LỜI MỞ ĐẦU
Đối với mỗi quốc gia, muốn có thể phát triển nhanh mạnh thì đều cần phải có một nền ngoại thương vững mạnh. Không có một quốc gia nào đóng cửa, tự mình phát triển mà lại trở nên hưng thịnh. Như vậy ngoại thương là một yêu cầu khách quan trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Ngày nay trong thời kỳ toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, các hoạt động thương mại đã trở thành một xu thế chung, và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các quốc phát triển, đặc biệt là đối với những nước đan
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1521 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam sang Thị trường Châu Phi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g phát triển như Việt Nam.
Trong quan hệ thương mại với nước ngoài, mà cụ thể là xuất nhập khẩu, việc lựa chọn hàng hóa là rất quan trọng. Những hang hóa được chọn xuất khẩu phải là những hàng hóa mà quốc gia đó có lợi thế hơn quốc gia nhập khẩu, nhằm thu được lợi nhuận bằng ngoại tệ. Đối với Việt Nam trong thời gian qua, mặt hàng thế mạnh trong xuất khẩu đó là Gạo. Gạo của Việt Nam đã xuất khẩu trên 80 quốc gia trên thế giới, và hiện đứng thứ 2 trên thế giới chỉ sau Thái Lan. Việc xuất khẩu gạo không những chỉ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của thị trường mà trước hết còn phải đảm bảo được an toàn an ninh lương thực quốc gia.Thời gian tới, xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn là mặt hàng chủ lực và còn rất nhiều cơ hội để phát triển hơn nữa, khi mà gạo và vấn đề lương thực hiện nay đang trở thành mối quan tâm của cả thế giới.
Trong các châu lục trên thế giới, Châu Phi là khu vực có nhu cầu gạo tương đối lớn. Các quốc gia ở đây luôn lâm vào tình trạng thiếu lương thực, an ninh lương thực luôn bị đe dọa, hơn nữa tình trạng chính trị có nhiều bất ổn. Châu lục này hiện đang được coi là một khu vực mới nổi với sự phục hồi kinh tế của một số quốc gia tiêu biểu, là mối quan tâm của không ít những quốc gia trên thế giới bởi tiềm năng lớn của nó.
Trên cơ sở đáng giá các đặc điểm tương đồng, những yếu tố khách quan, chủ quan trong quan hệ ngoại giao thương mại trong thời gian qua, đồng thời trên cơ sở phát huy thế mạnh của Việt Nam và nhu cầu của thị trường Châu Phi, tôi mạnh dạn đặt vấn để nghiên cứu về Thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam sang thị trường Châu Phi. Đây là đề tài tập trung cụ thể vào hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Châu Phi. Qua đó nhằm mục đích cho chúng ta cái nhìn rõ ràng hơn về thực trạng xuất khẩu thời gian qua cũng như triển vọng xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới sang thị trường tiềm năng này. Trên cơ sở phân tích những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức, cũng như những xu hướng biến động trên thị trường thế giới, để đưa ra những định hướng và giải pháp cho việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường này thời gian tới.
Với đề tài này, phương pháp nghiên cứu chủ yếu của tôi là thu thập, xử lý, đánh giá và phân tích thông tin, số liệu, bên cạnh đó dựa vào những lý luận kinh tế làm cơ sở.
Để tiện theo dõi tôi xin đưa ra kết cấu của bài nghiên cứu này bao gồm những phần chính sau:
Lời mở đầu.
Nội dung chính:
* Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa và tầm quan trọng của thị trường Châu Phi đối với mặt hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam
* Chương 2: Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Châu Phi trong thời gian qua
* Chương 3: Phương hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Châu Phi
Kết luận.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHÂU PHI ĐỐI VỚI MẶT HÀNG GẠO XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
1.Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa:
1.1. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu:
Xuất khẩu là việc bán hàng hoặc dịch cụ ra thị trường nước ngoài; gồm hai loại hình: Xuất khẩu hàng hóa ,xuất khẩu dịch vụ.
Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại cơ bản, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Xuất khẩu có vai trò cực kỳ quan trọngtrong sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu: Để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần phải có một nguồn vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại. Nguồn vốn ngoại tệ chủ yếu là từ các nguồn: xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, vay vốn, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch, các dịch vụ có thu ngoại tệ, xuất khẩu lao động…Xuất khẩu là nguồn vốn lớn chủ yếu để nhập khẩu.
Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển: Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển nhờ vào xuất khẩu không những chỉ tác động làm gia tăng nguồn thu ngoại tệ mà còn giúp cho việc gia tăng nhu cầu sản xuất, kinh doanh ở những ngành lien quan khác. Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, giúp cho sản xuất ổn định và kinh tế phát triển, vì có nhiều thị trường sẽ có thể phân tán rủi ro cạnh tranh. Xuất khẩu cũng tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước: thông qua việc cạnh trnh xuất khẩu, buộc các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến công nghệ sản xuất, tìm ra những cách thức kinh doanh và phân bổ nguồn lực sao cho hiệu quả nhất, giảm chi phí và tăng năng suất lao động.
Xuất khẩu tích cực giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống người dân: Xuất khẩu làm tăng nguồn thu nhập quốc dân, từ đó có tác động làm tăng tiêu dùng nội địa , đây là nhân tố kích thích nền kinh tế tăng trưởng. Xuất khẩu gia tăng sẽ tạo thêm công ăn việc làm trong nền kinh tế, nhất là trong ngành sản xuất hàng hóa cho xuất khẩu. Xuất khẩu cũng góp phần làm gia tăng đầu tư trong ngành sản xuất hàng hóa xuất khẩu, là một trong những nhân tố kích thích tăng trưởng kinh tế.
1.2. Các hình thức xuất khẩu:
Hiện nay các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu dưới rất nhiều hình thức khác nhau, nhưng chủ yếu sử dụng các hình thức phổ biến sau đây:
1.2.1. Hình thức xuất khẩu tại chỗ:
Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu ngay chính đất nước mình để thu ngoại tệ thông qua việc giao hàng bán cho các doanh nghiệp đang hoạt động trên lãnh thổ nước mình theo sự chỉ định của phía nước ngoài ; hoặc bán hàng sang khu chế xuất hoặc các xí nghiệp chế xuất đang hoạt động trên lãnh thổ nước sở tại.
Ưu điểm của hình thức này:
Tăng kim ngạch xuất khẩu.
Giảm rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu.
Giảm chi phí kinh doanh xuất khẩu: chi phí vận tải, chi phí bảo hiểm hàng hóa.
Hạn chế: Thủ tục xuất khẩu khá phức tạp (thủ tục hải quan, thủ tục hoàn thuế…).
1.2.2. Xuất khẩu ủy thác:
Đây là hình thức doanh nghiệp xuất khẩu kinh doanh dịch vụ thương mại thông qua nhận xuất khẩu hàng hóa cho một doanh nghiệp khác và được hưởng phí trên việc xuất khẩu đó.
Các quy định về hình thức xuất khẩu này đã được nêu trong điều 17-20 Nghị định12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006 quy định về chi tiết thi hành luật thương mại Việt Nam.
Ưu điểm của hình thức này:
Ở khía cạnh nào đó hình thức này tăng tiềm năng kinh doanh xuất khẩu cho công ty nhận ủy thác, duy trì khách hàng, thị trường…
Phát triển hoạt động thương mại dịch vụ, tăng thu nhập cho doanh nghiệp.
Hạn chế :
Có thể bị vấp phải những tranh chấp thương mại.
Bên đi ủy thác xuất khẩu không thực hiện tốt các nghĩa vụ: thủ tục và thuế xuất khẩu…thì bên nhận ủy thác phải chịu trách nhiệm liên đới.
1.2.3. Hình thức gia công hàng xuất khẩu:
Gia công hàng xuất khẩu là một phương thức sản xuất hàng xuất khẩu. Trong đó, người đặt gia công ở nước ngoài cung cấp: máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu hoặc bán thành phẩm theo mẫu và định mức cho trước; người nhận gia công trong nước tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của khách. Toàn bộ sản phẩm làm ra người nhận gia công sẽ giao lại cho người đặt gia công để nhận tiền. Đây là hình thức xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho quốc gia cả tỷ USD.
Có 3 hình thức gia công quốc tế:
Nhận nguyên liệu, giao thành phẩm: Bên đặt gia công giao nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia công để chế biến sản phẩm và sau thời gian sản xuất, chế tạo sẽ thu hồi thành phẩm và trả phí gia công. Trong thời gian chế tạo thì quyền sở hữu nguyên liệu vẫn thuộc về bên đặt gia công.
Đây là hình thức gia công xuất khẩu chủ yếu vì công nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu của Việt Nam hiện nay chưa thực sự phát triển.
Mua đứt, bán đoạn dựa trên hợp đồng mua bán dài hạn với nước ngoài: Bên đặt gia công bán đứt nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia công và sau một thời gian sản xuất, chế tạo sẽ mua lại thành phẩm. Trong trường hợp này, quyền sở hữu về nguyên liệu chuyển từ bên đặt gia công sang bên nhận gia công. Vì vậy, khi nhập trở lại các bộ phận giá trị thực tế tăng thêm đều phải chịu thuế quan.
Kết hợp: Theo đó, bên nhận gia công chỉ giao những nguyên vật liêu chính, còn bên nhận gia công cung cấp những nguyên phụ liệu.
Ưu điểm của gia công xuất khẩu:
Đây là hình thức rất thích hợp với các doanh nghiệp Việt Nam vì các doanh nghiệp có vốn đầu tư hạn chế, chưa am hiểu về luật lệ và thị trường thế giới, chưa có thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp nổi tiếng, qua gia công xuất khẩu vẫn có thể thâm nhập được ở mức độ nhất định vào thị trường thế giới.
Qua gia công xuất khẩu, doanh nghiệp có thể tích lũy kinh nghiệm tổ chức sản xuất hàng xuất khẩu: kinh nghiệm làm thủ tục xuất khẩu, tích lũy vốn, phân bổ nguồn lực sản xuất…
Rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu ít vì đầu vào và đầu ra của quá trình kinh doanh đều do bên phía đối tác đặt gia công nước ngoài lo.
Đây là hình thức giải quyết công ăn việc làm cho người lao động trong nước và thu ngoại tệ.
Hạn chế :
Hiệu quả xuất khẩu thấp, ngoại tệ thu được chủ yếu là tiền gia công, mà đơn giá gia công ngày một giảm trong điều kiện cạnh tranh mạnh giữa các đơn vị nhận gia công.
Tính phụ thuộc vào đối tác nước ngoài cao.
Nếu chỉ áp dụng phương thức kinh doanh xuất khẩu, doanh nghiệp khó có thể xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm; chiến lược giá; chiến lược phân phối; xây dựng thương hiệu và kiểu dáng công nghiệp cho sản phẩm.
1.2.4. Hình thức xuất khẩu tự doanh:
Là hình thức doanh nghiệp tự tạo ra sản phẩm, tự tìm kiếm khách hàng để xuất khẩu.
Ưu điểm của hình thức này:
Công ty có khả năng nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc tinh chế sản phẩm để xuất khẩu với giá cao và tìm mọi cách để giảm chi phí kinh doanh hàng xuất khẩu để thu được nhiều lợi nhuận.
Đối với những công ty lớn, chất lượng sản phẩm đã có uy tín, với phương thức tự doanh bảo đảm cho công ty đẩy mạnh xâm nhập thị trường thế giới để trở thành công ty xuyên quốc gia hoặc đa quốc gia, và cái thu được không những là lợi nhuận mà đó còn là thương hiệu, biểu tượng của công ty ngày càng có uy tín hơn.
Hạn chế của phương thức tự doanh.
Chí phí kinh doanh cao do phải tiếp thị, tìm kiếm khách hàng.
Đòi hỏi phải có thương hiệu, mẫu mã, kiểu dáng công nghiệp riêng.
Rủi ro trong xuất khẩu nhiều hơn so với phương thức gia công xuất khẩu vì mọi giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh đều do doanh nghiệp xuất khẩu tự lo.
1.2.5. Hình thức thuê thương nhân nước ngoài làm đại lý bán hàng tại nước ngoài:
Đây là hình thức doanh nghiệp có hàng xuất khẩu thuê doanh nghiệp nước ngoài làm đại lý bán hàng cho mình và thu ngoại tệ về.
Ưu điểm:
Doanh nghiệp không cần đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động thương mại ở nước ngoài mà vẫn có thể thâm nhập sâu và rộng vào thị trường khu vực và thế giới.
Phát triển thương hiệu và thị phần ở nước ngoài.
Hạn chế: Nếu không am hiểu tường tận đối tác nhận đại lý hoặc không ký hợp đồng đại lý chặt chẽ thì dễ bị chiếm dụng vốn hoặc mất vốn.
1.2.6. Hình thức tạm nhập tái xuất khẩu:
Đây là hình thức doanh nghiệp xuất khẩu trong nước mua hàng của một nước, nhập về nước mình, sau đó tái xuất sang một nước thứ 3 mà không cần qua chế biến.
Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này:
Cho phép doanh nghiệp thực hiện đầu cơ hàng để hưởng chênh lệch giá quốc tế.
Tăng thu ngoại tệ cho doanh nghiệp.
Tạo sự cân bằng trong cán cân thương mại quốc tế giữa 2 nước, tránh được chiến tranh thương mại mà không dẫn tới nhập siêu, hoặc với hình thức tạm nhập tái xuất khẩu cho phép giải quyết các trường hợp hàng hóa của nước này không có nhu cầu ở nước kia nhưng 2 nước lại muốn có quan hệ thương mại với nhau.
Hạn chế :Chi phí kinh doanh và thủ tục phức tạp (đối với các hàng hóa cấm xuất khẩu hay tạm ngừng xuất khẩu, phải có giấy phép củ bộ thương mại, thủ tục về thời gian tái xuất kể từ ngày hoàn thành thủ tục hải quan nhập khẩu).
1.2.7. Hình thức chuyển khẩu:
Đây là việc mua hàng từ một nước, vùng lãnh thổ để bán sang một nước, vùng lãnh thổ ngoài lãnh thổ nước mình mà không làm thủ tục nhập khẩu cũng như xuất khẩu.
Ưu điểm của hình thức này:
Doanh nghiệp thực hiện vai trò môi giới thương mại để kiếm lời.
Nếu biết cách phối hợp giữa người bán và người mua thì doanh nghiệp không cần bỏ vốn mà vẫn có lờ.
Chi phí kinh doanh và thủ tục hành chính có liên quan đến hoạt động chuyển khẩu thường thấp hơn so với hình thức tạm nhập tái xuất khẩu.
Hạn chế: Chuyển khẩu trong thực tế là hình thức kinh doanh phức tạp, có nhiều rủi ro, đòi hỏi trình độ của nhà kinh doanh phải cao, phải rất am hiểu về thị trường, giá cả, các phương thức thanh toán quốc tế.
1.2.8. Hình thức xuất khẩu mậu biên:
Thực chất đây là một hình thức xuất khẩu tự doanh đặc biệt, doanh nghiệp tự tổ chức đưa hàng hóa của mình đến các khu kinh tế cửa khẩu biên giới (Việt Nam – Trung Quốc, Campuchia, Lào) để xuất khẩu. Nhưng hình thức này doanh nghiệp ít khi ký kết các hợp đồng xuất khẩu; không nhất thiết phải thanh toán bằng ngoại tệ mạnh; thời điểm giao hàng có đại diện của hai bên.
Ưu điểm:
Mở rộng khả năng thâm nhập hàng hóa vào thị trường các nước láng giềng.
Tăng doanh thu bán hàng.
Hạn chế: Rủi ro trong kinh doanh cao, vì tính tự phát của hình thức này là rất cao.
Tóm lại thì có 8 hình thức xuất khẩu phổ biến nêu trên đây, tùy vào đặc điểm của từng doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu mà có lựa chọn hình thức phù hợp nhất.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu:
Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu có thể xem xét dưới 2 góc độ :các nhân tố trong nước và các nhân tố nước ngoài.
1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng ở trong nước:
Điều kiện tự nhiên, khí hậu.
Đây là yếu tố ảnh hưởng tiên quyết đối với hoạt động xuất khẩu hàng nông sản, lúa gạo… Điều kiện về khí hậu, khu vực địa lý sẽ quyết định đến lợi thế của quốc gia đối với từng mặt hàng xuất khẩu, quyết định đến sản lượng và phẩm chất của hàng hóa được cung cấp. Thời tiết, khí hậu và địa lý không những chỉ ảnh hưởng đến quá trình hoạt động sản xuất, gieo trồng…mà nó còn ảnh hưởng trực tiếp đên quá trình thu hoạch và bảo quản nông sản, thời tiết nóng ẩm hay quãng đường vận chuyển xa xôi sẽ rất dễ gây hư hỏng, mốc, dập nát nông sản..và khi đến tay khách hàng thì ta rất dễ bị thiệt hại do giao hàng không đúng phẩm cách.
Điều kiện cơ sở hạ tầng ,vật chất kỹ thuật :
Đây là điều kiện liên quan đến mức độ trang bị cho hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật bao gồm: nhà xưởng, xí nghiệp, máy móc, trang thiết bị sản xuất, đường xá, cầu cống, công trình thủy lợi…các đường dây, trạm thu phát thông tin…Những yếu tố này góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất- xuất khẩu.
Các chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Chính phủ:
Hoạt động xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào các chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia. Mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ, giai đoạn phát triển đều có những chính sách thương mại khác nhau: khuyến khích xuất khẩu hạn chế nhập khẩu hay ngược lại. Theo đó, vai trò của xuất khẩu trong từng trường hợp sẽ được đề cập đến ở mức độ khác nhau. Trong trường hợp khuyến khích xuất khẩu thì Chính phủ có thể thực hiện các biện pháp, công cụ về thuế, cung cấp tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu (tiến tới cắt giảm dần hình thức khuyến khích này), đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại ở trong nước hay nước ngoài nhằm cung cấp thông tin về thị trường, nhu cầu, mức sống, pháp luật…cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Các chính sách thu hút đầu tư quốc tế của Chính phủ cũng góp phần tăng trưởng xuất khẩu trong nước.
Ngoài ra khi nói đến các công cụ chính sách của Chính phủ nhằm tác động đến hoạt động xuất khẩu nói riêng và xuất nhập khẩu nói chung thì công cụ tỷ giá hối đoái là vô cùng quan trọng. Trong quan hệ buôn bán với nước ngoài, chính tỷ giá hối đoái sẽ xác định được giá trị mà 2 bên nhận được sau mỗi bản hợp đồng. Vậy nhà nước căn cứ vào tỷ giá hối đoái trên thị trường thế giới để đưa ra các biện pháp quản lý và điều hành tỷ giá hối đoái và thị trường ngoại hối ,qua đó nó sẽ có tác động khác nhau đến hoạt động thương mại quốc tế. Khi tỷ giá hối đoái tăng thì sẽ khuyến khích xuất khẩu hàng hóa vì cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu có thể đổi được nhiều nội tệ hơn trong khi các yếu tố khác không đổi. Khi tỷ giá hối đoái giảm thì sẽ hạn chế xuất khẩu vi cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu đổi được ít hơn nội tệ trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Bên cạnh đó , trong nỗ lực khuyến khích và đẩy mạnh xuất khẩu thì một quốc gia có thể xem xét và giảm giá đồng nội tệ của nước mình.
1.3.2. Những ảnh hưởng từ môi trường bên ngoài: đây là những yếu tố liên quan đến những biến động , thị trường, môi trường chính sách của các nước nhập khẩu hàng hóa.
Những yếu tố liên quan đến nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng nước ngoài.
Chính yếu tố này sẽ quyết định đến lựa chọn xuất khẩu của doanh nghiệp. Mỗi một thị trường lại có những nhu cầu thị hiếu khác nhau, nó phụ thuộc vào thu nhập, thói quen, phong tục truyền thống, văn hóa của mỗi quốc gia. Ở các nước phương tây họ rất đề cao các tiêu chuẩn chất lượng của sản phẩm, nên đòi hỏi các nước muốn xuất khẩu sang phải đáp ứng được các yều cầu khắt khe đó.Nếu như không có được những thông tin vể vấn đề này thì quyết định xuất khẩu (mặt hàng, thị trường) có thể sẽ không hiệu quả thậm chí còn bị thua lỗ.
Các vấn đề liên quan đến môi trường pháp lý.
Mỗi nước khác nhau thì có hệ thống luật về thương mại khác nhau, trong đó quy định những cách thức khác nhau khi đối xử với một quan hệ thương mại về các vấn đề: hình thức hợp đồng, thanh toán, cách giải quyết tranh chấp nếu có…Đây được gọi là hiện tượng xung đột pháp luật, rất hay xảy ra trong quan hệ thương mại quốc tế, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các bên tham gia trong quan hệ thương mại đó. Một điển hình đó là các vụ kiện bán phá giá tại thị trường nước ngoài. Đây là một hiện tượng phổ biến trong hoạt động thương mại thời kỳ hội nhập và nó phản ánh được tầm quan trọng của việc nắm vững các quy định về pháp luật của nước mà chúng ta định xuất khẩu hàng hóa sang để tránh được tối đa những tổn thất.
Chính sách thương mại của nước bạn hàng.
Đây là ảnh hưởng quan trọng bậc nhất trong hoạt động thương mại quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Chính sách thương mại của nước ngoài là căn cứ để xác định xem ta có được tạo thuận lợi hay là gây khó khăn trong việc thực hiện các hợp đồng thương mại với họ. Tùy vào chính sách kinh tế đối ngoại của nước nhập khẩu là khuyến khích hay hạn chế nhập khẩu mà sẽ tạo điều kiện hay gây trở ngại cho hoạt động xuất khẩu.
Các nước có thể quy định về mặt hàng khuyến khích nhập khẩu, mặt hàng cấm nhập khẩu từ quốc gia hay khu vực nhất định, hay thậm chí tuyên bố không quan hệ ngoại giao, thương mại với 1nước khác, thường là vì lý do chính trị (Ví dụ như việc Mỹ cấm vận Cuba). Theo đó những nước như vậy không thể thực hiện hoạt động buôn bán hàng hóa với nước kia, nếu có thể thì sẽ bị ràng buộc với rất nhiều những điều kiện khắt khe và thiệt thòi.
Ngoài ra, trong trường hợp chính phủ nước ngoài thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu và bảo hộ khuyến khích xuất khẩu thì hoạt động xuất khẩu tư thị trường khác vào đây là vô cùng khó khăn do vấp phải rất nhiều những rào cản như: thuế quan, thủ tục hải quan, giá cả,…
2. Tầm quan trọng của thị trường Châu Phi đối với mặt hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam:
2.1. Đặc điểm và nhu cầu nhập khẩu mặt hàng gạo của thị trường Châu Phi:
2.1.1. Đặc điểm thị trường Châu Phi:
Với dân số khoảng 850 triệu, Châu Phi hiện là thị trường có sức mua khá mạnh gồm 54 nước. Cơ cấu nhập khẩu của thị trường này cũng rất đa dạng, nhu cầu về công nghệ và hàng hóa là rất lớn. Sở dĩ Châu Phi được thế giới, nhất là các nước phát triển quan tâm là do tiềm năng to lớn của châu lục này. Sau hơn 2 thập kỷ trì trệ và suy thoái, từ đầu những năm 1990, kinh tế Châu Phi có những dấu hiệu phục hồi và từng bước tăng trưởng nhanh. Sự chuyển biến tích cực mà nền kinh tế Châu Phi có được là do các chính sách cải cách kinh tế , mở rộng cửa với thế giới bên ngoài. Ngân hàng thê giới và ngân hàng Phát triển Châu Phi đã tỏ ra lạc quan vì kinh tế Châu Phi tăng trưởng tương đối nhanh trong những năm gần đây. Dưới đây là một số đặc điểm nổi bật khi nghiên cứu thị trường này.
Tuy đã có những tiến bộ, nhưng Châu Phi vẫn là nền kinh tế chậm phát triển nhất thế giới. Năm 2001, Châu Phi chiếm 13% dân số thế giới nhưng chỉ chiếm 2% GDP của toàn thế giới. Đến hết năm 2005 dân số Châu Phi tăng và chiếm 15%, nhưng GDP không hề tăng. Theo thống kê công bố năm 2006 về GDP/người, Châu Phi không có đại diện trong nhóm 50 nước đứng đầu về GDP/người, trong khi có 33 nước đứng trong danh sách 50 nước đứng cuối bảng về chỉ tiêu này.
Ngoại thương tăng trưởng đáng kể từ thập kỷ 1990. Theo thống kê gần đây của WTO:
Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu hàng hóa
Giai đoạn
Xuất khẩu
Nhập khẩu
1995 – 2000
6%
0%
2003
23%
22%
2004
31%
25%
Tốc độ tăng trưởng trong trao đổi dịch vụ
Giai đoạn
Xuất khẩu
Nhập khẩu
1995 – 2000
3%
2%
2003
21%
13%
2004
22%
19%
Nhìn chung các nước Châu Phi đều tích cực đẩy mạnh quá trình hội nhập khu vực và thế giới, mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với khắp nơi trên thế giới. Đến đầu năm 2003 đã có 41/54 nước Châu Phi là thành viên của WTO.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt mức thấp so với tổng giá trị thương mại toàn thế giới mặc dù tốc độ tăng trưởng cao hơn mức thế giới. Do xuất phát điểm quá thấp nên giá tri tuyệt đối của thương mại Châu Phi chỉ chiếm một tỷ trọng khá khiêm tốn trong giá trị trao đổi toàn cầu. Ví dụ, năm 2004, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Châu Phi đạt 228tỷ USD và tổng kim ngạch nhập khẩu là 207tỷ USD so với con số tương ứng của thế giới là 8.880tỷ USD và 9.215tỷ USD
Cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu vẫn là nhóm ngành hàng khoáng sản và nhiên liệu. Bởi cho đến nay, chỉ với nguồn tài nguyên phong phú, Châu Phi vẫn chưa cải thiện được nền công nghiệp kém phát triển vàn nền nông nghiệp quá lạc hậu. Năm 2001, nhóm hàng khoáng sản vẫn ở vị trí hàng đầu với giá trị 80,5 tỷ USD, chiếm 57% tổng kim ngạch xuất khẩu của châu lục. Tiếp đến là nhóm sản phẩm phẩm chế biến và chế tạo đạt 35,7 tỷ USD chiếm 25,3% cơ cấu xuất khẩu của Châu Phi. Nhóm nông sản dạt 20,7 tỷ USD chiếm 14,7% . Những mặt hàng thuộc nhóm khác thì chỉ đạt 5 tỷ USD.
Cơ cấu nhập khẩu tập trung vào nhóm sản phẩm chế tạo. Năm 2001, nhập khẩu máy móc thiết bị, sản phẩm điện, cơ khí, công nghệ cao, dệt may, dược phẩm, thực phẩm chế biến chiếm vị trí thứ nhất, đạt 96,3 tỷ USD, tức 70,8% tổng kim ngạch nhập khẩu. Đứng thứ hai là nhóm hàng nông sản , trong đó lương thực đạt kim ngạch cao nhất 20,8 tỷ USD chiếm tới 15,3%, tiếp theo là nhóm khoáng sản, nhiên liệu mà chủ yếu là dầu thô chiếm tới 11,6% đạt giá trị 15,8 tỷ USD.
Nhu cầu hàng hóa lớn, không đòi hỏi khắt khe. Châu Phi là một thị trường đang trong quá trình chuyển đổi nên có nhu cầu rất lớn và đa dạng về các chủng loại hàng hóa mà lại không quá khắt khe về phẩm chất và mẫu mã. Trên thực tế, do có sự chênh lệch trong thu nhập nên nhu cầu hàng hóa đâ dạng, nhóm hàng hóa rẻ tiền cho tầng lớp người nghèo không yêu cầu chất lượng cao lại chiếm phần lớn dân số. Các hàng rào kỹ thuật cũng chưa có nhiều như các thị trường khác.
Thị trường Châu Phi không đồng đều xét cả về không gian lẫn thời vụ, bởi giá trị thương mại chủ yếu tập trung ở một số nước Nam Phi, Ai Cập, Nigiêria; riêng Nam Phi đã chiếm tới 20-25% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Châu Phi. Nhu cầu về hàng hóa của Châu Phi rất đa dạng nhưng thay đổi rất thất thường, nhất là nhu cầu về hàng nông sản, phụ thuộc vào tình hình sản xuất lương thực hàng năm.Nhu cầu nhập khẩu lương thực của Châu Phi có năm lên đến mức không nước nào trên thế giới đáp ứng nổi, nhưng có năm lại rất khiêm tốn. Một trong những nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng này là do ở một số nước Châu Phi, tình hình chính trị chưa thật ổn định, thường xuyên xảy ra những cuộc xung đột nội bộ, chiến tranh; tình trạng tham nhũng, quản lý kém…cũng khá phổ biến. Có người cho rằng việc buôn bán ở thị trường Châu Phi như là một công cuộc mạo hiểm.
Khu vực dịch vụ tăng trưởng khả quan nhưng phân bố không đều. Tuy mức tăng bình quân đạt 5,1% năm, từ 18,7 tỷ USD năm 1991 lên 30.9 tỷ năm 2001, nhưng Châu Phi phụ thuộc gần như hoàn toàn vào diễn biến thương mại dịch vụ của thế giới. Thêm nữa, 50% xuất khẩu và 30% nhập khẩu dịch vụ của thị trường này lại thuộc về hai nước Nam Phi và Ai Cập.
Hình thức thương mại còn chưa thực sự thuận lợi cho đối tác. Vì khả năng tài chính hạn hẹp, nên các doanh nghiệp Châu Phi thường xuyên buôn bán qua trung gian là một công ty thứ 3 (thường là của các nước Châu Á), hoặc buôn bán với hình thức trả chậm, từ đó gây khó khăn cho đối tác nước ngoài muốn mở rộng hợp tác kinh doanh.
Thu hút FDI của Châu Phi đạt mức thấp nhất thế giới. Năm 2001, trong số 735,1 tỷ USD FDI toàn cầu chỉ có 17,2 tỷ USD đầu tư vào Châu Phi (mức cao nhất mà Châu Phi đạt được cho đến năm 2001). Lượng FDI phân bố cũng không đều, chủ yếu tập trung ở các nước lớn, có vị trí địa lý thuận lợi, nguồn tài nguyên dồi dào, trình độ phát triển kinh tế tương đối cao. Các đối tác đầu tư chủ yếu là EU và G7, hiện nay có thêm Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, Malayxia.
Quan hệ thương mại của Châu Phi với các nước trên thế giới. Hiện nay. Hiện nay, các nước Châu Phi đã có quan hệ thương mại với nhiều nước trên thế giới, chủ yếu là EU, Mỹ, Nga và các nước SNG, trong thập niên 1990 tăng cường quan hệ với các nước Châu Á, nổi bật là Nhật Bản, Trung Quốc, và khối ASEAN. Bên cạnh đó, các nước Châu Phi cũng rất quan tâm tới việc thiết lập quan hệ trong nội bộ châu lục nhằm duy trì và phát huy chủ quyền độc lập, tăng cường sự đoàn kết nhất trí và sức mạnh toàn diện của Châu Phi.
2.1.2. Nhu cầu nhập khẩu mặt hàng gạo của thị trường Châu Phi:
Theo tổ chức nông lương Liên hiệp quốc (FAO), mỗi năm Châu Phi phải nhập khẩu khoảng 5 triệu tấn gạo, chiếm 19% thị phần nhập khẩu gạo thế giới. Riêng khu vực Tây Phi và Trung Phi nhu cầu tiêu thụ gạo vào khoảng 4 triệu tấn/năm, trong đó phải nhập trung bình là 3.8 triệu tấn/năm giai đoạn 1999-2002, trong đó 3 nước nhập khẩu chính là Nigiêria 1,2 triệu tấn/năm, Bờ Biển Ngà 0,9 triệu tấn/năm và Sênêgan 0,7 triệu tấn/năm với tổng giá trị trên 1 tỷ USD. Nếu chỉ xem xét riêng Bờ Biển Ngà là nước tiêu thụ gạo lớn nhất thế giới, nhu cầu về gạo đã tăng gấp 3 lần từ 300.000 tấn năm 1990 lên 750.000 tấn năm 2003 và lên 900.000 tấn năm 2006. Ước tính mỗi người dân nước này đã tiêu thụ khoảng 60kg/người/năm trong khi sản xuất trong nước chỉ đạt 20-30.000 tấn/năm. Còn khu vực Nam Phi không sản xuất gạo, toàn bộ lượng tiêu dùng đều phải nhập khẩu, khối lượng khoảng 500-600 ngàn tấn/năm. Sở dĩ, những nước ở Châu Phi có nhu cầu về gạo nhập khẩu lớn và tiếp tục tăng như vậy là do:
Điều kiện tự nhiên cho sản xuất nông nghiệp ở những nước Châu Phi là rất khó khăn, thường xuyên xảy ra tình trạng hạn hán, không đủ nước tưới tiêu, mất mùa; trình độ canh tác còn có hạn chế…
Tình trạng dân số tăng nhanh, dịch bệnh ở các nước Châu Phi cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến hiện tượng thiếu lương thực, đặc biệt là gạo.
Các cuộc xung đột, chiến tranh cũng đặt ra yêu cầu cần có lương thực cứu trợ và phục vụ cho chiến tranh.
Thị trường những nước Châu Phi có nhu cầu gạo với phẩm cấp trung bình, giá rẻ, đó là những yêu cầu rất phù hợp với điểu kiện và trình độ sản xuất của một nước đang phát triển như Việt Nam.
2.2. Vị trí của mặt hàng gạo xuất khẩu đối với Việt Nam:
Việt Nam vốn có xuất phát điểm là một nước nông nghiệp với nền văn minh lúa nước lâu đời. Nó không những ảnh hưởng lớn đến an ninh lương thực quốc gia, mà gạo còn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, có thê mạnh truyền thống của Việt Nam. Từ chỗ đảm bảo an ninh lương thực còn là mối lo, Việt Nam đã vươn lên xếp thứ hai trong số 10 quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới vào năm 2003.
Hơn một thế kỷ trước các thương gia Việt Nam đã tổ chức xuất khẩu lúa gạo. Thời kỳ này,lúa gạo đã trở thành mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Nam Kỳ. Có thể nói toàn bộ nền thương mại Sài Gòn dựa vào sản xuất lúa gạo. Những năm 70 của thế kỷ XIX, các thương nhân người Hoa và các nhà buôn Pháp phải cạnh tranh nhau trong việc thu mua và xuất khẩu gạo ở Nam Kỳ.
Hiện nay, hoạt động xuất khẩu gạo đã và đang tiếp tục được tăng cường, giá trị xuất khẩu gạo vượt qua con số 1 tỷ USD năm 2005, đóng góp đáng kể vào tổng kim ngạch xuất khẩu của nói riêng, và GDP của cả nước nói chung. Đặc biệt, khi Việt Nam đang trong công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa, lại vừa trở thành thành viên chính thức của WTO, mục tiêu đặt ra là phải đẩy mạnh, khuyến khích hoạt động xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ thì gạo là mặt hàng không thể thiếu vắng. Số lượng và chất lượng gạo ngày càng được nâng cao đáp ứng đòi hỏi của môi trường cạnh tranh bằng những ứng dụng công nghệ mới, cơ khí hóa nông nghiệp. Bên cạnh đó, sản xuất kinh doanh xuất khẩu gạo cũng phù hợp với cơ cấu lao động của Việt Nam. Với hơn 70% dân số hoạt động trong nông nghiệp và phần lớn là trồng lúa thì hoạt động xuất khẩu gạo góp tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập và ổn định đời sống cho đại bộ phận nông dân, góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội.
2.3. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam sang thị trường Châu Phi chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của đất nước.
Điều nhận định này được thể hiện qua các khía cạnh sau:
2.3.1. Quan hệ thương mại Việt Nam – Châu Phi:
a. Chính sách phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Châu Phi:
Chính sách thương mại Việt Nam – Châu Phi ngay từ đầu đã được thể hiện rõ tại các kỳ Đại hội Đảng VII, VIII, IX. Với chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, Châu Phi được xác định là thị trường mới, bạn hàng mới cần tập trung phát triển. Mặc dù còn gặp nhiều hạn chế trong phát triển quan hệ thương mại với Châu Phi như khó khăn về mặt địa lý, thiếu thông tin thị trường, bạn hàng, tập quán buôn bán và khả năng thanh toán có hạn của các doanh nghiệp Châu Phi, nhưng Chính phủ vẫn thể hiện sự quan tâm tới phát triển quan hệ thương mại với châu lục này thông qua bốn phương hướng ưu tiên quan trọng._. để thúc đẩy quan hệ hợp tác mọi mặt giữa Việt Nam và Châu Phi mà nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải đã đề ra tại hội thảo Việt Nam – Châu Phi năm 2003:
Tăng cường và mở rộng quan hệ đoàn kết và hợp tác truyền thống giữa Việt Nam và các nước Châu Phi về mọi lĩnh vực cùng có lợi, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
Ưu tiên thúc đẩy và mở rộng quan hệ kinh tế và hợp tác song phương, đa phương, trước hết về các lĩnh vực thương mại, đầu tư, nông nghiệp, lao động, chuyên gia, thông tin, tăng cường hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế mỗi nước, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân.
Tăng cường trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm về xây dựng đất nước, xóa đói giảm nghèo, phát triển y tế, phòng chống bệnh tật, giáo dục và phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai và khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên.
Kết hợp giữa quan hệ song phương và đa phương, tưng cường phối hợp với nhau tại các diễn đàn đa phương quốc tế, góp phần thúc đẩy quan hệ giữa các tổ chức tương ứng ở hai châu lục, phấn đấu cho hòa bình, hợp tác để phát triển, cho mối quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế bình đẳng.
Bốn định hướng này có thể xem là trụ cột trong chính sách phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Châu Phi.
b. Tình hình triển khai các chính sách phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Châu Phi:
Trong thực tế thực hiện chủ trương phát triển quan hệ thương mại với các nước Châu Phi, Việt Nam đã tiến hành nhiều hoạt động nhằm cụ thể hóa và hiện thực những chủ trương của Đảng đề ra tại các kỳ Đại hội và bốn định hướng ưu tiên mà thủ tướng Phan Văn Khải đã đề ra.
Tăng cường trao đổi các đoàn cấp cao.
Nhiều thập niên qua, quan hệ giữa Việt Nam với các nước Châu Phi đã in đậm những kết quả khả quan trên mọi lĩnh vực chính trị, văn hóa, khoa học – kỹ thuật, hợp tác quân sự…
Trong giai đoạn 2000-2005, Việt Nam và Châu Phi đã liên tục thúc đẩy viẹc trao đổi các đoàn lãnh đạo cấp cao sang thăm và làm việc nhằm tạo đà cho quan hệ song phương. Hai bên đã trao đổi và thông qua nhiều vấn đề quan trọng trong đó thương mại được đưa lên thành một trong những lĩnh vực ưu tiên hàng đầu.
Hiện nay Việt Nam đa có quan hệ ngoại giao với 48/54 quốc gia Châu Phi, trừ 6 nước chưa thiết lập quan hệ ngoại giao là Botswana, Comoros, Malawi, Trung Phi, Liberia, Swaziland.
Hiện nay, Việt Nam đã có 4 cơ quan thương cụ tại Châu Phi: Ai Cập, Angieri, Nam Phi, Marốc. Năm 2006, mở thêm thương vụ tại Nigeria, và xem xét mở thêm thương vụ tại Tanzania, Senegal.
Củng cố khung pháp lý cho hoạt động thương mại.
Việc tăng cường trao đổi các đoàn cấp cao giữa 2 bên cũng là dịp để hai bên trao đổi các biện pháp nhằm tạo thuận lợi cho thương mại song phương, trong đó vấn đề có tính cốt lõi là tạo khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động thương mại giữa hai bên, đó là việc ký kết các hiệp định thương mại và các hiệp định kỹ thuật khác có tính hỗ trợ cho phát triển thương mại saong phương như Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định vận tải biển, Hiệp định vận tải hàng không, Hiệp định về hợp tác ngân hàng, Hiệp định về hợp tác nông nghiệp.
Cho đến nay, nước ta đã ký kết Hiệp định khung về hợp tác kinh tế thương mại, khoa học kỹ thuật với 11 nước Châu Phi. Đến năm 2005, Việt Nam đã ký kết Hiệp định thương mại song phương với 15 nước Châu Phi: Guinea, Guinea Bissau, Angola, Mozambich, Libya, Ai Cập, Angiêri, Tuynidi, Nam Phi, Nigeria, Marốc, Zimbabue, Tanzania, Cộng hòa Côngô, Namibia. Một số hiệp định thương mại đã được ký trước, nội dung không còn phù hợp với tình hình mới ta đã bổ sung sửa đổi và ký lại. Qua các hiệp định thương mại song phương, Việt Nam và các nước Châu Phi đã thoả thuận dành cho nhau quy chế tối huệ quốc trong các hoạt động thương mại. Ngoài ra còn nhiều hiệp định khác, tạo khung pháp lý cho hoạt động của các doanh nghiệp, tạo điều kiện thúc đẩy trao đổi thương mại.
Để khắc phục khó khăn, về tài chính, thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam và các nước Châu Phi, tại hội nghị cấp cao các nước phương Nam tại La Ha-ba-ma tháng 4/2000, Việt Nam đã chính thức đưa ra sáng kiến hợp tác theo phương thức 2+1 gồm 1 nước Châu Phi, Việt Nam và 1 tổ chức quốc tế hoặc 1 nước có khả năng tài chính tài trợ. Sáng kiến này đã được nhiều nước Châu Phi hưởng ứng tích cực. Từ 1997 đến nay, Việt Nam đã ký kết và đang triển khai các thỏa thuận hợp tác ba bên: Việt Nam-Senegal-FAO, Việt Nam-Benin-FAO, Việt Nam-Madagascar-FAO nhằm thực hiện chương trình an ninh lương thực do FAO tài trợ.
Tăng cường mạng lưới các cơ quan ngoại giao, đại diện thương mại.
Mạng lưới các cơ quan ngoại giao và đại diện thương mại Việt Nam tại Châu Phi nhìn chung còn rất mỏng, mới chỉ thành lập đại sứ quán Việt Nam tại Nam Phi, Ai Cập, Angieri, Angola, Tanzania, Marốc, và Thương vụ Việt Nam tại Nam Phi, Ai Cập, Angieri. Do lực lượng mỏng, hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm, thiếu kinh phí, nhân lực, nên nhìn chung là mạng lưới các cơ quan này chưa đủ mạnh để tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại có quy mô lớn.
Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại
Một trong những hoạt động có quy mô lớn nhất từ trước tới nay trong quan hệ thương mại Việt Nam – Châu Phi là việc tổ chức thành công hội thảo “Việt Nam – Châu Phi: Những cơ hội hợp tác và phát triển trong thế kỷ XXI” với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp trong nước và 30 đoàn khách đến từ Châu Phi và các tổ chức quốc tế.Hội thảo được ghi nhận là một trong 5 sáng kiến liên kết hai châu lục Á – Phi trong tuyên bố cấp cao của hội nghị Á – Phi tại Inđônêsia (2005).
Để tạo kênh trao đổi thôngn tin giữa doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp Châu Phi, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam đã phối hợp với Bộ Thương mại tổ chức thành công “Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam – Châu Phi” và đang nỗ lực xây dựng “Cổng thương mại điện tử Việt Nam – Châu Phi” tận dụng thế mạnh của công nghệ thông tin để rút ngắn khoảng cách địa lý, tạo điều kiện trao đổi thông tin, tìm kiếm đối tác, tiết kiệm chi phí từ đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Vỉệt Nam sang Châu Phi.
Ngoài ra các cơ quan như Bộ thương mại , bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, bộ công nghiệp, phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, các hiệp hội ngành hàng đã liên tục tổ chức các đoàn doanh nghiệp sang các nước Châu Phi tiến hành khảo sát thị trường, tham dự hội chợ, triển lãm, hội thảo nhằm tìm kiếm cơ hội hợp tác và kinh doanh. Bên cạnh đó, Chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ và định hướng cho các doanh nghiệp Việt Nam xác định thị trường trọng điểm và mặt hàng trọng điểm để góp phần xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn ở Châu Phi.
c. Thực trạng phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Châu Phi:
Với những nỗ lực của Chính phủ và các cơ quan bộ ngành trong việc thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Châu Phi, hiện nay quan hệ này đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng hợp tác của hai bên.
Về xuất khẩu hàng hóa:
Các hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Châu Phi được bắt đầu từ năm 1991. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng lên mạnh mẽ.
Năm
1991
1995
2000
2005
Kim ngạch XK(triệu USD)
13,3
38,1
142,7
650
Ta có thể thấy rõ kim ngạch xuất khẩu năm 1995 tăng so với năm 1991 là 286,4% ; năm 2000 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Việt Nam là 142,7 triệu USD, tăng gấp 10,7 lần kim ngạch năm 1991 ; năm 2005 kim ngạch xuất khẩu sang Châu Phi đạt tới 650 triệu USD, gấp 48,9 lần kim ngạch xuất khẩu 1991. Mức tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Châu Phi luôn ở mức cao. Kim ngạch xuất khẩu sang Châu Phi thời kỳ 1991 – 1995 tăng trung bình là 49,9% ; thời kỳ 1996 – 2000, tăng bình quân là 23,7% ; thời kỳ 2001 – 2005, tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân là 42,7%. Trong đó, từ năm 2000 đến nay, có năm đạt được mức tăng kim ngạch xuất khẩu rất cao như năm 2003 tăng 64,6%; năm 2004 tăng 92,7%; năm 2005 tăng 57,6%. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu sang thi trường Châu Phi của Việt Nam còn chiếm tỷ trọng quá nhỏ so với tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 1991, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Châu Phi chiếm tỷ trọng 0,64% so với tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; năm 1995 là 0,70%; năm 2000 là 0,91%; năm 2001 tăng lên là 1,15%; năm 2002 là 0,78%; năm 2003 là 1,06%; năm 2004 là 1,56% và năm 2005 là 2,01%.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Châu Phi chủ yếu tập trung vào các mặt hàng nông sản, dệt may, giầy dép…trong đó thì gạo là mặt hàng chủ lực truyền thống với 1,8-2 triệu tấn/năm. Có thể thấy với nhu cầu nhập khẩu của Châu Phi thì những sản phẩm thế mạnh của Việt Nam trong đó có gạo còn khá trống trên thị trường Châu Phi. Như vậy thị trường Châu Phi vẫn là thị trường tiềm năng chưa khai thác hết của Việt Nam nói chung và của mặt hàng gạo xuất khẩu nói riêng.
Về hoạt động nhập khẩu :
Trong chiến lược phát triển thị trường Châu Phi, nhập khẩu là một lĩnh vực quan trọng để Việt Nam bổ sung sự thiếu hụt nguồn tài nguyên của đất nước. Dựa vào tiềm năng tài nguyên giàu có của Châu Phi, Việt Nam có thể nhập khẩu nhiều mặt hàng của Châu Phi phục vụ sản xuất , đáp ứng nhu cầu trong nước cũng nhưphục vụ các nhà máy chế biến xuất khẩu như các loại khoáng sản, bông, hạt điểu thô, gỗ, sắt, thép… Tuy nhiên, so với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Châu Phi, nhập khẩu từ khu vực này còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong kim ngạch xuất nhập khẩu hàng của Việt Nam và nước ta luôn ở trong tình trạng xuất siêu.
2.3.2. Những vấn đề liên quan đến thời kỳ hội nhập kinh tế:
a. Cơ hội và thách thức đối với mặt hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Châu Phi.
Sự hồi phục kinh tế của các nước Châu Phi :
Kinh tế của các quốc gia ở Châu Phi đã dần phục hồi nhờ các chính sách cải cách kinh tế và mở cửa ra thế giới bên ngoài. Cùng với sự phục hồi kinh tế và nhờ những chính sách tự do hóa thương mại mạnh mẽ được thực hiện trong thời gian qua, hoạt động xuất nhập khẩu của Châu Phi nói chung trong những năm gần đây đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ, nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng từ nước ngoài cũng tăng cao. Đây cũng là cơ hội thuận lợi cho gạo xuất khẩu của Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trường này.
Nhu cầu nhập khẩu của Châu Phi tăng mạnh, đặc biệt là hàng tiêu dùng, hàng lương thực thực phẩm:
Với sự phục hồi kinh tế cộng thêm với nhu cầu tái thiết kinh tế thời kỳ sau nội chiến và được sự viện trợ của thế giới bên ngoài, nhu cầu nhập khẩu của Châu Phi có xu hướng tăng mạnh trong thời gian tới, trong đó nhu cầu nhập khẩu nông sản là rất lớn. Phần lớn các nước ở châu lục này còn nghèo, nhưng mức chi tiêu gia đình để giải quyết các nhu cầu tối thiểu chiếm tỷ lệ cao so với thu nhập : ở Mozambique là 82%, Uganda là 85%, ở Zambia lên tới 91%. Yêu cầu về chất lượng hàng hóa không cao như các nước Châu Âu, Châu Phi có nhu cầu về những mặt hàng bình dân, chất lượng vừa phải, giá cả phù hợp với sức mua của người dân, các hàng rào kỹ thuật chưa nhiều. Những yêu cầu đó rất phù hợp với khả năng sản xuất hiện nay của Việt Nam. Ví dụ như ở thị trường Nam Phi, các doanh nghiệp Việt Nam đã tìm cách đặt chân vào thị trường này. Nam Phi với 43 triệu dân có mức thu nhập bình quân đầu người hơn 3.000 USD, thuộc loại cao nhất Châu Phi, mỗi năm phải nhập khẩu đến 700.000 tấn gạo của Thái Lan, Ấn Độ và Trung Quốc thì gạo của Việt Nam hoàn toàn có thể có cơ hội và khả năng cạnh tranh tại thị trường này.
Việt Nam hội nhập với kinh tế khu vực và quốc tế:
Việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng và toàn diện với kinh tế khu vực và quốc tế đã đem lại cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội tiếp cận thị trường thế giới hơn. Sản phẩm của Việt Nam đã dần có mặt tại nhiều quốc gia khác nhau và được thị trường chấp nhận, trong đó mặt hàng gạo vẫn là mặt hàng được biết đến nhiều nhất của Việt Nam tại thị trường Châu Phi.
Bên cạnh đó sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đã tạo cho hàng hóa Việt Nam nói chung có chỗ đứng trong tâm trí của bạn hàng và khách hàng quốc tế. Từ đó nâng cao vị thế cạnh tranh với các đối thủ khác ở thị trường Châu Phi, đối với mặt hàng gạo thì đó là Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ.
Ngoài ra các doanh nghiệp cũng không nên bỏ qua cơ hội thông qua hơn 3.500 người Việt hiện đang sinh sống và làm ăn tại Châu Phi. Họ là đầu mối tư vấn và cung cấp những thông tin nóng hổi về nguồn hàng, giá cả cũng như hỗ trợ trong giao dịch để doanh nghiệp Việt Nam có được đơn đặt hàng.
Có thể khẳng định với những thuận lợi trên thì Việt Nam còn có thể khai thác tốt hơn nữa thị trường các nước Châu Phi. Tuy nhiên, trong kinh doanh mỗi cơ hội bao giờ cũng đi kèm với những thách thức. Dưới đây là những thách thức Việt Nam gặp phải khi thâm nhập vào thị trường Châu Phi.
b. Thách thức:
Khoảng cách địa lý xa xôi:
Kết quả khảo sát cho thấy 72% doanh nghiệp nhấn mạnh đây là điểm rất bất lợi. Điều này tạo nên rào cản về chi phí vận chuyển trong kinh doanh xuất nhập khẩu với Châu Phi. Trong bối cảnh giá dầu thế giới ngày một tăng cao, giá cước vận chuyển các sản phẩm từ Việt Nam sang Châu Phi đã và đang có nguy cơ tăng cao, làm giảm lợi thế cạnh tranh về giá của hàng Việt Nam. Bên cạnh chi phí vận chuyển, việc bảo quản hàng hóa trong quá trình vận chuyển ( đối với gạo rất dễ bị ẩm mốc, vỡ làm giảm phẩm chất)và khả năng giao hàng đúng hẹn đã làm cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam phải tính toán rất nhiều khi nhận đơn đặt hàng từ các nước Châu Phi.
Sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ trong khu vực:
Thị trường Châu Phi đang nổi lên là một thị trường tiềm năn, đặc biệt là trong bối cảnh các thị trường truyền thống như Châu Âu, Bắc Mỹ hiện nay đã bão hòa đối với một số sản phẩm. Do vậy, nhiều quốc gia đã và đang hướng hoạt động thương mại vào thị trường Châu Phi. Việt Nam trong quá trình thâm nhập vào thị trường này chịu sự cạnh tranh rất mạnh mẽ từ các nước có cùng cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, đặc biệt là Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước ASEAN như Thái Lan, Philippines, Malaysia…trong đó Thái Lan – nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới với sản lượng khoảng 7 triệu tấn/năm – là đối thủ lớn nhất của Việt Nam trong hoạt động xuất khẩu gạo .
Hiện nay kim ngạch buôn bán hai chiều Trung Quốc – Châu Phi chiếm 1/10 tổng thương mại của Châu Phi, và Trung Quốc là bạn hàng lớn thứ 3 của Châu Phi chỉ sau Mỹ và Pháp.Bên cạnh Trung Quốc, các doanh nghiệp từ Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan cũng là thách thức không nhỏ đối với doanh nghiệp Việt Nam bởi cùng có cơ cấu xuất khẩu tương đối giống Việt Nam, nhưng họ lại có lợi thế rất lớn về đường biển gần với Châu Phi hơn. Chính vì vậy mà mức độ cạnh tranh trên thị trường Châu Phi ngay một gia tăng, nguy cơ mất đi lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn.
Thách thức từ bên trong các quốc gia Châu Phi:
Nhiều rủi ra thường gặp khi kinh doanh ở châu lục này lại do chính bản thân của các quốc gia ở thị trường này gây ra. Sự bất ổn chính trị trong khu vực: Châu Phi vốn nổi tiếng với những bất ổn về chính trị, những cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo, nội chiến. Những cuộc xung đột vũ trang vẫn đang đưa đến những thách thức lớn trong phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Châu Phi. Điều này làm môi trường kinh doanh xấu đi, và rủi ro trong hoạt động xuất nhập khẩu tăng lên: rủi ro mất hàng, không nhận được thanh toán, tàu thuyền bị giữ, phong tỏa…thậm chí còn bị đe dọa về tính mạng.
Hơn nữa, một số quốc gia ở Châu Phi theo đuổi chính sách thay thế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước với mức thuế nhập khẩu cao. Các chính sách thương mại thiếu minh bạch, thiếu độ tin cậy và hiệu quả thấp nên làm ảnh hưởng đến tâm lý kinh doanh của các doanh nghiệp
Bên cạnh đó, thủ tục hải quan xuất nhập cảnh tương đối phức tạp tại một số quốc gia Châu Phi, với cách thức kiểm hóa và thông quan lạc hậu, chưa được tự động hóa. Các quy định thiếu minh bạch, khó dự đoán và không thống nhất.
Ngoài ra, nhu cầu ở thị trường Châu Phi là cao nhưng không ổn định, đặc biệt là nông sản phẩm bởi nó phụ thuộc vào tình hình sản xuất bấp bênh theo mùa vụ từng năm. Như mặt hàng gạo có những năm nhu cầu nhập khẩu của Châu Phi lớn đến mức không nước nào có thể đáp ứng được nhưng có những năm lại rất thấp.Điều này dẫn đến các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu nông sản hay gạo sang thị trường này phải ký kết các hợp đồng mang tính thời vụ là chủ yếu.
Trở ngại tiếp theo là các đối tác Châu Phi thường yêu cầu thanh toán trả chậm trong khi nguồn lực tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam không lớn. Hình thức này luôn tiềm ẩn mức độ rủi ro rất cao.
Các rào cản vể ngôn ngữ và văn hóa :
Đây cũng là một trong những yếu tố tạo ra rào cản không dễ gì vượt qua đối với doanh nghiệp Việt Nam trong quan hệ với các nước Châu Phi. Điều này làm cho các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có thể gắn kết với các đối tác Châu Phi qua các hợp đồng mang tính khô khan mà chưa thực sự tạo được quan hệ đối tác thường xuyên, bền chặt.
Một số rào cản từ phía Việt Nam:
Doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu sự hỗ trợ thực tế và hiệu quả từ phía các cơ quan quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Họ mới chỉ nhận được sự giúp đỡ có hạn từ việc cung cấp thông tin của các cơ quan hữu quan. Hệ thống các cơ quan đại diện của Việt Nam ở Châu Phi còn quá mỏng và chưa đủ sức hỗ trợ cho doanh nghiệp Việt Nam trong xúc tiến thương mại. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam rất thiếu năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp đến từ Thai Lan, Trung Quốc,…
Tóm lại, trên đây là những cơ hội và thách thức trong hoạt động thương mại VIệt Nam – Châu Phi. Cụ thể khi xem xét vấn để gạo xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Châu Phi, những cơ hội trên tạo ra những triển vọng cho sự phát triển hơn nữa của hoạt động xuất khẩu gao của Việt Nam, nhưng những thách thức đặt ra cũng khiến cho Việt Nam chưa thực hiện xuất khẩu tương xứng với tiềm năng và lợi thế của mình. Vấn đề đặt ra là phải biết tận dụng tốt nhất các cơ hội và khắc phục những thách thức để phát huy hết tiềm năng trong hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng của Việt Nam sang thị trường Châu Phi.
b. Sự biến động giá cả của mặt hàng gạo trên thị trường thế giới:
Để có thể xem xét tiềm năng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Châu Phi ta cũng không thể bỏ qua những yếu tố tác động về mặt giá cả trên thị trường thế giới, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập hiện nay.
Trong 2 năm 2006-2007, giá gạo toàn cầu đã tăng gấp đôi, đạt mức cao nhất trong hơn 10 năm. Chỉ trong vòng 1 năm 2007, giá tăng khoảng 50-85USD/tấn, trong đó gạo đồ và gạo chất lượng thấp của Thái Lan có giá tăng mạnh nhất.Giá gạo tăng mạnh không chỉ ở thị trường nhập khẩu lớn như Indonesia, Pakistan, hay Trung Quốc mà cả ở những nước sản xuất lớn như Ấn Độ, Việt Nam góp phần đẩy lạm phát giá tiêu dùng tăng vọt.
Nhiệt độ trái đất đang nóng lên ở nhiều nơi trên thế giới và trở thành nỗi lo lớn nhất của ngành nông nghiệp nói chung và ngành trồng lúa nói riêng, đặc biệt là ở Châu Á – nơi lúa gạo là loại cây lương thực chính và an ninh lương thực phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nước tưới và phân bón. Hiện sản lượng gạo thế giới chỉ tăng dưới 2% mỗi năm, và những nước trông lúa đang rất khó khăn trong việc tăng tốc độ, tăng sản lượng lên nữa. Dự trữ gạo thế giới cũng giảm xuống mức thấp nhất trong 30 năm, đã gây áp lực đối với những nước nhập khẩu gạo.
Đầu tháng 8/2007, Chính phủ Việt Nam đã quyết định tạm dừng ký các hợp đồng xuất khẩu gạo, chỉ cho phép thực hiện những hợp đồng đã ký, để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Tiếp đến, ngày 9/10, Ấn Độ cũng tuyên bố cấm xuất khẩu gạo phi- basmati để kiềm chế sốt giá nội địa. Sau đó đến cuối tháng 10, Ấn Độ cho phép xuất khẩu gạo phi – basmati chất lượng cao với giá trên 425USD/ tấn. Việc Ấn Độ và Việt Nam hạn chế xuất khẩu gạo đã tác động mạnh tới giá gạo thế giới, Ấn Độ và Việt Nam đều là những nước xuất khẩu gạo rất lớn. Kết quả là khách hàng đổ dồn vào gạo Thái Lan, làm giá gạo nước này tăng cao, đặc biệt là gạo đồ, trong đó xuất khẩu sang Châu Phi năm 2007 tăng khoảng 3,5-4 triệu tấn.
Năm 2007 các nước xuất khẩu gạo chủ chốt nhìn chung phải đối mặt với sự hạn hẹp về nguồn cung. Nhu cầu nhập khẩu tăng mạnh, đặc biệt ở khu vực Châu Á. Ngay từ đầu năm đã dự báo nhu cầu gạo thế giới sẽ tăng, lên khoảng 27,2 triệu tấn, nhưng đến tháng 7-2007, do có sự đột biến, nhu cầu tăng lên hơn 30 triệu tấn. Hơn nữa, Ấn Độ lại phải giảm tiến độ xuất khẩu gạo và nhập khẩu thêm lúa mì để bù đắp lượng gạo thiếu hụt. Indonesia trước đây không nhập gạo, năm nay cũng phải nhập khẩu hơn 1,3 triệu tấn, góp phần làm biến động thị trường gạo trên thế giới. Trước tình hình đó, Thái Lan vẫn là nước cung cấp gạo lớn nhất cho thị trường thế giới, đã vạch ra chiến lược mới nhằm duy trì vị trí nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới của mình, bằng cách tăng sản lượng gạo và phát triển hoạt động marketing. Các thị trường mới mà Thái Lan hướng vào trong đó có thị trường Châu Phi.
Dự báo nhu cầu mạnh có thể đẩy giá gạo tăng hơn nữa vào đầu năm 2008, gạo 100% B của Thái Lan có thể vượt mức giá 400USD/tấn so với 380USD/tấn cuối năm 2007; gạo hương nhài sẽ đạt 700USD/tấn so với 663USD/tấn , do Việt Nam và Ấn Độ chưa sớm xóa bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, đồng Baht Thái tăng giá và cước phí vận chuyển tăng sẽ tiếp tục là những yếu tố chính hạn chế xuất khẩu của Thái Lan.
Những biến động trên thị trường thế giới cũng ảnh hưởng rất lớn đến giá gạo xuất khẩu của Việt Nam:
Năm 2007, xuất khẩu gạo của Việt Nam tuy giảm về số lượng (2%) so với năm 2006 nhưng kim ngạch lại tăng 15%. Có điều này chủ yếu là do giá gạo xuất khẩu bình quân của cả năm đã đạt tới 295USD/tấn, cao hơn mức giá bình quân của cả năm 2006 tới 41USD/tấn. Đầu năm 2008, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam cũng tăng cao và được dự báo là sẽ tiếp tục tăng. Mới đầu tháng 2/2008, giá gạo 5% tấm của Việt Nam đã ở mức 460USD/tấn, tăng so với hồi đầu tháng 1 là 355USD/tấn, tăng hơn so với cùng kỳ năm ngoái là 90 –100 USD/tấn; gạo 25% tấm là 418USD/tấn. Nhu cầu ở một số thị trường châu Phi và khu vực Trung Đông cũng tăng cao làm giá gạo trong nước tăng vọt bất ngờ. Trong khi đó, nguồn cung vẫn trong tình trạng khan hiếm. Ở Thái Lan sau một thời gian đẩy mạnh xuất khẩu khi nguồn cung từ các nước khác đã cạn kiệt, đến giờ nguồn cung gạo xuất khẩu đã bị hạn hẹp nhiều, đến mức nước này phải cầu viện tới nguồn gạo dự trữ.
Trước tình hình biến động giá cả của gạo xuất khẩu quá tốt như vậy, rõ ràng Việt Nam có rất nhiều cơ hội để tăng cường xuất khẩu gạo nói chung và xuất khẩu gạo sang thị trường Châu Phi nói riêng.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG CHÂU PHI TRONG THỜI GIAN QUA
Thực trạng sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam:
Việt Nam từ xưa đến nay vẫn được coi là một nước có những lợi thế về hàng nông sản, trong đó gạo là mặt hàng xuất khẩu hết sức quan trọng. Từ năm 1989, mặt hàng này bắt đầu xuất hiện trên thị trường thế giới, và hiện nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới chỉ sau Thái Lan.
Việt Nam có 2 vùng trồng lúa chính là đồng bằng sông Hồng ở phía bắc và đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam.Hàng năm sản lượng lúa của cả nước đạt 33-34 triệu tấn, trong đó chỉ sử dụng khoảng 8 triệu tấn (tương đương khoảng 4 triệu tấn gạo sau khi đã xay xát) cho xuất khẩu, còn lại là tiêu thụ trong nước và bổ sung cho dự trữ quốc gia.
Ở miền Bắc, một năm có 2 vụ lúa chính: vụ chiêm và vụ mùa. Ở miền Nam, nông dân trồng 3 vụ một năm: vụ đông xuân (có sản lượng cao nhất và thóc cũng đạt chất lượng tốt nhất cho xuất khẩu), vụ hè thu và vụ ba.
Gạo ở Việt Nam gồm: Gạo nếp (dẻo, dính), và gạo tẻ. Trong đó Việt Nam xuất khẩu các loại gạo sau: gạo 5% tấm đánh bóng1 lần, gọa 5% tấm đánh bóng 2 lần, gạo 10%, 15%, 25%, và 100% tấm. Ngoài ra còn có gạo sắt, gạo đồ, gạo thơm.
Ngay từ những năm 1989, đã có những cơ chế cho hoạt động xuất khẩu gạo và cho đến nay, kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đã lọt vào top 10 nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo.
10 quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới 2003
1
Thái Lan
7.750.000 tấn
2
Việt Nam
4.250.000 tấn
3
Ấn Độ
4.000.000 tấn
4
Mỹ
3.400.000 tấn
5
Trung Quốc
2.250.000 tấn
6
Pakistan
1.100.000 tấn
7
Miến Điện
1.000.000 tấn
8
Uruguay
650.000 tấn
9
Ai Cập
400.000 tấn
10
Argerntina
350.000 tấn
1.1. Việt Nam có những lợi thế và hạn chế trong sản xuất và xuất khẩu gạo :
Theo Viện nghiên cứu thương mại, những hạn chế của Việt Nam trong xuất khẩu gạo đó là:
Hầu hết thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam là các nước có thu nhập thấp và trung bình, nên tiêu thụ chủ yếu loại gạo có chất lượng trung bình và thấp, không tiêu thụ được loại gạo chất lượng cao. Do vậy đã ảnh hưởng đến giá trị xuất khẩu. Diện tích sản xuất rộng lớn nhưng quy mô thấp, chủ yếu sử dụng các lao động không chuyên nghiệp, mức đầu tư vào các thiết bị sản xuất trong phạm vi hộ nông dân thấp. Mùa vụ thu hoạch và xuất khẩu của Việt Nam trái với vụ mùa chung trên thế giới. Khả năng giao dịch, đàm phán của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp.
Chênh lệch giữa giá gạo trong nước và giá giao tại cảng lại khá lớn do chi phí dịch vụ xuất khẩu gạo của Việt Nam cao. Điều này xuất phát từ sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng, vận tải, bốc dỡ. Ví dụ, chi phí bốc dỡ xếp hàng và chi phí tại cảng ở Thái Lan chỉ bằng 1/2 Việt Nam, tốc độ bốc dỡ hàng của Việt Nam chậm hơn so với Thái Lan 6 lần. Mặt khác, theo kết quả điều tra của Viện công nghệ sau thu hoạch và Tổng cục Thống kê Việt Nam cho thấy, tổn thất sau thu hoạch ở Việt Nam cao, tổng tổn thất lên đến 12–15%, đồng nghĩa với giá thành bị đẩy lên 12–15%. Chính các yếu tố này đã làm giảm sức cạnh tranh của gạo Việt Nam.
Mặc dù có những hạn chế như vậy, nhưng các nhà phân tích vẫn tỏ ra rất lạc quan về tương lai gạo xuất khẩu của Việt Nam khi đưa ra các lợi thế và cơ hội:
Việt Nam đã trở thành một thế lực chủ yếu trên thị trường gạo thế giới. Sản xuất và xuất khẩu gạo là một trong những hướng ưu tiên phát triển của Chính phủ không chỉ xuất phát từ chính sách an ninh lương thực quốc gia mà còn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay. §iều kiện thiên nhiên thuận lợi cho sự phát triển của cây lúa, chi phí nguồn lực nội địa thấp. Xét về giá cả, chi phí sản xuất lúa ở Việt Nam thấp hơn nhiều so với Thái Lan: Chi phí lao động bằng 1/3, tỷ lệ diện tích được tưới gấp 2 lần, hệ số quay vòng đất gấp 1,33 lần, năng suất gấp 1,5 lần, các chỉ tiêu liên quan về giá đầu tư đầu vào bằng 50–80% chi phí của Thái Lan. Do vậy, chi phí sản xuất lúa gạo của Việt Nam bình quân từ 90–110 USD/tấn, trong khi đó chi phí của Thái Lan là 120–150 USD/tấn. Chính sách cơ cấu lại giống lúa đang được quan tâm và bước đầu đem lại hiệu quả, nâng cao năng suất, Việt Nam hoàn toàn có tiềm năng phát triển gạo chất lượng cao. Tăng trưởng xuất khẩu gạo chưa vượt quá ngưỡng an toàn lương thực quốc gia do mức tăng trưởng sản lượng cao. Bên cạnh các doanh nghiệp Nhà nước, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã tham gia vào thị trường sản xuất, chế biến, xuất khẩu gạo.
Xu hướng tự do hoá thương mại và yêu cầu mở cửa thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp sẽ tác động mạnh đến sự tăng nhập khẩu lương thực của các nước đang nhập châu á (thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam). Chính sách cắt giảm viện trợ lương thực của các nước phát triển cho các nước kém phát triển cũng làm tăng nhập khẩu lương thực theo điều kiện thương mại thông thường của các nước này, nhất là đối với các nước châu Phi. Những yêu cầu về cắt giảm trợ cấp xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp và giảm hỗ trợ trong nước sẽ làm tăng giá gạo chất lượng cao trên thị trường thế giới, nhất là giá gạo của Mỹ, Nhật. Điều này sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia vào thị trường gạo chất lượng cao.
Thực trạng xuất khẩu gạo ở Việt Nam trong thời gian gần đây:
Hiện nay,Việt Nam đã xuất khẩu gạo đến trên 80 nước và có mặt ở cả 5 châu lục. Cụ thể, châu Á 29 nước, châu Âu 29 nước, châu Mỹ 17 nước, châu Phi 16 nước, châu Đại Dương 3 nước. Trong đó, châu Á và châu Phi là hai thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam. Một số nước nhập khẩu gạo với số lượng lớn của Việt Nam như: Năm 2002, Indonesia nhập 744 ngàn tấn, Philippines 429,7 ngàn tấn (hàng năm gạo Việt Nam chiếm 40–60% tổng lượng gạo nhập khẩu của nước này), Malaysia 185,24 ngàn tấn, Singapore 97,36 ngàn tấn, Irắc 876,37 ngàn tấn.
Dưới đây là diễn biến hoạt động xuất khẩu gạo cuả Việt Nam thời gian gần đây.
Bảng số liệu dưới cho ta thấy xuất khẩu gạo của Việt Nam qua các năm đều tăng khá, nhưng đến năm 2006, 2007 lại có dấu hiệu giảm kim ngạch: năm 2006 là 4.65 triệu tấn giảm 10,57% so với năm 2005; năm 2007 là 4,53 triệu tấn giảm 2,58% so với năm 2006.Đó là do vào thời điểm đó, các nước sản xuất lúa đang gặp khó khăn do điều kiện thời tiết, sản lượng gạo thế giới tăng chậm, chỉ khoảng 2%/năm mà nhu cầu lại tăng mạnh hơn cung, dự trữ gạo thế giới đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 13 năm vào năm 2007. Sức ép đó đã khiến giá gạo tăng cao. Những dấu hiệu khan hiếm đó khiến sản lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam giảm dần để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Đến tháng 8/2007, chính phủ Việt Nam đã quyết định tạm dừng ký các hợp đồng xuất khẩu gạo, chỉ cho phép thực hiện các hợp đồng đã ký trước đó để đảm bảo đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và dự trữ quốc gia trước tình trạng căng thẳng của thị trường gạo thế giới. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về nguồn cung do những ảnh hưởng của thiên tai và sâu bệnh, song năm 2007 vẫn được xem là năm thắng lợi trong xuất khẩu gạo của Việt Nam nhờ giá cả tăng và nhu cầu thị trường thế luôn ở mức cao.
Bảng thống kê sản lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam qua các năm
(1995 – nay)
STT
Năm
Sản lượng XK (nghìn tấn)
1
1995
1988.0
2
1996
3003.0
3
1997
3575.0
4
1998
3730.0
5
1999
4508.3
6
2000
3476.7
7
2001
3720.7
8
2002
3236.2
9
2003
3810
10
2004
4063.1
11
2005
5200
12
2006
4650
13
2007
4530
Kết thúc năm 2007, tuy sản lượng xuất khẩu có giảm nhẹ so với năm 2006 nhưng kim ngạch lại tăng 15% , đạt mức 1,45tỷ USD. Trong năm 2007, bình quân giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đạt 295 USD/tấn, tăng 41 USD/tấn so với năm 2006. Điều đáng nói là, lần đầu t._.nh tế giữa Việt Nam và Châu Phi cần phải đảm bảo một số các nội dung sau:
Khai thác có hiệu quả các quan hệ ngoại giao hiện có giữa Việt Nam và Châu Phi trên cơ sở những cam kết đã được các bên thống nhất và tiếp tục phát triển các quan hệ ngoại giao mới, mở rộng hơn quy mô và phạm vi để thúc đẩy nhanh chóng các quan hệ kinh tế - thương mại trong điều kiện mới.
Quy định và phát huy chức năng phát triển các quan hệ kinh tế thương mại với nước sở tại, đặc biệt là quan hệ của các cơ quan ngoại giao của Việt Nam với các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, tài chính, thương mại, đầu tư, và các loại hình doanh nghiệp ở nước đối tác đầu tư để thu thâp thông tin, tìm kiếm đối tác đầu tư và thương mại, phát triển các giao dịch kinh doanh.
Trao quyền mở rộng các quan hệ kinh tế cho các cơ quan ngoại giao và bổ sung thêm nguồn nhân lực đêt thực hiện những công việc này, tìm kiếm đối tác, đại diện ký kết được các hợp đồng, thực hiện và triển khai được các dự án đầu tư, cụ thể là trong lĩnh vực nông nghiệp.
Có biện pháp hỗ trợ hợp lý theo đúng các quy định của WTO cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong nước phát triển các quan hệ buôn bán với các doanh nghiệp Châu Phi và thâm nhập sâu vào thị trường.
Khuyến khích phát triển quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và các nước Châu Phi trên nguyên tắc cùng có lợi, khai thác có hiệu quả các quan hệ về lợi ích và chi phí, trên cơ sở học tập kinh nghiêm của các doanh nghiệp các nước khác đã thành công trên thị trường Châu Phi như các doanh nghiệp Trung Quốc, Thái Lan…Các hình thức viện trợ hàng hóa như lương thực, thực phẩm, các hình thức trao đổi chuyên gia nên được khai thác để tăng cường quan hệ giữa các bên.
2.1.2. Tạo điều kiện pháp lý thuận lợi, ổn định và vững chắc cho các doanh nghiệp Việt Nam và Châu Phi thực hiện các giao dịch xuất khẩu trên nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng cùng có lợi
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện có hiệu quả hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng sang các đối tác Châu Phi, trước hết cần có các quy định pháp lý thuận lợi, rõ ràng, nhất quán, ổn định và cập nhật để tạo hành lang hợp pháp cho hoạt động kinh doanh. Ở đây muốn đề cập đến sự tương thích giữa các quy định pháp luật sẽ được xây dựng và ban hành ở Việt Nam với các quy định pháp luật và thông lệ quốc tế, đặc biệt là phù hợp với các cam kết trong WTO (Việt Nam và hầu hết các quốc gia Châu Phi đều đã trở thành thành viên của WTO). Các quy định pháp lý này là chỗ dựa đề các doanh nghiệp bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình khi tiến hành xuất khẩu sang thị trường nước ngoài.
Các điều kiện pháp lý cần được thực hiện bao gồm:
Chính phủ cần khẩn trương xây dựng Chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế - thương mại với Châu Phi đến năm 2020. Chiến lược này sẽ chủ yếu tập trung vào các vấn đề nguyên tắc và mục tiêu phát triển quan hệ kinh tế - thương mại với Châu Phi, các biện pháp chính sách cụ thể, các phương tiện , công cụ , và lộ trình thực hiện. Chiến lược này cũng cần xác định rõ thị trường trọng điểm, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Châu Phi , mà gạo là mặt hàng chủ lực truyền thống.
Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động đàm phán, ký kết các hiệp định song phương và đa phương về thương mại mà Việt Nam và các nước Châu Phi chưa tham gia ký kết. Các hiệp định này cần được nghiên cứu, xây dựng, đàm phán, ký kết và triển khai thực hiện sao cho các nước Châu Phi chấp nhận mở cửa và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam. Cần quán triệt các nguyên tắc cơ bản trong thương mại quốc tế khi tiến hanh đàm phán , ký kết các hiệp định này như nguyên tắc tối huệ quốc, nguyên tắc đãi ngộ quốc gia…
Bổ sung và hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý và phát triển các giao dịch xuất khẩu, đầu tư, cung cấp ODA và viện trợ lương thực (gạo) dưới nhiều hình thức cho các nước Châu Phi: nhưu viện trợ xóa đói giảm nghèo…từ đó cũng là một cách để người dân châu Phi biết đến gạo Việt Nam và uy tín của Việt Nam cũng được củng cố,
Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong các giao dich xuất khẩu với các nước Châu Phi, giảm tối thiểu các chi phí giao dịch để tiết kiệm thời gian đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng sang Châu Phi.
Hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng hoạt động xuất khẩu gạo sang thị trường Châu Phi:
+ Hỗ trợ vể tài chính:
Về thuế: thực hiện việc giảm thuế hoặc hoàn thuế phù hợp với cam kết khi gia nhập WTO của Việt Nam trong một thời gian nhất định đối với các doanh nghiệp xuất khẩu sang Châu Phi để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này tiếp cận thuận lợi hơn với thị trường có khoảng cách khá xa về địa lý như Châu Phi.
Áp dụng mức thuế thu nhập doanh nghiệp thấp đối với những doanh nghiệp xuất khẩu đang trong giai đoạn đầu khai thác thị trường châu Phi, để khuyến khích xuất khẩu
Hỗ trợ các điều kiện kinh doanh: Đối với những doanh nghiệp lần đầu tiên tham gia thị trường Châu Phi, sự trợ giúp có thể là các khoản chi phí vé máy bay, tiền sinh hoạt , chi phí thuê gian hàng trong hội chợ, triển lãm…Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ như các doanh nghiệp xuất khẩu gạo thì sự hỗ trợ này là rất quan trọng để doanh nghiệp có đủ khả năng tham gia xuất khẩu gạo với các đối tác Châu Phi vốn có rủi ro trong thanh toán rất cao.
Các chính sách hỗ trợ của chính phủ đối với hoạt đông xuất khẩu gạochủ yếu là: đảm bảo hiệu quả lâu dài, thủ tục xuất khẩu đơn giản, không gây chậm trễ, phiền hà đối với doanh nghiệp. nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến thương mại như tổ chức đoàn đi khảo sát thị trường Châu Phi, hỗ trợ 100% kinh phí trong chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia thay vì mức hỗ trợ 50% như hiện nay nhằm giúp doanh nghiệp có kinh phí tham gia hội chợ, quảng bá cho sản phẩm gạo Việt Nam.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho phương thức thanh toán khi giao dịch hàng hóa nói chung và gạo nói riêng với Châu Phi, Chính phủ cần khuyến khích các doanh nghiệp thúc đẩy mô hình hợp tác thương mại đa chiều, tránh tình trạng lệ thuộc vào các công ty trung gian như xuất khẩu gạo hiện nay của Việt Nam.
+ Hỗ trợ về thông tin: Đầu tư lớn vào việc xây dựng hệ thốnh thônh tin, phát huy vai trò của các trung tâm thông tin của các cơ quan, trung tâm thông tin như trung tâm thông tin Bộ thương mại, thông tin từ diễn đàn Châu Phi, mạng thông tin của các doanh nghiệp, thông tin từ các cơ quan quản lí nhà nước khác, thông tin từ các đại sứ quán các nước Châu Phi tại Việt Nam và của đại sứ quán Việt Nam tại các nước Châu Phi…Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về thị trường gạo Châu Phi một cách có hệ thống , cập nhật và phù hợp để doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam có thể tham gia vào thị trường này một cách thuận lợi, giảm thiểu rủi ro,bởi nhu cầu gạo của thị trường Châu Phi thường không ổn định do tác động của các yếu tố điều kiện tự nhiên cho sản xuất nông nghiệp,mùa vụ, các yếu tố chính trị xã hội bất ổn.
+ Hỗ trợ về đào tạo: đào tạo đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm làm việc với các đối tác Châu Phi, bồi dưỡng về ngoại ngữ cho đội ngũ các cán bộ làm việc với đối tác Châu Phi; phát triển đội ngũ các chuyên gia chuyên sâu về thị trường Châu Phi. Hình thành một đội ngũ chuyên gia am hiểu về lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản ở từng thị trường Châu Phi.
2.1.3. Mở rộng khai thác và sử dụng có hiệu quả các thị trường trung chuyển xuất khẩu gạo nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Châu Phi.
Đối với thị trường Châu Phi, hiện nay doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam thực hiện hoạt động kinh doanh chủ yếu dưới 2 hình thức là : xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu qua trung gian. Tuy nhiên đa số các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng tiếp cận và xâm nhập thị trường thế giới còn hạn chế, các nước Châu Phi thường yêu cầu phương thức trả chậm nên có rất nhiều rủi ro…, nên ít nhất là trong vài năm tới việc xuất khẩu trực tiếp gạo đến nhiều hơn các nước Châu Phi của Việt Nam mới có thể phổ biến; còn hiện nay, gạo Việt Nam vẫn phải xuất khẩu qua trung gian. Chính vì vậy mà vai trò của thị trường trung gian trung chuyển hàng hóa là vô cùng quan trọng trong chiến lược phát triển thị trường gạo Việt Nam ở châu lục này. Đây là các trung gian phân phối sản phẩm gạo của Việt Nam tới những thị trường khác ở Châu Phi. Đối với sản phẩm gạo thì cần tập trung vào thị trường Nam Phi, Ai Cập, Angola. Đây đều là những thị trường lớn ở Châu Phi, và là đầu mối trung chuyển chủ yếu ở đây. Từ Nam Phi, gạo Việt Nam có thể vào thị trường các nước thuộc khu vực Đông và Nam Phi, từ Ai Cập vào khu vực Bắc Phi, từ Angola có thể vào khu vực Trung Phi.
Về lâu dài khi có đủ tiềm lực về tài chính và sức cạnh tranh, doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần phải hướng tới xây dựng các kênh phân phối trực tiếp tại các nước Châu Phi hoặc tại một số thị trường trọng điểm với tư cách là đầu mối, cầu nối với các nước Châu Phi, nhằm khẳng định thương hiệu của gạo Việt Nam tại thị trường Châu Phi.
2.1.4. Áp dụng rộng rãi hình thức “hàng đổi hàng” trong xuất khẩu gạo sang Châu Phi
Hình thức buôn bán này là một trong những hình thức buôn bán ngoại thương nhưng chưa được sử dụng phổ biến.
Đối với thị trường Châu Phi, như đã phân tích ở trên, đây là thị trường còn không ít khó khăn đối với doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu gạo sang. Một trong những khó khăn đó là khả năng thanh toán yếu, do tài chính eo hẹp. Hơn nữa, do sự bất ổn định của khu vực về chính trị, về mâu thuẫn và chiến tranh sắc tộc, nội chiến…nên trong một chừng mực nhất định, nếu buôn bán mà không được thanh toán nhanh và chắc chắn thì khả năng rủi ro rất cao.
Để có thể khắc phục được khó khăn trên thì ngoài việc xuất khẩu trực tiếp gạo sang những nước có cơ quan đại diện, có quan hệ truyền thống, thuận lợi và ổn định kinh doanh trong nhiều năm như Nam Phi, Ai Cập, Angieri…, có thể áp dụng phương thức xuất khẩu gián tiếp mà ta đang sử dụng phổ biến hiện nay, hay có thể áp dụng rộng rãi hình thức hàng đổi hàng. Chẳng hạn như Tanzania là đất nước có nhiều nguyên liệu gỗ, hạt điều,trong khi đó ngành công nghiệp chế biến gỗ và hạt điều của họ lại chưa phát triển, nhưng đây lại là đất nước có nhiều bất ổn về chính trị. Do đó, Việt Nam có thể xuất khẩu gạo sang thị trường này và đổi lấy gỗ hay hạt điều nguyên liệu cho ngành chế biến, sản xuất trong nước. Hình thức “hàng đổi hàng”, là giải pháp có tính khả thi, hiệu quả cao và dễ áp dụng, đồng thời góp phần khắc phục được những hạn chế chủ yếu trong khẩu thanh toán giữa hai bên.
2.1.5. Nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại vào thị trường Châu Phi
Một là, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại tại các thị trường trọng điểm tại Châu Phi
Mặc dù hiện nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 48/54 quốc gia Châu Phi nhưng hoạt động xuất khẩu gạo mới tiến hành ở hơn 26 nước. Việt Nam mới chỉ có 7 cơ quan đại diện thường trú ngoại giao (Ai Cập, Angieri, Libi, Angola, Nam Phi, Tanzania, Marốc), 4 cơ quan thường vụ (Ai Cậo, Angieri, Nam Phi, Marốc). Cần phải sớm thành lạpp thêm các cơ quan đại diện ngoại giao, các thương vụ tại một số nước Châu Phi mà hiện nay Việt Nam chưa có trụ sở, mà lại có quan hệ xuất khẩu gạo. Các cơ quan thương cụ cần phải sớm mở là: Nigieria, Senegal, Tanzania, Ghana, Liberia, Bờ Biển Ngà, Angola, Libi, đây được coi là những cửa ngõ, đầu mối trong quan hệ giữa các tiểu lục địa ,để gạo Việt Nam có thể vào sâu Châu Phi.
Tại mỗi thị trường trọng điểm, có tiềm năng lớn hơn các thị trường khác cần xây dựng một số trung tâm giới thiệu sản phẩm gạo của Việt Nam để truyền bá sản phẩm, cung cấp thông tin về thị trường và doanh nghiệp, tìm kiếm và giao dịch với khách hàng.
Ở những nước có trình độ kinh tế tương đối phát triển, hệ thống ngân hàng, tài chính tương đối lành mạnh, Chính phủ cần thương lượng để mở L/C cho các doanh nghiệp, hạn chế những khó khăn về khoảng cách xa xôi trong thanh toán và vận chuyển, dẫn đến giá thành và chi phí cao cho các doanh nghiệp.
Hỗ trợ các doanh nghiệp, hiệp hội xuất khẩu gạo trong việc thăm dò và khảo sát thị trường, mở triển lãm, quảng bá cho gạo Việt Nam. Mức hỗ trợ này nên cao hơn so với các thị trường khác do tính chất của thị trường Châu Phi và tính cấp thiết của việc thâm nhập thị trường này của gạo xuất khẩu Việt Nam.
Hai là, quan tâm đến việc nâng cao vai trò và năng lực xúc tiến thương mại của các hiệp hội. Trong lĩnh vực xuất khẩu gạo thì nước ta có Hiệp hội lương thực Việt Nam. Đây là cầu nối giữa doanh nghiệp với Nhà nước và giữa các hiệp hội với nhau. Vì thế Nhà nước cần sớm ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của các Hiệp hội và quan tâm hỗ trợ cho Hiệp hôi thực hiện tốt chức năng của mình. Các biện pháp đẩy mạnh xúc tiến thương mại của Hiệp hội đối với hoạt động xuất khẩu gạo sẽ được trình bày ở phần sau.
2.1.6. Mở rộng việc áp dụng hình thức đầu tư để phát triển hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Châu Phi.
Đây được coi là một trong những giải pháp mới và rất có triển vọng trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Ngoài các hình thức xuất khẩu gạo vẫn thường dùng từ trước tới nay là XK trực tiếp và XK qua trung gian, đầu tư trực tiếp là một hình thức mới xuất hiện và được một số ít doanh nghiệp Việt Nam thực hiện trong vài năm gần đây.
Thị trường Châu Phi đang nổi lên như một khu vực đang thiếu trầm trọng -vốn đầu tư, trình độ khoa học – công nghệ nhìn chung còn lạc hậu, nguồn nhân lực ở trình độ thấp. Đặ biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, những quốc gia Châu Phi thường xuyên lâm vào tình trạng mất mùa, thiếu lương thực, năng lực sản xuất trong nước không đáp ứng nổi nhu cầu ngày một tăng. Tuy nhiên tiềm năng của ngành nông nghiệp Châu Phi là khá lớn. Với những kinh nghiệm truyền thống, tiềm năng và thế mạnh của mình trong sản xuất nông nghiệp, các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện mạnh mẽ việc đầu tư vào sản xuất nông nghiệp vào Châu Phi để tranh thủ tiềm năng và cơ hội ở các nước Châu Phi mang lại.
Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát tình hình sản xuất nông nghiệp ở nhiều nước Châu Phi, một số chuyên gia nông nghiệp Việt Nam khẳng định rằng Việt Nam hoàn toàn có thể đầu tư kỹ thuật, chuyên viên và nông dân tiên tiến sang Châu Phi để giúp các nước Châu Phi cải thiện nhanh chóng tình trạng thiếu lương thực triền miên. Trên cơ sở đó, Việt Nam co thể xuất khẩu gạo từ Châu Phi. Giáo sư Võ Tòng Xuân đã nghiên cứu và khảo sát về khả năng sản xuất lương thực tại Sierra Leone (Tây Phi), và nhận ra điều kiện sản xuất nông nghiệp của nước này khá giống với vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam, nhưng nước này lại đang thiếu lương thực trầm trọng do những hạn chế trong trình độ sản xuất. Phó tổng thống nước Sierra Leon, khi nghe trình bày nghiên cứu của giáo sư Võ Tòng Xuân trình bày kết quả nghiên cứu về tiềm năng sản xuất lương thực của nước này đã thốt lên rằng: “Tôi bất ngờ là đât nước Sierra Leone của chúng tôi lại có những khả năng tiềm ẩn đó. Nếu Việt Nam giúp đất nước tôi thử nghiệm tổ chức áp dụng kỹ thuật sản xuất lương thực theo kỹ thuật của đồng bằng Cửu Long thì không những nông dân Sierra Leone sẽ được no ấm, nước Sierra Leone được an toàn lương thực mà Việt Nam còn có thể cùng Sierra Leone xuất khẩu gạo trực tiếp từ cảng Freetown của Sierra Leone đến các nước Tây Phi” (theo báo Thanh Niên ngày 17/6/2006).
Từ những lợi ích của hoạt động này mà Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông nghiệp, Bộ khoa học và công nghệ cần có chương trình nghiên cứu để hỗ trợ thúc đẩy việc đầu tư vào nông nghiệp ở một số nước Châu Phi nhằm góp phần xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an ninh lương thực cho các nước này và từ đó, Việt Nam có thể xuất khẩu gạo từ chính các nước Châu Phi, đồng thời nâng cao ảnh hưởng của Việt Nam trên thị trường Châu Phi.
2.1.7. Bên trong nước
Chính phủ cần định hướng, quy hoạch các vùng sản xuất lúa riêng, cung cấp những giống mới chất lượng tốt, năng suất cao, truyền đạt kinh nghiệm sản xuất…Theo đó, gạo Việt Nam xuất khẩu sẽ tạo được vùng nguyên liệu đủ lớn để có thể chủ động về sản lượng xuất khẩu và đặc biệt chất lượng gạo đồng đều và thuần chủng. Đây vốn là điểm khiến Việt Nam chưa thể cạnh tranh được với Thái Lan trong lĩnh vực xuất khẩu gạo. Nếu khắc phục được vấn đề này sức cạnh tranh của gạo Việt Nam sẽ được nâng cao và có được uy tín trên thị trường nước ngoài.
Nhóm các biện pháp từ phía Hiệp hội
Hiệp hội đại diện cho các mặt hàng lương thực như gạo, ngô…Với vai trò là cầu nối giữa doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này với Nhà nước và giữa các doanh nghiệp với nhau, Hiệp hội lương thực sẽ phản ánh chính xác nhanh chóng hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh lương thực, cụ thể ở đây là doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam, tới các cơ quan quản lý nhà nước trong việc hoạch định và thực thi các chính sách phù hợp. Vai trò của hiệp hội trong vấn đề giải quyết kiện cáo, điều tiết thu hoạch gạo, đưa ra các tiêu chuẩn về gạo để bảo vệ cho quyền lợi cho hội viên là rất quan trọng. Hiệp hội xác định phương hướng, kế hoạch sản xuất gạo, tiêu thụ sản phẩm, thay mặt hội viên trong các vụ tranh tụng, phổ biến khoa học, kỹ thuật canh tác, cung cấp thông tin thị trường, hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các hội viên.
- Một trong những việc quan trọng mà Hiệp hội phải làm để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước là xúc tiến thương mại. Đển đây mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường Châu Phi, Hiệp hội lương thực Việt Nam cần nâng cao hiệu quả của hoạt động xúc tiến thương mại bằng các biện pháp sau:
Thứ nhất, Hiệp hội phải xây dựng được website chủ, đại diện cho các thành viên của mình quảng cáo về mặt hàng gạo kinh doanh, cũng như khả năng sản xuất kinh doanh, thu hút các đối tác trong và ngoài nước. Trang website chủ của Hiệp hội còn có tác dụng rất lớn trong việc lôi kéo sự tập trung chú ý và truy cập của các đối tác Châu Phi với mặt hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam, qua đó họ sẽ đến với các thành viên của Hiệp hội nhanh hơn.
Thứ hai, Hiệp hội nên thiết lập ít nhất một văn phòng đại diện tại một thị trường trọng điểm để thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại đối với gạo xuất khẩu, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các cơ quan đại diện ngoại giao, thương vụ trong việc thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường, tìm kiếm và tư vấn sản phẩm có thể được gợi ý để trao đổi trong xuất khẩu gạo với hình thức “hàng đổi hàng” cho các thành viên xuất khẩu gạo của hiệp hội.
- Hiệp hội cần tập trung cung cấp thông tin về thị trường gạo Châu Phi, nghiên cứu lập chi nhánh đại diện ở một số nước châu Phi trọng điểm trong xuất khẩu gạo của Việt Nam như Nam Phi, Ai Cập để nắm bắt và xử lý các vấn đề nảy sinh từ thị trường các nước Châu Phi khác nhập khẩu gạo của Việt Nam thông qua những nước này.
- Ngoài ra, Hiệp hội cần vận động và khuyến khích thành lập quỹ phòng chống rủi ro đối với ngành hoặc từng khu vực thị trường , nhất là đối với sản phẩm ngành hàng quan trọng, khối lượng xuất khẩu lớn, mang nặng tính thời vụ, chịu sự chi phối nhiều của thị trường thế giới như gạo.
Nhóm giải pháp từ phía doanh nghiệp
2.3.1. Đẩy mạnh xuất khẩu gạo đối với các thị trường trọng điểm
Những thị trường trọng điểm được coi là “cửa ngõ” vào Châu Phi, là đầu mối của các quan hệ thương mại của Châu Phi với các trung tâm thương mại lớn trên thế giới, được xác định là các thị trường: Ai Cập, Nam Phi, Angieri, Ghana, Nigieria, Tanzania, Angola, Bờ Biển Ngà, Marốc. Trong đó, các thị trường trọng điểm của gạo xuất khẩu là : Nam Phi, Angieri, Tanzania, Nigieria, Angola, Bờ Biển Ngà.
Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam cần coi những thị trường này là điểm tựa để các doanh nghiệp có thể phát triển sang các thị trường khác ở Châu Phi. Tuy vậy, để thành công trong hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp cần kiên trì hơn trong việc làm ăn với thị trường Châu Phi. Cần linh hoạt trong việc tìm kiếm những thị trường còn bỏ ngỏ mà các doanh nghiệp Âu-Mỹ, Thái Lan và Trung Quốc… còn chưa quan tâm đến.
2.3.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam trên thị trường Châu Phi
Hầu hết những doanh nghiệp đã tiến hành xuất khẩu và làm ăn với các đối tác Châu Phi đều cho rằng kiên trì là yếu tố đầu tiên quyết định thành công trên thị trường này. Do vậy, chỉ những doanh nghiệp xác định làm ăn và có kế hoạch xuất khẩu lâu dài mới nên thâm nhập thị trường Châu Phi.
Xác định đối thủ cạnh tranh trực tiếp
Đối thủ cạnh tranh trực tiếp trong lĩnh vực xuất khẩu gạo vào thị trường Châu Phi cũng như thị trường các nước khác trên thế giới.Thái Lan là quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới với sản lượng lớn, chất lượng cao, đồng đều. Bên cạnh đó Chính phủ Thái Lan cũng có những chính sách thúc đẩy hơn nữa sản xuất gạo để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của các khách hàng, đồng thời củng cố địa vị dẫn đầu trong thị trường gạo thế giới nói chung và Châu Phi nói riêng.
Xác định các đoạn thị trường mục tiêu
Việc xác định đúng đoạn thị trường mục tiêu, phù hợp với khả năng và điều kiện sản xuất của Việt Nam là yếu tố quan trọng để tạo được bước đệm,nền tảng vững chắc khi bắt đầu thâm nhập bất cứ thị trường nào, không chỉ thị trường gạo ở Châu Phi. Đoạn thị trường đầu tiên mà các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam hướng đến là những người tiêu dùng có thu nhập thấp, nhu cầu nhiều nhưng lại không đòi hỏi quá khắt khe về phẩm chất. Khi đã tạo dựng được cơ sở thì bản thân doanh nghiệp cũng như khách hàng sẽ tiến lên đoạn thị trường cao hơn, với yêu cầu cao hơn, khắt khe hơn.
Phân tích và lựa chọn chiến lược
Các doanh nghiệp cần phải xác định thị trường Châu Phi là thị trường tiềm năng hơn là thị trường trước mắt. Nhất là đối với mặt hàng gạo, luôn là mặt hàng có nhu cầu nhập khẩu lớn nhất ở các nước Châu Phi này. Vì vậy, các doanh nghiệp muốn khai thác có hiệu quả thị trường này thì cần phải có chiến lược kinh doanh phù hợp, tránh tình trạng kinh doanh chụp giật, tự phát, ngắn hạn. Đối với những nước có hệ thống ngân hàng tương đối phát triển, Việt Nam đã có cơ quan thương vụ / ngoại giao thì có thể thực hiện chiến lược xuất khẩu trực tiếp, lựa chọn đối tác mở L/C. Còn đối với những nước nhỏ, bất ổn về kinh tế và chính trị, khả năng thanh toán kém thì nên dùng chiến lược xuất khẩu qua trung gian, hoặc “hàng đổi hàng”.
Lựa chọn phương thức kinh doanh thích ứng với điều kiện của tứng nước Châu Phi
Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam cần phải tiến hành xây dựng những kênh riêng để đưa gạo Việt Nam vào Châu Phi. Các doanh nghiệp có thể lựa chọn phương thức xuất khẩu gạo vào Châu Phi qua một tổ chức, nước trung gian để tránh tình trạng thiếu vốn hoặc giá trị hàng hóa không đủ đáp ứng chi phí vận chuyển, tiếp thị, quảng cáo. Với những nước mà Việt Nam đã mở cơ quan ngoại giao, thương vụ như Nam Phi, Ai Cập, Angola, Angieri, và những nước có hệ thống ngân hàng tương đối phát triển như Marốc, Tuynidy, các doanh nghiệp Việt Nam có thể tìm cách xuất khẩu gạo trực tiếp. Tuy nhiên để có thể đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp sang Châu Phi, các doanh nghiệp cần phải đáp ứng được 2 điều: giao hàng và thanh toán. Để tránh tình trạng các nước Châu Phi nhập khẩu với số lượng nhỏ và thanh toán chậm, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của ta phải xây dựng các kho dự trữ, tích cực làm thủ tục mở L/C, hoặc dựa trên các đối tác tin cậy để thanh toán.
Đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực nông nghiệp của Châu Phi:
Căn cứ vào thực tế các nước châu Phi luôn lâm vào tình trạng thiếu lương thực trầm trọng, nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển, việc các doanh nghiệp Việt nam tiến hàng đầu tư vào nông nghiệp các nước này sẽ một mặt giải quyết được vấn đề an ninh lương thực cho họ, vừa làm tăng uy tín của doanh nghiệp trong quá trình làm ăn buôn bán ở đây. Ngoài ra việc đầu tư trực tiếp vào nông nghiệp Châu Phi như vậy cũng sẽ mở ra cơ hôi cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo ngay từ các nước Châu Phi, góp phần khắc phục khó khăn về khoảng cách địa lý, tiết kiệm được chi phí vận chuyển, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
Xây dựng hệ thống kho ngoại quan
Kho ngoại quan là giải pháp nhằm khắc phục khoảng cách địa lý và rủi ro trong thanh toán khi doanh nghiệp xuất khẩu gạo sang Châu Phi. Kho hàng ngoại quan cho phép đáp ứng những lô hàng nhỏ, từ đó giảm thiểu chi phí vận chuyển. Đồng thời, nó tạo điều kiện cho việc thanh toán trực tiếp bằng L/C, đả bảo an toàn kinh doanh cho doanh nghiệp. Đây cũng là phương thức phù hợp với tập quán làm ăn, kinh doanh của Châu Phi là “nhìn thấy hàng mới ngã giá và trả tiền, mua đến đâu tiêu thụ đến đấy”.
Các doanh nghiệp cần dự báo và nắm bắt được nhu cầu và khả năng cung ứng trên thị trường để có quyết định lượng gạo lưu kho ngoại quan. Đồng thời chủ động phát triển mạng lưới phân phối ,tiêu thụ gạo tại địa phương lân cận.
Thực hiện phương thức “hàng đổi hàng”.
Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo có thể kết hợp với các doanh nghiệp nhập khẩu các hàng hóa từ Châu Phi (thường là sản phẩm thô cho công nghiệp chế biến) tạo thành cặp đôi “hàng đổi hàng”. Doanh nghiêp sẽ xuất khẩu gạo sang một nước Châu Phi và đổi lấy một mặt hàng khác (gỗ, điều, bông…) cho doanh nghiệp có nhu cầu nhập khẩu sản phẩm đó. Như vậy sẽ khắc phục được những điểm hạn chế trong thanh toán ở các nước Châu Phi.
Đa dạng hóa hình thức xúc tiến thương mại thích ứng với thị trường Châu Phi
Một điểm đặc biệt là các đối tác Châu Phi rất khó tiếp cận nếu chỉ thông qua các hội chợ triển lãm. Điều mà rất nhiều nhà doanh nghiệp Châu Phi cọi trọng đó là việc gặp gỡ trực tiếp đối tác.
Vì vậy, một hình thức xúc tiến thương mại với thị trường Châu Phi mà các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam cần quan tâm là tổ chức các đoàn xúc tiến thương mại quy mô nhỏ với khoảng 5-6 doanh nghiệp để tiếp cận trực tiếp với các đối tác Châu Phi hơn là hội thảo hay diễn đàn quy mô lớn.
Tăng cường liên kết các doanh nghiệp xuất khẩu gạo
Hiệp hội là một hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp cùng tiến hành hoạt đôngj xuất khẩu gạo sang thị trường Châu Phi, nhằm hỗ trợ lẫn nhau, chia sẻ kinh nghiệm, tạo thế lực mạnh hơn trong xuất khẩu hàng hóa.
Đa dạng hóa chủng loại gạo xuất khẩu đi đôi với tăng cường các hoạt động marketing và xây dựng thương hiệu
Trong thời gian tới, nhu cầu của người tiêu dùng gạo của châu Phi sẽ ngay một khắt khe và đa dạng, phong phú hơn. Vì thế cần nghiên cứu và phát triển các chủng loại, giống lúa mới có chất lượng, đa dạng hóa các chủng loại gạo xuất khẩu để phục vụ cho thị trường trong tương lai.
Xây dựng thương hiệu phù hợp cho gạo Việt Nam
Công việc này đòi hỏi phải kiên trì xây dựng thương hiệu, tạo niềm tin với các khách hàng và đối tác. Chủ động đăng kí bản quyền thương hiệu với các cơ quan chức năng sở tại cũng là vấn đền hết sức quan trọng.
Các hoạt động quảng bá khác như mở các trung tâm thương mại, các cửa hàng giới thiệu sản phẩm với quy mô phù hợp nhằm giới thiệu gạo Việt Nam đến với thị trường. Các doanh nghiệp cũng cần phải thực hiện hiệu quả hơn công tác khảo sát trực tiếp các thị trường gạo của Châu Phi.
Các doanh nghiệp cũng cần thường xuyên phối hợp với cơ quan xúc tiến thương mại, để tham gia một số hội chợ triển lãm…
Đổi mới cải tiến công nghệ
Để tiếp tục hạ giá thành gạo và nâng cao chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp phải thực hiện tốt các công tác tiêu chuẩn hóa, kiểm tra chất lượng, đóng gói và dán nhãn hàng gạo Việt Nam. Tuy nhiên trong dài hạn thì biện pháp đổi mới cải tiến công nghệ sản xuất sẽ đóng góp tích cực cho việc giảm thiểu chi phí cho doanh nghiệp.
Phát triển nguồn nhân lực
Nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong làm ăn với nước ngoài thì yếu tố con người mang tính then chốt. trong quá trình tiếp nhận và thâm nhập thị trường Châu Phi, các doanh nghiệp xuất khẩu cần chú ý đạo tạo và hoàn thiện các kỹ năng về ngoại thương, đàm phán, nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học, nghiệp vụ Marketing, thu thập và xử lý thông tin, hiểu biết sâu về mặt hàng gạo.
Tăng cường , phát huy mối quan hệ với kiều bào ở các nước Châu Phi
Tuy không đông đảo như Việt kiều ở các châu lục khac như châu Âu, châu Mỹ nhưng kiều bào ở Châu Phi vẫn là lực lượng khá quan trọng giúp các doanh nghiệp trong việc tìm hiểu thị trường, tìm kiếm đối tác…Các doanh nghiệp cần phải biết tận dụng và phát huy cũng như duy trì các mối quan hệ với kiều bào ở Châu Phi để thâm nhập sâu vào thị trường Châu Phi.
Nhìn chung triển vọng phát triển thị trường ở Châu Phi là rất sáng sủa khi các chính sách thương mại của Việt Nam đối với thị trường này được sửa đổi và điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Châu Phi hiện đang là một thị trường tiềm năng của xuất khẩu gạo- một lợi thế của nước ta, mà thị trường Châu Phi không khắt khe như thị trường các khu vực khác. Phát triển thị trường Châu Phi trong thời gian tới sẽ góp phần thực hiện mục tiêu hội nhập kinh tế của Việt Nam , tạo điều kiện để Việt Nam giữ vứng vị trí là một quốc gia xuất khẩu gạo lớn trên thế giới.
KẾT LUẬN
Châu Phi – lục địa đen như một người khổng lồ đang thức tỉnh sau mấy chục năm dài bất ổn, làn sóng khủng hoảng trong châu lục đang có phần lắng dịu. Xu hướng liên kết, hợp tác, hòa bình đối thoại, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội ngày càng tăng, trở thành xu thế chung trong quan hệ kinh tế quốc tế và Châu Phi không nằm ngoài xu thế đó.
Châu Phi là thị trường với 54 quốc gia, dân số trên 850 triệu người nhưng vấn đề lương thực luôn luôn là vấn đề cấp thiết vì tình trạng thiếu lương thực ở đây rất trầm trọng. Chính vì thế nhu cầu nhập khẩu gạo của Châu Phi là rất lớn. So với các thị trường khác, thị trường Châu Phi khá dễ tính, không đòi hỏi quá khắt khe về chất lượng và mẫu mã. Điều này rất phù hợp với khả năng sản xuất và xuất khẩu gạo của nước ta.
Với nền tảng là quan hệ thương mại Việt Nam – châu Phi, hoạt động xuất khẩu gạo cũng đang được quan tâm để khai thác được hết những thê mạnh của Việt Nam và tiềm năng của thị trường Châu Phi. Nhằm nâng cao tính thực tiễn của vấn đề nghiên cứu, góp phần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường tiềm năng này, tôi chủ yếu tập trung vào quan hệ xuất nhập khẩu gạo của Việt Nam - Châu Phi trong thời gian qua. Trên cơ sở đó đánh giá những kết quả và tồn tại, từ đó đưa ra một số định hướng và giải pháp tăng cường xuất khẩu gạo của Việt Nam sang châu lục này trong tương lai.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7353.doc