MỞ ĐẦU
I. Tính tất yếu của đề tài nghiên cứu
Với dân số là 127,46 triệu người và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2006 đạt 5,04 tỷ đôla (tốc độ tăng trưởng năm 2006 là 2,1%), Nhật Bản là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Nhật Bản có sức mua lớn, nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng của Nhật Bản (trong đó có đồ gỗ) đang ngày càng gia tăng cùng với xu hướng phục hồi nền kinh tế của Nhật Bản hiện nay. Nhu cầu tiêu dùng của Nhật Bản mở ra nhiều triển vọng mới cho các nước xuất kh
117 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1529 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thúc đẩy Xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong điều kiện tham gia WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẩu đồ gỗ sang Nhật trong đó có Việt Nam. Hiện nay Nhật Bản là nước nhập khẩu lớn thứ hai của Việt Nam (sau Hoa Kỳ). Hàng năm Nhật Bản nhập khẩu khối lượng hàng hoá trị giá khoảng 400 tỷ USD, trong đó nhập khẩu từ Việt Nam khoảng 2,9 tỷ USD.
Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam từ nhiều năm nay chỉ có dầu thô, dệt may, thuỷ sản… Vài năm gần đây, sản phẩm gỗ cũng được coi là một mặt hàng xuất khẩu chính, giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam và là một trong 6 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu rất cao. Hơn thế, thị phần đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản đã tăng từ vị trí thứ tư năm 2004 lên vị trí thứ hai năm 2006 chỉ sau Trung Quốc, hiện đang chiếm trên 8% thị phần nhập khẩu đồ gỗ của Nhật Bản và đang có xu hướng tăng hơn nữa. Với nhu cầu tiêu dùng đồ gỗ đạt khảng 2,2 tỷ USD/năm của người Nhật Bản, sản phẩm gỗ là một mặt hàng có triển vọng rất lớn để tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản năm 2006 và những năm sau nữa.
Tuy nhiên, trong điều kiện toàn cầu hoá và quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng sâu sắc hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện Việt Nam đã là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cạnh tranh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản nói riêng ngày càng gay gắt. Những sản phẩm Việt Nam có lợi thế xuất khẩu sang Nhật Bản cũng là những sản phẩm mà nhiều nước và khu vực khác trên thế giới nhất là các nước ASEAN và Trung Quốc có điều kiện lợi thế để xuất khẩu sang thị trường này. Đó là chúng ta còn chưa nói tới những khó khăn xuất phát từ đặc điểm thị trường Nhật Bản - một thị trường đòi hỏi khắt khe đối với hàng hoá nhập khẩu và có các rào cản thương mại phức tạp vào bậc nhất trên thế giới.
Nghiên cứu và tìm ra giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ sang Nhật Bản là hết sức cần thiết. Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường thế giới nói chung và thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản nói riêng mang lại rất nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá, cho nền kinh tế đất nước, cho đời sống nhân dân. Thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu và nhiệm vụ đề ra trong chiến lược xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam thời kỳ từ nay đến năm 2020.
Vì vậy tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: “Thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong điều kiện tham gia WTO” với mục đích góp phần làm phát triển hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản nói riêng và đẩy mạnh hoạt động thương mại của Việt Nam nói chung để phát triển nền kinh tế đất nước.
Trước đề tài này, đã có luận văn tốt nghiệp của sinh viên Hoàng Thị Phong lớp Kinh tế quốc tế 44 nghiên cứu về “Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản”, đề tài đó mới chỉ dừng lại nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ bao gồm đồ gốm, đồ gỗ, đồ sứ, mây tre đan. Hàng thủ công mỹ nghệ bằng gỗ chỉ là một trong các mặt hàng thuộc sản phẩm gỗ. Hơn thế, đề tài này nghiên cứu hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản trong điều kiện Việt Nam tham gia Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu của đề tài là giúp Nhà nước và các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường Nhật Bản nói riêng và xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam nói chung tăng cường hoạt động xuất khẩu sản phẩm, mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp và phát triển kinh tế đất nước.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Một là, làm rõ đặc điểm và xu hướng nhập khẩu sản phẩm gỗ của Nhật Bản;
Hai là, thống kê, so sánh, tổng hợp, phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sang Nhật Bản từ năm 1999 đến năm 2006;
Ba là, làm rõ cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ sang Nhật Bản trong điều kiện Việt Nam tham gia WTO;
Bốn là, đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ sang Nhật Bản trong điều kiện Việt Nam tham gia WTO.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Nhưng phạm vi nghiên cứu của đề tài là chỉ nghiên cứu hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản từ năm 1999 đến năm 2006.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu trong khoa học xã hội bao gồm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp phân tích và tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá, lôgíc và lịch sử, tổng kết thực tiễn.
V. Kết cấu của đề tài:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng hình, danh mục các từ viết tắt bài viết gồm có ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu và sự cần thiết thúc đẩy xuất khẩu gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong điều kiện tham gia WTO.
Chương 2. Thực trạng xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản từ năm 1999 đến năm 2006 – trong điều kiện tham gia WTO.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản trong điều kiện tham gia WTO từ năm 2007 đến năm 2020.
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
XUẤT KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GỖ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN TRONG ĐIỀU KIỆN THAM GIA WTO
1.1. Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm, hình thức và vai trò của xuất khẩu
1.1.1.1. Khái niệm xuất khẩu
Cùng với sự phát triển kinh tế của các quốc gia, xuất phát từ những sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, khí hậu, sự khác biệt về trình độ phát triển sản xuất và từ nhu cầu phong phú đa dạng của mọi tầng lớp dân cư trên thế giới…, nhu cầu buôn bán trao đổi hàng hoá cũng ngày càng phát triển cả về bề rộng và chiều sâu, không những chỉ trao đổi trong nội bộ quốc gia mà còn qua khỏi biên giới quốc gia, lan rộng ra toàn thế giới. Thương mại quốc tế trong xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế quốc tế hoá hiện nay có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế một quốc gia, một khu vực và toàn cầu. Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động của thương mại quốc tế. Đã có rất nhiều khái niệm về xuất khẩu được đưa ra, dưới đây, tôi xin đưa ra một số khái niệm xuất khẩu phổ biến nhất:
Xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoá và dịch vụ từ nước này sang nước khác.
Xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoá (cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) từ một quốc gia sang phần còn lại của thế giới.
Xuất khẩu đã được thừa nhận là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.1.2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
Một là, hình thức xuất khẩu trực tiếp:
Hình thức xuất khẩu trực tiếp là hình thức, trong đó người bán (người sản xuất, người cung cấp, người xuất khẩu) và người mua (người nhập khẩu) quan hệ trực tiếp với nhau (bằng cách gặp mặt, qua thư từ, điện tín) để bàn bạc thoả thuận về hàng hoá, giá cả và các điều kiện giao dịch khác.
Hai là, hình thức xuất khẩu qua trung gian:
Xuất khẩu qua trung gian là hình thức bán hàng được thực hiện nhờ sự giúp đỡ của trung gian thứ ba. Người thứ ba này được hưởng một khoản tiền nhất định. Người trung gian phổ biến trong phương thức này là đại lý và môi giới.
Ba là, hình thức xuất khẩu buôn bán đối lưu:
Buôn bán đối lưu hay còn gọi là hình thức xuất khẩu liên kết là phương thức trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi với nhau có gía trị tương đương nhau. Mục đích xuất khẩu ở đây không phải nhằm thu ngoại tệ mà thu về một hàng hoá khác có giá trị tương đương.
Các loại hình buôn bán đối lưu chủ yếu: Hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ, mua đối lưu, chuyển nợ, mua bán bình hành, mua lại.
Bốn là, hình thức gia công xuất khẩu:
Là một phương thức giao dịch kinh doanh quốc tế trong đó một bên (bên đặt gia công) giao cho bên kia vật tư, nguyên liệu nhằm nhập về những thành phẩm sau khi trả cho bên kia một khoản lệ phí (phí gia công).
Các hình thức gia công xuất khẩu: (1) Căn cứ vào sự chuyển giao quyền sở hữu: Hình thức giao nguyên liệu nhận thành phẩm, hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm. (2) Căn cứ vào cách thức thanh toán phí gia công: Hợp đồng thực thanh thực chi, hợp đồng khoán. (3) Căn cứ vào chủ thể tham gia gia công: gia công hai bên, gia công nhiều bên.
Năm là, hình thức tái xuất khẩu:
Là hình thức xuất khẩu những mặt hàng ngoại nhập trước đây mà bản chất hàng hoá đó không thay đổi nhiều qua quá trình gia công lưu thông nhằm tăng giá trị của hàng hoá đó
Các hình thức tái xuất khẩu: Tái xuất thông thường, tam nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập.
Sáu là, hình thức xuất khẩu tại chỗ:
Xuất khẩu tại chỗ là hình thức xuất khẩu mà người bán (người xuất khẩu) bán hàng hoá hay dịch vụ trong phạm vi biên giới quốc gia của mình.
Hình thức: Bao gồm các hoạt động như: Bán hàng tại hội chợ, triển lãm quốc tế, cung cấp hàng hoá dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế…
1.1.1.3. Vai trò của xuất khẩu
Xuất khẩu là một hoạt động không thể thiếu trong thương mại quốc tế. Xuất khẩu có những vai trò sau:
Thứ nhất, xuất khẩu tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so sánh của mình.
Thứ hai, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu công nghệ, máy móc và những nguyên nhiên vật liệu cần thiết phục vụ cho sự nghệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Thứ ba, xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phát triển sản xuất sản phẩm.
Thứ tư, xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân.
Thứ năm, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường vị thế của mỗi quốc gia trên trường quốc tế.
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
1.1.2.1. Hệ thống pháp luật và chính sách của Nhà nước
Tuỳ vào từng thời điểm khác nhau, tình hình biến động kinh tế xã hội, chính trị khác nhau mà mỗi quốc gia sẽ theo đuổi một chính sách riêng để đạt mục tiêu chung là phát triển đất nước. Bởi vậy, chính sách quản lý của từng quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó.
Khi quốc gia thực hiện chính sách hướng về xuất khẩu thì quốc gia đó sẽ thực hiện tất cả các biện pháp để có thể thúc đẩy xuất khẩu của quốc gia. Ngược lại, khi quốc gia thực hiện chính sách bảo hộ nền kinh tế, hạn chế nhập khẩu thì hoạt động xuất khẩu cũng sẽ bị hạn chế rất nhiều.
Mặt khác, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia cũng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu. Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, minh bạch, các thủ tục hành chính đơn giản, gọn nhẹ không rườm rà, phức tạp thì các doanh nghiệp có thể tận dụng được nhiều cơ hội hơn trong kinh doanh và xuất khẩu. Thêm vào đó, khi hệ thống luật pháp ổn định rõ ràng tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời tiếp thu được những công nghệ tiên tiến, phục vụ cho hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu.
1.1.2.2. Các yếu tố đầu vào sản xuất, nguyên liệu, vốn, lao động
Các yếu tố này có mối quan hệ tỷ lệ thuận với khả năng xuất khẩu của một quốc gia. Khi tiềm lực các yếu tố này càng mạnh thì khả năng xuất khẩu hàng hoá của quốc gia này sang thị trường nước ngoài càng cao, sản phẩm của quốc gia này càng dễ dàng thâm nhập vào thị trường nước ngoài và ngược lại. Ví dụ, khi một quốc gia sản xuất hàng xuất khẩu, nguyên liệu để sản xuất phải nhập khẩu từ nước khác sẽ dẫn đến tình trạng khả năng xuất khẩu hàng hoá của quốc gia đó sẽ bị phụ thuộc vào tình hình biến động nguyên liệu đầu vào của thị trường khác. Khi giá nguyên liệu đầu vào tăng làm cho giá sản phẩm xuất khẩu tăng, dẫn đến sức cạnh tranh về giá của sản phẩm đó trên thị trường nước ngoài sẽ giảm, làm hạn chế xuất khẩu mặt hàng đó.
1.1.2.3. Tỷ giá hối đoái
Khi tỷ giá hối đoái tăng lên có tác động khuyến khích xuất khẩu, vì lúc này, đồng nội tệ có giá trị giảm xuống so với đồng ngoại tệ nên cùng một lượng ngoại tệ có thể có thể đổi được nhiều hơn đồng nội tệ, hàng xuất khẩu rẻ hơn, dễ cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm xuống sẽ có tác động hạn chế xuất khẩu vì cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu sẽ đổi được ít đồng nội tệ hơn nên không khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư nhiều cho hoạt động xuất khẩu.
1.1.2.4. Sức cạnh tranh hàng hoá
Khi sức cạnh tranh hàng hoá trên thị trường nước ngoài lớn, đáp ứng được những nhu cầu và yêu cầu của người tiêu dùng ở thị trường nước ngoài thì thì thị phần của hàng hoá đó sẽ chiếm rất lớn ở nước ngoài, nhiều hơn so với các hàng hoá cùng loại của nước khác, sẽ thúc đẩy xuất khẩu nhiều hơn sang thị trường này.
Nếu sức cạnh tranh của hàng hoá đó càng tăng dẫn đến thị phần của hàng hoá đó trên thị trường nước ngoài càng lớn sẽ tất yếu dẫn đến xuất khẩu hàng hoá nhiều hơn sang thị trường này.
1.1.2.5. Nhu cầu của thị trường nước ngoài
Cho dù là sản xuất cho tiêu dùng trong nước hay sản xuất để xuất khẩu, nhu cầu vẫn luôn là yếu tố quyết định đến sản lượng. Khi nhu cầu về một hàng hoá nào đó của một quốc gia trên thị trường nước ngoài tăng thì các nhà sản xuất sẽ tập trung mở rộng quy mô sản xuất để có thể sản xuất ra nhiều hàng hoá để đáp ứng nhu cầu, tất nhiên sẽ khuyến khích xuất khẩu nhiều hơn sang thị trường này.
Ngược lại, nếu nhu cầu về hàng hoá nào đó của một quốc gia trên thị trường nước ngoài giảm sẽ không khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư để mở rộng quy mô sản xuất, thậm chí còn thu hẹp quy mô sản xuất, dẫn đến hạn chế xuất khẩu hàng hoá đó.
1.1.2.6. Yếu tố khác
Ngoài các yếu tố cơ bản tác động tới xuất khẩu như trên, còn có rất nhiều các yếu tố khác ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu. Sau đây là một số yếu tố khác:
Một là, trình độ quản lý, nếu nhà quản lý không có trình độ hay trình độ kém thì không thể nhận ra được tiềm năng của thị trường, từ đó sẽ không thực hiện các biện pháp để nâng cao khả năng xuất khẩu hàng hóa sang thị trường đó.
Hai là, quan hệ giữa nước nhập khẩu và nước xuất khẩu: Quan hệ này nếu tiến triển tốt đẹp, hợp tác hai bên cùng có lợi thì chắc chắn nước này sẽ giành cho nước kia những ưu đãi về thuế nhập khẩu, hạn ngạch… thông qua các hiệp định song phương và đa phương, khiến cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá giữa hai quốc gia sẽ diễn ra dễ dàng thuận lợi, tạo được sức cạnh tranh của hàng hoá nước này từ đó thúc đẩy xuất khẩu giữa hai quốc gia. Ngược lại, nếu quan hệ giữa hai quốc gia không tốt, thì hai bên sẽ không dành cho nhau những ưu đãi, mà còn tạo ra những hạn chế để nước này không thể dễ dàng thâm nhập vào thị trường nước kia, dẫn đến hạn chế xuất khẩu giữa hai nước. Nếu một trong hai nước có nền kinh tế phát triển mạnh trên thế giới thì đôi khi còn có thể tạo ra những cấm vận để nước còn lại không những không thể xuất khẩu sang quốc gia mình mà còn hạn chế cả xuất khẩu sang quốc gia khác.
Ngoài ra, những biến động tình hình kinh tế - xã hội như khủng hoảng, đình công,… sẽ làm cho nền kinh tế trong nước phải chịu những tổn thất, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất trong nước. Do vậy cũng ảnh hưởng gián tiếp đến xuất khẩu ra nước ngoài. Hơn nữa, lúc này quốc gia đang gặp phải những biến động vì vậy mọi giải pháp trước mắt đều tập trung nhằm hạn chế ảnh hưởng của những biến động này tới nền kinh tế, nên hoạt động xuất khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn, rủi ro hơn.
1.2. Khái quát nền kinh tế Nhật Bản và Chính sách nhập khẩu hàng hoá của Nhật Bản, hệ thống phân phối hàng hoá tại Nhật Bản
1.2.1. Khái quát nền kinh tế Nhật Bản
Với dân số là 127,46 triệu người, với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2006 đạt 5,2 tỷ USD, Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ, với sức mua lớn, nhu cầu phong phú đa dạng, nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng của Nhật Bản đang ngày càng gia tăng và còn tiếp tục tăng cùng với xu hướng phục hồi nền kinh tế của Nhật Bản hiện nay.
Nền kinh tế Nhật Bản đã trải qua nhiều thăng trầm. Trong những năm đầu bị chiếm đóng sau chiến tranh, kinh tế Nhật Bản chìm đắm trong lạm phát, thiếu thốn. Nhưng cùng với những cải cách về chính trị-xã hội, các chính sách ổn định và phát triển kinh tế năm 1949-50 đã đặt cơ sở cho sự trở lại thị trường thế giới của Nhật Bản. Tiếp đó, Nhật bước vào thời kỳ tăng trưởng cao kéo dài cho đến những năm đầu 1970. Tốc độ tăng trưởng trung bình ngày càng cao: giai đoạn 1955-1960 là 8,5%; giai đoạn 1960-1965 là 9,8%; và giai đoạn 1965-1971 đạt 11,2%. GNP năm 1970 đạt 199,8 tỷ USD tăng hơn 8,3 lần so với 23,9 tỷ USD của năm 1955. Tổng kim ngạch ngoại thương tăng 25 lần trong 20 năm (1950-70). Nhưng chính sự thần kỳ của nền kinh tế Nhật cũng làm nẩy sinh nhiều vấn đề lớn: phụ thuộc ngày càng tăng vào thị trường và nguồn nguyên nhiên liệu bên ngoài; ô nhiễm môi trường nặng nề. Đặc biệt là mâu thuẫn thương mại với các bạn hàng, nhất là Mỹ, ngày càng gay gắt.
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973-74 là nhân tố chủ yếu kết thúc sự thần kỳ Nhật Bản. Nhưng đây chỉ là đòn quyết định đánh vào kinh tế Nhật, làm bộc lộ những mâu thuẫn đã tích tụ sau kỷ nguyên tăng trưởng cao. Lạm phát đã bùng nổ ngay sau khi dầu mỏ tăng giá. Tình hình đã buộc Nhật phải đẩy mạnh cải cách cơ cấu kinh tế nhằm hạn chế tác động của các nhân tố tiêu cực, bước vào thời kỳ tăng trưởng ổn định và quốc tế hoá nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng trong những năm 1974-85 chỉ còn trung bình 4,3%, chưa bằng một nửa của thời kỳ trước đó nhưng vẫn cao nhất trong các nước OECD. Thời kỳ này Nhật chú trọng phát triển các ngành công nghệ mới, ít tiêu hao nguyên liệu, năng lượng; thúc đẩy lĩnh vực dịch vụ. Chính vì vậy đã chủ động đối phó được với cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ hai (1979-80): kinh tế không hỗn loạn, lạm phát được kiểm soát, giá cả ổn định và tăng trưởng kinh tế giữ được ở mức khoảng 3%.
Do xuất khẩu vẫn giữ vai trò trung tâm của sự phát triển, đồng Yên yếu càng thúc đẩy xuất khẩu. Thêm nữa, đầu những năm 1980 kinh tế toàn cầu suy thoái, nhu cầu dầu mỏ giảm xuống buộc OPEC từ năm 1983 phải giảm giá dầu. Các yếu tố này làm cho thặng dư mậu dịch của Nhật ngày càng lớn và mâu thuẫn với các bạn hàng nhất là Mỹ và EU càng gay gắt. Hiệp định Plaza tháng 9/1985 đã nhất trí thoả thuận giảm giá đồng đôla và đồng yên đã lên giá gấp đôi, từ chỗ 260 Yên/1USD năm 1985 lên 130 Yên/1USD năm 1987.
Đồng Yên lên giá có làm kinh tế Nhật suy thoái trong 2 năm 1985 và 1986 nhưng không làm giảm khả năng xuất khẩu của Nhật Bản mà lại dẫn tới cạnh tranh quốc tế gay gắt hơn theo hướng giành hiệu quả cao. Nhật chuyển các cơ sở sản xuất có giá trị gia tăng thấp ra nước ngoài bằng đầu tư trực tiếp (1982: 7,7 tỷ USD; 1988: 44 tỷ USD; 1990: 56,9 tỷ USD), tạo ra những địa bàn sản xuất với giá thành thấp. Ở trong nước đổi mới kỹ thuật hơn nữa để chuyển sang sản xuất những sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Các biện pháp cải cách kinh tế theo hướng mở cửa thị trường, thúc đẩy nhập khẩu và kiềm chế xuất khẩu quá mức, giảm thuế thu nhập, kích cầu trong nước, tăng đầu tư công trình công cộng.... cũng đồng thời được thực hiện. Thành công về tổng thể của những cố gắng này đã giúp kinh tế Nhật phục hồi từ cuối năm 1987 và duy trì được mức phát triển trung bình 5,3% cho đến năm 1990.
"Kinh tế bong bóng" chính là nền kinh tế tăng trưởng cực nhanh của Nhật Bản vào cuối thập niên 80, song đó không phải là tăng trưởng thực sự từ sự phát triển các hoạt động sản xuất của cải vật chất như các thời kỳ trước đó, mà chủ yếu tăng trưởng giả tạo do sự đầu cơ vào mua bán bất động sản, trái phiếu, các hàng hoá nghệ thuật có giá trị lớn. Đồng thời với hiện tượng đầu cơ này về phía Chính phủ Nhật Bản vào những năm đó để đối phó với sự lên giá mạnh của đồng yên sau Hiệp ước Plaza 1985, đã duy trì kéo dài một chính sách lãi suất cho vay thấp, khiến cho các hoạt động đầu tư buôn bán bất động sản, trái phiếu... càng gia tăng mạnh, tạo nên sự tăng trưởng kinh tế cực nhanh vào cuối những năm 1980, từ 2,5% năm 1986 tăng lên đến 4,6% năm 1987, 4,7% năm 1988, 4,9% năm 1989 và đỉnh cao là 5,5% năm 1990. Bước vào thập kỷ 1990, kinh tế Nhật Bản suy giảm triền miên. Đến 3/2002 tổng mức nợ xấu là 440 tỷ USD. Số vụ phá sản hàng năm ở mức cao làm cho nạn thất nghiệp cũng tăng theo (5,4% ở năm 2003 so với trước đây chỉ khoảng 3%). Sự suy thoái của kinh tế Nhật có nhiều nguyên nhân, trong đó nổi lên là sự đổ vỡ của nền kinh tế bong bóng; sự yếu kém của hệ thống tài chính ngân hàng; sự già hoá của dân số với mức chi quá lớn của hệ thống phúc lợi xã hội; sự yếu kém của bộ máy nhà nước....
Sau một thập niên bị suy thoái, năm 2003 kinh tế lại bắt đầu tăng trưởng. Năm 2003, kinh tế Nhật Bản đã tăng trưởng 2,7%; năm 2004 tăng 1,45%; năm 2005 tăng 2,5% và năm 2006 tăng trưởng 2,1%. Đây là mức tăng trưởng cao nhất của Nhật trong 14 năm gần đây.
Bảng 1.1. Tốc độ tăng trưởng GDP của Nhật Bản
qua các năm từ 1990 đến 2006
(Đơn vị %)
Tốc độ tăng trưởng GDP (% so năm trước)
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
5,3
2,9
0,4
0,3
1,0
1,6
3,5
1,8
-1,1
0,7
2,4
-0,2
0,9
2,7
1,45
2,5
2,1
(Nguồn: www.ncnb.org.vn)
Lượng hàng xuất khẩu sang Trung Quốc mạnh, hàng hóa tiêu dùng trong nước cũng tăng. Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 4,3% năm 2005 thấp hơn so với 4,6% năm 2004, và thấp hơn so với 5,5% đầu năm 2003. Kinh tế Nhật Bản đang ở trong giai đoạn hồi phục đầu tiên sau cuộc đại khủng hoảng tài chính và bất động sản; sự tăng trưởng không còn phải nhờ vào tài trợ của Nhà nước như trong những năm trước đó nữa, mà trước hết xuất phát từ sự năng động mới giành lại được của khu vực kinh tế tư nhân. Điều đáng lưu ý là, tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản chủ yếu do nhân tố nhu cầu trong nước thúc đẩy. Những nhân tố cản trở kinh tế Nhật Bản tăng trưởng năm 2005 cũng lần lượt được tháo gỡ, như khoản nợ khó đòi của các ngân hàng từ 8,4% năm 2002 xuống còn 2,9% năm 2005.
Theo đánh giá của OECD, sự phục hồi của nền kinh tế Nhật Bản ngày càng vững chắc do các hoạt động kinh tế ngày càng được mở rộng vượt xa cả các khu vực phụ thuộc vào xuất khẩu, đầu tư tập thể bắt đầu tăng mạnh, giá bất động sản có chiều hướng giảm. Kinh tế Nhật Bản vẫn đang tiếp tục hồi phục nhanh nhờ sự tăng trưởng khả quan trong các lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng và thu nhập. Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản cho biết: lĩnh vực xuất khẩu và sản xuất công nghiệp của Nhật Bản đang tiếp tục tăng với mức lợi nhuận cao cho phép nhiều công ty gia tăng vốn đầu tư. Thu nhập của người dân cũng đang tăng lên nhờ ảnh hưởng tích cực từ việc cải tiến chế độ tiền lương và các điều kiện lao động của Chính phủ. Ngân hàng trung ương Nhật Bản sẽ điều chỉnh chính sách tiền tệ phù hợp với điều kiện giá cả và tăng trưởng kinh tế để đưa nền kinh tế Nhật Bản phát triển ổn định. Cùng với việc tạo dựng sức mạnh kinh tế, Nhật Bản đang điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng tăng cường tính độc lập, tự chủ, vươn lên thành cường quốc chính trị.
1.2.2. Chính sách nhập khẩu hàng hoá của Nhật Bản
Nhật Bản luôn đặt chính sách ngoại giao kinh tế của mình dựa vào chủ nghĩa đa phương (multilateralism) trong khuôn khổ hệ thống GATT-WTO. Tuy vậy, từ cuối những năm 1990, vì nhiều nhân tố chủ quan và khách quan khác nhau và để tận dụng hết những lợi ích do mậu dịch tự do mang lại, Nhật Bản phải kết hợp chiến lược đó với chiến lược đẩy mạnh chủ nghĩa tự do kinh tế khu vực và song phương thông qua Hiệp định mậu dịch tự do song phương (Free Trade Agrements - FTAs) hay rộng hơn và các Hiệp định đối tác kinh tế (Economic Partnership Agreement - EPAs). Một trong những hướng triển khai chiến lược mậu dịch này của Nhật Bản là khu vực châu Á.
Từ đầu những năm 80, Nhật Bản đã thi hành các biện pháp kinh tế đối ngoại theo hướng mở cửa bằng việc cắt giảm và bãi bỏ thuế nhập khẩu, chấm dứt và nới lỏng các biện pháp hạn chế số lượng, cải thiện các hệ thống cấp chứng nhận, cấp tín dụng nhập khẩu và các biện pháp khác.
Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn duy trì nhiều biện pháp hạn chế hoặc cấm nhập khẩu đối với hàng hoá nước ngoài vào thị trường nước này. Việc hạn chế này thể hiện trong cả các chính sách và biện pháp kinh tế công khai cũng như các nỗ lực nhằm tạo sự khác biệt về văn hoá kinh doanh và truyền thống.
Các công cụ biện pháp điều tiết nhập khẩu:
Một là thuế quan: Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) của Nhật Bản bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/8/1971, dựa trên hiệp ước của hội nghị liên hiệp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD) năm 1970.
Nhật Bản sử dụng hệ thống phân loại HS với bốn mức thuế: Thuế suất chung; thuế suất tạm thời; thuế suất ưu đãi phổ cập (GSP); thuế suất WTO
Hai là các công cụ phi thuế quan: Nhật Bản là một thị trường lớn và phức tạp với mức độ cạnh tranh rất gay gắt.Tuy nhiên thực tế cho thấy các doanh nghiệp thành công trong việc thâm nhập vào thị trường này đều là các công ty biết đánh giá và điều chỉnh chiến lược thâm nhập thị trường cũng như thấu hiểu sâu sắc về thị trường, về các vấn đề của hệ thống luật lệ của Nhật Bản và đồng thời là khả năng thích ứng với các quy định ngày càng gia tăng về số lượng và tính chất phức tạp của nó.
Luật pháp Nhật Bản đòi hỏi phải có sự chấp nhận xuất nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi nhập khẩu để đảm bảo an toàn và y tế cho người dân.
Hàng hoá nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản được điều chỉnh và bị chi phối bởi một hệ thống các luật sau:
- Luật kiểm soát ngoại hối và ngoại thương
- Luật và quy định liên quan đến hàng cấm
- Luật và quy định liên quan đến độc quyền chính phủ
- Luật và quy định liên quan đến kiểm dịch
- Luật và quy định liên quan đến ma tuý
- Luật về trách nhiệm sản phẩm
Ngoài ra còn có các công cụ như: Chế độ cấp giấy phép nhập khẩu, chế độ hạn ngạch nhập khẩu, các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng hoá nhập khẩu…
Giấy phép nhập khẩu
Hầu hết các hàng hoá được tự do nhập khẩu và không phải chịu một yêu cầu nào về giấy phép nhập khẩu nhưng các mặt hàng sau gồm cả những mặt hàng liệt kê trong thông báo nhập khẩu kể trên cần có giấy phép nhập khẩu:
+ Hàng thuộc 66 mặt hàng liệt kê trong thông báo nhập khẩu thuộc diện có hạn ngạch nhập khẩu
+ Hàng hoá sản xuất hay vận chuyển từ các quốc gia, khu vực qui định trong thông báo nhập khẩu đòi hỏi phải có giấy phép nhập khẩu
+ Hàng hoá đòi hỏi phương thức thanh toán đặc biệt.
Hàng hoá cần sự xác nhận sơ thẩm và phải đáp ứng được các qui định đặc biệt của Chính phủ như các loại vắcxin nghiên cứu.
Khi nhập khẩu mặt hàng cần giấy phép nhập khẩu hay sự xác nhận của một số Bộ, các nhà nhập khẩu được toàn quyền ký hợp đồng với các nhà xuất khẩu, nhưng viêc ký và thực hiện hợp đồng phụ thuộc vào sự cho phép hay xác nhận của các Bộ có liên quan. Đặc biệt trong trường hợp hàng cần hạn ngạch nhập khẩu, nên nhớ rằng việc nhập khẩu các mặt hàng đó chỉ có thể sau khi có hạn ngạch nhập khẩu dựa theo thông báo hạn ngạch nhập khẩu chính thức.Việc thanh toán hàng nhập khẩu cần giấy phép chỉ có thể thực hiện sau khi giấy phép nhập khẩu đã được cấp.
Hầu hết các hàng hoá hiện này đủ tiêu chuần là " hàng có thể nhập khẩu tự do", và do đó không cần giấy phép nhập khẩu. Trường hợp duy nhất là các hàng hoá nằm trong hạn ngạch nhập khẩu. Trong những trường hợp này, nhà nhập khẩu Nhật cần phải xin được cấp giấy phép nhập khẩu. Gạo, lúa mỳ, bột gạo và da là một trong những ít sản phẩm vẫn có hạn ngạch nhập khẩu.
Hạn ngạch nhập khẩu: Hạn ngạch được áp dụng với 3 loại hàng sau:
Các mặt hàng thương mại thuộc kiểm soát của nhà nước, bao gồm vũ khí, rượu, chất nổ, súng cầm tay và dao, vật liệu hạt nhân, ma tuý, và các thực phẩm chịu sự kiểm soát (như gạo).
Những mặt hàng hạn chế nhập khẩu, bao gồm 5 loại hải sản: cá trích, cá mòi, sò, và các loại hải sản khác.
Các loại thực vật và động vật có tên trong Bản phụ lục I của Công ước về thương mại quốc tế về các loài động vật có nguy cơ tiệt chủng trong hệ động thực vật. Các mặt hàng nhập khẩu cần hạn ngạch (tính từ 1 tháng 7 năm 1995).
Những mặt hàng hạn chế nhập khẩu chịu điều chỉnh của những luật và quy định trong nước: Trong trường hợp, hàng hạn chế nhập khẩu, nhà nhập khẩu phải có giấy phép và phê chuẩn liên quan đến việc nhập khẩu hàng hoá theo Luật Hải quan, để phục vụ việc kiểm tra hoặc đáp ứng những yêu cầu cần thiết khác. Vì vậy, khi hàng hoá nhập khẩu yêu cầu một giấy phép hoặc một giấy phê chuẩn theo luật và quy định khác ngoài Luật Hải quan, nhà nhập khẩu phải trình lên một giấy chứng nhận đã cho phép theo những đạo luật hay quy định này (theo điều 70 của Luật Hải quan).
Hàng cấm nhập khẩu
(a) Thuốc phiện và những chất gây nghiện khác, những thiết bị để sản xuất thuốc phiện, chất kích thích và chất kích thích thần kinh ( trừ những loại được chỉ định theo Bộ Y tế và Phúc lợi xã hội)
(b) Vũ khí, đạn dược và những phụ tùng vũ khí…
(c) Tiền xu, tiền giấy, chứng khoán... giả, làm thay đổi hoặc bắt chước.
(d) Sách, tranh,tác phẩm điêu khắc hoặc bất kỳ mặt hàng khác có hại đến an ninh công cộng và giá trị đạo đức ( như tranh ảnh khiêu dâm)
(e) Những mặt hàng vi phạm quyền patent, thiết kế, thương hiệu bản quyền.
Các quy định về tiêu chuẩn đối với hàng hoá nhập khẩu
Hầu hết sản phẩm trong nước và sản phẩm nhập khẩu của Nhật đều phải chịu kiểm tra hàng hoá và không thể tiêu thụ tại thị trường này nếu không được cấp những giấy chứng nhận sản phẩm đã tuân theo những tiêu chuẩn.
Một số tiêu chuẩn là bắt buộc, một số là tự nguyện. Trong nhiều trường hợp, những giấy chứng nhận này có thể tính quyết định thành bại của các thương vụ.
Hiện nay, tại Nhật Bản, có hai xu hướng đối với các loại tiêu chuẩn. Một là dần nới lỏng những tiêu chuẩn này, một là thống nhất chúng với những tiêu chuẩn quốc tế.
Trong khi các cơ quan chức năng đang cố gắng tiến hành những cải cách để vẫn tồn tại hàng loạt những đạo luật và quy định tác động đến những tiêu chuẩn bắt buộc. Vì vậy, những doanh nghiệp xuất khẩu hàng sang Nhật Bản cần tìm hiểu sâu những văn bản luật này. Sau đây là một số luật ảnh hưởng đến tiêu chuẩn hàng hoá trên thị trường Nhật Bản.
Các luật chính quy định các tiêu chuẩn áp dụng đối với các sản phẩm tại Nhật Bản:
- Luật về các dụng cụ điện và thiết bị kiểm tra
- Luật về an toàn sản p._.hẩm tiêu dùng
- Luật về đo lường Luật về các sản phẩm khí ga
- Luật về vệ sinh thực phẩm
- Luật liên quan đến an toàn và tối ưu hoá quá trình vận chuyển chất lỏng
- Luật về Dầu khí
- Luật kinh doanh dược liệu
- Luật giao thông đường bộ
Hệ thống tiêu chuẩn tự nguyện của Nhật Bản (JIS), áp dụng trên 1000 sản phẩm công nghiệp với trên 8500 tiêu chuẩn. Tham gia cùng với JIS là một số các quy định của các công ty Nhật Bản trong các đấu thầu cạnh tranh cung cấp hàng cho các cơ quan chính phủ. Các sản phẩm tuân theo các tiêu chuẩn này sẽ được hưởng ưu tiên trong quá trình xét thầu dựa theo điều 26 trong luật về tiêu chuẩn công nghiệp. JIS kiểm soát toàn bộ các sản phẩm công nghiệp ngoại trừ một số sản phẩm được quy định bởi những luật riêng, với những tiêu chuẩn riêng (Luật kinh doanh dược phẩm và tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản.)
Hệ thống tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản (JAS) cũng là một hệ thống tiêu chuẩn tự nguyện nhưng được áp dụng rộng rãi. JAS được áp dụng cho các đồ uống, các sản phẩm chế biến, lâm sản và các mặt hàng nông nghiệp, thú nuôi, dầu và chất béo, thuỷ hải sản, và các sản phẩm chế biến có nguồn gốc nông, lâm , thuỷ sản. Nhãn hiệu JAS cũng áp dụng cho cả các loại gỗ dán, gỗ ván, ván lát sàn, gỗ sẻ và gỗ thịt. Hệ thống marks JAS do Bộ Nông nghiệp Nhật Bản, bộ Lâm nghiệp cùng bộ Thuỷ sản quản lý. Bộ Y tế, Bộ lao động xã hội quản lý các tiêu chuẩn riêng về nhãn mác chất lượng của các mặt hàng đồ uống và các sản phẩm chế biến.
Bên cạnh vấn đề tiêu chuẩn, một điểm khác đáng chú ý khi bán hàng hoá tại Nhật đó là Luật về trách nhiệm sản phẩm. Luật này được thực thi vào tháng 7/1995 và buộc các nhà chế tạo có trách nhiệm bồi thường về pháp lý đối với thương tích, thiệt hại về thương tích, thiệt mạng hoặc thiệt hại về tài sản do bán các sản phẩm có sai sót dù những khiếm khuyết đó có thể hoặc không do lỗi chế tạo chủ ý hoặc vô ý. Mặc dù chỉ có rất ít vụ kiện được khởi tố theo luật này cho tới này, song số vụ kiện loại này dự báo sẽ tăng trong tương lai. Các nhà chế tạo cần lưu ý tới thực tế rằng Đạo luật tố tụng dân sự sửa đổi được thực thi vào đầu năm 1998 đă khiến việc các vụ kiện loại này có khả năng thực thi dễ dàng hơn.
Chính sách hỗ trợ nhập khẩu
Đáp lại những than phiền của các đối tác thương mại về việc hạn chế tiêu thụ sản phẩm nước ngoài tại Nhật, trong những năm gần đây, chính phủ nước này đã xúc tiến một loạt các chương trình nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nước ngoài xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Chủ yếu do các cơ quan xúc tiến thương mại Nhật Bản JETRO, và bộ Kinh tế Nhật Bản, Bộ Công nghiệp chủ trì triển khai. Việc hỗ trợ bao gồm các khoản cho vay ưu đãi nhằm khuyến khích nhập khẩu, hỗ trợ trong việc tìm kiếm các đối tác thương mại tại Nhật, các hỗ trợ trong nghiên cứu thị trường, các chương trình đào tạo về xuất nhập khẩu cùng với việc đặt các văn phòng hỗ trợ tại 6 thành phố chính của Nhật Bản.
Quy định về hàng quá cảnh
Nhật tham gia Công ước quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhập khẩu các mẫu hàng và tài liệu quảng cáo theo Hệ thống Carnet ATA. Việc sử dụng hệ thống Carnet cho phép hàng hoá được sử dụng là mẫu chào bán và trưng bày, thiết bị chuyên dùng, nhạc cụ và máy quay truyền hình được vận chuyển hoặc gửi tạm thời sang một nước ngoài mà không phải nộp thuế hoặc ghi nợ.
Hệ thống Carnet cần phải được chuẩn bị trước bằng cách liên lạc với văn phòng đại diện của Hội đồng quốc tế Mỹ tại Nhật ( hoặc văn phòng chính tại New York theo số điện thoại: 212-354-4480. Các tài liệu quảng cáo, bao gồm sách giới thiệu, phim ảnh có thể được đưa vào Nhật mà không phải nộp thuế.
Các mặt hàng dùng để trưng bày mà không bán tại các hội chợ thương mại và trong những sự kiện tương tự cũng được phép đưa vào Nhật miễn thuế chỉ khi hội chợ/triển lãm được tổ chức tại một nơi triển lãm nhất định. Các mặt hàng đă được thông quan này cần phải được tái xuất sau hội chợ/triển lãm, hoặc được cất trữ tại một cơ sở của hải quan. Hoá đơn thương mại cấp cho các hàng hoá loại này cần phải được đánh dầu là " không có giá trị thương mại, dành riêng cho hải quan" và " những hàng hoá này để triễn lãm và cần phải gửi trả lại sau khi kết thúc triển lãm". Điều cũng không kém phần quan trọng là ghi rõ tên hội chợ thương mại hoặc địa điểm, bao gồm số gian triển lãm ( nếu biết rõ), trên các chứng từ vận chuyển.
Các thủ tục xuất nhập khẩu đặc biệt và hệ thống chứng nhận.
Các tài liệu cần thiết cho hoạt động thông quan tại Nhật bao gồm các chứng từ vận chuyển chuẩn mực như hoá đơn thương mại, phiếu đóng gói, vận đơn gốc đă ký, hoặc nếu chuyển chở bằng đường hàng không, thì là vận đơn hàng không. Các lô hàng chuyên chở bằng đường hàng không trị giá trên 100.000 yen cần phải có hoá đơn thương mại. Hoá đơn thương mại này cần phải mô tả chi tiết về mỗi hàng trong chuyến hàng. Phiếu đóng gói cần phải bao gồm nội dung chính xác của mỗi container, trọng lượng tổng và tịnh của mỗi kiện hàng, và tất cả kích thước của container được đo bằng hệ mét.
Những quy định về dán nhãn
Đóng gói, ký mã hiệu và dán nhãn hàng hoá đúng quy định có ý nghĩa quan trọng tới việc thông quan suôn sẻ tại Nhật. Các vật liệu đóng gói bằng rơm rạ bị nghiêm cấm. Như đă đề cập ở trên, Luật đo lường của Nhật quy định rằng toàn bộ các sản phẩm nhập khẩu và các chứng từ chuyên chở phải ghi rõ trọng lượng và đo bằng hệ thống mét. Hầu hết các sản phẩm không bị yêu cầu dán nhãn xuất xứ nước. Tuy nhiên, một số chủng loại sản phẩm như nước giải khát và thực phẩm cần phải có nhãn xuất xứ nước. Song nếu nhãn có ghi rõ xuất xứ bị xác nhận là sai hoặc có dấu hiệu gian dối, thì các nhãn này sẽ bị bóc đi hoặc sửa cho đúng. Các nhãn dán sai hoặc có dấu hiệu gian dối nêu rõ tên nước, khu vực thay vì nêu rõ nước xuất xứ, và/hoặc tên nhà chế tạo hoặc nhà thiết kế ngoài nước xuất xứ không được chấp nhận.
Các mặt hàng mà Luật pháp Nhật yêu cầu phải dán nhẫn gồm 4 loại sản phẩm: hàng dệt, máy móc và thiết bị điện, các sản phẩm nhựa và các mặt hàng gia dụng và tiêu dùng. Vì tất cả những quy định này áp dụng cụ thể với từng chủng loại sản phẩm riêng biệt, nên điều quan trọng cần phải phối hợp với một nhà nhập khẩu hoặc một đại lý có triển vọng để bảo đảm sản phẩm của bản đáp ứng yêu cầu đặt ra, nếu có thể áp dụng. Nhìn chung, hầu hết các luật định về dán nhãn không cần thiết ở giai đoạn thông qua, song cần thiết ở điểm bán. Kết quả là các nhà nhập khẩu đều có thói quen dán nhãn trước và sau khi thông quan.
1.2.3. Hệ thống phân phối hàng hoá tại Nhật Bản
Nhật Bản là nước tiêu thụ hàng hóa lớn thứ 2 trên thế giới với các kênh phân phối hàng hóa đặc trưng. Theo kết quả điều tra của Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, hệ thống phân phối hàng hoá của Nhật Bản có nhiều cửa hàng bán lẻ với mật độ rất dày đặc nhưng quy mô nhỏ.
Hàng hoá vào thị trường Nhật Bản phải qua nhiều khâu phân phối lưu thông nên khi đến được tay người tiêu dùng hàng hoá có giá cả rất cao so với giá nhập khẩu. Các khâu phân phối của Nhật từ sản xuất đến bán buôn, bán lẻ có những yêu cầu khác nhau. Yêu cầu đối với nhà sản xuất là đảm bảo đáp ứng đúng yêu cầu của người tiêu dùng và chào hàng với giá cả hợp lý.
Hệ thống phân phối sản phẩm của Nhật bao gồm các khâu, các mối quan hệ giữa các nhà sản xuất, các công ty thương mại, các nhà bán buôn và các nhà bán lẻ (cửa hàng bách hoá, siêu thị, các cửa hàng tiện dụng, các cửa hàng bán lẻ chuyên doanh, các trung tâm buôn bán ở các khu phố có nhiều cửa hàng bán lẻ, hoặc các dịch vụ bán hàng qua hệ thống thông tin, truyền hình phục vụ tận địa chỉ người tiêu dùng).
Các kênh phân phối hàng nhập khẩu thay đổi tuỳ theo từng loại sản phẩm, mạng lưới bán buôn và các công ty tham gia vào quá trình này. Các doanh nghiệp Việt Nam cần nắm được hệ thống phân phối này để tạo thuận lợi cho hàng hoá của mình đứng vững trên thị trường Nhật Bản.
a) Cửa hàng bán lẻ và hệ thống phân phối
Các cửa hàng bán lẻ nhỏ trong hệ thống phân phối hàng hoá thường nằm ở các vùng đông dân cư và kinh doanh nhiều loại mặt hàng như: thực phẩm, may mặc và các loại hàng hoá tiêu dùng khác. Các cửa hàng này có đặc điểm tiện lợi và dịch vụ tốt. Trong hệ thống phân phối Nhật Bản còn có các cửa hàng bách hoá lớn và các siêu thị cũng làm nhiệm vụ kinh doanh bán lẻ. Tuy nhiên, hiệu quả kinh doanh của các cửa hàng siêu thị lớn ở Nhật Bản không cao do thiếu tính linh hoạt, nền kinh tế và chi tiêu tiêu dùng giảm sút.
Gần đây, các cửa hàng bách hoá tổng hợp đang chuyển sang cung cấp nhiều loại dịch vụ, hoạt động giải trí khác nhau, đồng thời, cung cấp nhiều loại hàng hoá cao cấp đắt tiền, kể cả hàng nhập khẩu. Ở Nhật Bản, các nhà bán lẻ không có cửa hàng, chuyên kinh doanh bán hàng qua catalogue, điện thoại, internet, máy bán hàng và giao hàng tận nhà. Doanh số của loại bán hàng này không lớn lắm, nhưng đang tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây. Trong hệ thống phân phối hàng hoá của Nhật, từ khi hàng được sản xuất ra đến khi giao đến các cửa hàng bán lẻ tồn tại nhiều cấp phân phối trung gian, nhiều hơn so với các nước công nghiệp phát triển khác.
Hiện nay, Nhật có khoảng hơn 430 ngàn cơ sở bán buôn, cứ trung bình khoảng 34 cơ sở bán buôn cho 10.000 dân cư. Nếu tính quan hệ từ nhà sản xuất đến người bán lẻ, thì trung bình có 2,21 nhà bán buôn nằm giữa người bán lẻ và nhà sản xuất, cao gấp 2 lần so với con số 0,73 ở Pháp và 1 ở Mỹ. Do đó, một hàng hoá ở Nhật thường phải trải qua nhiều tầng nấc trung gian và phải đi một quãng đường dài hơn. Trong hệ thống phân phối, các nhà buôn rất quan trọng vì họ có quan hệ mật thiết với các nhà bán lẻ.
Đặc điểm rất độc đáo trong hệ thống phân phối hàng hoá của Nhật Bản là sự tồn tại của hệ thống duy trì giá bán lẻ của nhà sản xuất kiểm soát giá bán lẻ thông qua các chính sách chiết khấu hoa hồng và mua lại hàng hoá. Đối với chính sách mua lại hàng hoá, khác với châu Âu và Mỹ (người mua phải gánh chịu mọi rủi ro về sản phẩm trong phạm vi khu vực phân phối. Chỉ những hàng hoá bị khuyết tật mới được trả lại), tại Nhật Bản người tiêu dùng có thể trả lại các loại hàng hoá như may mặc, sách báo và dược phẩm. Tất nhiên, hàng hoá đó phải còn nguyên mác, dán tem. Đối với chính sách chiết khấu hoa hồng, Nhật Bản thực hiện nhiều loại chiết khấu và được chiết khấu thường xuyên, chứ không chỉ chiết khấu vào lúc thanh toán tiền hàng như ở châu Âu.
b) Kết cấu chặt chẽ giữa nhà sản xuất và nhà phân phối
Hệ thống phân phối hàng hóa Nhật Bản có sự cấu kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất và các nhà phân phối theo vòng khép kín, nhất là những hệ thống cửa hàng chuyên môn hóa chỉ kinh doanh một loại hàng nhất định. Sự cấu kết này thể hiện như sau: các nhà sản xuất cung cấp vốn cho các nhà bán buôn và các nhà bán buôn lại cung cấp tài chính cho các nhà bán lẻ, thực hiện chế độ định giá bán lẻ, chiết khấu hoa hồng thường xuyên và rộng rãi, chế độ các nhà sản xuất sẵn sàng mua lại hàng hóa nếu không bán được và các nhà bán lẻ chỉ kinh doanh những mặt hàng đó do các nhà bán buôn và các nhà sản xuất giao. Điều này cũng có nghĩa là không khuyến khích các nhà bán lẻ bán các sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh, hoặc có nghĩa là hạn chế bán sản phẩm cho các khách hàng ở nước ngoài ở địa bàn đã định.
Trong hệ thống phân phối của Nhật Bản còn tồn tại song song hệ thống nhập khẩu. Theo đó, bất cứ một công ty nào cũng có thể nhập khẩu bất cứ một sản phẩm nào từ nước ngoài song song với các tổng đại lý nhập khẩu. Tuy nhiên, dịch vụ chăm sóc khách hàng, bảo dưỡng, bảo hành của hệ thống nhập khẩu song song không tốt vì các tổng đại lý nhập khẩu từ chối chăm sóc các sản phẩm được nhập khẩu theo hệ thống nhập khẩu song song. Mặc dù hệ thống phân phối hàng hóa của Nhật Bản đã góp phần thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa, tạo mối quan hệ kinh doanh lâu dài và ổn định giữa các nhà sản xuất và tiêu thụ. Tuy nhiên, theo nhận định của Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, hệ thống này cũng bộc lộ một số nhược điểm như: hệ thống phân phối hàng hóa khép kín qua nhiều tầng nấc làm cho giá hàng hóa tăng giá khi tới tay người tiêu dùng. Giá bán lẻ của Nhật Bản trung bình cao hơn ở Mỹ là 48%, ở Anh là 55%; không kích thích các cửa hàng bán lẻ nỗ lực cải tiến nâng cao hiệu quả kinh doanh, hạ giá sản phẩm; duy trì số lượng cửa hàng bán lẻ đông đảo không hiệu quả; không minh bạch về định giá sản phẩm; hạn chế sự thâm nhập thị trường Nhật Bản của các công ty nước ngoài.
1.3. Các quy định pháp lý của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đối với sản phẩm gỗ của Việt Nam ảnh hưởng đến xuất khẩu sản phẩm gỗ
Gói thỏa thuận gia nhập WTO của Việt Nam bao gồm:
Thứ nhất, các cam kết của Việt Nam về hàng hóa – danh mục (hay còn gọi là “biểu”- Schedule) thuế quan, hạn ngạch và mức trần trong trợ cấp nông sản dày 560 trang, kèm theo lộ trình cắt giảm thuế.
Thứ hai, các cam kết của Việt Nam về dịch vụ - tài liệu dày 60 trang mô tả các ngành dịch vụ mà Việt Nam sẽ mở cửa thị trường cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài kèm theo các điều kiện bổ sung, bao gồm cả hạn chế đối với sở hữu của nước ngoài.
Thứ ba, báo cáo dày 260 trang của Ban Công tác – mô tả khung pháp lý và thể chế liên quan tới thương mại của Việt Nam cùng với các cam kết mà Việt Nam đưa ra trong các lĩnh vực này.
Trong cam kết của Việt Nam về hàng hoá, các mức thuế suất cam kết của Việt Nam với WTO về gỗ và sản phẩm gỗ nằm trong Chương 44 của Biểu cam kết hàng phi nông sản. Theo đó, thuế nhập khẩu ngành hàng này thuộc diện các mặt hàng có mức cắt giảm thuế thấp nhất. Thuế suất cam kết tại thời điểm gia nhập WTO đối với ngành hàng gỗ là từ 0% đến 40%. Đối với các mặt hàng gỗ có thuế suất từ 5% đến 40% thì tuỳ từng mặt hàng mà thuế suất cam kết cắt giảm là từ 3% đến 25% và thời hạn thực hiện là từ năm 2008 đến năm 2012.
Như vậy, với thuế suất thấp như cam kết, nhiều sản phẩm gỗ sẽ được nhập khẩu ngược vào Việt Nam gây sức ép cho ngành hàng này ngay tại thị trường trong nước. Đó là một thách thức tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng bên cạnh đó lại đưa đến cơ hội nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp đồ gỗ của Việt Nam. Các doanh nghiệp đồ gỗ Việt Nam có cạnh tranh được ngay trong thị trường trong nước thì mới có thể vươn ra cạnh tranh với thế giới, mới có thể thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường thế giới nói chung và thị trường Nhật Bản nói riêng.
Trong Báo cáo của Ban công tác, về hạn chế xuất khẩu, Việt Nam duy trì quản lý xuất khẩu đối với một số sản phẩm như gạo, khoáng sản và một số sản phẩm gỗ vì lý do môi trường. Việt Nam cam kết rằng các hạn chế đối với các sản phẩm này sẽ được áp dụng theo cách thức phù hợp với các hiệp định WTO. Gỗ tròn, gỗ xẻ, than từ gỗ và các sản phẩm gỗ thuộc nhóm IA và ván gỗ công nghiệp chất lượng cao thuộc nhóm IIA nằm trong danh mục hàng cấm xuất khẩu. Sản phẩm gỗ (ngoại trừ hàng thủ công mĩ nghệ, hàng sản xuất từ gỗ rừng trồng, từ gỗ nhập khẩu, từ ván nhân tạo thực hiện theo quy định của Thủ tướng tại Quyết định số 136/1998/QĐ- TTg ngày 31/07/1998) là hàng xuất khẩu chịu kiểm soát theo quy định riêng. Vì vậy, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu sản phẩm gỗ cần nắm chắc các quy định về quản lý xuất khẩu của Chính phủ và các hiệp định của WTO để xuất khẩu sản phẩm gỗ theo đúng quy định. Ngoài sự quan tâm đến mặt hàng nào được phép xuất khẩu, các doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm đến xuất xứ của nguyên liệu gỗ đầu vào để sản xuất kinh doanh theo đúng quy định.
1.4. Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản
Xuất khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong đó ngành sản xuất đồ gỗ được đánh giá là một trong những ngành có đóng góp lớn cho hoạt động xuất khẩu, có mức tăng trưởng khá và những bước phát triển đầy tiềm năng, nhất là khả năng cạnh tranh của ngành hàng này rất tốt, cơ hội thị trường thì đang rộng mở.
1.4.1. Những lợi ích của việc thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản
Một là, thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản góp phần làm tăng tổng thu nhập quốc dân, tận dụng được lợi thế so sánh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngoại tệ, … Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản ngày càng tăng, đến năm 2006 đã đạt khoảng 292 triệu USD góp phần làm tăng tổng thu nhập quốc dân. Sản phẩm gỗ là một mặt hàng có lợi thế của Việt Nam vì chúng ta có lao động rẻ, lành nghề và có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi để trồng rừng, cung cấp nguồn nguyên liệu chính cho sản xuất sản phẩm gỗ. Thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ là đã tận dụng được lợi thế so sánh của Việt Nam nhằm phát triển nền kinh tế đất nước. Bên cạnh đó, thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ cũng là phát triển ngành công nghiệp chế biến, sản xuất sản phẩm gỗ. Thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản làm tăng thu ngoại tệ, tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu công nghệ, máy móc cần thiết phục vụ cho sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hóa đất nước.
Hai là, thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản giúp doanh nghiệp tăng thu nhập, tiếp cận được với trình độ quản lý và công nghệ sản xuất hiện đại …
Ba là, thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, xoá đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập và đời sống cho nhân dân lao động …
1.4.2. Nhu cầu và thị hiếu về sản phẩm gỗ của người tiêu dùng Nhật Bản, các quy định về nhập khẩu sản phẩm gỗ, nguồn nhập khấu sản phẩm gỗ của Nhật Bản
1.4.2.1. Nhu cầu và thị hiếu về sản phẩm gỗ của người tiêu dùng Nhật Bản
Nhật Bản là một trong những nước có nền công nghiệp phát triển mạnh và đứng hàng đầu thế giới. Nhưng do đặc điểm về địa lý, Nhật Bản là một trong số những nước rất hiếm về tài nguyên thiên nhiên, ngoại trừ nguồn hải sản, do đó hầu hết các sản phẩm gia dụng, trang trí nội ngoại thất đều phải nhập khẩu.
Xu hướng tiêu dùng đồ ngoại của người Nhật Bản ngày càng gia tăng và sức tiêu thụ của thị trường này rất lớn, vào khoảng 3,000 tỷ Yên, bao gồm cả hàng gia dụng, trong đó đồ gỗ nhập khẩu chiếm 37% thị phần tại thị trường Nhật. Nhật Bản là thị trường tiêu thụ sản phẩm gỗ lớn nhất trên thế giới, đặc biệt trong xã hội công nghiệp với mức độ rất cao như hiện nay, người Nhật ngày càng có nhu cầu sử dụng đồ vật bằng chất liệu gỗ thay thế các vật liệu sắt, nhôm… Nhập khẩu các mặt hàng đồ gỗ nội thất có xu hướng tăng trưởng khá nhanh ở Nhật.Do quá trình chuyển sản xuất các đồ gỗ giá rẻ sang khu vực Đông Nam Á là nơi có nhân công rẻ, nguồn nguyên liệu dồi dào, chi phí nhập khẩu thấp và đặc biệt là nỗ lực của các nhà nhập khẩu Nhật Bản giảm chi phí trong khâu phân phối đã cho phép giảm giá bán đồ gỗ nhập khẩu.
Mặc dù hầu hết người Nhật truyền thống đã quen với việc ngồi trực tiếp lên sàn nhà trải chiếu tatami (chiếu cói), việc sử dụng bàn ghế đã trở nên rất thông dụng do việc phổ biến nhà theo phong cách phương tây từ hơn 50 năm nay. Bàn và ghế gỗ bắt đầu được sử dụng trong các gia đình Nhật Bản từ những năm 1955 - 1960. Theo báo cáo của Cục Kế hoạch Kinh tế Nhật bản về xu hướng tiêu thụ đồ gỗ trong gia đình, năm 1961 bàn ghế được sử dụng trong 6,2% gia đình Nhật, trong khi bàn ghế phòng khách được sử dụng là 12% gia đình Nhật; năm 1992, 69,7% gia đình Nhật có bàn ghế ăn; năm 1995, 36,3% gia đình Nhật có bàn ghế trong phòng khách. Tỷ lệ này không thay đổi trong những năm gần đây. Đặc điểm của người tiêu dùng Nhật Bản là tính đồng nhất, 90% người tiêu dùng cho rằng họ thuộc về tầng lớp trung lưu.
Người Nhật thường chỉ mua sản phẩm với số lượng ít kích thước hợp lý với không gian vì không gian chỗ ở của họ tương đối nhỏ và còn để tiện thay đổi cho phù hợp mẫu mã mới. Thường người Nhật giờ đây có sở thích rất đa dạng. Họ thích các kiểu đồ gỗ mở, tức là người sử dụng có thể tuỳ chọn bọc da hay bọc vải, có nệm hay không có nệm, kích cỡ có thể thay đổi to hay nhỏ... để phù hợp với sở thích cá nhân của mình, vì vậy các lô hàng nhập khẩu hiện nay qui mô có xu hướng nhỏ hơn nhưng chủng loại phải phong phú hơn.
Gần đây, mối quan tâm đến các vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng cao đã nâng cao ý thức sinh thái và bảo vệ môi trường của người tiêu dùng. Các sản phẩm đồ gỗ tái sinh cũng như đồ gỗ có nguồn gốc xuất xứ đang chiếm được thị phần lớn tại Nhật.
“Thị trường đồ gỗ Nhật đang có những thay đổi đáng kể, người tiêu dùng Nhật đang có xu hướng chuyển từ hàng cao cấp của châu Âu sang dùng hàng trung bình với giá cả cạnh tranh từ khu vực châu Á.” Đó là ý kiến của ông Shigeru Takayama, chuyên viên tư vấn thuộc Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro) tại cuộc hội thảo mới đây về xúc tiến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam vào thị trường Nhật, do Cục Xúc tiến Thương mại (Vietrade) phối hợp với Jetro tổ chức. Cũng theo ông Shigeru Takayama, nhu cầu nhập khẩu đồ gỗ của thị trường Nhật đang gia tăng, đặc biệt là đồ nội thất: đồ gỗ, đồ mây, kim loại và vật liệu khác.
1.4.2.2. Các quy định về việc nhập khẩu sản phẩm gỗ của Nhật Bản
a. Thuế quan
Đối với đồ gỗ xuất sang Nhật Bản, hàng hoá của Việt Nam không gặp nhiều rào cản trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của Nhật Bản như những mặt hàng khác do Nhật Bản khuyến khích nhập khẩu đồ gỗ nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ lớn trong nước. Thuế suất nhập khẩu đối với hầu hết các mặt hàng đồ gỗ đều bằng 0%.
b. Các quy định pháp luật khi kinh doanh đồ gỗ
Một số sản phẩm đồ gỗ muốn được kinh doanh trên thị trường Nhật Bản phải đáp ứng được yêu cầu của “Luật về nhãn hiệu chất lượng hàng hóa” và “Luật an toàn sản phẩm”.
Bảng 1.2. Các quy định của Nhật Bản liên quan đến một số sản phẩm gỗ
Mã số HS
Hàng hóa
Các quy định liên quan
9403
Bàn và ghế
Luật về nhãn hiệu chất lượng hàng hóa
9403
Ghế, Sofa
Luật về nhãn hiệu chất lượng hàng hóa
9403
Tủ
Luật về nhãn hiệu chất lượng hàng hóa
9403
Giường hai tầng
Luật an toàn sản phẩm
9403
Tủ bếp
Luật an toàn sản phẩm
9403
Tủ trẻ em
Luật an toàn sản phẩm
9403
Cũi trẻ em
Luật an toàn sản phẩm
9403
Ghế trẻ em
Luật an toàn sản phẩm
(Nguồn: www.vinanet.com vn)
Luật về nhãn hiệu chất lượng hàng hoá yêu cầu nhà nhập khẩu phải đảm bảo nhãn hiệu của sản phẩm (như bàn, ghế, chạn bát...) phải có đầy đủ các thông tin cho người tiêu dùng. Ví dụ mẫu nhãn hiệu hàng hóa cho mặt hàng ghế tựa phải đầy đủ các thông tin như sau: Về kích thước (chiều rộng, chiều sâu, độ cao), về hình dáng bề ngoài, chiều cao của ghế, bộ phận kết cấu, xử lý bề mặt, vật liệu bề mặt, vật liệu đệm, tên của nhà cung cấp nhãn hiệu và những chú ý khi sử dụng.
Luật an toàn sản phẩm : Một số sản phẩm tiêu dùng mà kết cấu, vật liệu hoặc cách sử dụng đặt ra vấn đề an toàn đặc biệt được coi là "sản phẩm đặc biệt" có quy định tiêu chuẩn cho từng sản phẩm đặc biệt.
Luật quy định giường cho trẻ em là sản phẩm đặc biệt loại 1. Giường phải đảm bảo các tiêu chuẩn này và phải có nhãn hiệu S đồng thời sẽ được tiến hành kiểm tra xác nhận bởi các cơ quan chuyên trách của chính phủ dựa trên các tiêu chí chất lượng do luật đã đề ra. Nhà sản xuất đã đăng ký có trách nhiệm tuân thủ các quy định về an toàn theo luật định, yêu cầu các cơ quan nhà nước kiểm tra, giữ kết quả kiểm tra và chịu trách nhiệm bồi thường cho ngưòi tiêu dùng nếu hàng hóa bị hư hỏng.
Từ 1/7/2003, các quy định mới về việc thải các chất hoá học dễ bay hơi, về tiêu chuẩn nhà của Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng và Giao thông được ban hành và có hiệu lực tác động mạnh tới đồ gỗ nhập khẩu. Đồ gỗ nhập khẩu bắt buộc phải được kiểm tra formaldehyde theo luật JAS (quy định về sản phẩm gỗ), luật JIS (quy định về chất liệu công nghiệp) và luật BSL (đối với các sản phẩm không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật JAS và luật JIS). Quy định mới này được ban hành do mối lo ngại của người Nhật về chứng "nhà bệnh tật", là hội chứng rối loạn sức khoẻ mà người mua phàn nàn là do đồ gỗ thải ra quá nhiều hoá chất dễ bay hơi. Nội dung chủ yếu của quy định mới này là:
Quy định quản lý mới về chất chlorpyrifos và formaldehyde trong sản phẩm (trong tương lai danh sách các chất có thể được mở rộng).
Cấm tuyệt đối việc sử dụng chất chlorpyrifos
Những hạn chế đối với việc sử dụng formandehyde về mức độ dẫn tới khả năng gây ô nhiễm và các yêu cầu đối với kiểm định quy định cho cơ quan kiểm nghiệm.
Nhãn hiệu căn cứ vào Luật An toàn hàng hóa: Hiệp hội sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng được thành lập theo Luật an toàn hàng hóa đã đề ra các tiêu chuẩn để đảm bảo tính an toàn của sản phẩm hàng hóa. Đến nay, một số sản phẩm đồ gỗ như giường tầng, tủ đựng cốc chén, chạn đựng bát đĩa, ghế tựa phải tuân theo tiêu chuẩn hàng hoá an toàn (nhãn hiệu SG). Sản phẩm mang nhãn hiệu SG có lỗi gây thương tích cho người tiêu dùng thì phải trả một khoản tiền bồi thường là 100 triệu yên cho một đầu người.
Nhãn hiệu theo tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản JIS : Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản JIS là một trong những tiêu chuẩn được sử dụng rộng rãi ở Nhật. Tiêu chuẩn này dựa trên "Luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp" được ban hành vào tháng 6 năm 1949 và thường được biết tới dưới cái tên "dấu chứng nhận tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản" hay JIS. Hệ thống JIS đã góp phần vào việc mở rộng tiêu chuẩn hoá trên phạm vi toànbộ nền công nghiệp Nhật Bản.
Theo quy định của điều 26 trong Luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp, tất cả các cơ quan của Chính phủ phải ưu tiên đối với sản phẩm được đóng dấu chất lượng JIS khi mua hàng hoá để phục vụ cho hoạt động.
Theo luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp, các tiêu chuẩn được đặt ra để đảm bảo chất lượng hàng công nghiệp. Các sản phẩm đạt được tiêu chuẩn JIS có thể được đóng dấu JIS. Trong hệ thống các mặt hàng nội thất, bàn sử dụng cho văn phòng sẽ được ký hiệu S1031-01, ghế văn phòng là S1032-01, tủ đựng hồ sơ văn phòng là S1033-01, giường thông dụng các sản phẩm nội thất S1102-01, bàn ghế cho trường học là S1021-01... Hơn nữa, khi được đóng dấu này, mỗi sản phẩm phải có các thông tin chi tiết đi kèm.
1.4.2.3. Nguồn nhập khẩu đồ gỗ của Nhật Bản
Đồ gỗ nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản chủ yếu bao gồm đồ gỗ cao cấp nhập từ Châu Âu (Italia, Đức, Áo, Đan Mạch), Mỹ và một khối lượng từ các nước ASEAN. Đồ nội thất của Mỹ và Châu Âu (đặc biệt là Italia và Đức) thu hút người tiêu dùng Nhật Bản do kiểu cách đẹp, chất lượng tốt và uy tín nhãn hiệu hàng hoá cao. Nhiều sản phẩm nhập từ châu Á là sản phẩm sản xuất dưới dạng OEM (còn gọi là "mặt hàng nhập khẩu phát triển") từ các cơ sở của Nhật đóng gói tại nước ngoài. Các sản phẩm này thay đổi ít nhiều về thiết kế so với các sản phẩm sản xuất tại Nhật.
Trong những năm gần đây hàng đồ gỗ xuất xứ Trung Quốc và Mỹ tăng đáng kể ở Nhật Bản. Đài Loan chuyển từ việc xuất khẩu đồ mây tre sang xuất khẩu đồ gỗ và đồ kim loại. Philipine đã thay đổi việc xuất khẩu mây tre sang Nhật bằng các hàng nội thất đắt tiền có chất lượng cao do nguồn mây tre trong nước giảm. Thái Lan chủ yếu cung cấp hàng đồ gỗ cao su. Các nước ASEAN đã có tiến bộ rất nhiều về chất lượng và kiểu dáng, tuy nhiên các sản phẩm của các nước ASEAN trước khi nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản vẫn phải trải qua các cuộc kiểm tra khắt khe.
Nói chung, đồ gỗ giá rẻ được nhập khẩu từ Trung Quốc, Đài Loan và các nước ASEAN, trong khi đó đồ gỗ cao cấp được nhập từ Châu Âu, Mỹ. Nhập khẩu từ Trung Quốc tăng mạnh trong những năm gần đây. Bắt đầu từ năm 2000, Trung Quốc đứng đầu các nước xuất khẩu đồ gỗ sang Nhật. Nhập khẩu từ Thái Lan, Indonesia và các nước ASEAN khác cũng tăng. Trong số các nước, lãnh thổ xuất khẩu hàng đầu đồ gỗ vào Nhật Bản, chỉ có Đài Loan xuất khẩu giảm đáng kể về trị giá (trung bình 15,7%/năm trong khoảng 5 năm gần đây). Điều này phản ánh thực tế rằng các nhà xuất khẩu gỗ Đài Loan cũng đang chuyển dần các cơ sở sản xuất sang Trung Quốc để xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.
1.4.3. Những điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là một trong ba thị trường chủ yếu để xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản đạt 286,8 triệu USD tăng 19,1% so với năm 2005, chiếm 14,86% trong tổng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ.
Hiện nay, Việt Nam đã vượt qua Đài Loan để trở thành nước xuất khẩu sản phẩm gỗ đứng thứ hai sang Nhật Bản (chỉ sau Trung Quốc - nước xuất khẩu sản phẩm gỗ lớn nhất thế giới) và chiếm 8% thị phần. Trước, các chuyên gia Nhật Bản cho rằng các doanh nghiệp Việt Nam do chưa có hệ thống bán hàng vào Nhật, không ổn định nguồn nguyên liệu... nên chưa có khả năng tiếp cận và tăng cường thị phần tại thị trường Nhật. Nhưng nay, sản phẩm gỗ xuất khẩu của ta sang Nhật đã tiếp cận được với hệ thống phân phối, tức là vào được các hệ thống siêu thị MR Mart, Tokyu Hands, OK, Mitsukoshi…
Nhật Bản là thị trường tiêu thụ lớn các sản phẩm gỗ, hàng năm, nhu cầu nhập khẩu sản phẩm gỗ lên tới hàng trăm tỷ Yên. Kim ngạch nhập khẩu sản phẩm gỗ của nước này năm 2006 là 236 tỷ Yên (tương đương khoảng 2 tỷ USD), tăng 12,7% so với năm 2005 do nền kinh tế Nhật Bản trong năm nay đang trên đà khởi sắc, nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng khá.
Một thuận lợi nữa cho hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản là cước phí vận chuyển sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản chỉ bằng hoặc nhỏ hơn cước phí vận chuyển nội địa nên giá thành sản phẩm gỗ Việt Nam rất cạnh tranh.
Như vậy, trên thị trường Nhật Bản, các doanh nghiệp Việt Nam còn rất nhiều cơ hội để khẳng định vị trí của mình. Trong khi các doanh nghiệp Nhật Bản chỉ đáp ứng được 43% nhu cầu nội địa thì có đến 90% sản lượng gỗ nhập khẩu vào Nhật Bản có xuất xứ từ các nước khu vực Châu Á. Mặc dù ở thị trường này, Việt Nam còn giữ thị phần đứng sau Trung Quốc, nhưng theo nhận định của các chuyên gia chỉ có Việt Nam mới có thể cạnh tranh với hàng đồ gỗ của Trung Quốc với ưu thế lao động giỏi và rẻ.
Hơn thế, đồ gỗ Việt Nam phần lớn được làm bằng phương pháp thủ công nên có thể làm được những mẫu mã phức tạp nhất, sẽ đáp ứng đựơc tốt nhất yêu cầu rất khắt khe của người tiêu dùng Nhật. Ngày nay người Nhật đã phân biệt được phong cách đồ gỗ nội thất Việt Nam (thường chịu ảnh hưởng của phong cách Pháp) với phong cách đồ gỗ Trung Quốc, Đài Loan (ảnh hưởng đồ gỗ thời phong kiến Trung Hoa) và thích phong cách Việt Nam hơn vì nó gần gũi, hiện đại. Người tiêu dùng đồ gỗ ở Nhật cho rằng, đây là phong cách mới sẽ vượt trội hơn trong tương lai. Và một ưu thế nữa đó là Việt Nam và Nhật Bản có mối quan hệ bạn h._.ông tin kịp thời, chuẩn xác, hỗ trợ Hiệp hội xây dựng trang Web, tiến đến việc mua bán trao đổi điện tử. Nhà nước nên nghiên cứu và triển khai xây dựng một số trung tâm thương mại Việt Nam tại Nhật Bản phục vụ như nơi trưng bày, giới thiệu và bán hàng của người Việt Nam cho người Nhật Bản. Tiền thuê mặt bằng sẽ do Nhà nước huy động và hỗ trợ một phần. Các trung tâm sẽ chịu sự chỉ đạo và quản lý trực tiếp của thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, thời gian đầu thương vụ có thể cử cán bộ biệt phái sang làm việc tại trung tâm, những cán bộ này sẽ chịu trách nhiệm hướng dẫn và đào tạo cho đại diện các doanh nghiệp trưng bày, giới thiệu sản phẩm tại trung tâm, hoặc giới thiệu, tuyển mộ lao động người Nhật Bản làm việc tại các trung tâm cho các doanh nghiệp vì họ am hiểu nhất văn hoá, phong tục tập quán tiêu dùng của họ sẽ thúc đẩy việc đưa sản phẩm gỗ Việt Nam đến với người tiêu dùng Nhật Bản.
3.3.1.6. Giải pháp về khuyến khích hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực
Lợi thế cạnh tranh nhờ giá nhân công rẻ ngày càng giảm dần, thay vào đó là xu hướng cạnh tranh bằng lao động lành nghề. Hiện nay, Việt Nam tuy có nhiều trường đào tạo công nhân song chưa có một trường nào đào tạo công nhân tay nghề cao trong lĩnh vực chế biến gỗ trong khi nhu cầu công nhân lành nghề trong lĩnh vực này ngày càng lớn. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ việc xây dựng và đào tạo công nhân lành nghề trong ngành công nghiệp chế biến gỗ. Có một số biện pháp sau:
Thứ nhất, ngân sách Nhà nước cần hỗ trợ kinh phí đào tạo các thợ cả trong sản xuất và chế biến gỗ; đây là cơ sở để tuyển chọn bồi dưỡng, phát triển thành nghệ nhân, một lực lượng quan trọng quyết định đến chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm gỗ.
Thứ hai, cần có hình thức đào tạo chuyên sâu về đồ gỗ, thiết kế đồ gỗ trong các khoa và trường mĩ thuật công nghiệp. Có hình thức thích hợp để kết hợp giữa đội ngũ nghệ nhân và các hoạ sĩ được đào tạo để hình thành đội ngũ thiết kế sản phẩm, phát triển mẫu mã sản phẩm gỗ.
Thứ ba, các cơ quan hữu quan của Nhà nước nên nghiên cứu và tập hợp nhu cầu về đào tạo tiếng Nhật cho kinh doanh sản xuất và xuất khẩu với thị trường Nhật Bản trong phạm vi cả nước và tham vấn cho các cơ sở đào tạo về quy mô, nội dung và phương pháp đào tạo về kinh doanh với thị trường Nhật Bản, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung và sản phẩm gỗ nói riêng sang thị trường Nhật Bản.
Thứ tư, các cơ quan hữu quan nhà nước đứng ra tổ chức (và hỗ trợ một phần kinh phí) các lớp đào tạo ngắn hạn hay dài hạn, tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học về xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường Nhật Bản cho doanh nghiệp, mời các chuyên gia của Việt Nam, chuyên gia Nhật Bản hay quốc tế giảng dạy.
Thứ năm, nhà nước cần áp dụng các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động đào tạo nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm gỗ xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.
Thứ sáu, nhà nước nên khuyến khích các nhà đầu tư Nhật Bản chuyển giao công nghệ và đào tạo quản lý cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản thông qua các hợp đồng thầu phụ…
Thứ bảy, nhà nước cần khuyến khích các hình thức hợp tác đào tạo giữa các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ với các cơ sở đào tạo nghề của cả khu vực nhà nước và tư nhân, cả trong và ngoài nước.
3.3.2. Giải pháp đối với các doanh nghiệp
3.3.2.1. Cần nghiên cứu kỹ nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng Nhật Bản và các đặc điểm tiêu dùng của họ.
Nghiên cứu kỹ nhu cầu và thị hiếu của người Nhật Bản đối với các sản phẩm gỗ trên các phương diện như: yêu cầu chọn lựa kỹ càng đối với kiểu dáng, cấu trúc của sản phẩm, các yếu tố hoạ tiết, màu sắc để phù hợp với sở thích cá nhân và thị hiếu riêng biệt; sự hài hòa trong không gian chung, ví dụ như kích thước các sản phẩm phải gọn nhẹ để phù hợp với cấu trúc và không gian nhà nhỏ của người Nhật Bản. Tuy nhiên, các sản phẩm gỗ cũng cần phải có các kích thước khác nhau, đa dạng để người tiêu dùng có được nhiều sự lựa chọn.
Các doanh nghiệp cần nắm bắt tốt nhu cầu và sở thích của khách hàng để có thể cung ứng tốt, sản phẩm có tính cạnh tranh cao. Người tiêu dùng Nhật Bản thường không thích gam màu chói, vì vậy, các sản phẩm gỗ nên tập trung vào các gam màu trầm. Các doanh nghiệp nên kết hợp sản xuất sản phẩm gỗ có thêm các nguyên liệu khác phụ thêm để tạo nên sự đa dạng về mẫu mã, chủng loại, đưa ra nhiều sự lựa chọn cho người tiêu dùng.
3.3.2.2. Cần có sự định vị chính xác về sản phẩm của doanh nghiệp sang thị trường Nhật Bản
Các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ cần thiết phải nắm bắt được sản phẩm của mình phục vụ cho những đối tượng thuộc phân đoạn thị trường nào để có thể đưa ra những sản phẩm phù hợp cả về văn hoá và đưa ra mức giá phù hợp với sức mua của thị trường đó.
Người tiêu dùng Nhật Bản có sức mua lớn và nhu cầu phong phú, đa dạng, tuy nhiên họ lại rất nhạy cảm về sự biến động của giá cả. Hơn thế, các sản phẩm gỗ Việt Nam hiện nay bị đánh giá là có mức giá cao hơn so với các sản phẩm của Trung Quốc và Đài Loan, Thái Lan,… Đây là những đối thủ cạnh tranh rất lớn của Việt Nam. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện các biện pháp để hạ giá thành sản phẩm. Các doanh nghiệp hiện nay đang phải nhập khẩu nguyên liệu gỗ riêng lẻ và bị mua với mức giá cao, hơm thế còn là các chi phí thêm cho dịch vụ sơ chế, đóng hàng và vận chuyển. Giá gỗ đã cao lại chịu thêm chi phí trung gian nên càng cao hơn. Do vậy, các doanh nghiệp cần kết hợp với nhau để mua gỗ tận gốc với khối lượng lớn.
Mặt khác, các doanh nghiệp có thể lập kho ngoại quan ở nước ngoài. Kho ngoại quan này bao gồm cả nơi tập trung hàng hoá, nơi sơ chế, chế biến hàng xuất khẩu. Nhờ kho ngoại quan này, các doanh nghiệp có khả năng chọn lọc gỗ theo yêu cầu, tập trung đủ lượng gỗ cần thiết trước khi chuyển về nước.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp khi hạ giá thành sản phẩm để cạnh tranh thì cũng cần phải tính kỹ lưỡng đến các biện pháp phòng bị đánh thuế chống bán phá giá.
3.3.2.3. Cần tiến hành hoạt động xúc tiến tổng hợp
Các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu sản phẩm gỗ cần phải chủ động thực hiện các biện pháp xúc tiến, khuyếch trương sản phẩm thông qua các hội chợ, triển lãm,… Khi tham gia triển lãm, hội chợ,.. các doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng và cẩn thận về con người, sản phẩm, các logo, các hình thức quảng cáo,… để có thể tận dụng tối đa lợi ích mang lại từ hội chợ, triển lãm đó.
Cần phải phối hợp chặt chẽ và liên tục với các cơ quan xúc tiến thương mại của Việt Nam cũng như của Nhật Bản, các đơn vị hữu quan để tiến hành các hoạt động xúc tiến mạnh mẽ trên thị trường Nhật Bản. Hơn thế, các doanh nghiệp cần xây dựng một đội ngũ cán bộ Marketing, PR chuyên nghiệp để có thể đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng cũng như các nhà nhập khẩu, các nhà bán lẻ,… của Nhật Bản thuận lợi nhất.
Các doanh nghiệp nên tích cực tham gia các trung tâm thương mại của Việt Nam trên thị trường Nhật Bản để giới thiệu và khuyếch trương sản phẩm.
3.3.2.4. Xây dựng kế hoạch, chiến lược sản xuất, phương thức kinh doanh linh hoạt, phù hợp với yêu cầu thực tiễn
Trước hết phải tìm ra được đối tác tiêu thụ sản phẩm. Các đối tác thu mua sản phẩm đồ gỗ nội thất tại Nhật có thể là cửa hàng chuyên doanh (thường là sản phẩm cao cấp), cửa hàng bách hóa, cửa hàng nội thất quy mô lớn; Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia là đối tác thường xuyên của loại cửa hàng này và luôn được bao tiêu sản phẩm, và hệ thống bán hàng qua catalogue, qua Internet.
Muốn tìm các đối tác này, doanh nghiệp trong nước phải biết khai thác các hội chợ, triển lãm tại Nhật, Trung Quốc (vì doanh nghiệp Nhật rất quan tâm đến các hội chợ đồ gỗ tại Trung Quốc và thường xuyên tham gia các hội chợ này), hoặc có kế hoạch trưng bày sản phẩm tại các showroom ở Nhật, hay đưa thông tin về sản phẩm lên mạng. Doanh nghiệp phải có đội ngũ nhân viên kinh doanh giỏi ngoại ngữ (tiếng Nhật hoặc tiếng Anh) và khi quan hệ với đối tác này không nên giao dịch với đối tác thứ hai trong cùng một khu vực.
Do thói quen và là tính cách riêng, đại diện các đơn vị thu mua Nhật thường rất khắt khe về mặt chất lượng hàng hóa. Doanh nghiệp Việt Nam cần hiểu và thông cảm tính cách này trong quan hệ mua bán với người Nhật. Doanh nghiệp cũng nên đáp ứng nhanh về mẫu mã và giá cả khi đối tác yêu cầu (nhiều doanh nhân Nhật phàn nàn phía đối tác Việt Nam luôn chậm trễ trong 2 khâu này). Khi hợp đồng được ký kết, doanh nghiệp Việt Nam nên thường xuyên báo cáo tiến độ thực hiện hợp đồng cho khách hàng bằng thư điện tử, bằng hình ảnh... mục đích tạo cảm giác yên tâm cho đối tác (phong cách này đang phổ biến tại Nhật). Thời gian giao hàng đối với nhà nhập khẩu Nhật rất quan trọng, một phần do việc quý trọng thời gian, một phần do cao điểm để tung ra thị trường một chủng loại sản phẩm mới không dài. Hàng chỉ về chậm một vài tuần là có thể sẽ thành hàng “sold”, hoặc không tiêu thụ được. Để tạo uy tín và tin tưởng với nhà nhập khẩu Nhật, doanh nghiệp Việt Nam nên có trách nhiệm với hàng hư hỏng, hàng kém chất lượng (đổi lại hoặc chịu trách nhiệm sửa chữa).
Do tính cẩn trọng trong làm ăn, lần đầu bao giờ nhà nhập khẩu Nhật cũng đặt hàng số lượng nhỏ để thăm dò năng lực đối tác, sau đó mới tiến hành ký kết số lượng lớn. Dù đặt hàng số lượng không nhiều, người Nhật cũng muốn đến tận nơi sản xuất của đối tác để tham quan tìm hiểu. Đối với họ, một doanh nghiệp sản xuất đạt tiêu chuẩn là phải đáp ứng được năm điểm: ngăn nắp, gọn gàng, vệ sinh, sạch sẽ và kỷ luật.
Dù là quốc gia giàu, song đa phần người Nhật sống trong các chung cư cao tầng với các phòng nhỏ (khoảng 30 m2/người), nên hàng gỗ nội thất phải tương ứng với diện tích này. Dù nhỏ, nhưng cũng phải có bàn và ghế cho phòng ăn, salon cho phòng khách, hàng nội thất cho phòng ngủ. Điều này giải thích vì sao hàng gỗ nội thất vẫn tiếp tục có thị trường ở Nhật. Do có diện tích sử dụng nhỏ nên người Nhật ưa chuộng những sản phẩm gỗ có nhiều chức năng (vừa là ghế dài vừa là giường ngủ; vừa là chiếc ghế đẩu vừa là bục nhỏ để trang trí bình hoa, chậu cá cảnh, chụp đèn; cánh cửa tủ quần áo có thể thành nơi treo tranh trang trí; tủ đựng sách có thể làm vách ngăn...). Mùa hè người Nhật sử dụng máy lạnh, mùa đông dùng máy sưởi nên sản phẩm gỗ phải chịu được sự chênh lệnh nhiệt độ này, nghĩa là không bị nứt, bị xé...
Ngày nay người Nhật đã phân biệt được phong cách đồ gỗ nội thất Việt Nam (thường chịu ảnh hưởng của phong cách Pháp) với phong cách đồ gỗ Trung Quốc, Đài Loan (ảnh hưởng đồ gỗ thời phong kiến Trung Hoa) và thích phong cách Việt Nam hơn vì nó gần gũi, hiện đại. Người tiêu dùng đồ gỗ ở Nhật cho rằng, đây là phong cách mới sẽ vượt trội hơn trong tương lai.
Nhật Bản vốn là một thị trường khó tính, doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường Nhật Bản thì trước tiên phải đưa ra và phải có quyết tâm thực hiện mục tiêu xuất khẩu của mình. Tiếp đến là ngoài đội ngũ lao động sản xuất lành nghề, cần phải có nguồn nhân lực cần thiết đáp ứng được những đòi hỏi kinh doanh quốc tế như: trình độ ngoại ngữ, am hiểu và thực hiện tốt các nghiệp vụ buôn bán quốc tế, có khả năng giao tiếp tốt, có khả năng sáng tạo,…
3.3.2.5. Đẩy mạnh việc xây dựng thương hiệu và tăng cường quảng bá sản phẩm
Các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam hiện thiếu thương hiệu uy tín trên thị trường nước ngoài do phần lớn là gia công xuất khẩu, mượn thương hiệu nước ngoài để xuất khẩu. Hơn thế, vấn đề về sở hữu công nghiệp, về đăng ký bản quyền cũng như vấn đề bảo hộ thương hiệu rất được coi trọng ở thị trường Nhật Bản nói riêng và thị trường quốc tế nói chung. Việt Nam cần phải nhận thấy được rõ tầm quan trọng của vấn đề này. Đẩy mạnh xây dựng thương hiệu cho sản phẩm gỗ của Việt Nam sẽ góp phần rất lớn thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường Nhật vì người tiêu dùng Nhật Bản ưa dùng các sản phẩm có uy tín.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cần tăng cường quảng cáo, khuếch trương sản phẩm. Quảng cáo là công cụ của kinh doanh và cạnh tranh trong xuất khẩu, cần lựa chọn hình thức, phương tiện quảng cáo thích hợp để vừa tạo ra chương trình hấp dẫn, dễ nhớ và phù hợp với văn hóa Nhật Bản. Tăng cường quảng cáo trên Internet là rất phù hợp với Nhật Bản, đất nước có nền kinh tế tri thức và công nghệ thông tin rất phát triển.
3.3.2.6. Doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ, đào tạo công nhân lành nghề.
Doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ, đào tạo công nhân lành nghề, …để nâng cao năng lực sản xuất, thiết kế mẫu mã sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường Nhật Bản
Công nghệ lạc hậu, nhất là công nghệ sấy khô và sơn phủ, khả năng thiết kế mẫu mã sản phẩm còn hạn chế, thiếu công nhân lành nghề ảnh hưởng rất lớn đến khả năng xuất khẩu của sản phẩm gỗ sang thị trường Nhật Bản. Công nghệ lạc hậu, thiếu công nhân lành nghề khiến sản phẩm của Việt Nam chất lượng chưa cao trong khi người tiêu dùng Nhật Bản quan tâm hàng đầu là về chất lượng của sản phẩm. Các nhà nhập khẩu Nhật Bản thường có những đơn đặt hàng lớn, với công nghệ lạc hậu, các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam không đủ khả năng nhận những đơn dặt hàng này, gây mất lòng tin cho các nhà nhập khẩu Nhật Bản. Chính vì thế doanh nghiệp cần phải chú trọng đầu tư vào công nghệ hiện đại, và có những chiến lược đào tạo nguồn lao động hợp lý cho doanh nghiệp. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần huy động và sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhất vào việc đổi mới, nâng cao công nghệ.
Người tiêu dùng Nhật Bản ưa chuộng các sản phẩm có mẫu mã phong phú, đa dạng. Để thu hút hơn nữa người tiêu dùng Nhật Bản, các doanh nghiệp cần tăng cường thiết kế sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã. Các doanh nghiệp có thể tự mở các khoá đào tạo riêng cho cán bộ, công nhân của doanh nghiệp mình, tự tìm, tuyển dụng các tài năng thiết kế từ những cuộc thi hay từ trường Mỹ thuật công nghiệp, tự thuê các chuyên gia, tư vấn về thiết kế mẫu mã sản phẩm…
3.3.2.7. Xây dựng văn hóa trong kinh doanh xuất khẩu sang Nhật Bản
Thực hiện nề nếp trong kinh doanh chính là góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm gỗ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu thành công sang thị trường nước ngoài nói chung và thị trường Nhật Bản nói riêng cần chú trọng xây dựng văn hoá kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần xây dựng tác phong kinh doanh mang tính chuyên nghiệp để xây dựng và duy trì lòng tin của khách hàng, lấy chữ tín làm đầu, có khả năng đáp ứng được các đơn đặt hàng lớn một cách hoàn hảo và nhanh chóng.
Một số bí quyết các doanh nghiệp Việt Nam nên tham khảo khi làm ăn với người Nhật:
Một là chữ tín: Đặc điểm nổi bật của các doanh nhân Nhật Bản là giữ chữ tín, đã hứa là thực hiện dù đó là những việc nhỏ nhất. Người Nhật rất coi trọng ấn tượng đầu tiên nên các doanh nghiệp cần chuẩn bị thật tốt cho các buổi họp mặt hay giao dịch đầu tiên.
Hai là nguyên tắc: Trao đổi thông tin, đàm phán rất lâu và kỹ, làm việc rất nguyên tắc. Cho dù chỉ là các dịch vụ thương mại đơn thuần. Hầu hết, khách hàng Nhật Bản luôn muốn được tham quan công ty, nơi sản xuất để tận mắt chứng kiến tổ chức, năng lực sản xuất của đối tác sản xuất hàng sẽ bán cho họ. Khi đã tin tưởng thì các công ty Nhật Bản lại nổi tiếng là ổn định và trung thành với bạn hàng.
Ba là kiên trì: Nên kiên trì trong các mối quan hệ kinh doanh với người Nhật. Thời gian đặt hàng thử, số lượng nhỏ kéo dài rất lâu, nếu cảm thất đạt tiêu chuẩn họ mới đặt hàng số lượng lớn. Nhiều khi, sau vài đơn hàng đầu tiên với số lượng ít, doanh nghiệp phía Việt Nam không đủ kiên trì để tiếp tục nên đã không nhiệt tình trong giao tiếp kinh doanh, dẫn đến mất khách hàng tốt trong tương lai.
Bốn là giao lưu: Tham gia hội chợ thương mại, hoặc các hoạt động giao lưu tại Nhật Bản sẽ khẳng định tính thường xuyên, ổn định trong kinh doanh với khách hàng cũ, đồng thời cũng tạo cơ hội mới trong việc tìm kiếm khách hàng mới.Tuy nhiên, nên có sự trao đổi và thống nhất trước với những khách hàng truyền thống của mình về những sản phẩm mẫu mã trưng bầy, tránh tình trạng vi phạm cam kết về mẫu mã trước đó bời vì tham gia hội chợ tại Nhật Bản thường rất tốn kém. Đặc biệt khi giới thiệu hay bán hàng tại hội chợ nhân viên phụ trách không được ăn, uống trước mặt khách hàng. Phải luôn đứng, tươi cười mời chào khách với thái độ thật niềm nở và nói lời cám ơn.
Năm là trân trọng – chu đáo: Người Nhật rất coi trọng chuyện gặp mặt trước khi bàn bạc hợp tác và rất chu đáo trong việc chăm sóc khách hàng. Việc mời ăn uống, đón, tiễn ở sân bay (đặc biệt là nếu vào được tận trong máy bay để đón thì sẽ gây được ấn tượng đặc biệt với bạn). Trong giao dịch thương mại, vấn đề quan hệ cá nhân là vô cùng quan trọng vì người Nhật cũng giống người Việt Nam, nên chủ động tiếp đồ uống cho cho khách, không để khách tự rót rượu cho họ trong suốt bữa ăn. Ngoài ra người Nhật Bản rất coi trọng giờ hẹn. Vì vậy, khi đi làm việc với khách Nhật, phải luôn luôn đúng giờ.
Sáu là văn hóa trao danh thiếp: Nhật Bản là một trong những nước hay sử dụng danh thiếp nhất thế giới. Việc không có hay hết danh thiếp khi giao dịch không bao giờ để lại ấn tượng tốt với khách hàng.
Bảy là tiếng Nhật: Người Nhật rất thích khi đối tác sử dụng được tiếng Nhật vì họ cảm thấy gần gũi hơn vì vậy bạn nên trang bị tiếng Nhật hoặc ít ra cũng chuẩn bị cho mình một số câu đơn giản.
Tám là bản ghi nhớ (MOU): Sau khi đàm phán hay thống nhất xong vấn đề gì đó dù là không quan trọng lắm thì bạn cũng nên làm bản tóm tắt nội dung đã thống nhất gửi lại cho đối tác. Điều này luôn được đánh giá cao. Bên cạnh đó một số chi tiết nhỏ như trực tổng đài công ty. Họ sẽ cảm thấy rất bất ổn về đối tác khi gọi điện thoại đến công ty mà không thấy có người trả lời hoặc trả lời không đúng mực.
Chín là tặng quà – Chúc mừng: Cũng giống như ở Việt Nam, người Nhật thích tặng quà cho nhau vào những dịp lễ tết như dịp Ô Bôn (tháng 7), dịp này nên gửi đồ ăn; dịp cuối năm dương lịch nên tặng đồ uống. Gửi thiếp chúc mừng nhân dịp đặ biệt như ngày thành lập công ty, Giáng sinh và năm mới (lưu ý thiếp chúc mừng phải được gửi tới tay đối tác trước ngày lễ diễn ra).
Mười là chất lượng – Hình thức - Vệ sinh: Hàng hóa, cho dù bất kỳ loại gì cũng phải có hình thức đẹp, sạch sẽ. Bao bì sản phẩm phải rất cẩn thận đúng tiêu chuẩn, hình thức đẹp, kích thước hợp tạo được sự lôi cuốn và tiện dụng cho người sử dụng. So với các thị trường khác, tại Nhật Bản đối với một số mặt hàng như hàng quà tặng, chi phí cho bao bì chiếm tỷ trọng cao hơn trong giá thành sản phẩm.
KẾT LUẬN
Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới(WTO). Chúng ta đang trên tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Một số sản phẩm của Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường quốc tế. Mặt hàng đồ gỗ là một trong sáu mặt hàng xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam. Với dân số là 127,46 triệu người và là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Nhật Bản là một trong những thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Đặc biệt sản phẩm gỗ xuất khẩu Việt Nam tại Nhật Bản đang ngày càng khẳng định được vị thế của mình.
Với truyền thống và nhu cầu tiêu dùng đồ gỗ rất lớn của người dân, thị trường Nhật Bản là một thị trường đầy tiềm năng đối với sản phẩm gỗ. Đến nay, đồ gỗ của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đã đứng ở vị trí thứ hai chỉ sau Trung Quốc chiếm 8% thị phần. Với tiềm năng của ngành chế biến gỗ Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có khả năng vươn đến vị trí thứ nhất về xuất khẩu đồ gỗ sang thị trường Nhật Bản để góp phần đáng kể vào tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam nhằm phát triển kinh tế đất nước. Vì thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản nói riêng và thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam ra thị trường thế giới nói chung mang lại rất nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp, cho nền kinh tế đất nước và cho đời sống nhân dân.
Bài viết đã đưa ra những thông tin và nhận định về thị trường Nhật Bản nói chung, thị trường đồ gỗ Nhật Bản nói riêng; về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản; về xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam nói chung và xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản nói riêng từ năm 1999 đến nay; … Bài viết đã làm rõ cơ hội và thách thức của ngành chế biến và xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong điều kiện Việt Nam tham gia Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) để đưa ra một số giải pháp đối với Nhà nước và đối với các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam vào thị trường này từ nay đến năm 2020.
Để thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong điều kiện tham gia WTO, tác giả đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cho Nhà nước và cho các doanh nghiệp chế biến sản phẩm gỗ xuất khẩu.
Một số giải pháp cho Nhà nước: (1) hoàn thiện môi trường pháp lý, thực hiện các quy định cam kết song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản; (2) quy hoạch, xây dựng chiến lược trong thu hút đầu tư nước ngoài hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, phát triển xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường Nhật Bản; (3) tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ tiếp cận dễ dàng các nguồn vốn cần thiết; (4) quy hoạch kế hoạch pháp triển nguồn nguyên liệu cho sản phẩm gỗ xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản; (5) đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ đối với thị trường Nhật Bản; (6) khuyến khích hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực.
Một số giải pháp cho các doanh nghiệp: (1) nghiên cứu kỹ nhu cầu, thị hiếu, các đặc điểm tiêu dùng của người Nhật Bản; (2) định vị chính xác về sản phẩm của doanh nghiệp sang thị trường Nhật Bản; (3) tiến hành hoạt động xúc tiến tổng hợp, đẩy mạnh việc xây dựng thương hiệu và tăng cường quảng bá sản phẩm; (4) xây dựng kế hoạch, chiến lược sản xuất, phương thức kinh doanh linh hoạt, phù hợp với yêu cầu thực tiễn; (5) tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ, đào tạo công nhân lành nghề; (6) xây dựng văn hóa trong kinh doanh xuất khẩu sang Nhật.
Tóm lại, để đạt được mục tiêu, để có thể thực hiện được Chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường thế giới nói chung và thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản nói riêng cần phải có sự đồng lòng đồng sức của Nhà nước, của các doanh nghiệp, của mọi người dân lao động. Sự kiện Việt Nam tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới đồng nghĩa với các ngành kinh tế nói chung và ngành sản xuất xuất khẩu sản phẩm gỗ nói riêng đã căng buồm ra biển lớn, nhiều cơ hội và cũng nhiều thách thức. Nhưng với những bước đi đúng đắn, vững chắc, với sự liên kết thành một khối thống nhất, ngành chế biến gỗ xuất khẩu nói riêng và các ngành xuất khẩu hàng hoá Việt Nam nói chung sẽ thực hiện thắng lợi những mục tiêu đã đặt ra, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, phát triển mạnh nền kinh tế đất nước.
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình:
GS.TS. Đỗ Đức Bình – TS. Nguyễn Thường Lạng (2004) “Kinh tế quốc tế” – Nhà xuất bản Lao động xã hội
GS.PTS. Tô Xuân Dân (1998) “Chính sách Kinh tế đối ngoại” – Nhà xuất bản Thống kê
PGS.TS Nguyễn Thị Hường (2003) “Kinh doanh quốc tế” – Nhà xuất bản Thống kê
GS.TS. Bùi Xuân Lưu (2002) “Kinh tế ngoại thương” – Nhà xuất bản Giáo Dục
Sách:
Ken Arakawa (2003) “Xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản các vấn đề về nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tiễn” –– Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Ths. Nguyễn Thị Như Hoa – Ths. Nguyễn Anh Tuấn (2001) “Quan hệ kinh tế của Mỹ và Nhật Bản với Việt Nam từ năm 1995 đến nay” - Nhà xuất bản chính trị quốc gia
GS.TS Võ Thanh Thu (2003) “Quan hệ kinh tế quốc tế” – Nhà xuất bản Thống kê
GS.TS. Võ Thanh Thu (2002) “Kỹ thuật kinh doanh xuất nhập khẩu” –– Nhà xuất bản thống kê
Báo, tạp chí:
Báo đầu tư
Báo thương mại
Tạp chí Kinh tế & Phát triển
Tạp chí nghiên cứu Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
Tập san Thời báo kinh tế Việt Nam: Kinh tế 2005 – 2006
Thời báo Kinh tế Sài Gòn
Thời báo Kinh tế Việt Nam
Các trang Web:
www.vnn.vn
www.trade.hochiminhcity.gov.vn
www.saigonnews.vn
www.nciec.gov.vn
www.itpc.hochiminhcity.gov.vn
www.mof.gov.vn
www.toquoc.gov.vn
www.mpi.gov.vn
www.tienphongonline.com.vn
www.baothuongmai.com.vn
www.vietrade.gov.vn
www.vienkinhte.hochiminhcity.gov.vn
www.vneconomy.com.vn
www.ebiz.dsp.com.vn
www.vinanet.com.vn
www.ncnb.org.vn
DANH MỤC CÁC BẢNG
Nội dung
Trang
Bảng 1.1
Tốc độ tăng trưởng GDP của Nhật Bản qua các năm từ 1990 đến 2006
11
Bảng 1.2.
Các quy định của Nhật Bản liên quan đến một số sản phẩm gỗ
26
Bảng 2.1.
Kim ngạch xuất khẩu - nhập khẩu giữa Việt Nam và Nhật Bản thời kỳ 1995 – 2006
32
Bảng 2.2.
Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Nhật Bản (giai đoạn 2000 – 2006)
35
Bảng 2.3.
Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản từ năm 1999 đến năm 2006
45
Bảng 2.4.
Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản từ năm 2002 đến năm 2006
49
DANH MỤC CÁC HÌNH
Nội dung
Trang
Hình 2.1.
Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam sang Nhật Bản giai đoạn 1995 – 2006
33
Hình 2.2.
Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản năm 2006
37
Hình 2.3.
Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam so với kim ngạch nhập khẩu sản phẩm gỗ của Nhật Bản (giai đoạn 1999-2006)
46
Hình 2.4.
Kim ngạch và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản (giai đoạn 1999 – 2006)
47
Hình 2.5.
Cơ cấu sản phẩm gỗ Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản năm 2002
50
Hình 2.6.
Cơ cấu sản phẩm gỗ Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản năm 2003
51
Hình 2.7.
Cơ cấu sản phẩm gỗ Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản năm 2004
52
Hình 2.8.
Cơ cấu sản phẩm gỗ Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản năm 2005
53
Hình 2.9.
Cơ cấu sản phẩm gỗ Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản năm 2006
54
LỜI CAM ĐOAN
Khoá luận Tốt nghiệp với đề tài “Thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong điều kiện tham gia WTO” do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ Nguyễn Thị Thuý Hồng và Thạc sĩ Lại Lâm Anh.
Tôi xin cam đoan Khoá luận Tốt nghiệp này hoàn toàn là kết quả của quá trình nghiên cứu, thu thập số liệu hết sức nghiêm túc của tôi, các số liệu nêu trong Khoá luận Tốt nghiệp là trung thực. Khoá luận Tốt nghiệp này tuyệt đối không sao chép từ bất kỳ từ một Chuyên đề, Luận văn hay Luận án nào.
Nếu có gì sai với lời cam đoan trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả Khoá luận
Trần Thị Tuyết Nhung
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH
Từ viết tắt
Nghĩa Tiếng Anh
Nghĩa Tiếng Việt
AFTA
ASEAN Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
ASEAN
The Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
BTA
Viet nam – US Bilateral Trade Agreement
Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ
CEPT
Common Effective Preferential Tariff
Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
EU
European Union
Liên minh Châu Âu
EC
European Community
Cộng đồng Châu Âu
FSC
Forest stewardship council Certificate
Chứng chỉ rừng
GATT
General Accord on Tariffs and Trade
Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
GSP
General System of Prefential Tariffs
Hệ thống thuế quan ưu đãi phổ cập
HS
Harmonised Commodity description coding System
Hệ thống Hài hòa mô tả và mã hàng hóa
IMF
International Monetary Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
ITTO
International Tropic Timber Organization
Tổ chức đồ gỗ nhiệt đới quốc tế
JAS
Japan Agricultural Standard
Hệ thống tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản
JETRO
Japan External Trade Organization
Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản
JIS
Japan Industrial Standards
Hệ thống tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản
JICA
Japan International Cooperation Agency
Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản
MOU
Memorandum of understanding
Bản ghi nhớ hợp đồng
TC
UNECE Timber Committee
Ban phụ trách mặt hàng gỗ thuộc Uỷ ban Kinh tế Châu Âu của Liên hiệp quốc
UNCTAD
United Nations Conference on Trade and Development
Hiệp ước của Hội nghị Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển
UNECE
United Nations Economic Commission for Europe
Uỷ ban Kinh tế châu Âu của Liên hiệp quốc
VAT
Value Added Tax
Thuế giá trị gia tăng
VPA
Volume Purchase Agreement
Hiệp định đối tác tình nguyện
WB
World Bank
Ngân hàng thế giới
WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại Thế giới
WWF
World Wide Fund for Nature
Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
Từ viết tắt
Nghĩa Tiếng Việt
BNN&PTNT
Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
CP
Chính phủ
KNNK
Kim ngạch nhập khẩu
KNXK
Kim ngạch xuất khẩu
KNXNK
Kim ngạch xuất nhập khẩu
NDT
Nhân dân tệ
NĐ
Nghị định
NQ
Nghị quyết
QĐ
Quyết định
SP
Sản phẩm
TKNXK
Tổng kim ngạch xuất khẩu
TTg
Thủ tướng
XTTM
Xúc tiến thương mại
XTXK
Xúc tiến xuất khẩu
LỜI CẢM ƠN
Khoá luận Tốt nghiệp là kết quả sau hơn bốn năm học tập và nghiên cứu của tôi tại trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. Đó cũng là công sức và kiến thức của các thầy cô giáo đã truyền thụ cho tôi bằng tất cả tâm huyết và sự nhiệt tình của mình.
Để có được thành quả đó, trước tiên tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế nói riêng và các thầy cô trường Đại học Kinh tế quốc dân nói chung đã tận tình giảng dạy tôi để có kết quả ngày hôm nay.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới cô Nguyễn Thị Thuý Hồng, người đã tận tâm chỉ bảo, giúp đỡ tôi chu đáo và nhiệt tình trong suốt quá trình giảng dạy và hướng dẫn tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các cán bộ Viện Kinh tế và Chính trị thế giới – nơi tôi thực tập tốt nghiệp, đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập. Xin chân thành cảm ơn thạc sỹ Lại Lâm Anh – cán bộ Viện Kinh tế và Chính trị thế giới đã tận tình hướng dẫn tôi làm Chuyên đề thực tập tốt nghiệp và phát triển thành Khoá luận tốt nghiệp này.
Với tầm nghiên cứu và kiến thức còn hạn chế nên Khoá luận của tôi còn nhiều sai sót và khiếm khuyết. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các quý thầy cô và độc giả để Khoá luận này thêm hoàn thiện.
Xin trân trọng cảm ơn!
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0466.doc