Thúc đẩy Xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan tại Công ty XNK tạp phẩm Hà Nội (TOCONTAP)

Lời cam đoan Em xin cam đoan bài luận văn tốt nghiệp với đề tài “Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan tại công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội (TOCONTAP)” là do em viết dưới sự hướng dẫn của cô giáo PGS.TS. Nguyễn Thị Hường, thầy giáo Ths. Mai Thế Cường. Bài viết có tham khảo các tài liệu trong danh mục tài liệu tham khảo, không sao chụp, không photocopy các bài luận văn khác. Nếu sai em xin chịu trách nhiệm và chấp hành các biện pháp kỷ luật trước Khoa Kinh Tế Và Ki

doc144 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1392 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thúc đẩy Xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan tại Công ty XNK tạp phẩm Hà Nội (TOCONTAP), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh Doanh Quốc Tế và Ban giám hiệu Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân. Lời cảm ơn Em xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới Cô giáo PGS.TS. Nguyễn Thị Hường, Thầy giáo Ths. Mai Thế Cường, Cô Bùi Thị Tuệ - Giám đốc Công ty cùng toàn thể các anh chị phòng Tổng hợp thuộc Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội - TOCONTAP đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này một cách tốt nhất. Do thời gian và trình độ nghiên cứu hạn hẹp, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các Thầy cô giáo, các bác lãnh đạo, các anh chị CBCNV Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội – TOCONTAP, cùng toàn thể bạn đọc. Em xin chân thành cảm ơn !. Hà Nội ngày 20 tháng 5 năm 2003 Sinh viên Nguyễn Quang Nhật Mục Lục Danh mục các bảng Bảng 1 Bảng 2 Bảng 3 Bảng 4 Bảng 5 Bảng 6 Bảng 7 Bảng 8 Bảng 9 Bảng 10 Bảng 11 Bảng 12 Bảng 13 Bảng 14 Bảng 15 Danh mục các hình Hình 1 Hệ thống tổ chức theo cơ cấu ngành Bộ Thương Mại Hình 2 Hình 3 Hình 4 Hình 5 Hình 6 Hình 7 Hình 8 Hình 9 Hình 10 Danh mục các từ viết tắt Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ LờI NóI ĐầU Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đây là một trong những hoạt động không thể thiếu và chịu sự chi phối bởi chính sách thương mại của các quốc gia - bộ phận chủ yếu cấu thành nên chính sách kinh tế đối ngoại trong chính sách ngoại giao của bất kỳ quốc gia nào. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển, xuất khẩu hàng hóa được coi là mục tiêu không thể xa rời để đưa nền kinh tế phát triển. Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn tài chính cho hoạt động nhập khẩu, duy trì và thúc đẩy hoạt động nhập khẩu, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu ngoại tệ đảm bảo cho sự cân bằng của cán cân thanh toán ngoại thương, cuối cùng là đưa nền kinh tế phát triển lên các bậc cao hơn. Thực tế khách quan đã thừa nhận không có nước nào phát triển được theo hướng biệt lập, tự cường trên quan điểm “ Bế quan tỏa cảng” để phát triển, điều đó chỉ kéo dài sự bần cùng, nghèo đói của một quốc gia. Đứng trên góc độ thế giới chúng ta nhận thấy rằng thương mại hàng hóa, dịch vụ với nước ngoài cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng trong ranh giới và khả năng sản xuất của nước đó dưới chế độ tự cung tự cấp, không giao lưu buôn bán. Do kết quả của việc mở ra thương mại giữa các nước, thế giới có thể tiến lên đường cong về sản xuất của chính mình. Hiện nay với nền kinh tế mở, hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, với những thách thức mới, thời cơ mới, thì các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng cần phải xem xét lại mình, đổi mới về tổ chức và hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn trở thành một vấn đề bức bách. Trong tình hình chung đó, Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội - TOCONTAP cũng đóng góp một phần tích cực của mình vào hoạt động xuất nhập khẩu của cả nước, với mặt hàng chủ chốt và truyền thống của dân tộc Việt Nam – Mặt hàng mây tre đan, đồ gốm sứ mỹ nghệ. Với đề tài luận văn tốt nghiệp là “Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan tại công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội (TOCONTAP)” em xin được chuyển tải một cách chung nhất về hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty TOCONTAP. Qua đó em xin đưa ra đánh giá về thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, đồng thời đề xuất một số giải pháp và kiến nghị. Cơ sở của việc lựa đề tài: Tính cấp thiết của đề tài: Đẩy mạnh xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan để tăng nguồn thu ngoại tệ, gia tăng lợi nhuận cho công ty, tạo điều kiện để nhập khẩu vật tư thiết bị, máy móc cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá là vấn đề rất quan trọng. Việt Nam có nguồn nguyên liệu và lao động rẻ, dồi dào, rất thuận lợi cho việc sản xuất hàng mây tre đan và phát triển làng nghề. Tuy nhiên, trong thời gian qua việc xuất khẩu hàng mây tre đan chưa được quan tâm đúng mức và chưa phát huy hết tiềm năng. Vì vậy, việc nghiên cứu để đẩy mạnh xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan trong giai đoạn hiện nay là vấn đề có tính chiến lược, cấp bách để góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết việc làm, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Làm rõ vai trò to lớn của việc đẩy mạnh xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan và đánh giá một cách khách quan thực trạng xuất khẩu của công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội. Từ đó đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan mỹ nghệ. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: Công tác xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan mỹ nghệ truyền thống của công ty TOCONTAP trong những năm qua. Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng kết hợp, gồm có so sánh, kết hợp, phân tích, thống kê, nghiên cứu kinh nghiệm điển hình trong đó phân tích và tổng hợp là hai phương pháp được sử dụng chủ yếu trong đề tài. Kế cấu của luận văn tốt nghiệp gồm những nội dung sau: CHƯƠNG I: Lý luận chung về xuất khẩu và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan của Việt Nam. Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan của công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội – tocon tap. CHƯƠNG III: Định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan của công ty TOCONTAP. Chương I Lý luận chung về xuất khẩu và sự cần thiết phải tăng cường xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan của việt nam I. Một số vấn đề chung về xuất khẩu. 1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu. 1.1. Khái niệm Xuất khẩu là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua mua bán, nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận. Trao đổi hàng hoá là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Xuất khẩu là một lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giầu cho đất nước. Ngày nay xuất khẩu không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán mà là sự phụ thuộc tất yếu giữa các quốc gia và phân công lao động quốc tế. Vì vậy phải coi trọng xuất khẩu như là một tiền đề, một nhân tố phát triển kinh tế trong nước trên cơ sở lựa chọn một cách tối ưu sự phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế. 1.2. Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp, có tổ chức bên trong và bên ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và nâng cao mức sống nhân dân. Do đó, xuất khẩu là hoạt động dễ đem lại kết quả đột biến hoặc rất cao hoặc gây ra thiệt hại lớn, vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động xuất khẩu sẽ đem lại nhiều lợi ích, song cũng có điểm bất lợi. Để đạt được hiệu quả cao trong hoạt động thương mại của đất nước cần phải khai thác tốt những điểm lợi và hạn chế những điểm bất lợi. Những điểm lợi của xuất khẩu trong nền kinh tế nhiều thành phần là: + Nó phát huy cao độ tính năng động, sáng tạo của mọi người, mọi đơn vị, tổ chức, mọi ngành nghề, mọi địa phương trong xã hội, bởi vì xuất khẩu được sẽ tạo ra thị trường và đầu ra cho sản phẩm, dễ thu được hiệu quả lớn. Khả năng phát hiện chính xác mặt hàng xuất khẩu có hiệu quả cao, có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó cuốn hút được nhiều cá nhân và tổ chức thực hiện, các luồng thông tin được khai thông, các mối quan hệ được sử dụng tích cực. Nó buộc các chủ thể tham gia xuất khẩu có phản ứng nhanh chóng và chuẩn xác. + Hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế nhiều thành phần tất yếu dẫn tới sự cạnh tranh, theo dõi, kiểm soát lẫn nhau rất chặt trẽ giữa các chủ thể tham gia xuất khẩu. Chính sự cạnh tranh này làm cho chất lượng của hoạt động kinh tế trong nước được nâng cao, việc đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới được thường xuyên và có ý thức. + Xuất khẩu dẫn tới việc hình thành các liên doanh, liên kết giữa các chủ thể trong nước và ngoài nước một cách tự giác, nhằm tạo ra sức mạnh phát triển cho các chủ thể một cách thiết thực. Đồng thời nó cũng xoá bỏ các chủ thể kinh doanh không hiệu quả, dần hoàn thiện các cơ chế quản lý xuất khẩu của nhà nước. + Xuất khẩu tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất với các nhà khoa học một cách thiết thực và có hiệu quả từ phía các nhà sản xuất, nó khơi thông nhiều nguồn chất xám ở cả trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên xuất khẩu cũng có những điểm bất lợi sau: + Sự tồn tại cạnh tranh tất yếu dẫn tới sự rối ren tranh chấp trong mua bán ( tranh mua, tranh bán). Nếu không có sự kiểm soát, quản lý nghiêm túc, kịp thời sẽ gây ra những thiệt hại về kinh tế trong quan hệ với các nước. Đồng thời xuất khẩu cũng dễ dẫn tới các hiện tượng tiêu cực trong xã hội như buôn lậu, trốn thuế, tha hoá cán bộ và bộ máy quản lý. + Vì tồn tại cạnh tranh sẽ dẫn tới sự thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể kinh doanh bằng mọi biện pháp phi cạnh tranh như phá hoại công việc của nhau trong kinh doanh. Vì lợi nhuận người ta sẵn sàng gạt bỏ đối thủ của mình bằng các biện pháp chính đáng và không chính đáng, trên thực tế đã không ít các trường hợp nâng giá dìm giá, chịu chi phí để nẫng hợp đồng của nhau, tung tin thất thiệt gây dối, xâm hại uy tín của nhau. + So với việc mua bán trong một thị trường nội địa thì hoạt động xuất khẩu phức tạp hơn nhiều vì phải giao dịch với người nước ngoài có ngôn ngữ tập quán khác nhau, môi trường kinh doanh và cơ chế quản lý cũng khác, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, đồng tiền thanh toán bằng ngoại tệ mạnh giao động thất thường khó tính đến sự biến động của tỷ giá. Mặt khác tỷ giá lại chịu ảnh hưởng từ các nhân tố không kiểm soát được. Hàng hoá vận chuyển qua biên giới của các quốc gia khác nhau phải tuân theo tập quán quốc tế cũng như địa phương, các hoạt động được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu, từ điều tra nghiên cứu thị trường, lựa chọn hàng hoá xuất khẩu và thương nhân giao dịch đàm phám ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng, chuyển giao quyền sở hữu cho người mua, hoàn thành các thủ tục thanh toán... Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải được nghiên cứu đầy đủ kỹ lưỡng, đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ đầy đủ, kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước. 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường. Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn, là phương pháp để phát triển kinh tế. Xuất khẩu tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Đối với những nước còn nghèo như nước ta, sự phát triển mạnh của xuất khẩu sẽ góp phần giải quyết những nhiệm vụ kinh tế - xã hội quan trọng. Vì thế Nhà nước phải luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế theo hướng xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ, cải thiên cán cân thanh toán. 2.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi phải có số vốn lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ vốn đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, tài trợ, thu hút hoạt động dịch vụ, du lịch, xuất khẩu sức lao động... Các nguồn đầu tư nước ngoài, vay nợ, việc trợ ..., tuy quan trọng nhưng cũng phải trả bằng cách này hay cách khác. Vì thế, để nhập khẩu, nguồn vốn quan trọng nhất là từ xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. 2.2. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại. Cơ cấu xuất khẩu và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi mạnh mẽ, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Việc tổ chức sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm phải xuất phát từ nhu cầu thị trường thế giới, khả năng sản xuất trong nước cùng với tác động tích cực tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi hơn. Ví dụ như sự phát triển của ngành thủ công mỹ nghệ, chế biến thực phẩm (gạo, dầu thực vật ...) có thể kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thiết bị phục vụ cho nó ... Xuất khẩu tạo ta khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, thị trường cung cấp đầu vào cho sản xuất trong nước. Hay nói cách khác, xuất khẩu là biện pháp quan trọng để tạo vốn, kỹ thuật và công nghệ thế giới vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước, tạo ra khả năng sản xuất mới. Xuất khẩu cho ta cơ hội tham gia vào thương trường thế giới. Giá cả, chất lượng, mẫu mã… là cuộc cạnh tranh đòi hỏi chúng ta phải tổ chức sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất và công nghệ thích nghi với thị trường, các doanh nghiệp phải luôn đổi mới hoàn thiện công tác quản lý sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. 2.3. Xuất khẩu tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động, tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân. Sản xuất hàng hoá xuất khẩu là lĩnh vực mang lại lợi nhuận cao, chính vì vậy có thể mang lại mức lương cao cho những người lao động làm việc trong lĩnh vực này, nâng cao mức sống cho người lao động. 2.4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt với phân công lao động quốc tế. Thông thường hoạt động xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và sản xuất hàng hoá xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng đầu tư, vận tải quốc tế ... đến lượt nó, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu. Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 3. Các hình thức xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường. Với chủ trương đa dạng hoá các loại hình xuất khẩu, hiện nay các doanh nghiệp xuất khẩu áp dụng nhiều hình thức xuất khẩu khác nhau. Dưới đây là một số loại hình xuất khẩu chủ yếu: 3.1. Xuất khẩu tự doanh. * Khái niệm Xuất khẩu tự doanh là hoạt động xuất khẩu độc lập của một doanh nghiệp, kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp trên cơ sở nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí, đảm bảo kinh doanh xuất nhập khẩu có lãi, đúng phương hướng, chính sách, luật pháp quốc gia cũng như quốc tế. * Nội dung Xuất khẩu tự doanh gồm 2 bước tiến hành. - Ký hợp đồng nội: Mua hàng và trả tiền hàng cho đơn vị sản xuất trong nước. - Ký hợp đồng ngoại: Giao hàng và thanh toán tiền hàng với bên đối tác nước ngoài. * Đặc điểm Xuất khẩu tự doanh có đặc điểm là lợi nhuận kinh doanh xuất khẩu hàng hoá thu được thường cao hơn các hình thức khác. Đơn vị ngoại thương đúng với vai trò là người bán trực tiếp, tức là đặt mua sản phẩm của các đơn vị sản xuất trong nước và bán cho đối tác nước ngoài. Như thế doanh nghiệp sẽ tự chủ trong kinh doanh, tăng được uy tín cho đơn vị trên thương trường. Tuy nhiên, nó cũng đòi hỏi đơn vị xuất khẩu phải có nguồn vốn khá lớn ứng trước để thu mua hàng, nhất là những hợp đồng có giá trị lớn. Đồng thời mức rủi ro cũng cao, đòi hỏi các cán bộ kinh doanh phải tự nghiên cứu, tự thực hiện các bước xuất khẩu sao cho tận dụng được mọi sự biến động của thị trường, mua được rẻ nhất, bán được đắt nhất và với thời gian ngắn nhất. 3.2. Xuất khẩu uỷ thác. * Khái niệm Xuất khẩu uỷ thác là hình thức đơn vị kinh doanh ngoại thương đứng ra với vai trò trung gian xuất khẩu, làm thay cho đơn vị sản xuất (bên uỷ thác có hàng) những thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng phần trăm phí uỷ thác theo giá trị hàng xuất khẩu. * Nội dung Xuất khẩu uỷ thác gồm các bước sau: + Ký hợp đồng uỷ thác xuất khẩu với đơn vị sản xuất trong nước. + Ký hợp đồng với bên nước ngoài, giao hàng và thanh toán. + Nhận phí uỷ thác từ đơn vị sản xuất trong nước. * Đặc điểm Doanh nghiệp nhận uỷ thác không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ mà chỉ đứng ra thay mặt bên uỷ thác giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký hợp đồng và làm các thủ tục xuất khẩu hàng hoá cũng như thay mặt bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường bên nước ngoài khi có tổn thất. Khi tiến hành xuất khẩu uỷ thác thì tại các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch xuất khẩu chứ không được tính doanh số, không chịu thuế doanh thu. Đây là hình thức xuất khẩu đơn giản nhất, không phải chịu rủi ro về bán hàng, không phải bỏ vốn kinh doanh. Cán bộ trong phòng nghiệp vụ chỉ tiến hành hoạt động giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng. Đây là những nghiệp vụ chuyên môn nên có thể thực hiện dễ dàng, mọi chi phí bên uỷ thác chịu và phòng kinh doanh sẽ thu được % uỷ thác. 3.3. Xuất khẩu liên doanh. * Khái niệm Là hoạt động xuất khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp), nhằm phối hợp khả năng để cùng nhau giao dịch và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động xuất khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho tất cả các bên, cùng chia lãi, cùng chịu lỗ. * Nội dung Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp phải làm hai hợp đồng: + Hợp đồng ngoại bán hàng với nước ngoài. + Hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác. * Đặc điểm So với doanh nghiệp tự doanh thì doanh nghiệp liên doanh chịu ít rủi ro hơn bởi mỗi doanh nghiệp liên doanh xuất khẩu chỉ phải đóng góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên cũng tăng theo số vốn góp. Việc phân chia chi phí, thuế doanh thu theo tỉ lệ góp vốn. Lãi và lỗ hai bên chia tuỳ theo thoả thuận, dựa trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên gánh vác. Trong xuất khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra xuất hàng sẽ được tính kim ngạch xuất khẩu và chịu thuế doanh thu trên số doanh thu của ngành. Hình thức này phát sinh khi phòng nghiệp vụ không đủ khả năng về một mặt nào đó để tự mình đứng ra xuất khẩu, đồng thời có những đơn vị kinh doanh trong nước có thể đáp ứng về khả năng ấy cũng như cùng chung ý tưởng kinh doanh . Do vậy các đơn vị này cùng với phòng nghiệp vụ liên doanh với nhau nhằm khắc phục khó khăn cho nhau, cùng tiến hành xuất khẩu hàng hoặc giao dịch. Doanh nghiệp thương mại được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp nên thường đứng ra tiến hành các bước giao dịch, ký kết hợp đồng với nước ngoài, còn phía bạn liên doanh thường đóng góp vốn, đảm bảo hàng hoá ... 3.4. Buôn bán đối lưu (hàng đổi hàng). * Khái niệm Buôn bán đối lưu là hình thức giao dịch, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi có giá trị tương đương. * Nội dung Có hai loại hình buôn bán đối lưu chủ yếu là hàng đổi hàng và trao đổi bù trừ. + Hàng đổi hàng là hình thức giao dịch, trong đó hai bên trao đổi trực tiếp những hàng hoá, dịch vụ có giá trị tương đương mà không dùng tiền làm trung gian. Ví dụ 10 tấn cà phê đổi lấy 1 chiếc ô tô. + Trao đổi bù trừ là hình thức giao dịch, trong đó xuất khẩu kết hợp với nhập khẩu ngay trong hợp đồng, có thể bù trừ trước hoặc bù trừ song song. * Đặc điểm Mục đích của hình thức này không phải thu ngoại tệ, mà thu hút một lượng hàng có giá trị xấp xỉ, không dùng tiền làm vật trung gian. Hoạt động này rất có lợi bởi cùng một hợp đồng có thể tiến hành cùng một lúc hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Do đó thu lãi cả từ hoạt động xuất hàng và nhập hàng. Hàng hoá xuất và nhập phải tương đương về giá trị, cân bằng về giá cả, nếu có sự chênh lệch sẽ được thanh toán bù trừ theo thoả thuận giữa hai bên. Doanh nghiệp XNK trực tiếp được tính cả kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu ... có doanh thu tiêu thụ hàng xuất và hàng nhập nên chịu thuế doanh thu cả hàng xuất và hàng nhập. Trong xuất khẩu đổi hàng, biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng là: + Dùng thư tín dụng đối ứng: Đây là loại L/C mà trong nội dung của nó có điều khoản quy định L/C này chỉ có hiệu lực khi người hưởng một L/C khác có kim ngạch tương đương. + Dùng người thứ ba khống chế chứng từ sở hữu hàng hoá, người thứ ba chỉ giao chứng từ đó khi người nhận đổi lại là một chứng từ sở hữu hàng hoá có giá trị tương đương. + Phạt về giao thiếu hay chậm giao. 3.5. Xuất khẩu theo nghị định thư * Khái niệm Xuất khẩu theo nghị định thư là hình thức xuất khẩu hàng hoá (thường là trả nợ) được ký theo nghị định thư giữa hai Chính Phủ. * Đặc điểm Xuất khẩu theo hình thức này có nhiều ưu điểm như khả năng thanh toán chắc chắn do Nhà nước trả cho đơn vị xuất khẩu, giá cả hàng hoá nhìn chung dễ chấp nhận 3.6. Giao dịch tái xuất. * Khái niệm Mỗi nước có định nghĩa riêng về giao dịch tái xuất. Nhiều nước Tây Âu và Mỹ la tinh quan niệm tái xuất là xuất khẩu những hàng ngoại quốc từ kho hải quan, chưa qua chế biến ở nước mình. Nghĩa là lại xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng trước đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất . * Đặc điểm Người kinh doanh tái xuất thường ký một hợp đồng nhập khẩu và một hợp đồng xuất khẩu. Hai hợp đồng này về cơ bản không khác những hợp đồng xuất nhập khẩu thông thường, song chúng có liên quan mật thiết với nhau. Chúng thường phù hợp với nhau về hàng hoá, bao bì, mã hiệu, nhiều khi cả về thời gian giao hàng và các chứng từ hàng hoá khác… Với các hình thức xuất khẩu như trên, việc áp dụng hình thức nào còn tuỳ thuộc vào bản thân doanh nghiệp xuất khẩu (khả năng tài chính, hiệu quả kinh doanh, định hướng kinh doanh) và phải đáp ứng được yêu cầu của cả hai bên sản xuất, gia công trong và ngoài nước. II. Quy trình xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp. 1. Nghiên cứu và lựa chọn thị trường xuất khẩu. 1.1. Nội dung nghiên cứu thị trường xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường thế giới nhằm tìm kiếm cơ hội thuận lợi có hiệu quả cho việc thâm nhập trong quan hệ thương mại của doanh nghiệp với nước ngoài. Nghiên cứu thị trường để tìm thị trường cho các hàng hoá, dịch vụ trong một khoảng thời gian và nguồn lực hạn chế. Nghiên cứu thị trường bao gồm ba vấn đề sau: * Nghiên cứu chính sách ngoại thương của các quốc gia. * Xác định và dự báo biến động cung cầu hàng hoá trên thị trường thế giới. * Thông tin giá cả và phân tích cơ cấu các loại giá cả quốc tế. 1.2. Phương pháp nghiên cứu thị trường xuất khẩu * Phương pháp nghiên cứu tại bàn. Đây là phương pháp phổ biến nhất vì nó ít tốn kém, phù hợp với khả năng của mọi cán bộ nghiên cứu thông qua các tài liệu như báo, tạp chí, internet ... * Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường. Phương pháp này tốn kém hơn phương pháp trên. Thông tin thu được thông qua tiếp xúc với những người kinh doanh trên thị trường bằng cách quan sát, phỏng vấn (trực tiếp hoặc qua điện thoại, qua thư)… 1.3. Lựa chọn thị trường xuất khẩu. Sau khi tiến hành các biện pháp nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp tự lựa chọn cho mình những thị trường phù hợp nhất với chiến lược kinh doanh của Công ty, theo những mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn nhất định và có chiến lược thâm nhập thị trường, đảm bảo khả năng thực hiện mục tiêu đã đặt ra là cao nhất. 2. Lựa chọn đối tác xuất khẩu. Việc lựa chọn các bạn hàng là tuân theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Thông thường khi lựa chọn bạn hàng các doanh nghiệp trước hết lưu tâm tới các mối quan hệ cũ của mình. Sau đó, những bạn hàng là các doanh nghiệp khác trong nước đã quen cũng là một căn cứ để xem xét lựa chọn. Có thể lựa chọn đối tác theo khu vực địa lý, hoặc đối tác ở các nước đang phát triển và nước phát triển. Các bạn hàng được phân theo khu vực thị trường như Châu Âu - Châu á - Châu Mỹ - Châu Phi - Châu Đại Dương. 3. Lập phương án kinh doanh xuất khẩu. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường, bạn hàng, khả năng và các nguồn vốn của doanh nghiệp, doanh nghiệp lựa chọn cho mình hàng loạt các vấn đề như: lập phương án sản xuất (đối với doanh nghiệp sản xuất) và các nguồn hàng có tiềm năng (đối với các doanh nghiệp thương mại đơn thuần).Lựa chọn các bạn hàng, lựa chọn phương thức giao dịch, lựa chọn điều kiện cơ sở giao dịch, lựa chọn phương thức thanh toán ... 3.1. Lựa chọn phương thức giao dịch. Trên thị trường thế giới có nhiều phương thức giao dịch ngoại thương. Sau đây là một số phương thức giao dịch chủ yếu, được sử dụng phổ biến nhất. * Giao dịch thông thường. Giao dịch thông thường là phương thức giao dịch mà người mua và người bán thoả thuận trực tiếp với nhau thông qua thư từ, điện tử ..., để bàn về các điều khoản sẽ ghi trong hợp đồng. Các bước tiến hành giao dịch thông thường gồm: chào hàng - hỏi giá - báo giá - hoàn giá - chấp nhận. * Giao dịch qua trung gian. Là việc người mua và người bán quy định những điều kiện trong giao dịch mua bán hàng hoá và nhờ tới sự giúp đỡ của người thứ ba để đàm phán và đi đến ký kết hợp đồng. * Buôn bán đối lưu. Là phương thức giao dịch, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng hoá trao đổi với nhau có giá trị tương đương. * Đấu giá quốc tế. Đấu giá là phương thức bán hàng đặc biệt được tổ chức công khai ở một nơi nhất định. Tại đó, sau khi xem xét trước hàng hoá, những người mua cạnh tranh với nhau trong việc trả giá và cuối cùng ai trả giá cao nhất sẽ mua được hàng hoá đó. Đấu giá quốc tế là đấu giá diễn ra giữa các quốc gia khác nhau. *,Đấu thầu quốc tế. Đây là phương thức giao dịch, trong đó người mua công bố trước điều kiện mua hàng để các người bán đưa ra giá mình muốn bán. Ngoài ra còn có một số các loại giao dịch khác như: + Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá. + Giao dịch tại hội trợ và triển lãm. Tuỳ thuộc vào lĩnh vực cụ thể mà doanh nghiệp quyết định lựa chọn từng phương thức giao dịch mua bán cho thích hợp, hoặc sử dụng kết hợp các phương thức giao dịch một cách hiệu quả nhất. 3.2. Các điều kiện cơ bản khi ký kết hợp đồng xuất khẩu. Khi ký kết hợp đồng xuất khẩu, doanh nghiệp phải tập trung vào các điều kiện cơ bản sau: * Điều kiện tên hàng. Tên hàng phải đảm bảo chính xác để các bên không hiểu nhầm. Vì vậy, người ta luôn tìm cách diễn đạt chính xác tên hàng. Thông thường người ta ghi tên thương mại của hàng hoá kèm theo tên khoa học, tên địa phương sản xuất, tên hãng sản xuất, công dụng của hàng hoá, quy cách chính hay nhãn hiệu của hàng hoá đó. * Điều kiện phẩm chất. Phẩm chất hàng hoá là tổng hợp các chỉ tiêu về tính năng, quy cách công suất, hiệu suất, thẩm mỹ ..., để phân biệt giữa hàng hoá này với hàng hoá khác. Doanh nghiệp có thể xác định phẩm chất hàng hoá dựa vào những tiêu chuẩn như: Mẫu mã, phẩm chất, quy cách, chỉ tiêu đại khái quen dùng... * Điều kiện số lượng. Có hai phương pháp xác định số lượng là xác định số lượng dứt khoát và xác định số lượng phỏng chừng. Bên cạnh đó cũng có hai phương pháp xác định trọng lượng là trọng lượng tịnh và trọng lượng cả bì. * Điều kiện bao bì hàng hoá. Bao bì của hàng hoá phải đảm bảo đúng chất lượng quy định như nguyên liệu, hình thức, kích cỡ, số lớp và cách cấu tạo mỗi lớp đó, hay đai nẹp của bao bì. Phương thức cung cấp bao bì có thể do bên bán hoặc bên mua cung cấp. * Điều kiện cơ sở giao hàng. Điều kiện cơ sở giao hàng quy định những cơ sở có tính nguyên tắc của việc giao nhận hàng hoá giữa bên bán với bên mua. Đó là sự phân chia trách nhiệm và chi phí, địa điểm di chuyển rủi ro và tổn thất hàng hoá. Theo Incoterm 2000 thì có các điều kiện cơ sở giao hàng, như giao tại xưởng (EXW), giao cho người vận tải (FCA), giao dọc mạn tàu (FAS), giao trên tàu (FOB), tiền hàng, bảo hiểm và cước phí trả tới đích (CIF) ... Trong đó, điều kiện FCA, FOB, CIF, CFR là những điều kiện cơ sở giao hàng mà Việt Nam hay dùng nhất. * Điều kiện giá cả. Trong thương mại, điều kiện giá cả là rất quan trọng, bao gồm đồng tiền tính giá, mức giá, phương pháp quy định giá, phương pháp xác định mức giá, cơ sở của giá cả và việc giảm giá. Đồng tiền tính giá. Có thể dùng đồng tiền của nước nhập khẩu hoặc của nước xuất khẩu, hoặc của nước thứ ba, nhưng phải là ngoại tệ mạnh, ít biến động, khả năng chuyển đổi cao. Mức giá. Là giá quốc tế. Phương pháp quy định giá: Có thể quy định theo giá cố định, giá quy định sau, giá co giãn hay giá di động. * Điều kiện giao hàng Là việc xác định thời gian và địa điểm giao hàng, phương thức giao hàng và việc thông báo giao hàng. * Điều kiện thanh toán tiền hàng. Thanh toán là nghĩa vụ hoàn thành của người mua, trong đó quy định rõ: Đồng tiền thanh toán, địa điểm thanh toán, thời hạn thanh toán, phương thức thanh toán. Ngoài ra còn có các điều khoản quan trọng khác như: điều kiện bảo hành, điều kiện bất khả kháng, trọng tài, khiếu nại (nếu có) ... Các điều kiện trên đây khi đưa vào hợp đồng đòi hỏi sự thoả thuận và thực hiện nghiêm túc, chính xác của các bên. 3.3. Lựa chọn phương thức thanh toán. Trong giao dịch trên thị trường thế giới có nhiều phương thức thanh toán khác nhau để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, như phương thức chuyển tiền, ghi sổ, nhờ thu hay tín dụng chứng từ… * Phương thức nhờ thu. Nhờ thu là phương thức thanh toán, trong đó người bán khi giao hàng cho người mua sẽ dùng hối phiếu để nhờ ngân hàng thu cho mình. Nhờ thu thường được sử dụng trong trường hợp hai bên xuất nhập khẩu hàng hoá quen biết nhau, là bạn hàng tin tưởng của nhau. * Tín dụng chứng từ. Là phương thức thanh toán trong đó ngân hàng theo yêu cầu của bên mua cam kết sẽ trả tiền ch._.o bên bán, hoặc một người do bên bán chỉ định xuất trình bộ chứng từ chứng minh đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao hàng trong một văn bản gọi là thư tín dụng (LC). Thư tín dụng có thể thuộc loại trả ngay hay trả chậm, huỷ ngang hay không huỷ ngang, có xác nhận hay không có xác nhận, hoặc miễn truy đòi có thể chuyển nhượng được ... 4. Đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu. 4.1. Đàm phán. Đàm phán thương mại là quá trình trao đổi ý kiến của các chủ thể trong một xung đột nhằm đi tới thống nhất cách nhận định, thống nhất quan niệm, thống nhất cách xử lý những vấn đề nảy sinh trong quan hệ buôn bán giữa hai hay nhiều bên. 4.2. Ký kết kợp đồng xuất khẩu. Ký kết hợp đồng xuất khẩu là khâu cơ bản, quan trọng nhất của quá trình đàm phán. Đàm phán gồm ba yếu tố có tính chất quyết định sau: Bối cảnh đàm phán, thời gian đàm phán và quyền lực trên bàn đàm phán. Nhà kinh doanh phải luôn ý thức được rằng bất cứ điều gì, bạn hay bạn hàng làm đều có thể trở thành những yếu tố tạo nên sự thành công của đàm phán. Vì thế nghệ thuật và kỹ thuật đàm phán là yếu tố không thể thiếu được trong hành trang của các nhà doanh nghiệp. Khi ký kết hợp đồng xuất khẩu, doanh nghiệp phải chú ý các điều kiện cơ bản sau: điều kiện tên hàng, phẩm chất, số lượng, bao bì, cơ sở giao hàng, giá cả, thanh toán tiền hàng, khiếu nại, bảo hành, trường hợp bất khả kháng, trọng tài, vận tải ... Khi các điều kiện này được đưa vào hợp đồng thì đòi hỏi sự thực hiện nghiêm túc và chính xác của các bên. 5. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Việc tổ chức thực hiện hợp đồng được thông qua các bước sau: Bước 1: Xin giấy phép xuất nhập khẩu. Giấy phép xuất khẩu là một biện pháp quan trọng để Nhà nước quản lý xuất nhập khẩu. Vì thế, sau khi ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu doanh nghiệp phải xin giấy phép xuất nhập khẩu để thực hiện hợp đồng đó. Ngày nay, trong xu thế tự do hoá mậu dịch, nhiều nước giảm bớt số mặt hàng cần phải xin giấy phép xuất nhập khẩu. Bước 2: Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu. Công việc chuẩn bị hàng xuất khẩu bao gồm ba khâu chủ yếu. Thu gom tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu, đóng gói, bao bì và kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu. Bước 3: Kiểm tra chất lượng. Trước khi giao hàng người xuất khẩu có nghĩa vụ phải kiểm tra hàng về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì… Bước 4: Thuê tàu lưu cước. Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương việc thuê tàu chở hàng được tiến hành dựa vào ba căn cứ chính sau đây: Những điều khoản của hợp đồng mua bán ngoại thương, đặc điểm hàng mua bán và điều kiện vận tải… Có hai loại hợp đồng uỷ thác thuê tàu: Hợp đồng uỷ thác thuê tàu cả năm và hợp đồng uỷ thác thuê tàu chuyến. Chủ hàng xuất nhập khẩu căn cứ vào đặc điểm vận chuyển hàng hoá để lựa chọn loại hình hợp đồng vận chuyển cho thích hợp. Bước 5: Mua bảo hiểm hàng hoá (nếu có). Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì thế bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương. Bước 6: Các điều kiện bảo hiểm đường biển (Nếu có). Đó là các điều kiện được bảo hiểm và không được bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra. Bước 7: Làm thủ tục hải quan. Hàng hoá khi đi ngang qua biên giới quốc gia để xuất khẩu hoặc nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan bao gồm ba bước chủ yếu sau đây: Khai báo hải quan, xuất trình hàng hoá và thực hiện các quyết định của hải quan. Bước 8: Giao nhận hàng hoá với chủ tàu. Giao nhận với chủ tàu được thực hiện qua hai khâu đó là giao hàng xuất khẩu và giao nhận hàng nhập khẩu. Bước 9: Làm thủ tục thanh toán. Nhà nhập khẩu có thể thanh toán cho nhà xuất khẩu bằng hai cách đó là: thanh toán bằng thư tín dụng hoặc bằng phương thức nhờ thu. Điều này đã được thoả thuận trong hợp đồng. Bước 10: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại (nếu có). Khiếu nại xảy ra khi nhà nhập khẩu phát hiện thấy hàng nhập khẩu tổn thất như đổ vỡ, mất mát, thiếu hụt… giải quyết khiếu nại có thể do hai bên tự thoả thuận, do hội đồng trọng tài hoặc do toà án. III. Các nhân tố ảnh hưởng tới thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp. Mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu giúp doanh nghiệp khẳng định vị trí của mình trên thị trường thế giới. Mỗi quốc gia không thể phát triển một cách độc lập và riêng rẽ mà phải tham gia vào quá trình phân công lao động và hợp tác quốc tế. Do đó, mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu là điều kiện để hàng hoá trong nước có cơ hội cọ sát với bên ngoài, là một trong những phương án tốt giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Việc ổn định và mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu của các doanh nghiệp thương mại là một đòi hỏi khách quan quyết định đến sự tồn tại của sản xuất trong nước và sự phát triển của doanh nghiệp thương mại. 1. Nhóm nhân tố thuộc bên trong doanh nghiệp. Nhóm nhân tố thuộc bên trong doanh nghiệp là các nhân tố trong nội tại của doanh nghiệp, nó phản ánh các tiềm năng của doanh nghiệp cũng như khả năng tận dụng được các tiềm năng đó. Việc khai thác thành công các cơ hội kinh doanh phụ thuộc rất lớn vào tiềm năng hiện có và tiềm năng có thể đạt được trong tương lai gần của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp luôn có các chính sách, nghiên cứu và phát triển tiềm năng của mình hợp lý. Tiềm năng của một doanh nghiệp phản ánh thực lực của một doanh nghiệp cũng như vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Khi có cái nhìn, đánh giá đúng đắn về tiềm năng sẽ cho phép các doanh nghiệp xây dựng các chiến lược, kế hoạch kinh doanh phù hợp. Thông thường sức mạnh của một doanh nghiệp được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu chủ yếu sau đây: 1.1. Sức mạnh về tài chính. Khi doanh nghiệp có khả năng và nguồn lực mạnh về tài chính thì doanh nghiệp sẽ có thuận lợi hơn trong việc kinh doanh. Một doanh nghiệp với quy mô lớn về vốn sẽ dễ dàng hơn trong việc thúc đẩy xuất khẩu, phát triển thị trường và có khả năng cạnh tranh lâu dài hơn. Việc đánh giá chính xác về vốn, cơ cấu vốn, khả năng huy động vốn... là một tiền đề tốt cho doanh nghiệp xác định mục tiêu, xây dựng chiến lược xuất khẩu của mình. 1.2. Trình độ và kỹ thuật của nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực có vai trò hết sức quan trọng đối với sự thành công của doanh nghiệp nói chung và công tác thúc đẩy xuất khẩu, phát triển thị trường nói riêng. Con người cung cấp thông tin để hoạch định mục tiêu, phân tích bối cảnh môi trường, lựa chọn, thực hiện và kiểm tra chiến lược xuất khẩu, thị trường của doanh nghiệp. Ngoài ra họ còn có tác động mạnh mẽ đến kết quả kinh doanh thông qua tính hiệu quả trong công việc của mình. Trình độ lao động, ý thức chấp hành kỷ luật của công ty là yếu tố cơ bản quyết định đến chất lượng, giá thành sản phẩm. Bộ máy quản lý năng động, khoa học sẽ giúp cho doanh nghiệp dễ dàng thích nghi được với mọi thay đổi của nền kinh tế, nhạy bén trong kinh doanh, nhanh chóng phán đoán được tình thế, chớp thời cơ, tạo thế vững chắc trên thị trường. 1.3. Trình độ kỹ thuật công nghệ. Trình độ kỹ thuật của doanh nghiệp được thể hiện ở công nghệ đang sử dụng, ở mức độ trang bị máy móc thiết bị và nó tác động đến loại sản phẩm của doanh nghiệp đưa ra thị trường. Phát triển thị trường của doanh nghiệp còn đồng nghĩa với việc phát triển sản phẩm. Để sản phẩm được tiêu thụ nhanh chóng, các sản phẩm luôn đổi mới, đáp ứng nhu cầu thay đổi thường xuyên của khách hàng nước ngoài. Sản phẩm và uy tín của doanh nghiệp. Vì sản phẩm là đối tượng trực tiếp tiêu dùng, được đánh giá về chất lượng, mẫu mã nên nó chính là nhân tố quyết định khiến người tiêu dùng tiêu dùng sản phẩm. Do vậy các doanh nghiệp luôn phải để tâm củng cố phần chất lượng sản phẩm để có được sự chấp nhận của khách hàng. Một sản phẩm có chất lượng cao đòi hỏi phải có mẫu mã đẹp, phù hợp. Hình thức hấp dẫn của sản phẩm sẽ tạo điều kiện và thúc đẩy tiêu dùng. Trên thị trường, uy tín của doanh nghiệp là một trong những điều kiện tiên phong giúp doanh nghiệp tồn tại. Các doanh nghiệp luôn cố gắng xây dựng, tạo nên chữ tín đối với khách hàng và bạn hàng. Với chữ tín tốt đẹp về doanh nghiệp, về sản phẩm của doanh nghiệp thì người tiêu dùng sẽ đón nhận sản phẩm và góp phần tạo nên ưu thế nhất định cho doanh nghiệp trong công tác xuất khẩu, tiêu thụ sản phẩm. Giá cả là yếu tố cạnh tranh cơ bản, sản phẩm có chất lượng cao và giá thành hợp lý sẽ đánh bại được đối thủ cạnh tranh trên thị trường nước ngoài. Với một chính sách giá cả phù hợp doanh nghiệp sẽ có được tiềm năng để duy trì và tiếp tục chiếm lĩnh thị phần thị trường mới. 2. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp đó là nhóm nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh quốc tế của sản xuất xuất khẩu, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chi phối trực tiếp đến hoạt động mở rộng thị trường của doanh nghiệp ở nước ngoài, buộc các doanh nghiệp phải tự điều chỉnh các mục đích, hình thức và chức năng hoạt động của mình cho thích ứng nhằm nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh và đạt hiệu quả trong kinh doanh. Nó bao gồm các nhân tố sau: 2.1 Các nhân tố về kinh tế. Đây là nhóm nhân tố có vai trò quan trọng bởi vì chúng tác động trực tiếp tới các yếu tố cấu thành thị trường như cung, cầu, giá cả, tiền tệ ... Mọi sự thay đổi về thu nhập, tỉ lệ lạm phát, tỉ giá hối đoái, đầu tư nước ngoài, nhịp độ phát triển của các ngành kinh tế, khoa học, đều ảnh hưởng tới doanh nghiệp và thị trường của doanh nghiệp. Mọi sự chuyển dịch dù lớn hay nhỏ đều gây nên những tác động thuận hay nghịch đến thúc đẩy xuất khẩu. Bất cứ một sự chuyển dịch lượng cung hay lượng cầu nào sẽ kéo theo sự chuyển dịch về giá cả, tạo nên sự cân bằng mới cho mọi mặt hàng. Một sự gia tăng giảm bớt cơ cấu, chủng loại, số lượng sản phẩm cải tiến, nâng cao chất lượng hay đưa sản phẩm mới, xuất hiện cơ cấu sản phẩm thay thế ...sẽ làm cho quan hệ cung cầu biến đổi dẫn đến việc đưa ra quyết định kinh doanh là rất khó khăn. 2.2. Các nhân tố thuộc về pháp luật. Hệ thống pháp luật quốc tế và quốc gia ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Luật pháp sẽ quyết định và cho phép các lĩnh vưc hoạt động và hình thức kinh doanh nào mà doanh nghiệp có thể được phép tiến hành xuất khẩu, hoặc tiến hành có hạn chế ở những quốc gia đó cũng như ở khu vực thị trường đó. Mỗi quốc gia đều có hệ thông pháp luật riêng để điều chỉnh các hoạt động kinh doanh quốc tế, nó bao gồm luật thương mại quốc tế như: luật về xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ ... Giữa các nước thường tiến hành ký các hiệp định, hiệp ước và dần hình thành khu vực và luật quốc tế. Sự xuất hiện của các liên minh kinh tế, liên minh chính trị, liên minh thuế quan ... đã xuất hiện những thoả thuận mới, đa dạng, song phương hoặc đa phương đang tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh xuất khẩu phát triển. Chính vì vậy có thể khẳng định rằng chỉ trên cơ sở nắm vững hệ thống pháp luật của từng quốc gia và các hiệp định giữa các nước mới cho phép doanh nghiệp đưa ra được những quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn quốc gia, khu vực kinh doanh hình thức kinh doanh và mặt hàng kinh doanh. 2.3. Các nhân tố về chính trị xã hội. Mỗi nền kinh tế của một quốc gia khách nhau đều mang đậm bản chất chính trị của quốc gia đó. Thông qua phân tích và xem xét thị trường của mỗi quốc gia có thể thấy được đặc điểm, bản chất và chính sách của mỗi quốc đó. Bất cứ một hoạt động xuất khẩu, đầu tư kinh tế từ nước ngoài vào đều phải bắt nguồn từ các chính sách kinh tế, chính trị xã hội. Ngược lại, các đường lối chủ trương chính sách của Nhà nước cũng ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu. Dựa vào việc ban hành các chủ trương chính sách, chính phủ của một quốc gia có thể khuyến khích sản xuất trong nước, kích thích đầu tư nước ngoài, tăng cường xuất khẩu hay có thể bảo vệ thị trường trong nước khỏi sự thâm nhập của các công ty nước ngoài ... Hướng sự phát triển của thị trường theo ý định phát triển của quốc gia. Sự ổn định về chính trị là điều kiện không thể thiếu được cho sự phát triển kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu, mở rộng thị trường. Môi trường pháp luật hoàn chỉnh sẽ có sức lôi cuốn các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh làm tăng khả năng xuất khẩu, cung ứng hàng hoá vào thị trường. Sự bất ổn định về chính trị đồng nghĩa với những rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải bất cứ khi nào do những chính sách trái ngược nhau của các chính phủ đối lập như thái độ thù địch, áp dụng những hạn ngạch hay tăng mức thuế nhập khẩu ... Việc phát triển thị trường sản phẩm bao gồm việc mở rộng danh giới giữa các thị trường ra những vùng mới, nơi mà môi trường chính trị, pháp luật không giống với những thị trường đã quen thuộc, ở những thị trường mới này, doanh nghiệp phải tuân thủ theo môi trường chính trị, pháp luật thì sản phẩm mới có chỗ đứng trên thị trường, từ đó mới có cơ hội thúc đẩy xuất khẩu. 2.4. Các nhân tố thuộc về văn hoá. Mỗi quốc gia khác nhau đều tồn tại những nền văn hoá khác nhau trong đó nổi lên là những nhân tố như phong tục tập quán, tôn giáo, lối sống, ngôn ngữ, thói quen tiêu dùng và thị hiếu của các tầng lớp dân cư, nó có ảnh hưởng sâu sắc tới quy mô cơ cấu nhu cầu thị trường, tức là nó tác động trực tiếp đến cầu từng mặt hàng và thị trường sản phẩm của doanh nghiệp, khiến cho công tác mở rộng tài chính, xuất khẩu tiêu thụ sản phẩm phải chịu sự chi phối của yếu tố này. Các nhân tố này được coi như là "một hàng rào chắn" các hoạt động giao dịch kinh doanh. Do vậy, doanh nghiệp cần phải biết rõ và hành động cho phù hợp với từng hoàn cảnh của môi trường mới. Tóm lại, để có thể thúc đẩy xuất khẩu phát triển được trong điều kiện hiện nay, một doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cần phải hiểu biết và nắm chắc về thị trường, mở rộng thị trường cũng như tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến nó để có thể chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình. IV. sự cần thiết phải tăng cường xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan của Việt Nam. 1. Nhu cầu về hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và nhóm hàng mây tre đan nói riêng trên thế giới là rất lớn. Nhu cầu về hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và hàng mây tre đan nói riêng trên thế giới ngày càng tăng. Trên thực tế đã chỉ rõ. Khi đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao, thì nhu cầu về mặt hàng này càng tăng cả về số lượng, mẫu mã, đề tài... Hiện nay ở các nước công nghiệp, nhất là các nước đã phát triển ở trình độ cao, mọi mặt vật chất của đời sống khá đầy đủ, hàng ngày người dân chủ yếu dùng đồ công nghiệp sản xuất hàng loạt, chế biến qua công nghệ hiện đại, tính chất hương vị tự nhiên không còn nên rất nhiều người muốn quay lại sử dụng, thưởng thức những sản phẩm mang tính truyền thống, độc đáo, dân dã, gần gũi với thiên nhiên và thường được sản xuất mang tính thủ công. ở các nước công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Mỹ, Đức, Pháp, Anh, Italia, và nhiều nước công nghiệp khác, người dân đang chuyển dần việc tiêu thụ những mặt hàng bằng nguyên liệu kim loại, tổng hợp, hoá chất, nhựa sang những mặt hàng có nguồn gốc nguyên liệu tự nhiên. Từ những đồ dùng thiết yếu trong gia đình, như giường, tủ, bàn, ghế, giá sách đến đồ chơi, dụng cụ tư trang, đồ bếp hay nhiều mặt hàng khác, người ta vẫn thích dùng hàng mây tre đan - thủ công mỹ nghệ. Thực tế hiện nay, cơ cấu đồ dùng trong gia đình, trong siêu thị các nước phát triển đang thay đổi rất nhanh chóng theo xu hướng: Hàng hoá có hàm lượng công nghiệp cao, kết hợp hàng hoá bình dân, thủ công, độc đáo, có tính mỹ thuật cao. Tại các khu vực này đang xuất hiện ngày càng nhiều các nhà kinh doanh lớn, nhỏ, những trung tâm giao dịch chuyên ngành hàng hoá, những trung tâm tạo mẫu, hàng ngàn hội chợ, triển lãm được tổ chức theo chuyên đề: Quà tặng, mỹ nghệ, đồ Noel, đồ trong nhà, đồ ngoài vườn... với các phương thức bán hàng phong phú, đa dạng và thường xuyên được thay đổi, từ việc bán hàng qua các cửa hàng, cửa hiệu, siêu thị, rồi đến bán hàng qua thư, theo địa chỉ, bán qua mạng... Nguồn cung cấp chủ yếu cho các khu vực thị trường này là các nước Châu á, đặc biệt là Trung Quốc, hàng năm kim ngạch đạt gần 10 tỷ USD. Hơn nữa ở các nước công nghiệp nguồn lao động thiếu, chi phí lao động rất cao, hầu hết lao động tập trung trong các ngành công nghiệp chủ yếu, tiên tiến, hiện đại nên rất ít hoặc không có lao động làm việc trong các nghề thủ công. Vì vậy hầu hết các sản phẩm mây tre đan - thủ công mỹ nghệ phải nhập khẩu từ các nước đang phát triển, các nước nghèo. Đó là lợi thế để các nước sản xuất mặt hàng thủ công mỹ nghệ, trong đó có Việt Nam, có điều kiện xuất khẩu mặt hàng này sang các nước phát triển ở Châu âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản... Hàng mây tre đan - thủ công mỹ nghệ vừa có tính chất sử dụng hàng ngày trong cuộc sống, vừa mang tính chất thưởng thức văn hoá nghệ thuật. Do mang hai đặc điểm đó, hàng mây tre rất thông dụng với mọi đối tượng, mọi tầng lớp trong xã hội, cũng như với mọi dân tộc, mọi quốc gia. Mỗi người tuỳ theo công việc, tuỳ theo mức sống, tuỳ theo điều kiện sinh hoạt và tuỳ theo phong tục tập quán có thể có nhu cầu sử dụng hàng mây tre dưới những góc độ khác nhau, với mục đích khác nhau. Xét theo các ý nghĩa đó, nhu cầu mây tre đan - hàng thủ công mỹ nghệ sẽ không giảm đi, mà ngày càng tăng lên nhanh chóng theo sự phát triển của cuộc sống con người, theo sự phát triển của thương mại, của giao lưu văn hoá, du lịch ... Vì vậy, mặt hàng mây tre chắc chắn sẽ ngày càng ổn định trên thị trường thế giới, sẽ đem lại hiệu quả về nhiều mặt, đặc biệt là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Nắm bắt được những xu thế đó, để có phương hướng phát triển một cách toàn diện, đồng bộ và hợp lý mặt hàng mây tre đan trước mắt và lâu dài đối với sản xuất cũng như xuất khẩu là vấn đề hết sức quan trọng và cấp bách. Dự báo nhu cầu hàng mây tre đan - thủ công mỹ nghệ trên thị trường thế giới và trong nước ngày càng tăng theo mức sống của dân cư và sự phát triển của quan hệ kinh tế, thương mại, du lịch giao lưu văn hoá giữa các nước từ đó xác định vai trò, vị trí, triển vọng của ngành hàng, coi đó là một thuận lợi cơ bản cho phát triển và lưu thông buôn bán. Tuy nhiên, phát hiện, nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của từng thị trường trong từng thời kỳ đối với những chủng loại sản phẩm và nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu thị hiếu đó lại là một vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải nhạy bén, tốn kém nhiều công sức và chi phí, nhất là lúc khởi đầu trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu. Hiện nay, ở thị trường nước ngoài, chúng ta đang phải đương đầu với một số đối thủ cạnh tranh có nhiều tiềm năng, thế mạnh, kinh nghiệm, trước hết phải kể đến Trung Quốc, Philippin, Inđônêsia, Thái Lan... để thắng cạnh tranh có nhiều việc phải làm, nhưng điều cơ bản là phải tìm hiểu, nghiên cứu sâu, thậm chí phải học hỏi kinh nghiệp, thủ pháp kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh và các giải pháp, chính sách có liên quan của từng nước, đồng thời có chất liệu và kỹ thuật của riêng ta, phải sáng tạo ra những mẫu mã, kiểu dáng, đề tài hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị hiếu của từng thị trường, đảm bảo sản xuất của ta có sức cạnh tranh. Ngay tại thị trường có thế mạnh như đã nói trên, vừa qua các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của ta được sản xuất tại Bắc Ninh xuất khẩu khá nhiều sang Trung Quốc và Thái Lan. Hàng mây tre đan - thủ công mỹ nghệ của ta tuy hiện nay đã có mặt tại hơn 30 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, nhưng ta chưa xuất khẩu được nhiều vào những thị trường có nhu cầu và dung lượng lớn. Khả năng mở rộng thêm thị trường mới và tranh thủ mọi cơ hội để khai thác thêm những thị trường có nhu cầu lớn và thường xuyên là hiện thực, ta cần phải phấn đấu trong những năm tới. 2. Việt Nam có nhiều lợi thế trong sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và nhóm hàng mây tre đan nói riêng. 2.1. Việt Nam có nguồn lao động và tài nguyên rẻ, dồi dào, có thể phát triển nhiều ngành nghề thủ công mỹ nghệ. + Về lao động. Hiện nay số lao động chủ yếu tập trung ở nông thôn trong đó có hơn 10 triệu lao động đang làm việc trong các ngành phi nông nghiệp, chiếm 29,5% lực lượng lao động nông thôn. trong số lao động lành nghề có tới 89,8% hoạt động trong các hộ, 10,2% thuộc các cơ sở. Trong số lao động lành nghề nông thôn có 17,9% số lao động thuộc nhóm nghề chế biến nông, lâm, thuỷ sản, 40,76% thuộc nhóm nghề tiểu thủ công nghiệp, xây dựng và 41,34% thuộc nhóm dịch vụ. Tuy hiện nay còn hạn chế về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật và kiến thức về thị trường, nhưng lực lượng lao động nông thôn có những mặt mạnh cơ bản, đó là, cơ cấu lao động trẻ chiếm đa số, trình độ văn hoá khá cao, cần cù, tiếp thu kỹ thuật nhanh và có tinh thần cộng đồng, ở nhiều nơi, vẫn còn số lượng thợ thủ công khá cao, đặc biệt có những nghệ nhân có tay nghề rất tinh xảo. Một số lao động ở thành phố, thị xã có kiến thức, có điều kiện để thiết kế những đề tài, mẫu mã phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng cũng đang cần việc làm. Mở rộng sản xuất, xuất khẩu mây tre đan - thủ công mỹ nghệ sẽ thu hút được nhiều người lao động, đặc biệt là lao động nông nhàn, tạo việc làm và thu nhập, duy trì và phát triển được những ngành nghề truyền thống, góp phần xóa đói, giảm nghèo và giải quyết nhiều vấn đề xã hội. + Về nguyên liệu. Mây tre đan được sản xuất chủ yếu bằng nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước. ở nước ta, hầu như địa phương nào cũng có nguồn nguyên liệu để sản xuất hàng mây tre đan - thủ công mỹ nghệ. Các cơ sở sản xuất thường được bố trí ở những nơi gần nguồn nguyên liệu nên chi phí vận chuyển nói chung không lớn. Nhu cầu nguyên liệu, phụ liệu nhập khẩu để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ chiếm tỷ lệ rất nhỏ, thường chỉ khoảng từ 3% - 5%, đây là thuận lợi lớn để hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam trên thị trường thế giới. 2.2. Chi phí sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ không lớn, do vậy có điều kiện đầu tư phát triển khắp nơi. Hiện nay sản xuất hàng mây tre đan chủ yếu được thực hiện trong từng hộ gia đình, cho nên sử dụng được những diện tích ở làm nơi sản xuất. Vì vậy, chi phí để xây dựng nhà xưởng không nhiều. Hầu hết các ngành nghề thủ công nông thôn sử dụng các loại công cụ thủ công truyền thống hoặc cải tiến một phần, hoặc trang bị một số máy móc, thiết bị mới, hiện đại, nhưng số này chưa nhiều, không phải mặt hàng nào cũng cần những loại máy móc, thiết bị đắt tiền. Từng hộ gia đình có thể bỏ ra vài triệu, nhiều là vài chục triệu là có thể có máy móc để sử dụng. Tất nhiên, cũng có những cơ sở sản xuất thủ công mỹ nghệ vốn cố định có thể lên tới vài trăm triệu, thậm chí hàng tỷ đồng, nhưng số này không nhiều. Do vậy, có thể phát triển và thực tế hiện nay cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đang có nhiều trong cả nước. 3. Vai trò to lớn và quan trọng của hoạt động xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan của Việt Nam. 3.1. Xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đến nay, Việt Nam vẫn đang đứng trong danh sách các nước nghèo, có thu nhập thấp. Vì vậy, muốn tăng GDP / đầu người để theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới thì phải huy động nhiều nguồn lực, tận dụng mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước, trong đó, đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ cũng là một hướng đi đúng đắn, là biện pháp quan trọng để phát huy nội lực, góp phần tạo ra tiền đề vật chất quan trọng để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Ngoại tệ thu được do xuất khẩu mặt hàng này được kết tinh từ nguồn nguyên liệu rẻ tiền, từ nền văn hoá, từ bàn tay lao động sáng tạo, từ hoạt động sản xuất kinh doanh mà có, nên có giá trị lớn cho xã hội, là nguồn ngoại tệ “Thực thu” về cho đất nước. Trong khi đó, đầu tư cho mặt hàng này không nhiều, sự tác động bằng chính sách vĩ mô và hỗ trợ tài chính không lớn cũng có thể tạo sức bật cho sự tăng trưởng nhanh. Theo số liệu thống kê, những năm cuối thập kỷ 80, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã chiếm từ 20 - 40% thậm chí có năm lên gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt khoảng 235 triệu USD tương đương với kim ngạch xuất khẩu 1,5 triệu tấn gạo. Năm 2001 xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trị giá 330 triệu USD cao hơn kim ngạch của ngành rau quả, gần bằng một nửa kim ngạch xuất khẩu gạo. Đó là chưa kể mặt hàng này được tiêu dùng trên thị trường nội địa. Theo báo cáo của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, thu nhập bình quân của một lao động ở cơ sở chuyên ngành nghề hiện nay là 430.000đ/người/tháng, ở hộ chuyên ngành là 230.000/người/tháng. Thu nhập từ các hoạt động ngành nghề mây tre đan - thủ công mỹ nghệ ngày càng tăng giữ vai trò chủ yếu trong thu nhập của hộ gia đình, ở các làng nghề không còn hộ đói, hộ nghèo giảm nhiều, hộ giầu ngày càng tăng. Bộ mặt nông thôn thay đổi nhanh. Điều này thấy rõ ở những nơi có làng nghề sản xuất thủ công mỹ nghệ, những làng nghề truyền thống vẫn được giữ gìn và phát triển đến ngày nay. Các làng nghề đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Tại các làng nghề, giá trị sản lượng tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thường chiếm từ 60% -70% thu nhập của địa phương, có nhiều làng nghề ở Hà Tây, Bắc Ninh, Hà Nội, Thái Bình, Nam Định, Bình Định, Khánh Hoà, Bến Tre, Bình Dương, Long An... tỷ lệ này còn cao hơn nữa. Riêng một số tỉnh trọng điểm ở phía bắc với 83 làng nghề. Riêng Hà Nội đã tạo ra một khối lượng hàng trị giá hơn 40 triệu USD, Bắc Ninh 15 triệu USD, Nam Định hơn 10 triệu USD năm 2001... đưa hoạt động xuất khẩu thủ công mỹ nghệ là một trong mười ngành hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta. 3.2. Xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan mang lại hiệu quả xã hội lớn. 3.2.1. Tạo công ăn việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn. Thực tế cho thấy, thủ công mỹ nghệ là một trong những ngành sản xuất thu hút nhiều lao động nhất. Theo tính toán của các nhà chuyên môn nếu xuất khẩu được 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ, thì sẽ thu hút được 3000 - 4000 lao động chuyên nghiệp, nếu lao động kiêm thì con số này sẽ tăng gấp 2 -3 lần. Năm 2000 cả nước xuất khẩu được 235 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ, trong đó 35% của nhóm hàng mây tre đan. Như vậy số lao động thu hút vào đây khoảng 10 triệu người với mức thu nhập bình quân từ 200.000 - 500.000đ /người/tháng và các năm sau còn tăng hơn nữa. Đó là chưa kể số lao động sản xuất cho nhu cầu nội địa. Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay khi tình trạng thiếu việc làm đang trở thành một vấn đề bức xúc, thì việc thu hút số lượng lao động này có một ý nghĩa lớn về mặt xã hội. Hơn thế nữa, giải quyết được việc làm sẽ giảm được các mặt tiêu cực trong xã hội. Thực tế cho thấy ở đâu có ngành nghề thủ công phát triển thì ở đó tiêu cực giảm nhiều và các phong trào quần chúng phát triển rầm rộ. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế đất nước, hàng thủ công mỹ nghệ và làng nghề có tác dụng rất to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Sự phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề truyền thống làm hình thành loại hình sản xuất có tính công nghiệp ngay tại địa bàn nông thôn bên cạnh hoạt động nông nghiệp. Bởi vì, để hoạt động của các làng nghề có hiệu quả, bắt buộc làng nghề phải áp dụng việc tổ chức sản xuất có tính khoa học, dựa trên sự phân công lao động phù hợp với từng loại hình nghề nghiệp. Sự phân công hợp tác có thể là đơn giản (như nghề mây tre đan, thêu, ren...), có thể là phức tạp, như trạm, trổ, gỗ mỹ nghệ... từng bước được trang bị những loại máy móc, thiết bị hiện đại, thay cho một phần lao động thủ công. Công nghệ hiện đại trên địa bàn nông thôn làm cho nông thôn phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phù hợp với mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta và phù hợp các quy luật của tiến trình công nghiệp hoá. Các hộ chuyên ngành nghề và các hộ kiêm trước hết giải quyết được việc làm cho các thành viên trong gia đình và có thể sử dụng lao động bên ngoài để làm nghề, hoặc làm công việc nông nghiệp. Đối với từng cơ sở ngành nghề ( doanh nghiệp tư nhân, tổ hợp, công ty trách nhiệm hữu hạn) đã tạo được việc làm thường xuyên cho hàng chục, thậm chí hàng trăm lao động địa phương và nơi khác đến. Tại các vùng có làng nghề, vấn đề di dân được giải quyết, tránh tình trạng di cư từ vùng nông thôn vào thành phố, thị xã lúc nông nhàn. Các ngành nghề, làng nghề còn tạo ra được việc làm cho đội ngũ lao động làm dịch vụ đầu vào, đầu ra như khai thác, vận chuyển, cung ứng nguyên liệu vật tư, lưu thông, tiêu thụ sản phẩm. 3.2.2. Xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan làm thay đổi bộ mặt nông thôn, giảm sự chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị. Sự phát triển của làng nghề đã tạo điều kiện thúc đẩy sự thay đổi bộ mặt nông thôn. Từ hoạt động kinh doanh của làng nghề, tạo nên nhu cầu giao lưu, đòi hỏi làng nghề phải có bộ mặt mới, văn minh và hiện đại để thu hút khách hàng. Đường làng, ngõ xóm, nhà cửa khang trang, quang cảnh làng quê nhộn nhịp, tạo nên khái niệm mô hình phố làng, xoá dần ranh giới nông thôn,thành thị. Những mặt hàng tiêu dùng như : xe máy, ti vi, tủ lạnh, video.. cùng các tiện nghi đắt tiền khác rất phổ biến ở làng. Do thu nhập cao, các làng nghề đã trở thành nơi tiêu thụ nhiều loại sản phẩm hàng hoá tiêu dùng và xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường nông thôn. 3.2.3 Xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan góp phần bảo tồn và phát triển văn hoá truyền thống. Làng nghề, đặc biệt là làng nghề truyền thống đã góp phần tạo dựng nên những nét văn hoá đặc trưng của làng. Những đình làng, những ngày giỗ tổ, những lễ hội truyền thống... đã tạo nên niềm tự hào cho mỗi người làng nghề, để đi bất kỳ nơi đâu họ vẫn luôn nhớ về quê hương, làng xóm. Bên cạnh đó, làng nghề đã giải quyết được một vấn đề nan giải hiện nay, đó là thất nghiệp. Thói đời “Nhàn cư vi bất thiện”, có nghề làm, có thu nhập, sẽ hạn chế nhiều tiêu cực, nhiều tệ nạn xã hội, góp phần lành mạnh hoá cuộc sống nông thôn, đặc biệt trong tầng lớp thanh thiếu niên, hướng họ vào sự nghiệp chung, có ích, cùng nhau chung sức, chung lòng giữ gìn xây dựng và phát triển làng nghề. Người dân nông thôn vốn chỉ đơn thuần làm nghề nông nghiệp, chủ yếu quanh quẩn trong luỹ tre làng, ít có điều kiện giao lưu, tiếp cận với bên ngoài. Làng nghề ra đời và phát triển khiến cho cái nhìn của người nông thôn xa hơn, tinh tế hơn. Để có thể duy trì cho làng nghề của mình tồn tại và phát triển, buộc người làng nghề phải bươn trải ra b._.dân Mỹ cao, khả năng chi trả tốt. Nhưng thị trường này có đặc điểm yêu cầu không khắt khe như Châu Âu. Người Mỹ tiêu dùng hàng mây tre ở mọi cấp chất lượng, từ cao đến trung bình, thậm chí là hàng rẻ tiền, điều đó nó sẽ rất thuận lợi cho Công ty thâm nhập vào thị trường này. Tuy nhiên hiện nay mức XK của Công ty vào thị trường Mỹ chưa nhiều, một mặt là do mây tre đan không phải là hàng hoá nằm trong nhóm hàng trao đổi chính thức của Mỹ, không phải là hàng thiết yếu nên không được NK dễ dàng, làm hạn chế khả năng XK của Công ty. Khi XK sang thị trường Mỹ, hàng hoá của Công ty phải cạnh tranh với nhiều nhà XK sừng sỏ, được Mỹ ưu tiên hơn Việt Nam như :Đài Loan, Malaixia, Indonexia...các nước này rất thành công trên thị trường Mỹ. Trước mắt, công ty duy trì và tận dụng triệt để mối quan hệ đã có, từng bước tìm hiểu nhu cầu thị trường, cải tiến phương thức kinh doanh, gây sự chú ý để lôi kéo khách hàng về công ty bằng các biện pháp cạnh tranh. + Ngoài các thị trường triển vọng trên còn có các thị trường khác mà Công ty phải lưu ý đến khi có đủ điều kiện như :thị trường Châu úc , Châu Phi. + Như vậy để mở rộng XK sang thị trường trên Công ty sẽ có nhiều việc cần làm cụ thể là: áp dụng tích cực các biện pháp để duy trì và bảo vệ khu vực thị trường truyền thống, đặc biệt là các khách hàng lớn. Nghiên cứu để hình thành các thoả ước chung với khách hàng thường xuyên trên cơ sở đảm bảo sự có lợi cho 2 bên Xây dựng mối quan hệ tốt với các cơ quan chuyên ngành có chức năng, các văn phòng đại diện ở nước ngoài, ở Việt Nam để tìm kiếm khách hàng, tạo dựng các mối quan hệ bằng cách có thể gửi thư , điện, thiệp chúc mừng trong các dịp đặc biệt, gửi hàng mẫu là quà biếu, quà tặng. Cử cán bộ trực tiếp ra nước ngoài tìm hiểu thị trường, nghiên cứu, tìm hiểu tình hình cung cầu và sự biến động của nó với các yếu tố ảnh hưởng, liên quan đến thị trương đó. Khuyến khích mọi người trong công ty phát huy tính năng động, nhanh nhậy trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường, phải có sự đãi ngộ xứng đáng cho cán bộ làm việc tích cực và có hiệu quả trong công tác này. Trong sự nỗ lực đó thì công ty cần phải tạo vốn cho hoạt động duy trì và phát triển thị trường XK. Tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Đối với công ty, vốn đang là vấn đề nan giải, việc huy động vốn cho sản xuất kinh doanh là rất khó khăn, thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phát triển, thiếu vốn sẽ bỏ lỡ các cơ hội ký kết và thực hiện hợp đồng XK. Trong cơ chế mới ngày nay, công ty không thể trông chờ vào sự cấp phát và bao cấp vốn của Nhà nước, không còn cách nào khác quan trọng hơn là việc sử dụng vốn thật có hiệu quả. Đối với TOCONTAP do không tự sản xuất mặt hàng mây tre đan nên không áp dụng được nhiều hình thức nhận vốn từ liên doanh hay liên kết sản xuất. Hình thức vay lãi chỉ có thể là phương pháp tạo vốn tốt trong trường hợp các biện pháp hoàn thiện marketing- Mix thành công với yêu cầu của thị trường trước thời hạn vay nợ. Trong thời gian qua Công ty đã thực hiện tốt phương châm “lấy nhập bù xuất, lấy xuất bù nhập” lợi nhuận từ hoạt động NK luôn đạt tỷ suất cao, tỷ trọng lớn, hàng năm khoản lợi nhuận này được trích ra một phần dùng vào việc nghiên cứu thị rường, thực hiện chiến lược Marketing hỗn hợp nhằm đẩy mạnh tốc độ XK mây tre đan, mở rộng thị trường. Ngoài các biện pháp tạo vốn trên Công ty đã và đang khai thác được một nguồn vốn khác có giá trị từ việc cho thuê cửa hàng. Công ty cần có biện pháp hữu hiệu để cho mọi cá nhân trong công ty thực hiện nguyên tắc quay vòng vốn nhanh nhất, thu hồi vốn nhanh, tránh sự tồn đọng nguồn vốn hoặc ứ đọng công nợ. Từ tất cả các nguồn vốn được huy động đều có tác dụng lớn đối với việc duy trì, mở rộng thị trường XK, vấn đề đặt ra ở đây là sử dụng vốn như thế nào để có hiệu quả nhất...Làm được như vậy, một mặt củng cố và khôi phục được thị trường truyền thống, mặt khác sẽ mở rộng được thị trường mới, thị trường tiềm năng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sản phẩm của công ty sẽ có chất lượng tốt hơn, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, cũng bằng các biện pháp này công ty có thể nâng cao uy tín của mình trên thương trường, quảng bá được thương hiệu, giới thiệu được doanh nghiệp và sản phẩm, tạo thế và lực cho công ty phát triển đi lên từ chính nhu cầu thị trường. 5. Hoàn thiện chính sách phân phối. Chính sách phân phối có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động Marketing. Một chính sách phân phối hợp lý sẽ làm cho quá trình kinh doanh an toàn, tăng cường được khả năng liên kết trong kinh doanh, làm cho quá trình lưu thông nhanh, liên tục và hiệu quả. Vì vậy chính sách phân phối hợp lý luôn là mục tiêu của các nhà kinh doanh. Hoạt động XK của Công ty hầu hết phải qua trung gian nước ngoài do đó tính ổn định trong kinh doanh chưa cao, không có điều kiện tốt phát triển thị trường và hiểu biết, tiếp cận thị trường sâu hơn. Do không đưa được sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng, không nghe được sự phản ánh của khách hàng, không bám sát giá nên lợi nhuận của Công ty chỉ là một phần nhỏ. Bởi vậy, Công ty nên thành lập chi nhánh ở thị trường nước ngoài quan trọng như : thị trường Châu á, Tây Âu, Đông Âu. Còn những thị trường ở xa hơn, khó khăn như Châu Mỹ La tinh, Công ty có thể hợp tác với các công ty XK khác, có cùng mặt hàng ở trong nước, hợp tác thành lập chi nhánh bán hàng mây tre đan chung của Việt Nam tại thị trường nước ngoài. Liên kết này rất quan trọng và cần thiết, tập trung được sức mạnh của nhiều Công ty phục vụ cho mục đích hàng đầu là nâng cao vị thế của hàng mây tre đan Việt Nam trên thị trường thế giới, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi sản phẩm Việt Nam chưa có chỗ đứng trên thị trường nước ngoài. Đối với các cơ sở sản xuất trong nước Công ty phải tỏ rõ sự nổi trội của mình về hiểu biết thị trường, về khả năng bán sản phẩm trong các mối quan hệ giao dịch, buôn bán với bạn hàng nước ngoài, tỏ rõ vai trò của Công ty là không thể thiếu được trong tiêu thụ sản phẩm. Đối với thị trường mới, Công ty chưa thâm nhập được, thì biện pháp là cần tìm kiếm một đại lý trung gian hay một thương gia ở thị trường NK để cùng kết hợp đưa sản phẩm của Công ty tới các điểm bán lẻ. Trung gian phải là công ty có uy tín, có kết quả kinh doanh tốt. Trong chính sách phân phối, Công ty TOCONTAP thích hợp với việc chọn kênh phân phối theo chiều dọc, Công ty có thể lựa chọn các vị thế khác nhau theo điều kiện cụ thể để XK và tuỳ theo thị trường, có thể thông qua trung gian nước ngoài đối với một số thị trường như Châu Mỹ La Tinh, hoặc bán hàng trực tiếp không cần trung gian ở thị trường Đông Âu, Tây Âu, Châu á. Các cơ sở sản xuất Công ty TOCONTAP Đại diện ở nước ngoài Người tiêu dùng cuối cùng Hình 11: Kênh phân phối lựa chọn của công ty TOCONTAP 6. Đa dạng hoá các biện pháp hỗ trợ và xúc tiến bán hàng. Một vấn đề mà các Công ty Việt Nam thường vấp phải khi XK hàng hoá ra thị trương nước ngoài là sự khác biệt về trình độ tổ chức hoạt động hỗ trợ và xúc tiến bán hàng giữa ta và công ty nước ngoài cùng tham gia trên một thị trường. Các công ty Việt Nam hiện chưa chú ý đến các hoạt động quảng cáo chào hàng, giới thiệu sản phẩm, khuyếch trương, kích thích cầu...hoặc nếu có mới ở mức độ sơ khai, kém hiệu quả. Việc sử dụng các công cụ hỗ trợ, xúc tiến bán hàng của Công ty còn mang tính thụ động, bột phát theo phong trào, chưa hình thành lên chương trình với những mục tiêu cụ thể. Chính vì vậy trong thới gian tới Công ty nên nghiên cứu lựa chọn và sử dụng tốt các công cụ chính sách Marketing vào hoạt động XK để mau chóng thích ứng với những đòi hỏi khắt khe của thị trường. Muốn vậy, Công ty phải xác định rõ nội dung của từng công cụ, mục đích của việc áp dụng công cụ đó, lựa chọn công cụ phù hợp rồi sau đó sắp xếp thành hệ thống với trình tự áp dụng có tính logic. Về quảng cáo Quảng cáo là công cụ kinh doanh của cạnh tranh. Song hiện nay Công ty chưa chú trọng đến các thông tin quảng cáo, thực tế hoạt động quảng cáo của Công ty còn rời rạc, thiếu tập trung và không theo kế hoạch cụ thể. Quảng cáo chưa mang lại kết quả mong muốn. Việc lựa chọn và sử dụng mục tiêu, phương diện và cách thức quảng cáo của Công ty phải thực sự hấp dẫn, lôi cuốn, lượng thông tin cao, chân thực nhưng mang tính pháp lý. Khi tham gia hội trợ triển lãm, Công ty có thể chọn hình thức quảng cáo bằng áp phích, kết hợp với biểu tượng, vừa phong phú và sinh động. Việc quảng cáo phải được tiến hành định kỳ. Đối với sản phẩm là đồ đạc, nội thất, Công ty có thể sử dụng báo chí để quảng cáo gây tác động trực tiếp đến người tiêu dùng. Ngoài ra cần tăng cường xây dựng các mối quan hệ với quần chúng, xúc tiến bán hàng bằng cách tổ chức hôi nghị, hội thảo khách hàng, không chỉ dừng lại ở hình thức quà tặng như hiện nay. Tổ chức tốt các hoạt động yểm trợ bán hàng. Yểm trợ bán hàng là một hoạt động quan trọng của Marketing. Hoạt động này được thông qua sử dụng hoạt động của các hiệp hội kinh doanh, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, hội trợ triển lãm để lôi kéo khách hàng về cho DN. Hiện nay Công ty cũng đang tích cực tham gia hội trợ triển lãm ở địa phương, quốc gia và quốc tế. Như hội trợ EXPO 2000, 2001, 2002, giới thiệu sản phẩm mà Công ty đang XK, qua đó cũng bán được một số lượng hàng lớn thông qua hình thức bán trực tiếp hoặc ký hợp đồng. Hội trợ là hình thức yểm trợ bán hàng không cần tiến hành thường xuyên nhưng rất có hiệu quả, là dịp để Công ty tăng cường quan hệ giao tiếp và nắm bắt, nhận biết chính xác nhu cầu của thị truờng , ưu nhược điểm của mặt hàng Công ty xuất khẩu . Tất cả các hoạt động trên , phải được Công ty tổ chức chu đáo để đạt kết quả tốt. Việc hoàn thiện 4 chính sách thị trường: sản phẩm , giá cả, phân phối , khuyếch trương đòi hỏi Công ty phải đầu tư thời gian và tiền của không nhỏ. 7. áp dụng chiến lược nhân sự phù hợp. Con người là chủ thể của hoạt đông kinh tế. Tất cả mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều phục vụ cho mục đích của con người và cũng do con người thực hiện. Chính vì vậy trong bất kỳ một chiến lược phát triển của Công ty cũng không thể thiếu chiến lược nhân sự. Hiện nay đội ngũ CBCNV Công ty TOCONTAP khá đồng đều về tuổi tác cũng như trình độ nghiệp vụ. Cán bộ trẻ mới ra trường được làm xen kẽ với cán bộ già nhiều kinh nghiệm, công tác khá lâu trong công ty, để lớp trẻ có điều kiện học hỏi , nâng cao hiểu biết thực tế về nghiệp vụ ngoại thương. Nhiệm vụ quan trọng của công ty là lên kế hoạch đào tạo cán bộ làm công tác Maketing. Công ty nên trọn cán bộ trẻ, năng động sáng tạo, có những khả năng thích hợp với maketing để đào tạo và cử đi học, đồng thời tạo điều kiện để họ có thể áp dụng ngay những kiến thức đã học vào thực tế . Bên cạnh đó, công ty phải tạo sự đoàn kết nhất trí trong CBCNV, nên giải quyết các thắc mắc, mâu thuẫn làm họ toàn tâm toàn lực cho công việc chung đạt kết quả tốt nhất . Khuyến khích mỗi cán bộ nghiên cứu kinh doanh riêng, có chế độ thưởng thích hợp cho những ai có ý kiến đóng góp hiệu quả. Đưa mục tiêu chung của công ty vào mục tiêu riêng của cá nhân để nâng cao ý thức trách nhiệm cho cán bộ trong công ty. B/ Một số kiến nghị đối với Nhà Nước. + Nhà Nước cần đẩy mạnh hơn nữa công tác cổ phần hoá doanh nghiệp. Để khắc phục được những mặt trái của cơ chế quản lý cũ vẫn đang tồn tại trong các doanh nghiệp nhà nước, đã và đang gây ra những tác động tiêu cực đối với tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cản trở sự phát triển của nền kinh tế cả về chất và lượng. Do đó nhà nước cần phải có biện pháp phân loại doanh nghiệp theo ngành nghề, theo lĩnh vực kinh doanh. Những lĩnh vực kinh doanh xét thấy không cần thiết phải do nhà nước nắm giữ cần có biện pháp tư nhân hoá. Đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực kinh doanh trên có thể sớm cổ phần hoá, một mặt nó phù hợp với xu hướng tự do hoá thương mại, thúc đẩy nền kinh tế phát triển do năng lực cạnh tranh được nâng cao. Mặt khác, cổ phần hoá là một biện pháp huy động vốn tốt nhất cho các doanh nghiệp, tăng thêm trách nhiệm cho mỗi CBCNV, biện pháp này công ty cần sớm đề nghị Nhà Nước có kế hoạch cổ phần hoá toàn doanh nghiệp. Ngoài những chính sách ưu tiên về XK nói chung, Nhà nước cần có chính sách ưu tiên đối với hoạt động XK một số mặt hàng có những nét đặc thù khác, như với mặt hàng mây tre đan, xuất khẩu mây tre đan không những mang lại hiệu quả về mặt kinh tế, mà còn đem lại hiệu quả về mặt xã hội, giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động. + Nhà Nước cần có chính sách ưu tiên về tín dụng đối với các đơn vị xuất khẩu mặt hàng mây tre đan, cụ thể là hạ lãi suất ngân hàng và kéo dài thời gian vay vốn cho các doanh nghiệp, Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho hoạt động tổ chức nghiên cứu phát triển thị trường mới, như Bắc Mỹ, Canada, nhất là thị trường cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. + Nhà Nước thực hiện chính sách hỗ trợ công tác thị trường và xúc tiến thương mại: Do đặc điểm và khó khăn trong kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, đơn vị kinh doanh mặt hàng này chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn ít, cơ sở vật chất nghèo nàn, hàng hoá thường là loại cồng kềnh, giá trị thấp, không dễ bán...nên đề nghị Nhà nước hỗ trợ một phần chi phí tiếp thị mở rộng thị trường xuất khẩu. Hơn nữa, trong thương mại quốc tế không có hoặc rất ít thấy một nước nào không dành kinh phí nhất định từ ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho công tác xúc tiến thương mại, nhất là khuyếch trương xuất khẩu. Trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ, đề nghị Nhà nước hỗ trợ dưới các hình thức: - Hỗ trợ 50% chi phí thuê gian hàng cho cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ tham gia hội chợ, triển lãm ở nước ngoài. Việc hỗ trợ này có thể được thực hiện trực tiếp đối với doanh nghiệp từ một trung tâm xúc tiến thương mại hoặc thông qua một công ty quốc doanh được giao nhiệm vụ tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế. - Đề nghị cho thành lập thêm một số trung tâm xúc tiến thương mại (chủ yếu là khuyếch trương hàng xuất khẩu) tại một số nước tương tự như: “Việt Nam square” tại Osaka, Nhật Bản, có thêm ở Trung Đông, Pháp, Đức, Nga, Mỹ, Canada... Các trung tâm này có các gian hàng cho các doanh nghiệp trong nước thuê trưng bày chào bán hàng xuất khẩu với giá khuyến khích. Riêng hàng thủ công mỹ nghệ thì được miễn phí. Vừa qua một số doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã thấy được tác dụng lớn của việc trưng bày hàng hoá tại nước ngoài. Thông qua phương tiện thông tin đại chúng ở nước ngoài để quảng bá giới thiệu rộng rãi các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, hướng dẫn tiêu dùng tạo thị hiếu, gắn chặt việc giới thiệu thành tựu văn hoá dân tộc với bàn tay khéo léo của người Việt Nam. - Phục vụ các lễ hội của các nước trên thế giới cũng là một hướng quan trọng thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Hàng năm trên thế giới có hàng trăm lễ hội của các dân tộc, nếu nắm bắt được nhu cầu, thiết kế mẫu mã phù hợp nhu cầu của từng lễ hội về ăn mặc, trò chơi giải trí, vật lưu niệm... thì có thể có nhiều loại hàng có thể bán, nhất là hàng thủ công mỹ nghệ, kể cả hàng thổ cẩm của đồng bào các dân tộc nước ta. Kinh nghiệm tại Philipin, đã thành lập Hiệp hội các nhà sản xuất và nhà xuất khẩu các mặt hàng phục vụ lễ hội và Noel. Chính phủ Philipin đã có nhiều giải pháp thông qua các tổ chức như: Vụ xúc tiến thương mại xuất khẩu, trung tâm thiết kế mẫu mã và phát triển các sản phẩm để mở rộng các hoạt động này, như cung cấp vốn, phát triển kỹ thuật, cải tiến mẫu mã, tìm kiếm thị trường, cung cấp thông tin, giới thiệu bạn hàng. Các tổ chức này cũng giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn và tư vấn chính phủ ra chiến lược và cơ chế, chính sách nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường thế giới. Để có thể triển khai xuất khẩu phục vụ lễ hội và Noel của các nước trên thế giới như là một mũi nhọn khuyếch trương xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong thời gian tới, đề nghị Nhà Nước: * Tại những nơi Việt Nam có đại điện thương mại thì giao cho cơ quan này tìm hiểu, khảo sát, nghiên cứu nhu cầu phục vụ lễ hội và Noel trên địa bàn. Phát hiện nhu cầu, khảo sát, thiết kế mẫu mã chào hàng. * Tại những nơi chưa có cơ quan thương vụ thì giao cho Cục xúc tiến thương mại, phối hợp cùng công ty hội chợ triển lãm quảng cáo nghiên cứu kế hoạch, cử nhóm công tác đến tìm hiểu, khảo sát thiết kế mẫu mã theo cơ chế, chính sách trên - Chính phủ cần có chính sách khuyến khích việc khai thác những hoạt động quốc tế như: hội thảo, biểu diễn thao tác nghề nghiệp...nhằm phát triển ngành nghề phục vụ xuất khẩu. Chẳng hạn, hội bảo trợ thủ công mỹ nghệ của Mỹ có chương trình hỗ trợ 10.000 làng nghề của thế giới và thường có mời các nghệ nhân của các nước sang Mỹ biểu diễn thao tác nghề nghiệp. Tại Achentina vào tháng 4 hàng năm thường tổ chức hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ và khoảng 700 nghệ nhân của các nước được mời tham gia biểu diễn thao tác nghề, có gian hàng trưng bầy miễn phí. Ta nên cố gắng khai thác hoạt động này. Tuỳ trường hợp cần thiết, Nhà nước nên trợ cấp kinh phí cho các nghệ nhân Việt Nam tham gia các hoạt động này, kết hợp với việc giới thiệu hàng hoá của Việt Nam. Hơn nữa nghệ nhân có thể chào bán, ký kết các hợp đồng xuất khẩu theo uỷ nhiệm của các công ty kinh doanh xuất khẩu trong nước, được hưởng thù lao hoặc hoa hồng theo kết quả thực hiện công việc. + Nhà nước sớm có chính sách ưu đãi đối với hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu tại chỗ: Hiện nay một phần đáng kể hàng thủ công mỹ nghệ được bán cho khách du lịch đến Việt Nam, bán tại các cửa hàng, siêu thị, các điểm tham quan du lịch, các cửa hàng miễn thuế ... dưới hình thức thu ngoại tệ hoặc tiền Việt Nam gốc ngoại tệ. Nguồn thu về từ nguồn du lịch của nước ta ngày càng lớn, thì hàng thủ công mỹ nghệ cung ứng cho nhu cầu này cũng ngày càng nhiều dưới dạng các vật phẩm tiêu dùng hoặc vật phẩm lưu niệm. Vì vậy, đề nghị nhà nước chính thức công nhận hàng hoá sản xuất trong nước tiêu thụ dưới hình thức trên là hàng xuất khẩu tại chỗ và có chính sách khuyến khích thích hợp, nếu không áp dụng cho toàn bộ hàng hóa của Việt Nam thì cũng nên áp dụng cho hàng thủ công mỹ nghệ. Như vậy hàng xuất khẩu tại chỗ cũng được hưởng mức thuế 0%, do đó được khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào . Trên cơ sở chủ trương của Chính phủ, Bộ Thương mại, Bộ Tài chính cần quy định cụ thể việc bán hàng, hạch toán kê khai bảo đảm chính sách áp dụng . + Giảm bớt tiền cước vận chuyển và các lệ phí tại các cảng khẩu đối với hàng thủ công mỹ nghệ nhằm mục đích giảm giá thành. Vì cảng Việt Nam hiện nay được đánh giá là cảng có mức thu lệ phí cao nhất so với các cảng của các nước trong khu vực. Hàng thủ công mỹ nghệ thường là hàng cồng kềnh, giá trị không cao, (xuất khẩu một container 40 feet hàng mây tre đan thường chỉ 7-8 ngàn USD theo giá FOB), nên cần có chính sách hỗ trợ, ưu đãi cho mặt hàng này. - Nhà Nước hỗ trợ từ 30%-50% cước vận chuyển theo biểu giá cước hiện hành. Hàng thủ công mỹ nghệ được vận chuyển từ nơi sản xuất đến các cảng khẩu trên tất cả các phương tiện cần được Nhà nước hỗ trợ thông qua công nhận giảm thu trong hạch toán thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp hàng năm. - Nhà nước hỗ trợ 50% theo biểu giá cước hiện hành cho tất cả các chi phí, lệ phí tại các cảng khẩu có liên quan đến việc giao hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, ( từ việc lưu kho, lưu bãi, gửi hàng, lệ phí cảng khẩu, thủ tục phí ...). Nên miễn kiểm Hải quan khi xuất hàng. - Nhà nước hỗ trợ 50% theo biểu giá cước hiện hành tiền cước phí, bưu phí làm hàng mẫu, hàng thủ công mỹ nghệ cho khách nước ngoài, hoặc hàng mẫu gửi tham gia hội chợ triển lãm nước ngoài. + Sửa đổi tiêu chuẩn thưởng xuất khẩu đối với hàng thủ công mỹ nghệ. Theo quy định hiện hành, để được thưởng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, kim ngạch XkK của doanh nghiệp phải đạt từ 5 triệu USD/ năm trở lên. Đây là một tiêu chuẩn quá cao đối với một doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Sẽ rất hiếm có doanh nghiệp nào đạt được tiêu chuẩn trên để được thưởng. Để khuyến khích những doanh nghệp vừa và nhỏ tích cực tham gia đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, đồng thời cũng là một cách tạo điều kiện cho họ vượt qua khó khăn trong kinh doanh loại hàng này, đề nghị các cơ quan chức năng cho áp dụng tiêu chuẩn xét thưởng ở mức 2 triệu USD/ năm trở lên. + Nhà nước sớm thúc đẩy đàm phán và kí kết hiệp định song phương, hiệp định thương mại khu vực, hiệp định thương mại toàn cầu, hay nghị định thư đối với một số nước Đông âu, giải quyết phân bổ chỉ tiêu trả nợ cho các doanh nghiệp, đồng thời xem xét lại quy chế của Thủ Tướng Chính Phủ về các đầu mối trả nợ. + Nhà nước đứng ra thành lập hiệp hội các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, với nhiệm vụ theo dõi sản xuất, theo dõi hoạt động xuất khẩu và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường nước ngoài, phát hiện kịp thời khó khăn để giải quyết và giúp đỡ các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu. Tập hợp nguyện vọng và đề xuất của người sản xuất để chính phủ điều chỉnh cơ chế chính sách cho phù hợp. Hiệp hội sẽ chủ động cùng các doanh nghiệp nghiên cứu khai thác thị trường hiện có, mở rộng thị trường mới. + Nhà nước cần có chính sách trợ cấp đối với các đơn vị XK mây tre đan như: lập quỹ hỗ trợ XK, giảm thuế, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp , thuế XNK và khuyến khích đầu tư mặt hàng này. Thúc đẩy và giúp đỡ các doanh nghiệp vươn lên trong môi trường cạnh tranh bình đẳng và trung thực, coi đó là phương thức bảo hộ tích cực nhất đối với sản xuất trong nước. Theo tinh thần đó cần xem xét lại chính sách bảo hộ bằng hàng rào thi thuế quan, thực hiện chính sách bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện và thời hạn, vừa giúp đỡ vừa tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước cả doanh nghiệp nhà nước phải tự đổi mới và vươn lên, nâng cao sức cạnh tranh. Từ đó xác định một lộ trình phù hợp, giảm thuế nhập khẩu có thể áp dụng hàng rào phi thuế quan. Lộ trình này phải được công bố rõ ràng, sớm, để từng doanh nghiệp có kế hoạch phấn đấu làm cho sản phẩm do mình sản xuất ra có thể cạnh tranh tốt với hàng nước ngoài. + Nhà nước có chính sách hỗ trợ đúng đắn các ngành công nghiệp chế biến, nhất là chế biến hàng xuất khẩu, cùng với việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật bên ngoài doanh nghiệp, phát triển thị trường vốn, đào tạo nguồn nhân lực, phát triển làng nghề, giúp đỡ về nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, xây dựng trung tâm nghiên cứu tiếp thị, trưng bầy triển lãm và trung tâm thông tin về thị trường nước ngoài. Bãi bỏ các biện pháp mang tính bao cấp trái với cơ chế thị trường, đơn giản hoá thủ tục hành chính, hình thành hành lang pháp luật rõ ràng, ổn định đầu tư kinh doanh xuất nhập khẩu. Những mặt hàng xuất nhập khẩu còn phải quy định hạn nghạch (QUOTA) thì phải nhanh chóng chuyển sang phương thức đấu thầu thay cho lối phân phối hành chính và tiến tới thay thế Quota bằng thuế xuất nhập khẩu và biện pháp phi thuế quan . + Tỷ giá hối đoái phải được điều chỉnh phù hợp có lợi cho xuất khẩu và đầu tư, tích cực và chủ động thâm nhập, giao lưu với thị trường thế giới, xúc tiến khẩn chương việc chuẩn bị điều kiện ra nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), phát huy hiệp định thương mại Việt - Mỹ và tham gia vào khu vực mậu dịch tự do AFTA theo lịch trình phù hợp. Ngoài ra Nhà nước cần tăng cường hơn hoạt động thương mại chính ngạch với Trung Quốc, Lào, Campuchia, giảm và ngăn chặn buôn bán tiểu ngạch, thiết lập mối quan hệ ngoại giao, thương mại, tìm thị trường mới ở Trung Cận Đông, Châu Phi và Mỹ La Tinh. Đa phương hoá quan hệ thương mại, giảm sự tập trung cao, phụ thuộc vào đối tác, thu hẹp buôn bán qua trung gian. + Nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp tự lập cơ quan đại diện ở nước ngoài, tăng cường vai trò của cơ quan ngoại giao, thông tấn xã. Đối với các tổ chức, đa dạng hoá hoạt động của cơ quan thường vụ Việt Nam ở nước ngoài, tổ chức giao lưu, giới thiệu các Doanh nghiệp Việt Nam với Doanh nghiệp nước ngoài tại thị trường nước ngoài để tạo nên sự thông suốt về thông tin và biến động của thị trường trong và ngoài nước. Kết luận chương III Tóm lại, chương ba đề cập tới những kết quả nghiên cứu thị trường mây tre đan quốc tế theo khu vực địa lí và theo lãnh thổ các quốc gia, trên cơ sở thị trường hiện có của công ty và kết quả nghiên cứu thị trường quốc tế đưa ra được những định hướng xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan trên các phương diện như: Mục tiêu xuất khẩu mây tre đan, định hướng thị trường xuất khẩu, định hướng sản phẩm xuất khẩu và định hướng về nguồn nhân lực. Để đạt được mục tiêu xuất khẩu đề ra đối với nhóm hàng mây tre đan, đồng thời khắc phục được các tồn tại trong hoạt động xuất khẩu, trên cơ sở các nguyên nhân của tồn tại đã đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan của công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội dưới hai góc độ: Giải pháp từ phía doanh nghiệp và những kiến nghị đối với Nhà Nước. Những giải pháp và kiến nghị trên đều xuất phát từ sự phân tích khoa học thực trạng xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan của công ty và tham khảo các biện pháp đã áp dụng thành công của một số nước trên thế giới KếT LUậN Trải qua 47 năm phát triển và trưởng thành. Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm - TOCONTAP đã đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Qua các thời kỳ phát triển thăng trầm của đất nước, từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường như ngày nay, Công ty đã phải đương đầu với không ít khó khăn và thử thách, song với sự lãnh đạo và chỉ đạo đúng đắn của Nhà nước và các cấp lãnh đạo Công ty, cùng với những kinh nghiệm quý báu đúc rút qua nhiều năm hoạt động, trên cơ sở đoàn kết chặt chẽ với người sản xuất và các cán bộ kinh doanh của Công ty. Công ty đã vượt qua mọi khó khăn hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao cùng cả nước bước vững chắc trên con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn. Em tin tưởng chắc chắn rằng, trong những năm tiếp theo Công ty sẽ có những thành tích tốt hơn, vững chắc hơn và tiến xa hơn trong hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan nói riêng trong tương lai. Luận văn tốt nghiệp trên đã cố gắng đưa ra những nét cơ bản nhất về tình hình hoạt động xuất khẩu của công ty TOCONTAP trong suốt quá trình hình thành và phát triển, tới thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty TOCONTAP trong giai đoạn hiện nay . Trên cơ sở đó tham vấn một số giải pháp và kiến nghị chính nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu nhóm hàng mây tre đan của Công ty, với mong muốn có thể góp phần nào đó để nâng cao hiểu quả của hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty - TOCONTAP. Tuy nhiên vì thời gian nghiên cứu và trình độ hạn hẹp, bài viết của em còn có những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự đóng góp của các Bác, các Anh , Chị CBCNV Công ty, cùng các Thầy giáo, Cô giáo và toàn thể bạn đọc giúp hoàn thiện và nâng cao trình độ nhận thức của bản thân em. Một lần nữa em xin chân thành giử lời cảm ơn tới cô giáo PGS.TS Nguyễn Thị Hường và thầy giáo Ths. Mai Thế Cường đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này một cách tốt nhất. Qua đây em cũng xin cảm ơn cô Bùi Thị Tuệ - Giám đốc Công Ty xuất nhập khẩu Tạp Phẩm Hà Nội cùng toàn thể cán bộ công nhân viên phòng Tổng Hợp Công ty - TOCONTAP đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong thời gian thực tập và đóng góp ý kiến cho bài viết này. TàI LIệU THAM KHảO I. Giáo trình: 1. Giáo trình: Kinh doanh quốc tế Trường ĐHKTQD, Chủ Biên PGS.TS. Nguyễn Thị Hường, NXB Thống Kê - 2001. 2. Giáo trình: Đàm phán & Ký kết hợp đồng KDQT Trường ĐHKTQD, Chủ Biên GS.PTS. Tô Xuân Dân, NXB Thống Kê - 2001. 3. Giáo trình: Maketing quốc tế Trường ĐHKTQD, Biên Soạn PTS Nguyễn Cao Văn, NXB Giáo Dục – 1999. 4. Giáo trình: Nghiệp vụ ngoại thương Trường ĐHNT, Chủ Biên PGS. Nhà giáo ưu tú Vũ Hữu Tửu, NXB Giáo Dục – 1998. 5. Giáo trình: Thanh toán quốc tế Trường ĐHNT, Chủ Biên PGS . Đinh Xuân Trình, NXB Giáo Dục – 1998. II. Sách tham khảo: 6. Thương mại và cạnh tranh, Chủ Biên: Chi đoàn giáo viên Khoa Thương mại Trường ĐHKTQD, NXB Thống Kê - 1999. 7. Nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo hộ sản xuất trong nước, Chủ Biên PTS. Lê Đăng Doanh, PTS. Trần Hữu Hân, Ths. Nguyễn Thị Kim Dung, NXB Thống Kê - 2000 III. Tạp chí, Báo: 8. Tạp Chí Doanh Nghiệp Số 12 – 2002 “Những vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp Việt Nam” Nguyễn văn Giang. Số 02 – 2003 “Bước đi cho sáu thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam” Ths. Lê Hồng Ngự. 9. Tạp Chí Thương Mại Số 7 – 2003 “Đánh giá hoạt động XK năm 2002 định hướng và giải pháp phát triển XK năm 2003” Lê Hải Thượng. 10. Tạp Chí Ngoại Thương Số 2 - 2003 “ Quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam – EU và dự báo” Vũ Ngọc Khoa. Số 3 – 2003 “ Mục tiêu kế hoạch XK năm 2003 vào các thị trường” Nguyễn Thị Ngọc. Số 4 – 2003 “Một số điều cần biết khi thâm nhập thị trường Trung Quốc. 11. Tạp Chí Thương nghiệp và Thị Trường Số tháng 9 – 2002 “Nâng cao sức cạnh tranh hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam” Phạm Thị Băng Tâm. Số tháng 11 – 2002 “ Để hàng thủ công mỹ nghệ vươn xa” Trọng Khôi. 12. Tạp chí Thời trang mỹ nghệ kim hoàn Số 88 (3/2003) “ Trúc Hun” 13. Báo Đầu Tư Số 97 (14/4/2002) “Bốn vấn đề lớn cần giải quyết để hàng Việt Nam dễ thâm nhập vào thị trường Mỹ” Hoàng Việt. 14. Thời Báo Kinh Tế Việt Nam Số 972 (7/8/2002) “Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ” 15. Báo Nhân Dân Số 987 (15/12/2001) “Thâm nhập thị trường Châu Phi – Tây nam á” Nguyễn Duy Nghĩa. Báo số ra ngày 3/6/2002 “Biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Nga, SNG” Nguyễn Anh Kiệt. 16. Thời báo tài chính Số ra ngày 8/10/2002 “Những bài học quý cho Việt Nam” TS. Lê Đăng Doanh. 17. Báo Thương Mại Số 32 (19/ 4/2002) “Thương vụ Dubai” Đặng Ngọc Quang. IV. Tài liệu khác: 18. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 1999, 2000, 2001, 2002 của Công ty TOCONTAP. 19. Niên giám thương mại Việt Nam năm 2000, 2001, 2002, - NXB Thống Kê. 20. Trang Website: - www. vnn .vn “Việt Nam còn nhiều bất lợi trong cạnh tranh” (26/9/2002) - www.business. gov.vn “Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu - Trung tâm thông tin doanh nghiệp” (8/5/2002). - www. Mof.gov.vn “Chuyện kinh doanh – xúc tiến thương mại” (31/7/2002). - www.vir.com.vn “Tăng hiệu quả cạnh tranh là việc cần làm ngay của cộng đồng doanh nghiệp” (16/2/2002) Các trang website khác : - www.nhan dan.com. - www. Eshop.vn-style.com. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0508.doc
Tài liệu liên quan