Lời mở đầu
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam thì xuất khẩu đóng góp một vai trò không nhỏ. Xuất khẩu giúp tăng thu ngoại tệ tạo cơ sở nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh đó xuất khẩu còn góp phần giải quyết các vấn đề còn nhiều bất cập ở Việt Nam như việc giải quyết vấn đề việc làm, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề vùng kinh tế cũng như góp phần mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới. Trong đó xuất khẩu thủy sản l
51 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1628 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thúc đẩy xuất khẩu thủy sản vào Thị trường châu âu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uôn là một trong những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất của nước ta bởi lẽ nước ta được thiên nhiên ban tặng cho những lợi thếa mà không phải nước nào cũng có được như đường bờ biển dài hàng ngàn kilomet, hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng chịt rất thuận lợi cho việc khai thác và nuôi trồng thủy sản.
Trong số các thị trường xuất khẩu thủy sản chủ yếu của Việt Nam thì thị trường châu âu đóng một vai trò quan trọng. Trong suốt nhiều năm liền thị trường này (cùng thị trường Mỹ và Nhật Bản) là một trong ba thị trường xuất khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam nhưng xét cả về khối lượng và giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường này đều chưa thể hiện hết được nhu cầu của thị trường đầy tiềm năng này.
Do đó tôi quyết định chọn đề tài
“ Thúc đẩy xuất khẩu thủy sản vào thị trường châu âu”
để có thể hiểu rõ hơn những lý do khiến thủy sản của nước ta trong nhiều năm qua luôn gặp khó khăn khi xâm nhập thị trường này dù tiềm lực thủy sản của thủy sản là rất lớn. Đề tài này gồm cho 3 phần chính:
+) Chương 1: Lý luận chung về thúc đẩy xuất khẩu thủy sản
sang thị trường châu âu
+) Chương 2: Thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường
châu âu
+) Chương 3: Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu thủy sản sang thị
trường châu âu
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS Hoàng Đức Thân và thư viện trường Đại học Kinh tế quốc dân đã giúp tôi hoàn thành đề án này. Xin chân thành cảm ơn.
Chương 1: Lý luận chung về thúc đẩy xuất khẩu thủy sản sang
thị trường châu âu
1.1 Tầm quan trọng của xuất khẩu thủy sản với nền kinh tế quốc dân
Xuất khẩu nói chung và xuất khẩu thủy sản nói riêng có một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân.
Trước hết xuất khẩu thủy sản giúp cho nước ta tăng thu ngoại tệ, từ đó có thể nhập khẩu những công nghệ cần thiết phục vụ cho quá trình thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước
Trong những năm gần đây, thủy sản đã có những bước phát triển vô cùng mạnh mẽ để trở thành một trong những ngành xuất khẩu có vai trò và đóng góp lớn nhất cho nền kinh tế nước ta. Ngành thủy sản đã có nhưng bước tiến vượt bậc trong thời gian qua và kim ngạch xuất khẩu của ngành luôn chiếm khoảng 10% kim ngạch xuất khẩu cả nước trong những năm gần đây. Cụ thể là nếu như năm 1981 kim ngạch xuất khẩu xủa ngành thủy sản chỉ đạt 19,9 triệu USD thì đến năm 2007 con số này là 3,8 tỷ USD ( tăng 191 lần so với năm 1981 và đứng thứ tư trong số các mặt hàng chủ lực của Việt Nam). Đây là một cơ sở, một tiền đề quan trọng đối với các nước, đặc biệt là với một đất nước còn nghèo đang trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá như nước ta hiện nay.Việc tăng thu ngoại tệ sẽ giúp cho đất nước có thêm điều kiện để nhập khẩu thêm máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại để góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta diễn ra nhanh hơn và đạt hiệu quả cao hơn.
Bên cạnh đó, xuất khẩu thủy sản còn góp phần vào việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, vùng kinh tế, kích thích sản xuất phát triển theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Điều đó được thể hiện rõ trong các điều
+) Tạo điều kiện cho các ngành liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới thủy sản như nuôi trồng thủy sản, khai thác và chế biến thủy sản có cơ hội phát triển.
+) Tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ cho ngành thủy sản mà không chỉ bó hẹp ở thị trường trong nước, điều đó sẽ góp phần ổn định sản xuất các mặt hàng thủy sản ở trong nước, cũng như mở ra các cơ hội mới cho ngành thủy sản có thể mở rộng về quy mô sản xuất.
+) Góp phần thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài đó là điều kiện thuận lợi để thực hiện hiện đại hoá nền kinh tế trong nước và mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng của các sản phẩm chế biến từ thủy sản.
Ngoài ra xuất khẩu thủy sản còn góp phần giải quyết vấn đề cấp bách đối với một đất nước đang tiến hành thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đó là vấn đề việc làm cho người dân.Việc tiến hành hoạt động xuất khẩu thủy sản sẽ tạo ra nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm cho người dân bởi lẽ các hoạt động liên quan đến xuất khẩu thủy sản như nuôi trồng thủy sản, khai thác chế biến thủy sản đồi hỏi một lượng lao động tương đối lớn. Bên cạnh đó các hoạt động khác như dịch vụ hậu cần trong ngành thủy sản cũng thu hút được một lượng lao động khá lớn. Chính vì vậy xuất khẩu thủy sản đã góp phần ổn định đời sống người lao động của nước ta thông qua đó góp phần ổn định kinh tế chính trị tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Cuối cùng, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng giao lưu, quan hệ với các quốc gia khác trên thế giới. Thông qua xuất khẩu nói chgung và xuất khẩu thủy sản nói riêng, chúng ta đã ký kết nhiều hoạt động quan hệ quốc tế, cũng như phần nào giới thiệu được những nét văn hoá đặc trưng cũng như con người Việt Nam với bạn bè thế giới. Từ đó tạo điều kiện cho việc các quốc gia tiến đến ký kết các hoạt động giao lưu văn hoá, cũng như thu hút các du khách nước ngoài đến tham quan và tìm hiểu về con người Việt Nam.
1.2 Đặc điểm của thị trường châu âu
1.2.1 Giới thiệu khái quát về kinh tế, xã hội các nước châu âu
*) Đối với khu vực EU, kinh tế trong thời gian qua vẫn duy trì với tốc độ tăng trưởng cao. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 1996 là 1,6%, năm 1997 là 2,5%, năm 1999 là 2%. Năm 2000, GDP của EU tăng 2,6% đạt 9785 tỷ USD, lớn hơn Mỹ 13%, Nhật 38% (trong đó các thị trường chính như Anh, Pháp, Đức, Italia chiếm tới 72% GDP của EU). Đến năm 2005, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 1,8%, năm 2007 đạt 2,6%. Tuy nhiên, tình hình lạm phát ở EU đang có xu hướng đi lên. Năm 1998, tỷ lệ lạm phát là 1,5%, đến năm 1999 con số này giảm xuống còn 1,3% nhưng đến năm 2000 lại tăng lên 1,8% và đến năm 2007 tình hình lạm phát đã khá cao (lên đến 3,1%) tuy nhiên vẫn ở trong tầm kiểm soát. Nguyên nhân là do tác động của giá dầu thế giới tăng cao.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng và lạm phát ở EU
(Tính đến tháng 10/2007)
Nước
GDP
Chỉ số giá tiêu dùng
Mức thay đổi (%)
Mức thay đổi (%)
2005
2006
2007*
2008*
2005
2006
2007*
2008*
EU
1,8
3,0
2,6
2,4
2,3
2,3
2,3
2,0
Đức
0,8
2,9
2,7
2,2
2,0
1,7
2,0
2,0
Pháp
1,8
2,2
2,0
2,3
1,9
1,9
1,5
1,8
Italia
0,2
1,9
2,0
1,8
2,2
2,2
2,0
2,0
Tây Ban Nha
3,6
3,9
4,0
3,0
3,4
3,6
2,7
2,8
Hà Lan
1,5
2,9
2,5
2,3
1,5
1,7
1,5
1,5
Bỉ
1.4
3,0
2,8
2,3
2,5
2,3
1,8
2,3
áo
2,0
3,1
3,0
2,5
2,1
1,7
1,8
1,8
Hy Lạp
3,7
4,3
3,3
3,3
3,5
3,3
2,8
2,8
Bồ Đào Nha
0,5
1,3
2,0
2,0
2,1
3,0
2,3
2,0
Phần Lan
2,9
4,9
4,3
2,5
0,8
1,3
1,7
1,8
Ireland
5,9
5,7
5,0
4,0
2,2
2,7
3,0
2,8
Anh
1,8
2,8
2,9
2,4
2,0
2,3
2,3
1,8
Đan Mạch
3,2
3,3
2,3
2,2
0,5
1,4
2,0
2,2
Thụy Điển
2,9
4,5
3,3
2,8
2,0
2,3
1,9
2,2
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu châu âu
Ghi chú: (*) mức dự báo
Bên cạnh đó các vấn đề xã hội của khu vực EU đã được giải quyết tốt. Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm xuống trên toàn châu âu nhờ những thành tựu kinh tế mà khu vực này đạt được: từ 11% dân số thất nghiệp năm 1995 đến năm 1998 tỷ lệ này giảm còn 10,2%, đến năm 2000 xuống còn 9%.Và thời gian gần đây, nhờ các tác động của sự phát triển kinh tế dự kiến số việc làm mới được tạo trong giai đoạn 2007-2009 sẽ là 8 triệu việc làm, điều này sẽ giúp cho tỷ lệ thất nghiệp của năm 2009 giảm còn 6,6%. Bên cạnh đó EU còn quan tâm hơn đến sức khoẻ của người dân thông qua việc phát triển các nguồn thực phẩm phục vụ hàng ngày cũng như tăng cường chất lượng và tiện ích của các dịch vụ trong đời sống như tiến hành hạ cước phí điện thoại di động khi thực hiện các cuộc gọi giữa các nước là thành viên EU, cũng như được quyền lựa chọn nhà cung cấp điện và khí đốt cho mình. Cũng trong thời gian này Eu cũng rất chú ý đến các dịch vụ đi lại tiện ích cũng như bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng như sự kiện Microsoft bị thua kiện do sử dụng vị thế độc quyền của mình để giới hạn việc chuyển dữ liệu với các hệ điều hành qua đó giới hạn khả năng lựa chọn của người dân.
*) Đối với khu vực SNG
Trong những năm đầu thập niên 90, kinh tế của khu vực này liên tục rơi vào suy thoái giảm sút. So với những năm trước đó, GDP năm 1992 giảm khoảng 14%, năm 1995 GDP giảm 5,3% trong đó ngay cả những nước được coi là phát triển nhất của khu vực mhư Nga, Ukraine cũng liên tục sụt giảm kinh tế. Năm 1992, GDP của Nga giảm 14,5%, của Ukraine giảm 9,9% đến năm 1995 con số này của Nga là giảm 4,1%, của Ukraine là giảm 12,9%. Cũng trong giai đoạn này mức lạm phát của khu vực luôn ở mức hai con số. Tuy nhiên trong thời gian từ năm 2000 trở lại đây, kinh tế của khu vực này đã có nhiều khởi sắc. Mức tăng trưởng kinh tế của khu vực luôn ở mức khá cao như năm 2000 GDP của khu vực tăng 8,3%, năm 2003 con số này là 7,8% và năm 2005 con số này là 6,8%. Tuy nhiên mức độ lạm phát của dù đã giảm nhưng vẫn ở mức cao trên hai con số. Về vấn đề xã hội thì khu vực này vẫn còn nhiều bất ổn về chính trị, xã hội vẫn còn nhiều biến động, tiêu cực. Đời sống của người dân vẫn còn ở mức thấp, tỷ lệ người thất nghiệp vẫn còn ở mức cao. Việc thực thi pháp luật còn lỏng lẻo, tuỳ tiện thiếu nghiêm túc. Điều đó ảnh hưởng lớn đến kinh tế xã hội khu vực này.
Bảng 2: Nhịp độ tăng trưởng của một số nước khu vực SNG
trong những năm gần đây
Tên nước
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Belarut
5,8
4,7
4,7
7
11,4
9,2
Nga
9
5
4,3
7,3
7,2
6,4
Ukraine
5,9
9,1
4,1
9,6
12,1
2,6
Grudia
1,9
4,5
5,4
11,1
5,9
9,3
Acmenia
5,9
9,6
12,9
11,2
10,2
26,4
Mondova
2,1
6,1
7,2
6,6
7,4
7,1
Cadacxtan
11,1
9,9
10,6
9,3
9,6
9,5
Nguồn: Tạp chí kinh tế Nga+ www.cisstat.com
1.2.2 Đặc điểm thị trường tiêu thụ thủy sản châu âu
*) Về tập quán, thị hiếu tiêu dùng của thị trường châu âu
Với thị trường EU do mỗi quốc gia có một đặc điểm tiêu dùng riêng nên có thị trường châu âu có nhu cầu vô cùng phong phú và đa dạng về các mặt hàng.Tuy nhiên do có trình độ phát triển kinh tế, xã hội văn hoá khá tương đồng nên người dân châu âu cũng có các đặc điểm chung khi tiêu dùng. Đối với hàng thủy sản, người tiêu dùng châu âu ngày nay có xu hướng sử dụng nhiều đồ thủy sản hơn so với các loại thịt. Ngoài ra họ cũng sẽ không sử dụng các mặt hàng bị nhiễm độc do các tác động của môi trường hoặc do sử dụng các chất không được phép theo quy định.Với các sản phẩm thủy sản đã được chế biến thì họ chỉ sử dụng các sản phẩm có ghi rõ nguồn gốc xuất xứ, các điều kiện bảo quản. Hiện nay mặt hàng thủy sản xuất khẩu vào thị trường châu âu đang bị hàng rào kỹ thuật khống chế rất khắt khe. Đặc biệt người tiêu dùng châu âu thích tiêu dùng các nhãn hiệu nổi tiếng, có chất lượng dù giá có đắt hơn so với các sản phẩm khác cùng loại nhưng không có thương hiệu, không đảm bảo chất lượng.
Với thị trường SNG, nhìn chung thị hiếu người tiêu dùng được chia làm hai loại. Loại một là những người có thu nhập cao thì họ có xu hướng giống với người tiêu dùng ở thị trường EU là hàng phải có uy tín chất lượng cao, nguồn gốc xuất xứ rõ ràng dù giá có cao cũng được. Loại hai là những người có thu nhập thấp thì họ chỉ mua hàng rẻ tiền, chất lượng chấp nhận được. Do đó hành thủy sản của Việt Nam khi xâm nhập thị trường này cần xác định rõ đối tượng khách hàng của mình là ai để có thể đáp ứng nhu cầu của họ.
*) Về kênh phân phối của thị trường châu âu
Hiện nay, hệ thống các kênh phân phối của châu âu được xem là một trong những hệ thống phức tạp nhất trên thế giới hiện nay. Chúng bao gồm nhiều thành phần khác nhau trong đó nổi bật là các công ty xuyên quốc gia. Các công ty này tổ chức mạng lưới tiêu thụ từ khâu mua hàng cho đến khâu phân phối hàng cho các mạng lưới bán lẻ do đó họ luôn có mối quan hệ vô cùng chặt chẽ với các nhà thầu nước ngoài. Với các công ty xuyên quốc gia này, hệ thống phân phối của EU hình thành một mạng lưới rất chặt chẽ. Hai hình thức phổ biến nhất của các kênh phân phối bao gồm theo tập đoàn và không theo tập đoàn. Theo hình thức phân phối theo tập đoàn, các nhà sản xuất của tập đoàn chỉ cung cấp hàng cho các hệ thống cửa hàng, siêu thị của tập đoàn mà không cung cấp cho các nhà bán lẻ bên ngoài. Còn hình thức không theo tập đoàn thì nhà sản xuất hay nhập khẩu có thể cung cấp hàng cùng lúc cho nhiều hệ thống bán lẻ trên thị trường
Bên cạnh các công ty bán lẻ và các siêu thị ở thị trường châu âu thường không mua hàng trực tiếp từ các đầu mối nước ngoài mà thông qua các trung tâm thu mua lớn ở châu âu. Nhờ đó mà đảm bảo cho việc cung cấp nguồn hàng luôn ổn định và đảm bảo về mặt chất lượng. Hình thức phân phối của thị trường châu âu tạo ra một chuỗi liên kết rất chặt chẽ thông qua các hợp đồng kinh tế, vì vậy đây sẽ là điều khó khăn cho các nhà xuất khẩu muốn xâm nhập thị trường châu âu (trong đó có Việt Nam ). Chính vì vậy hang thủy sản Việt Nam muốn xâm nhập thị trường châu âu cần tìm các nhà nhập khẩu để xuất khẩu trực tiếp (có thể tìm thông qua các đại sứ quán các nước hoặc các thương vụ Việt Nam ở châu âu) hoặc liên doanh với các công ty xuyên quốc gia ở châu âu để trở thành công ty con
Bảng 3: Các trung tâm thu mua lớn tại châu âu
STT
Trung tâm
Nước
Doanh số
(tỷ Franc)
1
Bigr
Đức
280
2
Eurogroup
Đức
240
3
Cem
Bỉ
240
4
Deurobuying
Thụy Sĩ
310
5
Naf
Đan Mạch
240
Nguồn: eurostar
*) Về chính sách ngoại thương của châu âu
Đối với liên minh châu âu EU thì tất cả các nước thành viên đều áp dụng một chính sách ngoại thương chung với các nước ngoài khối. Chính sách ngoại thương của EU gồm: chính sách thương mại tự do và chính sách thương mại chung đảm bảo các nguyên tắc không phân biệt đối xử, cạnh tranh công bằng:
+) Biểu thuế quan chung của EU. Khi xem xem xét về vấn đề này thì cần chú ý đến quy định biểu thuế quan liên quan đến xuất xứ của hàng hoá. Đối với sản phẩm được sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ các nước được hưởng ưu đãi thuế quan GSP thì được xem như có xuất xứ và được hưởng GSP. Với các sản phẩm sản xuất tại các nước hưởng GSP phải đạt 60% tổng giá trị hàng hoá liên quan, tuy nhiên đối với một nsố mặt hàng thì con số này có thể thấp hơn. Đây là những đặc điểm mà các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam cần hết sức lưu ý khi xuất khẩu hàng sang EU.
+) Để giúp cho hàng hoá của các nước đang phát triển có thể xâm nhập vào thị trường EU thì liên minh châu âu đã đề ra chương trình hỗ trợ thuế quan GSP để giúp đỡ cho hàng hoá các nước này. Chương trình này được xây dựng trên các nguyên tắc tự nguyện, không đòi hỏi có đi có lại và đơn phương quyết định. EU chia sản phẩm dược hưởng GSP thành 4 nhóm chính trong đó các sản phẩm bán nhạy cảm bao gồm các mặt hàng như thủy sản đông lạnh, hàng công nghiệp dân dụng được hưởng mức thuế GSP bằng 35% mước thuế suất thông thường. Đây là mặt hàng được khuyến khích nhập khẩu.
Trong tương lai thì hàng nhập khẩu của các nước đang phát triển sẽ không được hưởng GSP nữa khi đó sẽ tạo ra nhiều khó khăn và thách thức đối với các nước này.
+) Ngoài ra EU còn áp dụng chính sách chống bán phá giá với các hàng hoá vào thị trường EU. Từ khi gia nhập WTO thì EU chỉ được áp dụng chính sách chống bán phá giá trong trường hợp các ngành của EU bị ảnh hưởng do các hàng nhạp khẩu bán phá giá. Đến năm 1996 thì quy chế áp dụng chính sách chống bán phá giá chỉ được áp dụng trong các trường hợp:
-) giá xuất khẩu của sản phẩm bán trên thị trường EU thấp hơn giá bán các sản phẩm đó ở thị trường nước xuất khẩu.
-) hàng xuất khẩu của nước xuất khẩu có thể gây ra tổn thất cho các ngành kinh doanh ở EU.
-) chi phí mà EU bỏ ra thực hiện các biện pháp không được tỷ lệ nghịch với lợi ích thu được.
+) Quyền lợi của người tiêu dùng EU phải luôn được bảo vệ do đó EU đã đề ra các biện pháp bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng của mình. Khác với trước đây, ngày nay EU đã tiến hành kiểm tra các sản phẩm buônlưu thông trên thị trường ngay từ nơi sản xuất và các nước thuộc EU đã có sự liên kết với nhau để đảm bảo an toàn ngày càng cao cho người tiêu dùng. Ngoài ra các tổ chức nghiên cứu đại diện cho quyền lợi người tiêu dùng cũng đưa ra các quy chế chuẩn theo từng quốc gia hay dùng chung cho toàn EU. Hiện nay ở EU tồn tại song song cùng lúc các cơ quan định chuẩn là ủy ban châu âu về định chuẩn, ủy ban châu âu về định chuẩn điện tử, viện định chuẩn viễn thông châu âu. Dưới đây là một số quy chế bảo đảm an toàn mà EU áp dụng với những loại sản phẩm tiêu dùng trong đó với sản phẩm thủy đóng hộp (như thủy sản đóng hộp) phải ghi rõ tên sản phẩm, thành phần, nhãn mác, trọng lượng tịnh, thời gian bảo quản, cách sử dụng, nơi sản xuất, điêù kiện bảo quản. Còn với sản phẩm thủy sản tươi sống thì cần phải vượt qua được sự kiểm tra sát sao của các cơ quan kiểm tra chất lượng của EU và phải đăng ký . Nếu được các cơ quan có thẩm quyền cho phép thì mới được lưu thông trên thị trường EU.
+) Bên cạnh đó EU còn áp dụng các hàng rào phi thuế quan như:
-) Hạn ngạch: là công cụ để hạn chế số lượng hoặc giá trị một số mặt hàng nhập khẩu vào EU và nó cũng ảnh hưởng tới việc phân bổ hạn ngạch cho các nước đang phát triển theo chương trình GSP. Hiện một số mặt hàng thủy sản của Việt Nam đang phải chịu sự quản lý này.
-) Hàng rào kỹ thuật: là quy chế nhập khẩu chung và là biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng EU thông qua 5 tiêu chuẩn bắt buộc của sản phẩm gồm tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn an toàn, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và tiêu chuẩn về lao động. Trong đó các mặt hàng như thủy sản phải thực hiện nghiêm túc các tiêu chuẩn này. Nếu thiếu bất kỳ một tiêu chuẩn nào thì các mặt hàng (trong đó có thủy sản) sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi muốn xâm nhập và phát triển trên thị trường này.
-) Các công cụ hành chính khác để quản lý nhập khẩu. Ngoài các biện pháp đã áp dụng như chính sách chống bán phá giá, chống trợ cấp xuất khẩu thì EU còn áp dụng một số các biện pháp khác như không nhập khẩu các mặt hàng ăn cắp bản quyền. Bên cạnh đó thì trong một thời gian dài EU coi Việt Nam là một nước không có nền kinh tế thị trường do đó hàng hoá của Việt Nam luôn bị đối xử phân biệt gây bất lợi cho các mặt hàng của Việt Nam. Mãi cho tới 14/05/2000 thì EU mới chính thức coi Việt Nam là một nước áp dụng kinh tế thị trường thì hàng hoá của Việt Nam mới được đối xử công bằng như các nước khác.
Với thị trường SNG, trong những năm gần đây các nước của khu vực này đã thông qua nhiều văn bản luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh , thương mại thuế tạo điều kiện cho hàng hoá các nước xâm nhập thị trường này. Và với Việt Nam, dù đã có nhiều động thái tích cực song lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực này vẫn rất hạn chế (bao gồm cả thủy sản).
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu thuỷ sản
1.3.1 Các nhân tố bên trong
+) Nguồn lực con người
Từ xưa đến nay con người luôn có một vai trò vô cùng quan trọng trong mọi hoạt động của đời sống. Ngày nay khi máy móc, thiết bị hiện đại phát triển thì vai trò của con người ngày càng quan trọng hơn. Máy móc phải có con người diều khiển mới có thể vận hành tốt, làm ra những sản phẩm, hàng hoá có ích. Một doanh nghiệp muốn phát triển phải có người lãnh đạo, đề ra các mục tiêu chiến lược, các định hướng để đạt được các mục tiêu đó. Cũng cần có con người, đặc biệt là những người có trình độ cao để tiếp nhận các thông tin, từ đó tiến đến xử lý các thông tin rồi ra các quyết định cho phù hợp. Bởi vậy nguồn lực con người có tính quyết định tới sự thành công hay thất bại của một dự án, công trình. Trong ngành xuất khẩu thuỷ sản cũng vậy, nếu những người lãnh đạo không có năng lực không đề ra được các chiến lược phương hướng đúng đắn, công nhân không có tay nghề cao thì sản lượng thuỷ sản xuất khẩu đi sẽ thấp và ngược lại.
+) Năng lực tài chính
Năng lực tài chính có thể được hiểu là quy mô vốn và khả năng thanh toán của mỗi doanh nghiệp. Điều đó cho phép doanh nghiệp thường xuyên nâng cao, cải tiến về kỹ thuật công nghệ từ đó góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã cho phù hợp thị hiếu người tiêu dùng. Đối với mặt hàng thủy sản thì vấn đề về tài chính cũng vô cùng quan trọng. Nếu một doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản có khả năng tài chính lớn thì doanh nghiệp đó sẽ có nhiều cơ hội thâm nhập các thị trường cũng như khả năng tiêu thụ các sản phẩm cao hơn.
+) Năng lực công nghệ
Là điều kiện để có thể tăng sức cạnh tranh của các mặt hàng do tạo ra được các sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, giá thành hạ từ đó có thể xâm nhập vào các thị trường các nước và có thể cạnh tranh với hàng hoá các nước đó. Điều này rất quan trọng đói với ngành xuất khẩu thủy sản của ta do các thị trường thủy sản lớn của ta đều là các thị trường khó tính đòi hỏi chất lượng sản phẩm rất cao như thị trường EU, Nhật, Mỹ. Do đó năng lực công nghệ có vai trò thúc đẩy để hàng thủy sản Việt Nam có thể xuất khẩu sang các nước bạn.
+) Văn hoá doanh nghiệp
Văn hoá doanh nghiệp có thể được hiểu là cách ứng xử của những người trong cùng một doanh nghiệp với nhau hoặc giữa những người trong doanh nghiệp với các đối tác, khách hàng của doanh nghiệp.
Văn hoá doanh nghiệp ở mỗi doanh nghiệp thì rất khác nhau do nó được xây dựng từ các triết lý kinh doanh và các sứ mệnh khác nhau mà doanh nghiệp đang theo đuổi. Và đó cũng là sự khác biệt giữa các doanh nghiệp.
Nếu văn hoá doanh nghiệp được xây dựng trên cơ sở hoà thuận, thân thiện thì nó sẽ tạo điều kiện cho các nhân viên trong doanh nghiệp phát huy hết khả năng cũng như sức sáng tạo của mình để cống hiến cho công ty. Ngược lại thì các nhân viên sẽ chán nản không thích cống hiến nhiều khi gây ra không khí thù địch, gây mất đoàn kết nội bộ. Do đó văn hoá doanh nghiệp ảnh hưởng đến khả năng phát triển của một doanh nghiệp. Chính vì vậy các doanh nghiệp muốn phát triển phải tạo ra được một sự đồng lòng trong nội bộ, sự bình đẳng để người lao động yên tâm đóng góp cho doanh nghiệp.
1.3.2 Các nhân tố bên ngoài
+) Về chính trị
Một quốc gia muốn thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào để phát triển thị trường trong nước thì yếu tố đầu tiên phải tính đén đó là chính trị. Không một nhà đầu tư nước ngoài nào lại đem tiền của mình đầu tư vào một nước có nền chính trị mất ổn định, đảo chính bạo loạn đánh nhau xảy ra triền miên bởi những yếu tố đó sẽ gây ra các rủi ro mà họ không lường trước được và khả năng mất trắng là rất lớn. Bởi vậy yếu tố chính trị có tác động rất lớn đến các hoạt động kinh tế cũn như hoạt động xã hội khác( xuất khẩu thủy sản cũng không nằm ngoài quy luật đó).
+) Về chính sách pháp luật
Bất kỳ quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển đều phải có hệ thống chính sách và pháp luật đồng nhất. Trong quá trình xuất khẩu và phát triển kinh tế cũng vậy, chính sách pháp luật có vai trò và ảnh hưởng lớn đến các quyết định của các nhà đầu tư cũng như các nhà xuất khẩu. Một quốc gia nếu có chính sách pháp luật thuận lợi, hợp lý sẽ thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển nhanh cũng như thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài hơn nếu chính sách pháp luật không hợp lý gây khó khăn cản trở cho các hoạt động giao lưu trao đổi mua bán. Đối với hoạt động xuất khẩu thủy sản thì chính sách này càng có ý nghĩa quan trọng. Các đơn vị xuất khẩu phải tìm hiểu rõ các chính sách pháp luật của thị trường mình định xuất khẩu sang tránh các trường hợp vi phạm có thể dẫn tới bị phạt gây ảnh hưởng đến số lượng và kim ngạch xuất khẩu.
+) Về cạnh tranh
Một thị trường nếu có nhiều nhà cung cấp cùng cạnh tranh với nhau thì thị trường đó sẽ không còn hấp dẫn đối với các nhà đầu tư cung cấp mới. Thực chất khi một thị trường có quá nhiều đói thủ cạnh tranh thì việc các đói thủ không có đủ tiềm lực năng lực bị loại khỏi cuộc đua là điều dễ hiểu. Bên cạnh đó co nhiều đói thủ thì lợi nhuận kỳ vọng sẽ bị giảm chưa kể đến những kẻ đến sau sẽ rất khó chiếm được thị trường do những kẻ đến trước đã giành được. Mà các doanh nghiệp của Việt Nam thì tiềm lực có hạn, chất lượng sản phẩm dù đã có cải thiện tuy nhiên để cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn thì đó là điều hết sức khó khăn. Do vậy cạnh tranh cũng là yếu tố tác động lớn đến việc lựa chọn thị trường và hình thức kinh doanh của doanh nghiệp.
+) Về thị hiếu tập quán của người tiêu dùng nước nhập khẩu
Đây là một yếu tố mà các nhà xuất khẩu muốn đạt được thành công phải hết sức chú ý. Nếu các sản phẩm ta xuất khẩu sang thị trường đó phù hợp với nhu cầu thị hiếu cuỉa họ thì việc tiêu thụ sản phẩm không gặp khó khăn tuy nhiên nếu các sản phẩm xuất khẩu không phù hợp với thị hiếu tập quán của họ thì hàng không thể bán gây khó khăn, thất thu cho doanh nghiệp. Như với thị trường EU, họ tẩy chay các loại thủy sản có chứa khuẩn Salmonella, độc tố Lustamine, nhiễm V.Cholarae nếu các doanh nghiệp cứ xuất khẩu các loại thủy sản này thì không thể tiêu thụ sản phẩm. Bởi vậy, khi xuất khẩu hàng sang thị trường nào cần nghiên cứu kỹ các đặc điểm tập quán, thị hiếu, chính sách để từ đó có các đường lối chính xác.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường châu âu
2.1 Thực trạng về xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
2.1.1 Thực trạng về tình hình tăng trưởng của thủy sản
Từ trước năm 1981, do đất nước có chiến tranh và những năm sau đó phải chú trọng khôi phục kinh tế sau chiến tranh và các cơ chế quản lý không hợp lý cho nên kinh tế thuỷ sản ở thời kỳ này gặp rất nhiều khó khăn. Đến năm 1981, ngành thuỷ sản đã đề xuất áp dụng cơ chế gắn sản xuất với thị trường và chính đề xuất này đã mở đường cho ngành sự tăng trưởng của ngành thuỷ sản trong những năm sau này. Và đến năm 1993, hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ năm 5 khoá VII đã quyết định xây dựng ngành thuỷ sản thành ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta.
Trong thời kỳ này, các định hướng cho các lĩnh vực của ngành thủy sản đều hướng vào phục vụ cho xuất khẩu. Chính vì vậy ngành đã dẩy mạnh áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất, tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu, đáp ứng các quy định về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm nhờ đó có thể xâm nhập vào các thị trường lớn. Nhờ đó ngành thuỷ sản đã đật được những kết quả rất khả quan trong những năm qua:
+) Về cơ cấu sản lượng thuỷ sản
Năm 1981, tổng sản lượng chỉ đạt có 596356 tấn (trong đó khai thác đạt 416356 tấn, nuôi trồng chiếm 180000 tấn). Năm 1986, sản lượng tăng lên 840906 tấn (trong đó khai thác chiếm 598040 tấn còn nuôi trồng đạt 242866 tấn). Nhưng đến năm 2000, tổng sản lượng thuỷ sản đã vượt ngưỡng 2 triệu tấn, năm 2003 tổng sản lượng đạt 2536361 tấn (trong đó khai thác đạt 1426223 tấn, còn nuôi trồng là 1110138 tấn).Và đến năm 2005 sản lượng đã đạt tới 3432800 tấn (trong đó khai thác là 1995400, nuôi trồng là 1437400 tấn). Đến năm 2007, tổng sản lượng thuỷ sản đạt 4,5 triệu tấn tăng 11,5% so với năm 2006 ( trong đó khai thác đạt 2,06 triệu tấn tăng 1,8% so với năm 2006, nuôi trồng đạt 2,1 triệu tấn tăng 23,1% so với năm 2006).
+) Về diện tích nuôi trồng thuỷ sản
Diện tích nuôi trồng thủy sản cũng tăng liên tục kể từ năm 1981 chỉ đạt 230000 ha, đến năm 1986 tăng lên 384.6 ha và đến nay thì diện tích nuôi trồng thủy sản đạt khoảng hơn 1 triệu ha. Như vậy ngành nuôi trồng thủy sản đang từng bước trở thành một trong những ngành sản xuất chủ lực đông vai trò vô cùng quan trọng đói với sự phát triển của ngành thuỷ sản nói riêng và các ngành sản xuất hàng hoá nói chung.
+) Về năng lực tàu thuyền khai thác
Trong ngành khai thác thủy sản, trước đây nước ta chỉ hoạt động với quy mô nhỏ, khai thác gần bờ thì giờ đây đã phát triển thành đánh bắt xa bờ với đối tượng là các sản phẩm có giá trị và xuất khẩu. Bên cạnh đó là tiếp tục ổn định, vừa khai thác vừa bảo vệ đối với nguồn tài nguyên ven bờ, môi trường sinh thái. Và từ năm 1991 đến nay số thuyền máy tăng nhanh: năm 1991, số lượng tàu thuyền máy có 44347 chiếc chiếm 59.6% tổng số thuyền đánh bắt; đến năm 2003 tổng số thuyền máy là 83123 chiếc tổng công suất đạt 3497457 CV, gấp năm 5 lần năm 1991. Số thuyền có công suất cao dùng đánh bắt xa bờ cũng tăng khá nhanh trong thời gian qua, từ 5000 chiếc năm 1997 đến năm 2003 là 6258 chiếc do đó tỷ trọng khai thác xa bờ đã tăng nhanh chóng, năm 2003 đã đạt 38.8%.
+) Về dịch vụ hậu cần khai thác
Lực lượng tàu làm dịch vụ hậu cần nhằm phục vụ cho tàu khai thác xa bờ có thể ở trên biển dài ngày giảm chi phí đi lại và nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên nưng lực của loại tàu này hiện còn thâpso với nhu cầu (mới chiếm 1% về sản lượng và 3% về công suất trong tổng công suất tàu thuyền cơ giới. Hệ thống cảng cá mới có 49/75 cảng cá tại 25 tỉnh thành phố được đưa vào sử dụng. Tuy các cảng đã phát huy được tác dụng dịch vụ hậu cần nhưng nhiều nơi đã bị quá tải. Về lực lượng khai tháchiện có 900 ngàn lao động. Trong đó lao động gần bờ và xa bờ có tỷ lệ là 2/3 và 1/3. Nhưng chất lượng lao động còn thấp.
Bảng 4: Kết quả thực hiện kế hoạch hàng năm của ngành thủy sản
Năm
Tổng sản lượng thủy sản (tấn)
Sản lượng khai thác hải sản (tấn)
Sản lượng nuôi thủy sản (tấn)
Giá trị xuất khẩu (1000 USD)
Tổng số tàu thuyền (chiếc)
Diện tích mặt nước NTTS (ha)
1990
1.019.000
709.000
310.000
205.000
72.723
491.723
1991
1.062.163
714.253
347.910
262.234
72.043
489.833
1992
1.097.830
746.570
351.260
305.630
83.972
577.538
1993
1.116.169
793.324
368.604
368.435
93.147
600.000
1994
1.211.496
878.474
333.022
458.200
93.672
576.000
1995
1.344.140
928.860
415.280
550.100
95.700
581.000
1996
1.373.500
962.500
411.000
670.000
97.700
585.000
1997
1.570.000
1.062.000
481.000
776.000
71.500
600.000
1998
1.668.530
1.130.660
537.870
858.600
71.799
626.330
1999
1.827.310
1.212.800
614.510
971.120
73.397
630.000
2000
2.003.000
1.280.590
723.110
1.478.609
79.768
652.000
2001
2.226.900
1.347.800
879.100
1.777.485
78.978
887.500
2002
2.410.900
1.434.800
976.100
2.014.000
81.800
955.000
2003
2.536.361
1.426.223
1.110.138
2.199.577
83.122
902.229
2004
3.073.600
1.923.500
1.150.100
2.400.781
85.430
902.900
2005
3.432.800
1.995.400
1.437.400
2.738.726
90.._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6160.doc