HĐKT vi phạm điều cấm của pháp luật ở đây là gì, điểm chung nhất là gì?
Trên thực tế có nhiều cách hiểu về quy định này. Cụ thể về nội dung vi phạm điều cấm của Pháp lệnh hiện nay còn tồn tại ba quan điểm khác nhau. Vi phạm toàn bộ nội dung, vi phạm điều khoản chủ yếu, vi phạm điều khoản về đối tượng. Từ đó dẫn đến việc trong thực tiễn áp dụng pháp luật theo nhiều cách khác nhau, dẫn đến mâu thuẫn nhau.
+ Đối với điểm b khoản 1 điều 8 Pháp lệnh HĐKT. Để thực hiện công việc trong hợp đồng theo quy định của pháp luật. Cơ quan có thẩm quyền cần quy định rõ trường hợp nào cần có các bên có đăng ký kinh doanh phù hợp với công việc có trong hợp đồng. Vì hiện nay trên thực tế các hợp đồng liên doanh, liên kết với nước ngoài đòi hỏi phải có sự năng động, nhạy bén, thời cơ của các chủ thể HĐKT. Do vậy pháp luật cần quy định cụ thể trong một số trường hợp HĐKT được ký kết và thực hiện, nhưng không có đăng ký kinh doanh vẫn có hiệu lực pháp luật và tiếp tục được thực hiện. Quy định như vậy sẽ tạo sự chủ động cho các bên trong hoạt động kinh doanh đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên, đặc biệt là trong thời kỳ mở cửa, làm ăn với các cá nhân nước ngoài hiện nay.
Khi xử lý cần tính đến trường hợp: Khi ký kết hợp đồng không có đăng ký kinh doanh (chỉ có giấy phép thành lập) nhưng khi thực hiện lại có giấy phép kinh doanh, mà mục đích đạt đến của các bên hoàn toàn phù hợp với lợi ích xã hội:
+ Đối với điểm c khoản 1 điều 8 - Pháp lệnh HĐKT quy định “người ký kết HĐKT không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo ...” Thuật ngữ lừa đảo mới chỉ được dùng trong pháp luật hình sự, còn trong pháp luật kinh tế nói chung và pháp luật về hợp đồng kinh tế nói riêng chưa có quy định. Trong Bộ luật dân sự có thuật ngữ “lừa dối”. Tuy nhiên thuật ngữ “lừa dối” hẹp hơn thuật ngữ “lừa đảo” theo chúng tôi cần thay đổi thuật ngữ “lừa đảo” bằng thuật ngữ “gian dối” để tránh nhầm lẫn trong công tác xét xử của Toà án.
Trong thực tế hiện nay các chủ thể tham gia ký kết HĐKT còn có một số trường hợp ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng, cụ thể như ký kết HĐKT do một bên bị cưỡng bức, đe doạ, ký kết HĐKT do nhầm lẫn, ký kết HĐKT do người xác lập không nhận thức được hành vi của mình, người ký HĐKT bị hạn chế năng lực hành vi. Đối với những trường hợp trên NLHV của họ được xác lập. Tuy nhiên vào đúng thời điểm không nhận thức và điều khiển được hành vi của mình hoặc do nhầm lẫn về mặt nội dung chủ yếu của hợp đồng, hoặc một bên cố ý cưỡng bức đe doạ mà bên kia phải ký kết hợp đồng kinh tế, theo chúng tôi đối với những trường hợp như vậy, tư cách chủ thể không đảm bảo dẫn đến việc ký kết HĐKT không được khách quan. Cần xác định đây là HĐKT vô hiệu cần áp dụng biện pháp chế tài theo quy định của pháp luật.
4. Trách nhiệm tài sản do vi phạm HĐKT.
Các quy định hành về trách nhiệm tài sản do vi phạm HĐKT được pháp lệnh HĐKT quy định khá cụ thể, chi tiết và nhiều điểm mới. Tuy nhiên như đã phân tích ở phần trước có một số điểm cần được sửa đổi, xem xét lại.
Khoản 2 Điều 40 Pháp lệnh HĐKT quy định: Khi đã phải thi hành lệnh khẩn cấp thì các bên tham gia hợp đồng đã thực hiện một hành vi phục vụ lợi ích chung của xã hội nên được miễn hoặc giảm trách nhiệm vật chất. Tuy nhiên vấn đề này cần được xem xét lại dưới góc độ thị trường, các cơ quan ra lệnh khẩn cấp cũng cần tính đến khả năng bồi hoàn, bù đắp từ ngân sách cho các phí tổn và thiệt hại cho các bên phải gánh chịu do HĐKT không thực hiện được.
Nghị định 17 - HĐBT ngày 16/01/1990 đã nêu ra ba cơ quan có thẩm quyền ra lệnh khẩn cấp thì cũng cần phải quy định rõ những trường hợp nào là trường hợp khẩn cấp, mà chỉ trong những trường hợp đó các chủ thể có thẩm quyền mới có quyền ra lệnh khẩn cấp. Có quy định chư vậy thì mới đảm bảo được lợi ích của các chủ thể kinh doanh.
Khoản 3 Điều 40 Pháp lệnh - HĐKT quy định: “Bên vi phạm hợp đồng kinh tế được xét giảm hoặc miễn hoàn toàn trách nhiệm tài sản trong trường hợp do bên thứ ba vi phạm”. Trong cơ chế thị trường, quy định trên là hoàn toàn không phù hợp. Không thể coi sự vi phạm HĐKT do nguyên nhân bị bên thứ 3 vi phạm HĐKT khác là cơ sở sở miễn giảm trách nhiệm HĐKT. Nếu quy định như vậy sẽ là cơ sở để một bên vin vào lý do bên thứ ba gây thiệt hại để lẩn tránh trách nhiệm với bên kia. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng không thể xác định được trách nhiệm HĐKT khi nó bị vi phạm. Do vậy cần loại bỏ khoản 3 Điều 40 Pháp lệnh HĐKT.
Theo quy định của khoản 2 điều 29 Pháp lệnh HĐKT đã trình bảy ở phần Chương II có thể thấy rằng công thức này đã có những điểm hợp lý, nhưng chưa hoàn chỉnh thể hiện ở chỗ. Nếu bị vi phạm HĐKT chứng minh được tổng số thiệt hại (trực tiếp hoặc gián tiếp) do vi phạm HĐKT gây ra lớn hơn nhiều so với tiền phạt cộng... thì quy định như trên chưa thật thoả đáng, chưa thực hiện triệt để nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi đã ghi trong điều 3 Pháp lệnh HĐKT.
Vì vậy, theo chúng tôi nên có thêm quy định: bên bị vi phạm có thể lựa chọn hoặc đòi hỏi bồi thường toàn bộ thiệt hại (kể cả thiệt hại trực tiếp và gián tiếp) khi chứng minh được rằng số thiệt hại đó là do vi phạm HĐKT và bồi thường thiệt hại như quy định tại Điều 29 Pháp lệnh HĐKT. Như vậy sẽ thoả đáng và công bằng hơn.
5. Các biện pháp bảo đảm thực hiện HĐKT:
Trong các văn bản pháp luật HĐKT của nước ta có quy định về các biện pháp bảo đảm về mặt tài sản cho việc thực hiện HĐKT. Tuy nhiên các quy định này còn chưa rõ ràng cụ thể, có nhiều điểm có thể gây nhầm lẫn khi áp dụng.
Các biện pháp bảo đảm thực hiện HĐKT chưa được quy định rõ là một điều kiện của hợp đồng hay là một bộ phận phụ của hợp đồng gây ra sự áp dụng một cách tuỳ tiện.
Do đó, theo chúng tôi các biện pháp này phải được quy định cụ thể, chính xác, để tạo điều kiện thuận lợi cho các bên thực hiện hợp đồng đã ký một cách nghiêm chỉnh.
Đối với biện pháp cầm cố thế chấp tài sản chúng tôi có một số ý kiến sau:
Theo quy định của pháp luật thì nghĩa vụ của người gửi tài sản thế chấp và cầm cố được quy định không cụ thể, không chính xác. Chẳng hạn Pháp lệnh HĐKT quy định: Người nhận tài sản thế chấp hoặc cầm cố phải giữ nguyên giá trị tài sản cầm cố hay thế chấp. Điều này không thể thực hiện được bởi lẽ dưới sự tác động của thời gian, môi trường, sự phát triển thay đổi tự nhiên của động sản, bất động sản các tài sản cầm cố và thế chấp sẽ không còn nguyên giá trị ban đầu. Quy định trên dẫn đến việc người nhận cầm cố, thế chấp phải chịu trách nhiệm về sự mất mất hư hỏng của tài sản do những nguyên nhân khách quan hoàn toàn không thuộc về lỗi của họ. Các quy định này hạn chế hoạt đồng cầm cố, thế chấp với tư cách là biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế.
Điều 334 - điều 353 BLDS đã khắc phục được nhược điểm trên. Nghĩa vụ của người gửi tài sản, thế chấp, cầm cố được quy định một cách cụ thể rõ ràng và hợp lý. Cụ thể là bên nhận cầm cố thế chấp tài sản không phải có nghĩa vụ giữ nguyên giá trị tài sản thế chấp, cầm cố nữa mà có thể khai thác công dụng hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản đó nếu được bên cầm cố, thế chấp đồng ý, yêu cầu.
Quy định của pháp luật HĐKT và Bộ luật dân sự đòi hỏi tài sản đem thế chấp, cầm cố phải thuộc quyền sở hữu của chính người đem thế chấp, cầm cố. Điều này có thể gây khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh cảu các chủ thể. Trên thực tế, có những cơ quan đơn vị, tổ chức (ví dụ doanh nghiệp Nhà nước) được Nhà nước cấp hoặc giao một bộ phận tài sản thuộc sở hữu Nhà nước cho các đơn vị này sử dụng phcụ vụ hoạt động sản xuất kinh doanh như đất đai, nhà cửa, kho tàng,bến bãi... Các đơn vị này không là sở hữu đối với những tài sản trên mà chỉ có quyền sử dụng chúng. Theo pháp luật HĐKT, khi ký kết HĐKT, họ không được phép đem những tài sản đó thế chấp, cầm cố để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng.
Nhưng theo doanh nghiệp Nhà nước ngày 20/04/1995 họ lại có các quyền này. Do vậy để giải quyết mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật về HĐKT có thể quy định tài sản đem thế chấp, cầm cố không những là những bất động sản, bất động sản thuộc sở hữu của mình mà còn có thể là những quyền về tài sản. Quy định này sẽ phản ánh đựơc các đòi hỏi của nền kinh tế thị trường, và thực tế của xã hội, nền kinh tế nước ta nhất là sở hữu về đất đai.
Chẳng hạn hiện nay để đảm bảo cho việc thực hiện HĐKT, các đơn vị kinh tế thường đem thế chấp đất đai (loại tài sản chỉ được Nhà nước giao cho quyền sử dụng chứ không giao cho quyền sở hữu).
Điều 360 BLDS giải quyết được phần nào vướng mắc trên khi quy định tại khoản 2: “Trong trường hợp sử lý tài sản thế chấp để thực hiện một nghĩa vụ đến hạn, thì các nghĩa vụ khác tuy chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự đăng ký thế chấp”. Trong pháp luật HĐKT cũng cần có những quy định tương tự.
Các nhận xét, kiến nghị của chúng tôi về khái niệm hợp đồng, chủ thể hình thức hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng và sử lý hợp đồng vô hiệu, các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng... có thể là những gợi ý để soạn thảo pháp lệnh hợp đồng kinh tế (sửa đổi) theo chúng tôi không nên chỉ sửa đổi một số điều của Pháp lệnh HĐKT mà phải sửa đổi theo hướng đổi mới tương đối toàn diện, đồng bộ, do vậy ít ra chúng ta cần xây dựng Pháp lệnh HĐKT.
Hệ thống các văn bản pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh bao gồm: BLDS, Pháp lệnh HĐKT (sửa đổi) các luật về từng lĩnh vực hoạt động kinh tế (chẳng hạn : trong luật Ngân hàng, luật hàng không dân dụng... có những quy định liên quan đến hợp đồng trong hoạt động tín dụng, xây dựng cơ bản và vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không...) các nghị định về từng loại HĐKT cụ thể.
Khi soạn thảo các văn bản về từng loại HĐKT cần căn cứ vào các quy định chung của BLDS, pháp lệnh HĐKT (sửa đổi) và các đạo luật có liên quan.
Hiện nay các quy định pháp luật về từng loại HĐKT còn rất sơ sài chung chung, không cụ thể và đầy đủ, do đó một số người đã lợi dụng sở hở của pháp luật để ký kết HĐKT nhằm phục vụ lợi ích riêng cho cá nhân, đơn vị mình gây thiệt hại lớn cho bên đối tác, cho Nhà nước và cho xã hội. Do vậy việc ban hành các quy định chi tiết về từng loại hợp đồng, trong hoàn cảnh hiện nay là việc làm rất cần thiết.
Từ thực trạng và kiến nghị vừa được trình bày là cơ sở để tác giả luận văn rút ra những kết luận sau đây:
Việc xây dựng đổi mới và hoàn thiện HĐKT ở Việt Nam cần xuất phát từ đường lối đổi mới kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam thực tiễn hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường Vịêt Nam, hiện trạng pháp luật HĐKT.
Để phù hợp với kinh tế thị trường HĐKT cần được xây dựng, đổi mới và hoàn thiện các quy định về khái niệm HĐKT, nội dung HĐKT, trách nhiệm tài sản do vi phạm HĐKT, các biện pháp bảo đảm thực hiện HĐKT. Đây chính là nội dung chủ yếu của HĐKT cần được đổi mới và hoàn thiện.
Hệ thống các văn bản pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh bao gồm BLDS, pháp lệnh HĐKT (sửa đổi) các luật về từng lĩnh vực hoạt động kinh tế, các nghị định về từng loại HĐKT cụ thể. Trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam luật thương mại chưa thể điều chỉnh tất cả các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh. Do vậy cần sửa đổi pháp lệnh HĐKT và ban hành Nghị định về từng loại HĐKT.
Kết luận
Qua việc nghiên cứu, phân tích và hệ thống hoá lại các tài liệu tham khảo tôi có thể đưa ra các kết luận chủ yếu sau đây.
Trong mọi chế độ xã hội hợp đồng tồn tại với tính cách là hình thức của mối quan hệ trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các chủ thể trong xã hội. Pháp luật hợp đồng chính là sự ghi nhận về mặt pháp lý các mối quan hệ trao đổi giữa các chủ thể.
HĐKT và pháp luật HĐKT lệ thuộc vào cơ chế kinh tế, mà trong xã hội cơ chế kinh tế quyết định HĐKT. Mỗi một cơ chế kinh tế có một loại hợp đồng thích hợp với mình.
Từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường HĐKT có sự thay đổi về chất. Tự do hợp đồng dần dần được khẳng định như là một trong những nội dung không thể thiếu của tự do kinh doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần với đa dạng về hình thức sở hữu, HĐKT cần được ký kết theo các nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi, HĐKT trong lĩnh vực kinh doanh phải thực sự là thoả thuận, thống nhất ý chí của các chủ thể kinh doanh.
Trong nhiều năm ở Việt Nam nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp đã được hình thành và phát triển. HĐKT xét về cội nguồn là "con đẻ" của cơ chế quản lý tập trung và bao cấp. Hợp đồng được sử dụng như một công cụ để hợp thức hoá kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước trong hợp đồng kinh tế, ý chí của Nhà nước chi phí ý chí của các bên, yếu tố kế hoạch lấn át yếu tố quan hệ hàng hoá tiền tệ, yếu tố mệnh lệnh hành chính từ phía Nhà nước làm cho sự thoả thuận của các bên hầu như không đáng kể.
Việc xây dựng đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật về HĐKT đã trở thành nhu cầu khách quan của đời sống kinh tế nước ta. Để xây dựng được một hệ thống các văn bản pháp luật về HĐKT đồng bộ và chất lượng cần căn cứ vào thực tiễn hình thức và phát triển kinh tế ở Việt Nam, hiện trạng pháp luật hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh và nhu cầu tiếp tục đổi mới và hoàn thiện pháp luật hợp đồng.
Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế phải được đặt trong công cuộc đổi mới toàn bộ hệ thống pháp luật hợp đồng kinh tế của Việt Nam.
Điều kiện hiện nay của Việt Nam hệ thống các văn bản pháp luật về hợp đồng kinh tế bao gồm: BLDS, Luật Thương mại, Pháp luật HĐKT (sửa đổi), các luật về từng lĩnh vực hoạt đông kinh tế và các văn bản dưới luật về từng loại hợp đồng cụ thể.
Khi soạn thảo pháp lệnh hợp đồng kinh tế (sửa đổi) và các văn bản pháp luật khác về HĐKT thì các nhận xét, kiến nghị của chúng tôi có thể là tài liệu tham khảo hữu ích để góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về hợp đồng kinh tế nói riêng và hệ thống pháp luật của nước ta nói chung.
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0058.doc