Thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng da giày sang thị trường EU của Công ty cổ phần da giày Việt Nam

Tài liệu Thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng da giày sang thị trường EU của Công ty cổ phần da giày Việt Nam: ... Ebook Thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng da giày sang thị trường EU của Công ty cổ phần da giày Việt Nam

doc112 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1416 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng da giày sang thị trường EU của Công ty cổ phần da giày Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tr­êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n khoa kinh tÕ vµ kinh doanh quèc tÕ Chuyªn ngµnh qu¶n trÞ kinh doanh quèc tÕ  & œ CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI : THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU MẶT HÀNG DA GIÀY SANG THỊ TRƯỜNG EU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN DA GIÀY VIỆT NAM Giáo viên hướng dẫn  : TS. Nguyễn Anh Minh Sinh viên thực hiện : Phạm Tuấn Anh Lớp  : KDQT46A Hệ  : Chính qui Hµ Néi 4 - 2008 MỤC LỤC Lời mở đầu 4 Chương 1 : Cơ sở lý luận về xuất khẩu và sự cần thiết phải xuất khẩu mặt hàng da giày của Việt Nam Việt Nam sang thị trường EU 7 Những vấn đề chung về xuất khẩu Khái niệm 7 Vai trò của xuất khẩu 7 Các hình thức xuất khẩu 11 Nội dung của hoạt động xuất khẩu 15 Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu 24 Lý luận về thúc đẩy xuất khẩu 34 Khái niệm thúc đẩy xuất khẩu 34 Các chỉ tiêu đánh giá thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp 34 Các biện pháp doanh nghiệp có thể áp dụng để thúc đẩy xuất khẩu 36 1.3. Đặc điểm của mặt hàng da giày và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng da giày sang thị trường EU 42 1.3.1. Đặc điểm của mặt hàng da giày 42 1.3.2. Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng da giày 42 sang thị trường EU Chương 2 : Thực trạng xuất khẩu mặt hàng da giày của công ty cổ phần da giày Việt Nam 47 Giới thiệu về công ty cổ phần da giày Việt Nam 47 Quá trình hình thành và phát triển của công ty 47 Mô hình bộ máy quản trị và tổ chức sản xuất 49 2.1.3. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần da giày Việt Nam 53 Những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của công ty ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu mặt hàng da giày 56 . Thực trạng xuất khẩu mặt hàng da giày sang thị trường EU của công ty cổ phần da giày Việt Nam 61 2.2.1. Đặc điểm của thị trường da giày EU 61 2.2.2. Tình hình thực hiện hoạt động xuất khẩu của công ty cổ phần 69 da giày Việt Nam sang thị trường EU 2.2.3. Đánh giá hoạt động xuất khẩu mặt hàng da giày sang thị trường EU của công ty cổ phần da giày Việt Nam 78 Chương 3: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng da giày sang thị trường EU của công ty cổ phần da giày Việt Nam 84 3.1. Cơ hội và thách thức đối với mặt hàng da giày của Việt Nam trên thị trường EU 84 3.1.1. Cơ hội 84 3.1.2. Thách thức 86 3.2. Phương hướng xuất khẩu mặt hàng da giày sang thị trường EU của công ty cổ phẩn da giày Việt Nam 88 3.2.1. Mục tiêu phát triển chung của công ty 89 3.2.2. Phưong hướng xuất khẩu của công ty cổ phần da giày Việt Nam sang thị trường EU 89 3.3. Các giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng da giày sang thị trường EU của công ty cổ phần da giày Việt Nam 90 3.3.1. Các giải pháp tháo gỡ những khó khăn trước mắt của công ty 90 3.3.2. Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu trong tương lai 96 3.3.3. Một số kiến nghị 101 Kết Luận 106 Danh mục tài liệu tham khảo 107 DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU Bảng 1. 1 : Lợi thế so sánh của Việt Nam về lao động và chất lượng 45 sản phẩm so với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp Bảng 2.1 : Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ 54 phần Da Giày Việt Nam Bảng 2.2 : Cơ cấu vốn điều lệ của công ty cổ phần Da Giày Việt Nam 58 Bảng 2.3 : Danh mục đất đai, nhà xưởng công ty cổ phần Da Giày Việt 61 Nam Bảng 2.4 : Phân loại nhóm sản phẩm da giày tại thị trường EU 67 Bảng 2.5 : Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng da giày của công ty cổ phần 71 da giày Việt Nam sang thị trường EU Bảng 2.6 : Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty cổ phần da giày 73 Việt Nam sang thị trường EU Bảng 2.7 : Cơ cấu thị trường xuất khẩu (thị trường EU) của công ty 76 cổ phần Da Giày Việt Nam Bảng 2.8 : Các hình thức xuất khẩu của công ty cổ phần Da Giày 77 Việt Nam DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 2.1 : Mô hình bộ máy tổ chức công ty cổ phần Da Giày Việt Nam 51 LỜI MỞ ĐẦU Tính tất yếu của đề tài Ngành da giày Việt Nam là ngành công nghiệp chiếm vị trí thứ ba về kim ngạch xuất khẩu, chỉ sau ngành dệt may và dầu khí, chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Là ngành có định hướng xuất khẩu rõ rệt ( chiếm trên 90% sản lượng sản xuất ), tỷ lệ xuất khẩu của ngành luôn chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Việt Nam luôn là một trong 10 nước sản xuất và xuất khẩu giày lớn nhất trên thế giới. Từ năm 2004, Việt Nam đã trở thành nước đứng thứ tư thế giới về xuất khẩu giày dép sau Trung Quốc, Hồng Kông, Italya. Trong số các thị trường xuất khẩu chủ yếu, EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ngành da giày Việt Nam. Hàng năm có khoảng 90% sản phẩm do ngành sản xuất được xuất khẩu sang các thị trường, trong đó thị trường EU chiếm tỷ trọng 59% ( không kể số xuất khẩu qua các nước thứ ba ), thị trường Mỹ 20%, thị trường Nhật Bản 3%, còn lại là các thị trường nhỏ khác. Theo thống kê của EU, từ năm 1996, Việt Nam đã đạt vị trí thứ ba ( sau Trung Quốc và Indonexia ) trong số các nước xuất khẩu giày dép nhiều nhất vào EU. Tuy nhiên, xuất phát từ nội tại sản xuất nhiều năm qua, ngành da giày Việt Nam còn nhiều tồn tại chưa khắc phục được. Dù là nước xuất khẩu lớn, nhưng các doanh nghiệp da giày Việt Nam chủ yếu sản xuất và xuất khẩu theo phương thức gia công, không chủ động được nguồn nguyên liệu, bị hạn chế về vốn và công nghệ. Trong khi đó đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc đã xây dựng được ngành công nghiệp hỗ trợ như ngành sản xuất nguyên phụ liệu và các trung tâm phát triển mẫu mốt nằm cạnh các khu công nghiệp sản xuất giày dép, rất thuận lợi cho việc đáp ứng triển khai mẫu mã mới của khách hàng. Với những thuận lợi đó, Trung Quốc hiện đang chiếm lĩnh thị phần thống trị tại các thị trường lớn như 83,5 % tại Mỹ và hơn 64 % thị trường EU. Đây thực sự là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp thuộc ngành da giày của Việt Nam. Hiện nay, dù Việt Nam đã là thành viên của WTO, ngành da giày Việt Nam vẫn chịu sức ép cạnh tranh rất lớn từ các đối thủ mạnh như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia, Thái Lan… do họ có ưu thế hơn về vốn, công nghệ, đặc biệt là chủ động về nguồn nguyên liệu. Ngoài những thách thức và áp lực trong cạnh tranh, mức thuế 10 % mà EC đang áp dụng đối với mặt hàng giày mũ da xuất xứ Việt Nam ( từ tháng 10/2006) đã khiến nhiều doanh nghiệp da giày gặp khó khăn trong đàm phán, tiếp nhận các đơn hàng mới và đứng trước nguy cơ bị mất đơn hàng, mất luôn cả khách hàng. Là một doanh nghiệp có truyền thống lâu đời trong lĩnh vực da giày, công ty cổ phần da giày Việt Nam cũng không tránh khỏi những khó khăn và thách thức nói trên. Hoạt động sản xuất và xuất khẩu mặt hàng da giày của công ty trong những năm gần đây đã có những dấu hiệu giảm sút. Trước thực trạng nói trên, em đã quyết định chọn đề tài : “ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU MẶT HÀNG DA GIÀY SANG TH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN DA GIÀY VIỆT NAM “ nhằm đưa ra những giải pháp phù hợp góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty sang thị trường EU. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Công ty cổ phần da giày Việt Nam và hoạt động xuất khẩu các mặt hàng da giày của công ty sang thị trường EU trong thời gian qua nhằm tìm ra các giải pháp phù hợp để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty sang thị trường này Phương pháp nghiên cứu Tập hợp và phân tích những số liệu thu thập được nhằm đưa ra cái nhìn tổng quát về hoạt động xuất khẩu của công ty, qua đó đề xuất một số giải pháp. Kết cấu của đề tài Chương 1 : Cơ sở lý luận về xuất khẩu và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng da giày Việt Nam sang thị trường EU Chương 2 : Thực trạng xuất khẩu mặt hàng da giày của công ty cổ phần da giày Việt Nam Chương 3 : Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng da giày sang thị trường EU của công ty cổ phần da giày Việt Nam CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THÚC ĐẨY XUÂT KHẨU MẶT HÀNG DA GIÀY VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU 1.1. Những vần đề chung về xuất khẩu 1.1.1. Khái niệm Xuất khẩu là hoạt động đưa các hàng hoá, dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác.Xuất khẩu được coi là hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài ít rủi ro và chi phí thấp. Dưới giác độ kinh doanh, xuất khẩu là việc bán các hàng hoá và dịch vụ. Dưới giác độ phi kinh doanh như quà tặng hoặc viện trợ không hoàn lại thì hoạt động đó lại là việc lưu chuyển hàng hoá hoặc dịch vụ qua biên giới quốc gia. 1.1.2. Vai trò của xuất khẩu 1.1.2.1. Vai trò của xuất khẩu đối với quá trình phát triển nền kinh tế Xuất khẩu được thừa nhận là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước và cho nhu cầu nhập khẩu phục vụ cho sự phát triển kinh tế là một mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như : Xuất khẩu hàng hoá Đầu tư nước ngoài Vay nợ, viện trợ Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ Xuất khẩu sức lao động Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ… tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hoá đất nước là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định qui mô và tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu. Ở Việt Nam, thời kỳ 1986 – 1990, nguồn thu từ xuất khẩu hàng hoá đảm bảo tới trên 75 % nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu, tương tự, thời kỳ 1991 – 1995 là 66 % và 1996 – 2000 là 50 % (đó là chưa thống kê nguồn vốn thông qua xuất khẩu dịch vụ ). Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu – nguồn vốn chủ yếu để trả nợ – trở thành hiện thực. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới và là tất yếu đối với nước ta. Có 2 cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế : Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ các sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu, chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dung. Do vậy, nếu chỉ thụ động chờ ở sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. Sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ diễn ra rất chậm chạp. Hai là coi thị trường, đặc biệt là thị trường thế giới là huớng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm thứ 2 chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở chỗ : Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bong, sợi hay thuốc nhuộm, công nghiệp tạo mẫu… Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu, dầu thực vật, chè… có thể sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó. Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước, tạo ra một năng lực sản xuất mới. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của nước ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc canh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường. Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị kinh doanh, thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường. Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân Tác động của xuất khẩu đến việc làm và đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết, sản xuất, chế biến và dịch vụ hàng xuất khẩu đang trực tiếp là noi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với mức thu nhập không thấp. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ trực tiếp đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Quan trọng là việc xuất khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất, làm cho cả qui mô lẫn tốc độ sản xuất tăng lên, các ngành nghề cũ được khôi phục, ngành nghề mới ra đời, sự phân công lao động mới đòi hỏi lao động được sử dụng nhiều hơn, năng suất lao động cao và đời sống nhân dân được cải thiện. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Có thể hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác và tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ kinh tế này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế… Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại chúng ta vừa kể lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu. Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước 1.1.2.2. Vai trò của xuất khẩu đối với doanh nghiệp Xuất khẩu là hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài ít bị rủi ro, không tốn nhiều chi phí, dễ áp dụng trong giai đoạn đầu thâm nhập thị trường quốc tế của doanh nghiệp. Xuất khẩu có thể mang lại cho doanh nghiệp nhiều lợi ích : Tăng doanh số bán hàng của doanh nghiệp Doanh nghiệp có thể tiếp thu được kinh nghiệm kinh doanh quốc tế, tận dụng được năng lực dư thừa khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu hàng hoá Xuất khẩu giúp doanh nghiệp phân tán được rủi ro khi thị trường nội địa có những biến động lớn Có những thị trường nước ngoài mang lại lợi nhuận cao hơn cho doanh nghiệp so với những thị trường trong nước Doanh nghiệp có thể phát triển một hệ thống khách hàng lớn hơn để phục vụ chiến lược qui mô kinh doanh của mình 1.1.3. Các hình thức xuất khẩu 1.1.3.1. Xuất khẩu trực tiếp Xuất khẩu trực tiếp là hoạt động bán hàng trực tiếp của một công ty cho các khách hàng của mình ở thị trường nước ngoài. Xuất khẩu trực tiếp có 2 hình thức chủ yến là : Đại diện bán hàng : đại lý bán hàng là hình thức bán hàng không mang danh nghĩa của mình mà lấy danh nghĩa của người uỷ thác nhằm nhận lương và một phần hoa hồng trên cơ sở giá trị hàng hoá bán được. Trên thực tế, đại diện bán hàng hoạt động như là nhân viên bán hàng của công ty ở thị trường nước ngoài. Công ty sẽ ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng ở nước đó. Đại lý phân phối : đại lý phân phối là người mua hàng hoá của công ty để bán theo kênh tiêu thụ ở khu vực mà công ty phân định. Công ty khống chế phạm vi phân phối, kênh phân phối ở thị trường nước ngoài . Đại lý phân phối chấp nhận toàn bộ rủi ro liên quan đến việc bán hàng hoá ở thị trường đã phân định và thu lợi nhuận qua chênh lệch giữa giá mua và giá bán. 1.1.3.2. Xuất khẩu gián tiếp Xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng hoá và dịch vụ của công ty ra nước ngoài thông qua trung gian ( thông qua người thứ ba ). Các trung gian mua bán chủ yếu trong kinh doanh xuất khẩu là : đại lý, công ty quản lý xuất nhập khẩu và công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Các trung gian mua bán này không chiếm hữu hàng hoá của công ty nhưng trợ giúp công ty xuất khẩu hàng hoá sang thị trường nước ngoài. Đại lý : là các cá nhân hay tổ chức đại diện cho nhà xuất khẩu thực hiện một hay một số hoạt động nào đó ở thị trương nước ngoài. Đại lý chỉ thực hiện một công việc nào đó cho công ty uỷ thác và nhận thù lao. Đại lý không chiếm hữu và sỡ hữu hàng hoá. Đại lý là người thiết lập quan hệ hợp đồng giữa công ty và khách hàng ở thị trường nước ngoài. Công ty quản lý xuất khẩu : là công ty nhận uỷ thác và quản lý công tác xuất khẩu hàng hoá. Công ty quản lý xuất khẩu hàng hóa hoạt động trên danh nghĩa của công ty xuất khẩu nên là nhà xuất khẩu gián tiếp. Công ty quản lý xuất khẩu đơn thuần làm các thủ tục xuất khẩu và thu phí dịch vụ xuất khẩu. Bản chất của công tác quản lý xuất khẩu là làm các dịch vụ quản lý và thu được một khoản thù lao nhất định từ các hoạt động đó. Công ty kinh doanh xuất khẩu : là công ty hoạt động như nhà phân phối độc lập có chức năng kết nối các khách hàng nước ngoài với các công ty xuất khẩu trong nước để đưa hàng hoá ra nước ngoài tiêu thụ. Bản chất của công ty kinh doanh xuất khẩu là thực hiện các dịch vụ xuất khẩu nhằm kết nối khách hàng nước ngoài với công ty xuất khẩu. Đại lý vận tải : là các công ty thực hiện dịch vụ thuê vận chuyển va những hoạt động có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá như khai báo hải quan, áp biểu thuế quan, thực hiện giao nhận chuyên chở và bảo hiểm. 1.1.3.3. Gia công xuất khẩu Đó là hoạt động mà một bên – gọi là bên đặt hàng – giao nguyên vật liệu, bán thành phẩm, có khi cả máy móc, thiết bị và chuyên gia cho bên kia – gọi là bên nhận gia công – để sản xuất một mặt hàng mới theo yêu cầu của bên đặt hàng. Sau khi sản xuất xong, bên đặt hàng nhận hàng hoá đó từ bên nhận gia công và trả tiền công cho bên làm hàng gọi là hoạt động gia công. Khi hoạt động gia công vượt ra khỏi pham vi biên giới quốc gia thị gọi là gia công xuất khẩu. Tóm lại, gia công xuất khẩu là đưa các yếu tố sản xuất ( chủ yếu là nguyên liệu ) từ nước ngoài về để sản xuất hàng hoá, nhưng không phải để tiêu dùng trong nước mà để xuất khẩu thu ngoại tệ chênh lệch do tiền công đem lại. Vì vậy, suy cho cùng, gia công xuất khẩu là hình thức xuất khẩu lao động, nhưng là loại lao động dưới dạng được sử dụng (được thể hiện trong hàng hoá ), chứ không phải dưới dạng xuât khẩu nhân công ra nước ngoài. Có 2 loại quan hệ gia công quốc tế : Một là, bên đặt gia công cung cấp nguyên liệu hoặc bán thành phẩm ( không chịu thuế quan ) cho người nhận gia công để chế biến sản phẩm và giao trở lại cho bên đặt gia công. Ở đây chưa có sự chuyển giao quyền sở hữu đối với nguyên liệu, bán thành phẩm. Thực chất đây là hình thức “ làm thuê “ cho bên đặt gia công , bên nhận gia công không có quyền chi phối sản phẩm làm ra. Hai là, nguyên liệu hoặc bán thành phẩm được xuất đi nhằm gia công chế biến và sau đó nhập thành phẩm trở lại. Trong quan hệ này, quyền sở hữu đối với nguyên liệu, bán thành phẩm đã được chuyển giao. Vì vây, khi nhập trở lại các bộ phận giá trị thực tế tăng thêm đều phải chịu thuế quan. Thực chất đây là hình thức bên đặt gia công giao nguyên vật liệu , giup đỡ kỹ thuật cho bện nhận gia công và bao tiêu sản phẩm. Các hình thức gia công xuất khẩu : Gia công sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ( bao gồm cả tiểu thủ công nghiệp ). Gia công sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu ( bao gồm trồng trọt và chăn nuôi ). 1.1.3.4. Tái xuất khẩu và chuyển khẩu Mỗi quốc gia có một định nghĩa riêng về tái xuất. Nhiều nước Tây Âu và Mỹ La-ting quan niệm tái xuất là xuất khẩu những hàng ngoại quốc từ kho hải quan, chưa qua chế biến ở nước mình. Anh, Mỹ và một số nước khác lại coi đó là việc xuất khẩu những hàng ngoại quốc chưa qua chế biến ở trong nước dù hàng đó đã qua lưu thông nội địa. Như vậy, các nước đều thống nhất quan niệm tái xuất là lại xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng trước đây đã nhập khẩu , chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Giao dịch tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về một số ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Giao dịch này luôn luôn thu hút ba nước : nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. Vì vậy người ta còn gọi giao dịch tái xuất là giao dịch ba bên hay giao dịch tam giác. Các loại hình tái xuất : tái xuất có thề được thực hiên bằng một trong hai hình thức sau : Tái xuất theo đúng nghĩa của nó : hàng hoá đi từ nước xuất khẩu tới nước tái xuất, rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu. Ngược chiều với sự vân động của hàng hoá là sự vận động của đồng tiền : nước tái xuất trả tiền nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. Chuyển khẩu : hàng hoá đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. Cần phân biệt các loại hình tái xuất khẩu với kinh doanh quá cảnh. Kinh doanh quá cảnh là kinh doanh dịch vụ vận tải chở hàng nước ngoài từ một cửa khẩu này đến một cửa khẩu biên giới khác. 1.1.4. Nội dung của hoạt động xuất khẩu 1.1.4.1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường xuất khẩu 1. Nghiên cứu thị trường Công việc đầu tiên của người làm công tác nghiên cứu thị trường là thu thập những thông tin có liên quan đến thị trường và mặt hàng mình cần quan tâm. Có 2 phương pháp nghiên cứu thị trường : Phương pháp nghiên cứu văn phòng hay nghiên cứu tại bàn Nghiên cứu hiện trường Nghiên cứu tại bàn : Về cơ bản, nghiên cứu tại bàn bao gồm việc thu thập thông tin từ các nguồn tư liệu, xuất bản hay không xuất bản và tìm những nguồn đó. Nghiên cứu tại bàn là phương pháp phổ thông nhất về nghiên cứu thị trường , vì nó đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của những người xuất khẩu mới tham gia vào thị trường thế giới. Tuy nhiên, nó cũng hạn chế như chậm và mức độ tin cậy có hạn. Kết quả nghiên cứu tại bàn cũng cần phải được bổ sung bằng nghiên cứu hiện trường. Chìa khoá thành công của nghiên cứu tại bàn là phát hiện ra các nguồn thông tin và triệt để khai thác những thông tin đó. Nghiên cứu tại hiện trường : Nghiên cứu tại hiện trường bao gồm việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc với mọi người trên hiện trường. Nghiên cứu tại hiện trường là một phương pháp quan trọng trong nghiên cứu thị trường. Về mặt trình tự, nghiên cứu hiện trường có thể được thực hiện sau khi đã sơ bộ phân tích đánh giá những kết quả nghiên cứu tại bàn, nghĩa là sau khi đã xử lý thông tin. Những việc thu thập và xử lý thông tin là một quá trình liên tục, nhiều khi nó xảy ra cùng một lúc và luôn được bổ sung thông tin mới, cũng như thường xuyên xử lý để có sự điều chỉnh, phản ứng linh hoạt. Nghiên cứu tại bàn chủ yếu thu thập thông tin qua các nguồn đã được công khai xuất bản, còn nghiên cứu tại hiện trường chủ yếu thu thập thông tin từ trực quan và qua các quan hệ giao tiếp với thương nhân và người tiêu dùng. Xét về tính phức tạp va mức độ chi phí, nghiên cứu hiện trường là một hoạt động tốn kém và không phải ai cũng đủ trình độ để làm được. 2. Lựa chọn thị trường và mặt hàng trong kinh doanh xuất khẩu Lựa chọn thị trường : cần đề ra những tiêu chuẩn và dựa vào những tiêu chuẩn đó để đánh giá và lựa chọn thị trường phù hợp. Các tiêu chuẩn đánh giá thị trường: Tiêu chuẩn chung: Tiêu chuẩn về địa lý Tiêu chuẩn về kinh tế Tiêu chuẩn về kỹ thuật Tiêu chuẩn về qui chế thương mại và tiền tệ : Biện pháp bảo hộ mậu dịch Tình hình tiền tệ Tiêu chuẩn về thương mại : Phần của sản xuất nội địa Sự cạnh tranh quốc tế trên các thị trường lựa chọn Lựa chọn mặt hàng kinh doanh : Dựa vào kết quả nghiên cứu thị trường nhà kinh doanh phải xác định mặt hàng dự định kinh doanh là mặt hàng gì, quy cách, phẩm chất, nhãn hiệu, bao bì đóng gói hàng hoá đó như thế nào? Vấn đề khá quan trọng trong giai đoạn này là xác định được số lượng hàng xuất khẩu để đạt mục đích thu được lợi nhuận tối đa. 1.1.4.2. Chuẩn bị và ký kết hợp đồng xuất khẩu Sau giai đoạn nghiên cứu tiếp cận thị trường là giai đoạn giao dịch, thương lượng với nhau về các điều kiện để đi đến ký kết hợp đồng. 1. Các bước giao dịch Hỏi giá : về phương diện pháp luật thi đây là lời thỉnh cầu bước vào giao dịch. Nhưng xét về phương diện thương mại thì đây là việc người mua đề nghị người bán báo giá cho mình biết giá cả và các điều kiện để mua hàng. Phát giá : luật pháp coi đây là lời đề nghị ký kết hợp đồng và như vậy phát giá có thể do người bán hoặc người mua đưa ra. Nhưng trong buôn bán thì phát giá là chào hàng, là việc người xuất khẩu thể hiện rõ ý định bán hàng của mình. Đặt hàng : Lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được đưa ra dưới hình thức đặt hàng. Trong đặt hàng, người mua nêu cụ thể về hàng hoá định mua và tất cả những nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng Hoàn giá : Khi người nhận được chào hàng (đặt hàng ) không chấp thuận hoàn toàn chào hàng (đặt hàng ) đó, mà đưa ra một đề nghị mới thì đề nghị mới này là hoàn giá. Chấp nhận : Chấp nhận là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào hàng (đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra. Xác nhận : Hai bên mua và bán, sau khi đã thống nhất thoả thuận với nhau về điều kiện giao dịch, có khi cẩn thận ghi lại mọi điều đã thoả thuận, gửi cho đối phương. Đó là văn kiện xác nhận. 2. Các hình thức đàm phán Đàm phán qua thư tín : Ngày nay thư từ và điện tín vẫn còn là phương tiện chủ yếu để giao dịch giữa những người xuất nhập khẩu. Những cuộc tiếp xúc ban đầu thường qua thư từ. Ngay khi sau này hai bên đã có điều kiện tiếp xúc trực tiếp thì việc duy trì qua hệ cũng phải thông qua thư tin thương mại. Đàm phán qua điện thoại : Việc trao đổi qua điện thoại nhanh chóng, giúp người giao dịch tiến hành đàm phán một cách khẩn trương, đúng vào thời cơ cần thiết. Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp : Việc gặp gỡ trực tiếp giữa hai bên để trao đổi về các điều kiện giao dịch, vấn đề liên quan đến ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán là hình thức đàm phán đặc biệt quan trọng. Hình thức đàm phán này đẩy nhanh tốc độ giải quyết mọi vấn đề giữa hai bên và nhiều khi là lối thoát cho những đàm phán bằng thư tín và điện thoại kéo dài quá lâu mà không có kết quả. 3. Ký kết hợp đồng xuất khẩu Việc giao dich đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn đến việc ký kết hợp đồng xuất khẩu. Hợp đồng có thể được thành lập dưới hình thức văn bản, hình thức miệng hoặc hình thức mặc nhiên. Ở nước ta, hợp đông phải được ký kết dưới hình thức văn bản. Hợp đồng dưới hình thức văn bản có thể được thành lập dưới nhiều cách : Hợp đồng một văn bản, trong đó ghi rõ nội dung mua bán, mọi điều kiện giao dịch đã thoả thuận và có chữ ký của hai bên. Hợp đồng gồm nhiều văn bản như những điện báo, thư từ giao dịch. 1.1.4.3. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu 1. Xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá Đối với mặt hàng thuộc danh mục hàng hoá xuất khẩu có điều kiện thì doanh nghiệp phải xin giấy phép xuất khẩu của cơ quan có thẩm quyền. 2. Chuẩn bị hàng xuất khẩu Đối với các doanh nghiệp thương mại kinh doanh xuất khẩu : chuẩn bị hàng xuất khẩu bao gồm các công đoạn sau đây : Thu gom tập trung thành lô hàng xuất khẩu : do đặc điểm sản xuất hàng xuất khẩu ở nước ta, nhiều loại hàng còn manh mún và phân tán. Nguồn hàng đê xuất khẩu chủ yếu là hàng sơ cấp ( nguyên vật liệu qua sơ chế, hàng bán thành phẩm ), hàng thủ công mỹ nghệ, hàng nông, lâm, thổ, thuỷ sản. Do đó, phần lớn phải thu gom từ các cơ sở sản xuất nhỏ, từ trong nhân dân, từ các cơ sở thu mua… Bao bì đóng gói hàng xuất khẩu : trong thực tế buôn bán hàng hoá nói chung và buôn bán hàng hoá xuất khẩu nói riêng, hàng hoá phải qua khâu bao bì đóng gói. Ký mã hiệu hàng xuất khẩu : kỹ mã hiệu là những ký hiệu bằng chữ, bằng số hoặc bằng hình vẽ được ghi bên trong bao bì nhằm thông báo những chi tiết cần thiết cho việc giao nhận, bốc dỡ hoặc bảo quản hàng hoá. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh : Đây là phương thức giao dịch buôn bán trực tiếp giữa người sản xuất trong nước với người nhập khẩu. Ở đây, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không phải làm nhiệm vụ thu gom hàng hoá, hàng xuất khẩu chính là những sản phẩm của doanh nghiệp. Các bước còn lại tiến hành giống như đối với doanh nghiệp thương mại. 3. Kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu Kiểm tra chất lượng hàng hóa xuất khẩu là công việc cần thiết, đó là sự tiếp tục quá trình các công đoạn thực hiện hợp đồng trong kinh doanh xuất khẩu. Trước khi xuất khẩu, các nhà xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm tra về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì… (kiểm nghiệm).Nếu hàng hoá là động vật, thực vật phải kiểm tra khả năng lây lan bệnh tật ( kiểm dịch động, thực vật ). Việc kiểm nghiệm và kiểm dịch phải được tiến hành ở 2 cấp : ở cơ sở và ở cửa khẩu, trong đó, kiểm tra ở cơ sở do phòng KCS tiến hành có vai trò quyết định và có tác dụng triệt để nhất. Kiểm tra ở cửa khẩu có tác dụng kiểm tra lại kết quả kiểm tra ở cơ sở. 4. Thuê tàu và lưu cước Trong quá trình thực hiện thực hiện hợp đồng xuất khẩu, việc thuê tàu sẽ dựa vào căn cứ sau đây : Những điều khoản hợp đồng mua bán Đặc điểm hàng hoá mua bán Điều kiện vận tải 5. Mua bảo hiểm Chuyên chở hàng hoá bằng đường biển thường gặp rất nhiều rủi ro, tồn thất. Bởi vậy, trong kinh doanh thương mại quốc tế, bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất. Tuỳ thuộc vào hợp đồng mua bán mà bên xuất khẩu hoặc bên nhập khẩu sẽ có trách nhiệm mua bảo hiểm cho chuyến hàng. 6. Làm thủ tục hải quan Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để xuất khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan gồm 3 bước chủ yếu sau đây : Khai báo hải quan : Chủ hàng phải kê khai chi tiết hàng hoá lên tờ khai để cơ quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ. Việc kê khai phải trung thực, chính xác. Xuất trình hàng hoá : Hàng hoá xuất khẩu phải sắp xếp trật tự, thuận tiện cho việc kiểm soát. Thông thường với khối lượng hàng hoá ít, người ta vận chuyển hàng hoá tới kho hải qua để kiểm lượng, làm thủ tục hải quan và nộp thuế. Đối với hàng xuất khẩu khối lượng lớn, việc kiểm tra hàng hoá và giấy tờ hải quan có thể diễn ra ở 2 nơi : Tại nơi đóng gói bao kiện : nhân viên hải quan có thể kiểm tra theo nghiệp vụ của mình và nội dung hàng hoá được niêm phong kẹp chì. Tại cửa khẩu : nhân viên hải quan kiểm tra hàng hoá và giấy tờ ngay tại cửa khẩu xuất hàng hoá. Thực hiện các quyết định của hải quan : sau khi kiểm tra giấy tờ và hàng hoá, hải quan sẽ ra các quyết định : Cho hàng qua biên giới ( thông quan ) Cho hàng hoá qua biên giới với điều kiện ( ví dụ phải sửa chữa, khắc phục các khuyết tật, phải bao bì lại ). Cho hàng hoá qua biên giới sau khi chủ hàng đã nộp thuế xuất khẩu Không được phép xuất khẩu Trách nhiệm của chủ hàng là phải nghiêm túc thực hiện các quyết định trên. Nếu vi ._.phạm các quyết định trên sẽ thuộc vào tội hình sự. 7. Giao hàng xuất khẩu Phần lớn hàng xuất khẩu được vận chuyển bằng đường biển, đường sắt, container. Nếu hàng hoá được giao bằng đường biển, chủ hàng phải tiến hành các việc sau đây : Căn cứ vào chi tiết hàng xuất khẩu lập bản đăng ký hàng chuyên chở Xuất trình bản đăng ký hàng chuyên chở cho người vận tải để lấy hồ sơ xếp hàng Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ làm hàng Bố trí phương tiện đưa hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu Lấy biên lai thuyền phó và đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển Nếu hàng hoá chuyên chở bằng đường sắt, chủ hàng phải kịp thời đăng ký với cơ quan đường sắt để xin cấp toa xe phù hợp với tính chất hàng hoá và khối lượng hàng hoá. Khi đã được cấp toa xe, chủ hàng tổ chức bốc xếp, niêm phong kẹp chì và làm chứng từ vận tải, trong đó chủ yếu là vận đơn đường sắt. Nếu hàng được chở bằng container thi giao hàng theo 2 phương thức : Hàng chiếm đủ một container : chủ hàng đăng ký thuê container, chịu chi phí vận chuyển container rỗng từ bãi về cơ sở của mình, đóng hàng vào container và giao hàng đến ga container để giao cho người vận tải Hàng chưa đủ một container : chủ hàng phải làm đăng ký chuyên chở xuất trình cho vận tải. Sau khi được chấp nhận trở hàng, chủ hàng đưa hàng đến ga container và giao cho người vận tải. 8. Làm thủ tục thanh toán Nếu hợp đồng xuất khẩu qui định thanh toán băng thư tín dụng ( L/C), doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phải đôn đốc người mua ở nước ngoài mở L/C đúng hạn và sau khi nhận được L/C phải kiểm tra L/C và khả năng thuận tiện trong việc thu tiền hàng xuất khẩu bằng L/C đó. Nếu L/C không đáp ứng được yêu cầu này, cần phải buộc người mua sửa đội lại rồi mới giao hàng. Nếu hợp đồng xuất khẩu qui định thanh toán tiền hàng bằng phương thức nhờ thu thì ngay sau khi giao hàng, doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phải hoàn thành việc lập chứng từ và xuất trình cho ngân hàng để uỷ thác cho ngân hàng việc thu đòi tiền. 9. Giải quyết khiếu nại Khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu, nếu chủ hàng xuất khẩu bị khiếu nại đòi bồi thường, cần phải có thái độ nghiêm túc, thận trọng trong việc xem xét yêu cầu của khách hàng ( người nhập khẩu ). Việc giải quyết phải khẩn truơng kịp thời, có tình có lý. Nếu khiếu nại của khách hàng là có cơ sở, chủ hàng xuất khẩu có thể giải quyết băng một trong những phương pháp sau đây : Giao hàng thiếu Giao hàng tốt thay thế hàng kém chất lượng Sửa chữa hàng hỏng Giảm giá hàng má số tiền giảm giá được trang trải bằng hàng hoá giao vào thời gian sau đó Nếu việc khiếu nại không được giải quyết thoả đáng, hai bên có thể kiện nhau ra hội đồng trọng tài ( nếu có thoả thuận trọng tài ) hoặc toà án. 1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu 1.1.5.1. Các yếu tố thuộc môi trường công ty 1. Vốn Trong thương mại quốc tế, các hợp đồng buôn bán thường có giá trị rất lớn nên nó đòi hỏi nhiều về vốn đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu. Hơn nữa, việc thanh toán trong hoạt động buôn bán quốc tế thường không nhanh chóng như các hoạt động buôn bán nội địa, đó là chưa kể đến những rủi ro xuất phát từ phía đối tác, do đó, khả năng huy động vốn ảnh hưởng rất hớn đến khả năng thực hiện các hợp đồng buôn bán sau đó của doanh nghiệp xuất khẩu. 2. Chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm là điểu kiện tiên quyết để chiếm lĩnh thị trường bởi thị trường nước ngoài, đặc biệt là thị trường các nước phát triển thường là các thị trường rất khó tính. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp không đảm bảo chất lượng thì sẽ khó có thể cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường quốc tế. 3. Công nghệ Công nghệ luôn là vấn đề cốt lõi của mỗi doanh nghiệp, có ảnh hưởng quyết định tới năng suất, chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất.... Do đó, nó quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế, nơi các cuộc canh tranh thường diễn ra rất gay gắt. 4. Nguồn nhân lực nguuồn nhân lực là yếu tố nội lực quan trọng hàng đầu của mọi loại doanh nghiệp và năng suất, chất lượng lao động sẽ quyết định thành bại của doanh nghiệp. 5. Tiếp cận thông tin kinh tế, thị trường quốc tế Thông tin là yếu tố rất quan trọng đối với các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế, nó cho phép các doanh nghiệp nắm được những nhu cầu, những xu hướng cũng như những biến đổi bất thường của thị trường thế giới cũng như những biến động liên quan đến chính trị, quân sự có thể ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiêp. Doanh nghiệp có thể tiếp cận và nắm bắt được các thông tin này hay không có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp. 6. Tiếp xúc bán hàng và marketing Thị trường quốc tế và thị trường nội địa luôn có những khác biệt rất lớn. Hoạt động marketing và tiếp xúc bán hàng sẽ làm thích ứng hoạt động và sản phẩm của doanh nghiệp với các nhu cầu của thị trường xuất khẩu bên ngoài. 1.1.5.2. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô 1. Công cụ chính sách thương mại thuộc về thuế quan Thuế xuất khẩu được dùng làm công cụ để điều tiết và quản lý xuất khẩu. Thuế này được đánh vào hàng hoá xuất khẩu nhằm hạn chế hay khuyến khích xuất khẩu. Theo kinh nghiệm nhiều nước, nếu dùng chính sách thuế quan để làm công cụ công cụ cho chính sách khuyến khích sản xuất thay thế hàng nhập khẩu sẽ dẫn tới tình trạng duy trì một ngành sản xuất kém hiệu quả, kém khả năng cạnh tranh và do đó người tiêu dùng sẽ bị thiệt thòi nhất. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hội nhập với việc buôn bán tự do giữa các nước có sự cạnh tranh gay gắt về giá cả và chất lượng hàng hoá thì việc sử dụng thuế như một công cụ quản lý xuất khẩu sẽ không còn hữu hiệu. Bởi, thuế xuất khẩu luôn làm cho giá cả hàng hoá tăng cao so với khi không đánh thuế hoặc thuế suất bằng 0. 2. Các công cụ chính sách thương mại phi thuế quan Quan hệ chính trị ngoại giao Quốc gia muốn phát triển thị trường hàng xuất khẩu thì trước hết phải có đường lối chính trị mở cửa hội nhập với thế giới một cách nhất quán và ổn định lâu dài, có quan hệ ngoại giao ngoại thương thông qua các hiệp định được ký kết và triển khai cụ thể cho từng thời kỳ. Sự thiết lập quan hệ ngoại giao, ngoại thương giữa các nước đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu và tìm thị trường đối tác. Chính sách thương mại của nhà nước Chính sách mậu dịch tự do : tự do hoá thương mại gắn liền với việc nhà nước áp dụng các biện pháp cần thiết để từng bước giảm thiểu những trở ngại đối với những hoạt động thương mại. Mục đích của tự do hoá thương mại là thúc đẩy quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới, hình thành một thị trường toàn cầu và phát huy lợi thế của từng quốc, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, giúp quốc gia phân phối nguồn lực trong nước một cách hiệu quả nhất. Do vậy, một nước theo đuổi chính sách mậu dịch tự do thì ở đó nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp vào quá trình điều tiết ngoại thương. Nhà nước sẽ mở cửa hoàn toàn thị trường nội địa cho hàng hoá và vốn đầu tư tự do lưu thông và tạo điều kiện cho hoạt động thương mại quốc tế phát triển theo quy luật cạnh tranh tự do. Chính sách này đã nhấn mạnh vào các ưu điểm như : trở ngại thương mại quốc tế bị loại bỏ, tăng cường sự tự do lưu thông hàng hoá giữa các nước, làm cho thị trường nội địa phong phú hàng hoá hơn dẫn tới kích thích các nhà sản xuất kinh doanh liên tục phải áp dụng những tiến bộ khoa học – công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu quả quản lý, giảm chi phí trong sản xuất để từ đó có khả năng cạnh tranh được với hàng hoá nước ngoài, năng động trong kinh doanh và góp phẩn mở rộng thị trường ra nước ngoài. Tuy nhiên, chính sách mậu dịch tự do cũng đem lại những khuyết điểm. Khi thị trường trong nước được điều tiết bởi qui luật tự do cạnh tranh dễ dẫn tới nền kinh tế rơi vào tình trạng phát triển mất cân đối, khủng hoảng. Trong trường hợp các nhà sản xuất kinh doanh trong nước còn chưa đủ mạnh thì thông qua qua tự do hoá thương mại sẽ rất dễ bị các nhà sản xuất kinh doanh nước ngoài chèn ép. Do vậy, tự do hoá thương mại không được thực hiện cho toàn bộ các ngành hàng trên thế giới trong giai đoạn hiện nay, chỉ những ngành hàng có đủ mạnh và có sức cạnh tranh cao mới thực hiện tự do hoá thương mại. Chính sách bảo hộ mậu dịch : Bên cạnh chính sách tự do hoá thương mại, chính sách bảo hộ thương mại cũng được nhiều nước thực hiện trong thời kỳ mới phát triển. Khi áp dụng chính sách này, nhà nước thường sử dụng các công cụ, biện pháp thuế quan và phi thuế quan để tranh cho hàng hoá và doanh nghiệp trong nước khỏi cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá và doanh nghiệp của nước ngoài. Cụ thể hơn, việc bảo hộ mậu dịch giúp cho các quốc gia tranh những cạnh tranh từ bên ngoài cho các sản phẩm, doanh nghiệp và người lao động trong nước do sự khác biệt về điều kiện sản xuất giữa các quốc gia nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối của nền kinh tế. Chính sách bảo hộ mậu dịch thường đem lại nhưng ưu điểm trong việc giảm canh tranh của hàng ngoại ở thị trường trong nước, đồng thời giúp các nhà sản xuất kinh doanh trong nước tăng cường tính cạnh tranh trên thị trường nội địa. Ngoài ra, việc bảo hộ mậu dịch cũng góp phần hỗ trợ nhà sản xuất kinh doanh trong nước tăng cường khả năng cạnh tranh ở nước ngoài. Chính sách bảo hộ, tuy nhiên, cũng đem lại không ít những nhược điểm, đó là việc nếu sự bảo hộ nội địa quá chặt thì dễ dẫn đến xu hướng đóng cửa nền kinh tế, làm tổn thương đến phát triển thương mại quốc tế, dẫn tới sự bảo thủ trì trệ của các nhà sản xuất kinh doanh nội địa và đặc biệt là làm thiệt hại đến người tiêu dùng trong nước,bởi sản phẩm sản xuất ra từ các nhà sản xuất kinh doanh trong nước sẽ kém chất lượng, chủng loại hàng hoá không phong phú và người tiêu dùng dễ bị ép giá. Nhưng chính sách bảo hộ này vẫn được nhiều nước áp dụng trong điều kiện hiện nay. Chính sách này được áp dụng cho các ngành hàng mà nước đó đặt mục tiêu phát triển trong tương lai. Theo điều kiện kinh tế của từng nước và dưới từng xu thế nhất định của thế giới nên hai loại chinh sách thương mại này được áp dụng cùng một lúc với nhau, các nước phát triển và đang phát triển sử dụng các chính sách này một cách hoà hợp với nhau. Đối với những ngành hàng chưa phát triển, hoặc chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, chính phủ các nước phát triển thường áp dụng chính sách bảo hộ mậu dịch đối với những ngành hàng cụ thể này để bảo vệ sự phát triển của nó. Việc áp dụng chính sách bảo hộ này đều dựa trên trên nguyên tắc chon lọc, có thời điểm. Lúc đầu là việc bảo hộ tự vệ chống lại sự xâm lấn của hàng hoá ngoại nhập, bảo vệ sản xuât trong nước, sau đó chuyển sang bảo hộ nhằm thúc đẩy xuất khẩu. Chính sách tự do hoá thương mại lại được áp dụng cho những ngành hàng đã phát triển nhằm tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của nó và chiếm lĩnh thị trường thế giới. Chính sách đầu tư Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước : Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước tạo ra một môi trường pháp lý, thể chế thuận lợi, khuyến khích các doanh nghiệp trong nước thực hiện các hoạt động đầu tư mới, mở rông qui mô và ngành nghề kinh doanh. Môi trường thuận lợi về pháp lý và thể chế chưa đủ khuyến khích các doanh nghiệp trong nước nếu không có thêm những ưu đãi cụ thể về huy động vốn, thủ tục hành chính, miễn giảm thuế có thời hạn, trợ giúp thông tin, xúc tiến thương mại. Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước là một nhân tố quan trọng nhằm tạo ra một nguồn cung cấp lớn, ổn định và có chất lượng cho thị trường xuất khẩu hàng hoá. Nói cách khác, khuyến khích đầu tư trong nước là cơ sở quan trọng để tăng nguồn cung ứng trong nước, đáp ứng nhu cầu thị trường thế giới. Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài : Đối với nhiều nước đang phát triển, thu hút vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp ( FDI ) là một phẩn quan trọng của chiến lược tăng trưởng kinh tế. Các doanh nghiệp FDI có ảnh hưởng đối với nền kinh tế sở tại thông qua : (i) bổ sung nguồn vốn cho nền kinh tế; (ii) ảnh hưởng chuyển giao công nghệ, năng lực quản lý; (iii) tạo việc làm cho người lao động; (iv) đóng góp vào xuất khẩu.Tuy nhiên thực tế thu hút và sử dụng FDI ở nhiều quốc gia cho thấy khả năng FDI có đóng góp tích cực như thế nào đối với xuất khẩu còn phụ thuộc vào chính sách thu hút, sử dụng FDI của quốc gia sở tại có tạo ra những khuyến khích hấp dẫn với nhà đầu tư nước ngoài đối với các lĩnh vực có định hướng xuất khẩu hay không? Trong nhiều trường hợp, những biện pháp ưu đãi của chính phủ đối với các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào xuất khẩu là không thoả đáng, các doanh nghiệp FDI sẽ có xu hướng chỉ tập trung khai thác thị trường nội địa trên cơ sở các nguồn lực chi phí thấp, đặc biệt là lao động của quốc gia đó. Như vậy, chính sách thu hút, sử dụng FDI sẽ có những ảnh hưởng tích cực đối với phát triển thị trường xuất khẩu hàng hoá nếu có những biện pháp khuyến khích về tài chính ( miễn giảm thuế, thưởng xuất khẩu ), những ưu đãi về thủ tục… đối với doanh nghiệp FDI có đóng góp tích cực vào xuất khẩu. Quy định hải quan Hàng hoá xuất khẩu phải được thông quan một cách nhanh chóng. Nếu hoạt động hải quan phức tạp gây nhiều phiền hà cho người xuất khẩu thì sẽ làm mất cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp. Muốn vậy phải hoàn thiện qui trình nghiệp vụ hải quan, áp dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại, phân loại hàng hoá theo mức độ quan trọng để từ đó thông quan nhanh chóng những hàng hoá thông thường. Hạn ngạch xuât khẩu Hạn ngạch là công cụ hạn chế khối lượng xuất khẩu của một mặt hàng hay một nhóm hàng. Hạn ngạch xuất khẩu được dùng để bảo hộ sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và những mặt hàng quý hiếm. Tỷ giá hối đoái Nhà nước có thể điều chỉnh giá trị tiền Việt Nam tăng hoặc giảm so với ngoại tệ để không khuyến khích hoặc khuyến khích xuất khẩu. Nhưng cũng cần nhấn mạnh rằng, nếu dùng tỷ giá để khuyến khích xuất khẩu không phải trường hợp nào cũng tốt vì được lợi trong xuất khẩu thì lại bị thiệt trong nhập khẩu. Do đó cần giải quyết đúng đắn quan hệ tỷ giá phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế và yêu cầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Hàng rào kỹ thuật và vệ sinh kiểm dịch động thực vật Đây là công cụ của WTO cho phép các nước được sử dụng các qui định, tiêu chuẩn kỹ thuật, biện pháp vệ sinh kiểm dịch mà nước đó cho là thích hợp và phù hợp với việc bảo vệ môi trường, sức khoẻ cho người tiêu dùng với điều kiện biện pháp này không tạo ra sự phân biệt đối xử tuỳ tiện hoặc hạn chế vô lý thương mại quốc tế với bất kỳ nước nào. Các cường quốc phát triển ứng dụng nhiều nhất công cụ này để bảo hộ mậu dịch như Nhật Bản, Mỹ hay cộng đồng chung Châu Âu. Chế độ bảo vệ thương mại tạm thời Chế độ này bao gồm các biện pháp như tự vệ, trợ cấp, đối kháng, chống bán phá giá… Quyền tự vệ trong thương mại quốc tế được WTO thừa nhận để hạn chế định lượng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất định nhằm “bảo vệ” ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại hay có nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng. Vận dụng quyền này, các nước đã ban hành các văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế. Quyền tự vệ đặc biệt và quyền khước từ trong trường hợp khẩn cấp của thương mại quốc tế cũng là một quy định của WTO. Với quyền này, nếu một sản phẩm của một nước mà đã được thuế hoá và bảo lưu được điều khoản tự vệ đặc biệt trong biểu cam kết quốc gia thì khi lượng nhập khẩu vượt quá số lượng giới hạn hoặc giá nhập khẩu giảm xuống mức giá giới hạn thì các nước nhập khẩu có thể sử dụng quyền tự vệ đặc biệt. Khi một nước thành viên của WTO được quyền áp dụng quyền tự vệ đặc biệt này thì có quyền khước từ bất kỳ một điều tra nào từ bên ngoài chứng tỏ ngành công nghiệp nội địa bị tổn thương hoặc bị đe doạ tổn thương. WTO còn cho phép áp dụng các hình thức trợ cấp và đối kháng trong thương mại quốc tế thông qua việc cho phép các nước thành viên duy trì hình thức không gây tổn hại đến lợi ích của các nước thành viên khác. WTO còn qui định áp dụng cá biện pháp chống bán phá giá trong trường hợp hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào thị trường trong nước tạo sức cạnh tranh không lành mạnh. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện Đây là một hình thức của hàng rào mậu dịch phi thuế, theo đó quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phải hạn chế bớt lượng hàng hoá xuất khẩu sang nước mình một cách tự nguyện, nếu không nước nhập khẩu sẽ áp dụng biện pháp “trả đũa” kiên quyết. Hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu Chính phủ đầu tư tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật trang thiết bị cho việc thu thập thông tin tin trường thế giới hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu, giúp các doanh nghiệp giao lưu với các đối tác nước ngoài để tìm kiếm thị trường và cơ hội kinh doanh, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá như tham gia hội chợ quốc tế, gặp gỡ trao đổi thông tin thương mại với các doanh nghiệp nước ngoài. Cần có nhiều hình thức khuyến khích xuất khẩu thông qua việc phát triển quĩ hỗ trợ xuất khẩu. Tín dụng xuất khẩu Nhà nước sử dụng công cụ tín dụng như điều chỉnh lãi suất theo hướng cho vay đối với các nhà kinh doanh xuất khẩu, hình thành quỹ hỗ trợ xuất khẩu, đơn giản hoá các thủ tục hành chính cho các đối tượng vay làm hàng xuất khẩu. 3. Các yếu tố thuộc môi trường thế giới Các nguyên tắc điều chỉnh thương mại quốc tế Nguyên tắc tương hỗ : theo nguyên tắc này, các nước có quan hệ ngoại thương dành cho nhau những ưu đãi và nhân nhượng tương xứng nhau trong quan hệ buôn bán dựa trên cơ sở tiềm lực của các bên tham gia. Nhưng, trong nhiều trường hợp các nước yếu hơn thường phải buộc chấp nhận các điều kiện do các bên mạnh hơn đưa ra. Nguyên tắc không phân biệt đối xử : nguyên tắc này được thể hiện dưới 2 dạng, quy chế tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia. Quy chế tối huệ quốc ( MFN ) là chế độ mà các nước dành cho nhau trong quan hệ kinh tế và buôn bán về mặt thuế quan, mặt hàng trao đổi, tàu bè chuyên chở, quyền lợi của pháp nhân và tư nhân của nước này trên lãnh thổ nước kia. Đây là mối quan hệ thương mại và kinh tế giữa các nước trên cơ sở hiệp định, hiệp ước giữa các nước một cách bình đẳng có đi có lại. Nếu nhận được qui chế tối huệ quốc, hàng hoá của nước nhận được MFN sẽ có sức cạnh tranh lớn hơn trên thị trường nước cấp MFN. Quy chế tối huệ quốc thường do các nước phát triển áp dụng để gây áp lực về kinh tế cũng như chính trị đối với nước được và muốn được hưởng chúng. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia ( NT ) là nguyên tắc đòi hỏi các nước thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO đối xử với hàng nhập khẩu đã hoàn thành nghĩa vụ tại cửa khẩu không kém phần thuận lợi hơn so với hàng được sản xuất trong nước. Cụ thể hơn, hàng hoá khi trả xong thuế quan và nhập khẩu vào trong nước thì hàng hoá đõ phải được đối xủ như với các loại hàng hoá tuơng tự được sản xuất trong nước. Nguyên tắc ngang bằng dân tộc : Nguyên tắc này đòi hỏi một nước dành cho tư nhân và pháp nhân nước ngoài trên lãnh thổ nước mình một xử đối xử ngang bằng như đối xử với tư nhân và pháp nhân của chính nước mình trong vấn đề kinh doanh, thuế khoá, hàng hải, cư trú, sự bảo vệ của luật pháp… ngoại trừ quyền bầu cử, ứng cử, nghĩa vụ quân sự. Nguyên tắc này thường được qui định trong hiệp định kinh tế - thương mại được ký kết giữa hai nước. Tình hình chính trị, quân sự Sự biến động của tình hình chính trị, quân sự trên thế giới có tác động mạnh mẽ đến tình hình cung và cầu của các nước. Do vậy, trong hoạt động phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu, việc nghiên cứu, phân tích thường xuyên tình hình chính trị này giữ một vai trò quan trọng, phục vụ cho việc tìm hiều rõ ràng về thông tin liên quan đến hoạt động nhập khẩu của các nước. 1.2. Lý luận về thúc đẩy xuất khẩu 1.2.1. Khái niệm thúc đẩy xuất khẩu Thúc đẩy xuất khẩu là tổ hợp các hoạt động tác động đến cung và cầu xuất khẩu nhằm gia tăng khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu. 1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp 1.2.2.1. Lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu Doanh nghiệp xuất khẩu thực hiện quá trình mua bán hàng hoá với nước ngoài bao gồm mua và bán hàng xuất khẩu. Quá trình này nằm trong khâu lưu thông phân phối và chịu sự chi phối của các qui luật thị trường. Lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu la phần dôi ra trong hoạt động kinh doanh sau khi trừ đi toàn bộ chi phí, hay nói khác đi, lợi nhuận trong kinh doanh xuất khẩu là phần dôi ra của bộ phận giá trị thặng dư do sản xuất nhường lại cho lưu thông và toàn bộ giá trị thặng dư do lao động có tính chất sản xuất trong lưu thông tạo ra. 1.2.2.2. Tốc độ mở rộng của qui mô xuất khẩu Quy mô xuất khẩu phản ánh khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp. Quy mô xuất khẩu không chỉ thể hiện ở số lượng, khối lượng hàng hoá mà một doanh nghiệp có thể bán cho các bạn hàng nước ngoài mà nó còn thể hiện ở hình thức xuất khẩu của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có qui mô xuất khẩu lớn không chỉ là có số lượng, khối lượng hàng hoá xuất khẩu nhiều mà doanh nghiệp đó còn phải áp dụng đa dạng các hình thức xuất khẩu cho phù hợp với các nhiều loại hàng hoá và nhiều loại đối tác khác nhau. 1.2.2.3. Khả năng duy trì và mở rộng thị phần Nếu chỉ xem xét thị phần của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định thì chưa thể thấy hết hiệu quả của các hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp. Trong một thời kỳ cụ thể, thị phần chủ yếu thể hiện vị thế của doanh nghiệp hơn là thể hiện hiệu quả trong các hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp đó. Cần nghiên cứu sự biến đổi ( tăng, giảm ) để thấy được hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được. 1.2.2.4. Danh mục sản phẩm xuất khẩu Phạm vi danh mục sản phẩm của doanh nghiệp tức là doanh nghiệp cung ứng được nhiều loại và chủng loại sản phẩm sẽ có khả năng đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng và do đó có khả năng cạnh tranh cao hơn. Tuy nhiên, nếu danh mục sản phẩm của doanh nghiệp quá rộng và trong mỗi loại lại có quá nhiều chủng loại khác nhau thì các nguồn lực và khả năng của doanh nghiệp sẽ bị dàn trải và sử dụng kém hiệu quả, không tận dụng được hiệu quả giảm chi phí nhờ tính kinh tế của quy mô. Có những loại doanh nghiệp chỉ cung ứng một vài loại sản phẩm phục vụ nhu cầu đặc thù của khách hàng cũng vẫn có thể coi là đạt hiệu quả kinh doanh cao. Vấn đề mấu chốt cần xem xét là doanh nghiệp kinh doanh nhằm phục vụ đối tượng khách hàng nào,nhu cầu của họ là gì và doanh nghiệp sẽ đáp ứng nhu cầu đó bằng cách nào. Những vấn đề đó cấu thành phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2.2.5. Uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp và của sản phẩm Uy tín của doanh nghiệp với các đối tác kinh doanh ( người cung ứng, khách hàng, đối tác liên minh…) cũng là yếu tố góp phần tạo nên lợi thế và nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Chữ “ tín” trong kinh doanh ngày nay càng có ỹ nghĩa quan trọng vì nó giúp giảm thiểu các chi phí giao dịch, nuôi dưỡng các mối quan hệ bền vững giữa doanh nghiệp với các đối tác. Nhờ có sự tín nhiệm với doanh nghiệp và các sản phẩm do doanh nghiệp cung cấp, khách hàng sẽ quay trở lại mua hàng. Khi sự trung thành của khách hàng được quan tâm, bồi đắp, sẽ càng khó khăn hơn cho các đối thủ cạnh tranh có thê lôi kéo khách hàng của doanh nghiệp về phía họ. Một vấn đề rất quan trọng liên quan đến nâng cao uy tín của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp phát triển thành công các thương hiệu mạnh. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp có thương hiệu mạnh sẽ kích thích người tiêu dùng nhanh chóng đi đến quyết định mua, nhờ đó mà thị phần của doanh nghiệp gia tăng. Nhưng đánh giá thương hiệu của doanh nghiệp không chỉ ở số lượng các thương hiệu mạnh mà doanh nghiệp đang có mà quan trọng phải đánh giá được khả năng phát triển thương hiệu của doanh nghiệp. Khả năng đó cho thấy sự thành công tiềm tàng của doanh nghiệp trong tương lai. Nếu doanh nghiệp có khả năng phát triển thương hiệu thành công thì các sản phẩm mới trong tương lai sẽ có khả năng thành công lớn hơn trên thương trường. Các chỉ tiêu như chi phí cho hoạt động phát triển thương hiệu, số lượng thương hiệu hiện có, mức độ nổi tiếng và được ưu chuộng của thương hiệu… so sánh với các chỉ tiêu tương ứng của đối thủ cạnh tranh có thể được sử dụng để phân tích hiệu quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. 1.2.3. Các biện pháp doanh nghiệp có thể áp dụng để thúc đẩy xuất khẩu 1.2.3.1. Các biện pháp tác động đến nguồn hàng xuất khẩu của doanh nghiệp 1. Nâng cao năng lực quản trị chiến lược kinh doanh, chiến lược cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu Đây là giải pháp nhằm đáp ứng tiêu chí về đánh giá năng lực quản trị chiến lược kinh doanh cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp khi xuất khẩu hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Nội dung của giải pháp này bao gồm : Định hướng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp Các mục tiêu định hướng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp 2 . Lựa chọn chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp Việc lựa chọn chiến lược của doanh nghiệp phải đạt 2 yêu cầu : Chiến lược lựa chọn phải phù hợp với các điều kiện của môi trường kinh tế chung Chiến lược lựa chọn phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, chính sách và khả năng trình độ mọi mặt của doanh nghiệp trong từng giai đoạn phát triển, chủ yếu là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh giá ở mức nào 3. Lựa chọn phương thức kinh doanh xuất khẩu phù hợp với doanh nghiệp Việc lựa chọn và vươn tới những áp dụng những phương thức kinh doanh xuất khẩu tiên tiến nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế là tất yếu. Song không có phương thức giao dịch buôn bán nào đáp ứng được mọi yêu cầu và phù hợp với mọi điều kiện của doanh nghiệp. Vì vậy, vấn đề lựa chọn, vận dụng sáng tạo, phối hợp các phương thức giao dịch trong kinh doanh xuất khẩu là cần thiết để góp phần nâng cao sức cạnh tranh, thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp. Ngoài các phương thức buôn bán thông thường, các doanh nghiệp có thể lựa chọn các phương án đặc thù trong thương mại quốc tế để nâng cao sức cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Có thể là : Phương thức buôn bán đối ứng Phương thức đấu giá Phương thức bán hàng qua đại lý Phương thức gia công xuất khẩu Thương mại điện tử Phương thức buôn bán hàng hoá giao ngay và thị trường hàng hoá kỳ hạn Phương thức kinh doanh chuyển khẩu 4. Nâng cao trình độ công nghệ và ứng dụng công nghệ - kỹ thuật mởi các doanh nghiệp xuất khẩu Để nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu thì các doanh nghiệp cần phải từng bước thay thể công nghệ cũ; cải tiến các công nghệ, thiết bị đang sử dụng cho phù hợp hoàn cảnh của doanh nghiệp; tinh giảm bộ máy nhân sự và bổ sung nhân lực tinh thông nghiệp vụ ngoại thương, có tay nghề cao đủ sức đáp ứng yêu cầu khắt khe của cạnh tranh xuất khẩu và từng bước tiến tới ứng dụng các công nghệ mới, công nghệ tin học vào các khâu của quá trình sản xuất từ thiết kế mẫu mã đến việc sản xuất, kiểm tran chất lượng sản phẩm, áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế. 5. Liên kết và hợp tác mở rộng qui mô kinh doanh xuất khẩu cùng các doanh nghiệp trong nước tại thị trường thế giới Để thâm nhập có hiệu quả trên thị trường thế giới, các doanh nghiệp trong nước cần : Hợp tác đầu tư với các tập đoàn kinh tế, công ty đa quốc gia của nước ngoài, hình thành các công ty con của các tập đoàn – công ty đa quốc gia này trên lãnh thổ nước đó và được quyền kinh doanh và sử dụng nhân lực tại chỗ. Các doanh nghiệp thươgn mại nòng cốt có thể đứng ra sát nhập, hợp nhất các doanh nghiệp xuất khẩu và phục vụ xuất khẩu nhằm hình thành các tập đoàn kinh tế tổng hợp, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 1.2.3.2. Các biện pháp tác động đến thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp : 1. Sử dụng có hiệu quả hoạt động marketing xuất khẩu để tăng cường khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp Các giải pháp chiến lược sử dụng công nghệ marketing xuất khẩu cơ bản trong chiến lược marketing hỗn hợp mà doanh nghiệp có thể áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và thị phần xuất khẩu trên thị trường thế giới : Về nghiên cứu thị trường xuất khẩu : thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp chính là thị trường quốc tế, do vậy mà nó ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác nhau, thường là đa dạng và phong phú hơn nhiều so với thị trường nội địa. Các nhân tố này có thể mang tính vĩ mô ( như các yếu tố môi trường ) và vi mô ( như tập tính và phương thức hoạt động của thị trường), có trường hợp thể hiện một cách rõ ràng song cũng có trường hợp rất tiềm ẩn, khó nắm bắt đối với các nhà kinh doanh nước ngoài. Việc định dạng các nhân tố này cho phép doanh nghiệp xác định rõ những nội dung cần tiến hành nghiên cứu trên thị trường quốc tế. Nó cũng chính là căn cứ để lựa chọn thị trường, cách thức thâm nhập thị trường và các chính sách marketing khác. Một cách khái quát nhất, việc nghiên cứu thị trường quốc tế được tiến hành theo các nhóm nhân tố ảnh hưởng sau : Nghiên cứu các nhân tố mang tính toàn cầu Nghiên cứư các nhân tố thuộc môi trường kinh tế Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường chính trị - luật pháp Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường văn hoá Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường cạnh tranh Nghiên cứu nhu cầu thị trường Nghiên cứu cơ cấu của thị trường Nghiên cứu hành vi hiện thực và tập tính tinh thần của khách hàng Nghiên cứu cách thức tổ chức thị trường nước ngoài Vể sản phẩm xuất khẩu : Nâng cao sức cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm hàng hoá là một trong những nội dung trọng yếu để đạt được mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp. Nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm hàng hoá cần sử dụng hiệu quả các giải pháp Marketing sau : Xây dựng các cặp sản phẩm/ thị trường Đa dạng hoá sản phẩm Chuyên môn hoá, chuyên biệt hoá sản phẩm Thích nghi hoá sản phẩm với từng thị trường Về định giá hàng hoá xuất khẩu : Định giá đúng cho sản phẩm trong kinh doanh xuất khẩu là bí quyết thành công khi doanh nghiệp đã chiếm giữ, khống chế được thị trường, thị phần một cách tương đối ổn định. Còn định giá cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu là một nghệ thuật và bí quyết thành công khi doanh nghiệp bước đầu thâm nhập thị trường, mở rộng thị phần. Về phân phối : Theo quan điểm marketing, phân phối là quá trình kinh tế và những điều kiện tổ chức liên quan tới việc giao dịch, điều hành và vận ch._.i gian qua, do chưa có sự quan tâm và đầu tư đúng mức vào hoạt động sản xuất nên kim ngạch xuất khẩu của công ty đã giảm sút nghiêm trọng, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh và đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty. Trong những năm tới, mục tiêu hàng đầu mà công ty cổ phần da giày Việt Nam đặt ra là đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, gia tăng kim ngạch nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của công ty. Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm da giày xuất khẩu, phù hợp với thị hiếu và xu hướng tiêu dùng của thị trường EU : EU là một thị trường lớn với 27 quốc gia và hơn 500 triệu dân, đầy là một thị trường rất hấp dẫn cho các doanh nghiệp xuất khẩu da giày Việt Nam. Tuy nhiên, người tiêu dùng EU lại rất khó tính, mỗi quốc gia đều có những nét khác nhau trong thị hiếu và xu hướng tiêu dùng. Do đó đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng của người dân EU chính là chìa khoá để nâng cao sức cạnh tranh, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty cổ phần da giày Việt Nam. Từng bước chuyển đổi từ phương thức gia công xuất khẩu sang phương thức xuất khẩu trực tiếp để nâng cao hiệu quả và tăng tích luỹ : Xét về lâu dài, tất yếu phải chuyển sang xuất khẩu trực tiếp để nâng cao hiệu quả trong sản xuất và trong xuất khẩu. Tuy nhiên có những vấn đề khó khăn mà bản thân công ty cũng chưa thể giải quyêt được, do vậy, trong thời gian trước măt, vẫn cần duy trì hình thức gia công xuất khẩu nhưng cần nâng dần hiệu quả để tăng giá trị tích luỹ, tạo đà cho việc chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp trong tương lai. Nâng cao trình độ khoa học công nghệ, chú trọng công nghệ thông tin, nâng cao năng lực tiếp cận công nghệ hiện đại, đổi mới công nghệ hiện có, tăng cường đầu tư và kinh phí cho nghiên cứu triển khai, phát minh, sáng chế… ngang tầm với sự phát triển của các doanh nghiệp xuất khẩu trong khu vực. Tạo được sản phẩm xuất khẩu chủ lực của doanh nghiệp, xây dựng được thương hiệu sản phẩm có tiếng, đảm bảo đủ sức cạnh tranh trên thị trường EU. Nâng cao năng suất lao động vượt trội hơn các đối thủ cạnh tranh hoặc ít nhất là bằng đối thủ cạnh tranh, giảm thiểu chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao giá bán ra ngang bằng mức giá trên thị trường quốc tế được khách hàng châu Âu chấp nhận. 3.3. Các giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng da giày của công ty cổ phần da giày Việt Nam sang thị trường EU 3.3.1. Các giải pháp tháo gỡ những khó khăn trước mắt của công ty 3.3.1.1. Giải quyết vấn đề thiếu vốn kinh doanh Hiện tại, sau khi cổ phần hoá, công ty cổ phần da giày Việt Nam phải đối mặt với những thách thức lớn do thiếu vốn sản xuất do rắc rối trong việc vay vốn của ngân hàng vì những phức tạp trong giấy tờ sở hữu tài sản thế chấp, gặp phải những vướng mắc về tài chính chưa được giải quyêt giữa công ty và tổng công ty da giày Việt Nam đã ảnh hưởng lớn tới kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu. Mục tiêu trước mắt của công ty là cần phải giải quyết dứt điểm công nợ còn tồn tại giữa công ty với tổng công ty da giày Việt Nam và các công ty thành viên khác trong tổng công ty, giải quyết những vướng mắc trong thủ tục giấy tờ thế chấp tài sản để có thể vay vốn ngân hàng, đảm bảo được nguồn vốn để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu trong thời gian tới. Trong tương lai, công ty cần tạo ra cho mình một năng lực tài chính lành mạnh, cần hướng tới mục tiêu niêm yết trên thị trường chứng khoán để có thể chủ động và đa dạng cho mình những phương thức huy động vốn, tránh phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn vay, giảm thiểu những rủi ro không cần thiết, đồng thời có thể nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Mặt khác, công ty cần có thêm các giải pháp nâng cao trình độ tổ chức sản xuât và quản lý của công ty nhằm phát huy tối đa hiệu quả sử dụng các yếu tố vật chất cũng như phi vật chất của doanh nghiệp. Nếu công ty quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả thì sẽ đem lại lợi nhuận cao, từ đó có khả năng tái sản xuất mở rộng, phát triển thị trường tiềm năng, nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty nhờ quy mô sản xuất ngày càng được mở rộng. 3.3.1.2. Khắc phục tình trạng công nghệ lạc hậu, yếu kém như hiện nay Công ty cần tập trung hiện đại hoá trang thiết bị kỹ thuật công nghệ, nâng cao trình độ tổ chức quản lý và sản xuất. Nếu máy móc thiết bị được trang bị hiện đại, trình độ quản lý tốt, tay nghề của công nhân cao thì hoạt động kinh doanh sẽ suôn sẻ, tạo được nhiều lợi thế so với các đối thủ, nâng cao kim ngạch xuất khẩu của công ty trên các thị trường. Công ty cổ phần da giày Việt Nam có thể lựa chọn đầu tư theo 2 phương thức sau : Đầu tư theo chiều sâu : nhằm mục đích cân đối lại các dây chuyền sản xuất, khai thác tối đa và nâng cao hiệu quả sản xuất dựa trên năng lực sản xuất sẵn có. Việc đâu tư đổi mới công nghệ của công ty cần phải kết hợp giữa việc sử dụng các công nghệ trung bình, sử dụng nhiều lao động với các công nghệ hiện đại, tiên tiến từ các nước phát triển. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư vào từng loại sản phẩm khác nhau theo hướng đảm bảo sự phát triển bền vững. Cụ thể : Giày da : giày da là sản phẩm chủ lực, chiếm tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu của công ty cổ phần da giày Việt Nam sang thị trường EU. Tuy nhiên dây chuyền sản xuất tại công ty lại được đầu tư một cách thiếu đồng bộ, do đó đỏi hỏi phải có sự đầu tư, thay thế phù hợp để nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực sản xuất sản phẩm này của công ty. Giày thể thao : dây chuyềy sản xuất mà công ty nhập về tuy là từ những năm đầu của thập kỷ 90 nhưng đó đã là những công nghệ đã khá lạc hậu của thế giới. Do đó, cần phải đầu tư đồng bộ ngay từ đầu nhằm đáp ứng những đòi hỏi đối với mặt hàng giày thể thao, vốn là một trong những mặt hàng ngày càng được người dân châu Âu, đặc biệt là giới trẻ ưa chuộng. Giày nữ : đây là sản phẩm yêu cầu tính thời trang rất cao, do đó bên cạnh việc đầu tư dây chuyền sản xuất đồng bộ còn cân quan tâm đến hoạt động nghiên cứu, thiết kế mẫu mốt. Giày vải : để từng bước sản xuất các loại giày vải cao cấp, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mặt hàng này tại thị trường EU, công ty cần thiết phải thay thế một số thiết bị chủ yếu ở các khâu gò ráp, hấp sấy, may thủ công và đổi mới công nghệ từ ép dán lưu hoá sang ép dán đối với một số loại giày vải cao cấp. Với các thiết bị còn lại có thể thay thế phụ tùng để duy trì và nâng cao hiệu quả sản xuất. Dép các loại : trong thời gian qua, công ty hầu như chỉ đầu tư các máy may công nghiệp, khâu lắp ráp hoàn chỉnh phần lớn làm thủ công do đó chất lượng sản phẩm không đảm bảo, thiếu sự đồng đều. Trong thời gian tới, công ty cần có những kế hoạch đầu tư cụ thể cho khâu lắp ráp hoàn chỉnh nhằm đảm bảo cho sản phẩm mang tính hàng hoá cao. Đầu tư xây dựng mới : Công ty cổ phần da giày Việt Nam đang đầu tư xây dựng một nhà máy sản xuất giầy tại Thái Bình với các nội dung sau : Vốn đầu tư : Tổng vốn đầu tư dự kiến là 7.5 triệu USD bao gồm: Xây dựng cơ bản : 3.5 triệu USD Máy móc thiết bị : 4 triệu USD Nguồn vốn :Vốn đầu tư xuất phát từ 2 nguồn : Công ty sẽ vay vốn ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển trung ương để đầu tư xây dựng cơ bản Máy móc thiết bị sẽ do đối tác Đài Loan cung cấp, tuy nhiên công ty không phải thanh toán giá trị số thiết bị này mà sẽ khấu trừ vào tiền gia công hàng năm theo thỏa thuận trước. Nội dung đầu tư : Lắp đặt thiết bị mới 100% Sản phẩm sản xuất : giầy thể thao, giầy da nam nữ Thị trường mục tiêu là các thị trường xuất khẩu : các nước EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản và các thị trường khác. Hạng mục công trình : Nhà sản xuất chính Nhà điều hành sản xuất, kinh doanh Hệ thống nhà kho Quy mô nhà dự án : 4 dây chuyền giày da nam, nữ 4 dây chuyền giày thể thao Yêu cầu vệ sinh môi trường : đảm bảo vệ sinh công nghiệp, đạt tiêu chuẩn SA8000 Ý nghĩa xã hội : giải quyết việc làm cho 4500 lao động địa phương (Tỉnh Thái Bình). Phía công ty chịu trách nhiệm đào tạo dạy nghề. Hiệu quả kinh tế : Công ty dự kiến đạt kim ngạch xuất khẩu 38 – 40 triệu USD Theo thông tin mới nhất từ Cục quản lý cạnh tranh - Bộ công thương cho biết , rất có thể vào tháng 10 tới đây, giày mũ da Việt Nam xuất khẩu vào EU sẽ không còn bị áp thuế chống bán phá giá. Thông báo của uỷ ban châu Âu (EC) cho biết về thời hạn áp thuế chống bán phá giá đối với giày mũ da có xuất xứ từ Việt Nam và Trung Quốc, nếu không có yêu cầu rà soát , thời hạn áp thuế chống bán phá giá sẽ kết thúc vào ngày 7/10/2008. Do vậy, công ty cổ phần da giày Việt Nam cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, nhanh chóng đưa nhà máy vào sản xuất để có thể nắm bắt tốt cơ hội này. 3.3.1.3. Ổn định tâm lý cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên trong công ty sau cổ phần hoá Khả năng cạnh tranh của công ty phụ thuộc nhiều vào kỹ năng kỹ năng của công ty trong việc sử dụng và phối hợp các nguồn lực vào sản xuất – kinh doanh một cách có hiệu quả. Những kỹ năng này thể hiện trong tất cả các chức năng và lĩnh vực quản trị của công ty, đó là sản phẩm của hệ thống tổ chức quản trị trong công ty. Công tác đào tạo và phát triển nhân sự trong công ty đang là vấn đề cấp bách cần thiết phải được coi trọng nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh trong thời gian tới.Hiện tại và tương lai sau này, da giày vẫn là ngành sử dụng nhiều lao động nhưng luôn đòi hỏi lao động phải có trình độ cao hơn, không chỉ là lao động giản đơn mà cả lao động quản lý, nghiên cứu. Trong quá trình cổ phần hoá, công ty cổ phần da giày Việt Nam đã cắt giảm những bộ phận lao động không cần thiết, trong đó có nhiều nhân viên đã gắn bó nhiều năm với công ty. Điều này đã gây nên những biến động trong tâm lý đội ngũ lao động ảnh hưởng tời kết quả kinh doanh của công ty. Trong thời gian tới đây, công ty cần có các giải pháp khắc phục nhanh chóng tình trạng này để họ có thể yên tâm công tác. Cụ thể là : Công ty cần có những chính sách đãi ngộ phù hợp với năng suất và chất lượng lao động. Đối với các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật và công nhân có trình độ tay nghề cao thì cần có những chính sach đãi ngộ nhằm gắn kết họ với doanh nghiệp, nhằm tránh tình trạng chảy máu chất xám trong công ty. Công ty cần làm cho người lao động quan tâm đến hiệu quả sản xuát kinh doanh, gắn lợi ích của người lao động với hiệu quả của hoạt động sản xuât kinh doanh. Khi đó, mới phát huy được hết giá trị của người lao động nhằm mang lai hiệu quả tối đa cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Hoạt động đào tạo cần phải đi đôi với với việc chăm lo và đảm bảo quyền lợi cho người lao động, đảm bảo cho người lao động có một môi trường làm việc tốt, đặc biệt ở các khâu sản xuất độc hại thì cần có những trang thiết bị nhằm bảo vệ an toàn sức khoẻ cho người lao đông và một mức trợ cấp độc hại thoả đáng. Công ty cũng cần phải thường xuyên tổ chức các hoạt động đào tạo, huấn luyện nhằm nâng cao trình độ của người lao động, trình độ của các cán bộ quản lý, cập nhật những thông tin và kiến thức mới nhất của ngành ở trong và ngoài nước, cử cán bộ tham gia các khoá đào tạo, thực tập tại các quốc gia có ngành công nghiệp da giày phát triển. Đặc biệt, công ty cần chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu nhằm đảm bảo cho công ty một đội ngũ nhân lực có chất lượng cao, làm nền tảng cho sự phát triển của công ty trong tương lai. 3.3.2. Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu trong tương lai 3.3.2.1. Xây dựng chiến lược kinh doanh xuất nhập khẩu Rất nhiều doanh nghiệp hiện không ý thức được tầm quan trọng của việc xây dựng chiến lược kinh doanh cho công ty. Sức cạnh tranh của một công ty có thể được nâng cao một cách nhanh chóng nếu như công ty có một kế hoạch rõ ràng và có những mục tiêu cụ thể để đạt tới. Do vậy, công ty cổ phần da giày Việt Nam cũng cần xác định cho mình một tầm nhìn và các mục tiêu cụ thể, đặc biệt là trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Chỉ có như vậy, công ty mới có khả năng cạnh tranh và tồn tại trong một môi trường canh tranh ngày càng gay gắt như thị trường EU. Ngược lại, công ty sẽ khó có khả năng đối phó với những thay đổi của môi trường. Có rất nhiều chiến lược phát triển, công ty sẽ cần phải dựa trên tình hình cụ thể của công ty, phân tích các điểm mạnh điểm yếu, các cơ hội và thách thức trong từng giai đoạn khác nhau để lựa chọn cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp. Trong giai đoạn này, có lẽ công ty vẫn nên tập trung vào các chiến lược giá thấp, dựa trên cơ sở cắt giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm để tạo nên lợi thế cạnh tranh khi thâm nhập thị trường EU. 3.3.2.2. Đầu tư có hiệu quả các nguồn tiềm lực vật chất và phi vật chất của công ty Đó là các nguồn lực về nhân sự, tài chính, cơ sở vật chất và công nghệ. Các nguồn lực dưới hình thái phi vật chất như nhãn hiệu hàng hoá, uy tín doanh nghiệp, bản quyền, bí quyết công nghệ hay kỹ năng tiếp thị, kỹ năng điều hành sản xuất. Cụ thể là : 1. Nâng cao chất lượng sản phẩm cung cấp cho khách hàng, tạo lợi thế về chi phí và khả năng hạ giá thành sản phẩm, nâng cao vị thế cạnh tranh của công ty Chất lượng sản phẩm tác động trực tiếp đến người tiêu dùng, quyết định tới khả năng xuất khẩu của công ty. Để khách hàng có thể sẵn lòng trả giá cao hơn, đòi hỏi sản phẩm của công ty phải có giá trị cao hơn đối thủ cạnh tranh trên một phương diện nào đó : chất lượng hay thiết kế, thời gian cung ứng, dịch vụ hỗ trợ, dịch vụ sau khi bán. Hiện nay, công ty cổ phần da giày Việt Nam vẫn chủ yếu là gia công cho các đối tác nước ngoài, do vậy, hướng đi tốt nhất trong giai đoạn hiện nay là lựa chọn giải pháp nâng chất lượng sản phẩm. Công ty cần xây dựng cho mình một hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm và môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế. Tạo lợi thế về chi phí và khả năng hạ giá thành sản phẩm : giá thành là yếu tố đặc biệt quan trọng quyết định tới lợi nhuận của công ty và khả năng cạnh tranh về giá, nhất là cạnh tranh với sản phẩm của Trung Quốc. Nếu chênh lệch giữa giá bán và giá thành cá biệt của công ty càng cao so với đối thủ thì khả năng cạnh tranh của công ty so với đối thủ cạnh tranh càng lớn, hàng hoá của công ty sẽ càng có cơ hội thâm nhập sâu vào thị trường nước ngoài. Do đó, công ty cổ phần da giày Việt Nam cần phải coi cạnh tranh về giá cũng là một vũ khí lợi hại, là công cụ để công ty mở rộng thị phần tại thị trường EU. Nâng cao vị thế cạnh tranh của công ty : biểu hiện cụ thể của yếu tố này là thị phần mà công ty chiếm lĩnh, uy tín của công ty đối với khách hàng. bạn hàng, thậm chí cả đối với đối thủ cạnh tranh trên thị trường EU. Đây là một tài sản vô hình rất quan trọng, đặc biệt tại thị trường có mức độ canh tranh cao như EU. Nhân tố này cần được tích luỹ trong suốt quá trình sản xuất, kinh doanh của công ty. Trong môi trường cạnh tranh như hiện nay, đặc biệt là với các đối thủ trong khu vực, công ty cổ phần da giày Việt Nam cần phải có kinh nghiệm, chiến thuật, thủ pháp để tận dụng những cơ hội có thể đem lại thành công cho công ty. Có kinh nghiệm trên thương trường thì mới duy trì và phát huy được khả năng hiện có của công ty. Đồng thời, ban giám đốc công ty cũng phải năng động và nhạy bén, chủ động đối phó với những vấn đề nảy sinh trong kinh doanh, điển hình như vụ kiện bán phá giá thời gian qua, để có thể giúp công ty đững vững và phát triển trên thị trường EU. 2. Nâng cao tính chủ động trong việc đảm bảo nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất Mặc dù hiện tại công ty cổ phần da giày Việt Nam đã đáp ứng được một phần nguyên vật liệu cho sản xuất nhưng nó vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ và là các nguyên vật liệu phụ. Công ty vẫn phụ thuộc vào việc nhập khẩu nguyên vật liệu từ các đối tác đặt gia công bên phía Hàn Quốc và Đài Loan. Do đó làm giảm tính chủ động của công ty trong hoạt động sản xuất. Trong thời gian tới, công ty cần có hướng đầu tư nhằm nâng cao khả năng đáp ứng nguyên vật liệu trong sản xuất, nhằm làm giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Mặt khác, cần đưa ra những dự báo và chiến lược trong việc nhập khẩu nguyên vật liệu và lựa chọn những nhà cung cấp phù hợp nhằm tránh những biến động lớn trên thị trường thế giới có thể ảnh hưởng tởi hoạt động sản xuất và xuất khẩu của công ty. 3.3.2.3. Phát triển thị trường xuất khẩu của công ty, từng bước chuyển dần từ gia công xuẩt khẩu sang xuất khẩu trực tiếp Hiện nay, hoạt động xuất khẩu mặt hàng da giày của công ty cổ phần da giày Việt Nam chủ yếu vẫn tập trung vào một số thị trường của EU là Anh, Pháp, Đức, Italia và Hà Lan. Mặc dù đây là những thị trường lớn và tiềm năng nhưng cũng ẩn chứa những rủi ro khi có những biến động lớn về nhu cầu, thị hiếu… Do đó, công ty cũng cần phải phân tán những rủi ro đó bằng cách phát triển thị trường xuất khẩu của công ty sang những quốc gia khác, đồng thời cũng là cách thức để gia tăng kim ngạch xuất khẩu của công ty, chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp. Để mở rộng thị trường thì bên cạnh những định hướng chung thì bản thân công ty cần phải có chiến lược để khắc phục những điểm yếu mình. Phải tìm mọi biện pháp để huy động các nguồn lực và động lực để nâng cao sức mạnh của doanh nghiệp. Công ty cần xác định đúng đắn chiến lược sản phẩm, nghiên cứu và lựa chọn thị trường, cơ cấu vốn và tài chính, nhân sự, áp dụng khoa học và kỹ thuật để chủ động thâm nhập vào các thị trường khác. Để có thể thu thập các thông tin về thị trường mục tiêu như về giá cả, chất lượng hàng hoá, về các đối thủ cạnh tranh, công ty có thể đặt các văn phòng đại diện ở nước ngoài hoặc thông qua các đại sứ quãn, lãnh xứ quán của Việt Nam, văn phòng đại diện của địa phương tại nước ngoài hoặc các tổ chức, hiệp hội quốc tế mà công ty tham gia để có các quyết định kịp thời và chính xác trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Công ty cũng cần đào tạo đội ngũ cán bộ không những giỏi về nghiệp vụ mà phải có trình độ ngoại ngữ, vi tính, khả năng giao dịch tốt với nước ngoài, đội ngũ cán bộ thị trường phải hiểu và nắm rõ phong tục tập quán của từng thị trường xuất khẩu. Như thế, công ty mới có thể thâm nhập thành công vào những thị trường mới. Đồng thời, công ty cũng cần tích cực tham gia các hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước nhằm đẩy mạnh công tác tiếp thị và xúc tiến xuất khẩu. Đây là bước đầu tiên để công ty chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình ra thị trường nước ngoài. 3.3.2.4. Hình thành và xây dựng văn hoá công ty, văn hoá doanh nghiệp Đây là việc làm cần thiết đối với công ty. Trên thực tế, có rất nhiều công ty trở nên nổi tiếng vì đã xây dựng cho mình một văn hoá công ty phù hợp. Văn hoá công ty nhiều khi là một tài sản vô hình của doanh nghiệp và nó làm tăng khả năng cạnh tranh và tồn tại của doanh nghiệp. Nói đến văn hoá kinh doanh là nói đến mối quan hệ giữa các thành viên trong cùng một công ty, là phong cách lãnh đạo và phong cách ững xử. Văn hoá công ty luôn gắn với thương hiệu và uy tín của công ty. Do vậy, xây dựng văn hoá công ty tức là xây dựng công ty như một gia đình thứ hai của mỗi thành viên, phải có tinh thần đồng cam cộng khổ, gắn bó với nhau bằng tình thần cộng tác, tinh thần đồng đội. Văn hoá công ty muốn xây dựng được thì những yếu tố xã hội luôn cần được coi trọng. Vì vậy, ngoài những yếu tố về công khai, minh bach, thưởng phạt nghiêm minh thì nhận thức và quan hệ cá nhân giữa chủ và thợ cũng rất cần được chú ý. Văn hoá công ty thể hiện thái độ và hành vi của cán bộ, nhân viên trong công ty đối với công việc. Nó là một cơ cấu vô hình đủ mạnh để hình thành phong cách và lề lối làm việc mà mọi nhân viên phải tuân theo. Những phong cách và lề lối này sẽ quyết định hiệu quả, lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là tài sản vô hình quyết định tương lai và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, xây dựng văn hoá công ty là một hoạt động rất cần thiết để thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu của công ty. 3.3.2.5. Tăng cường hợp tác, mở rộng liên kết với hiệp hôi da giày và các doanh nghiệp da giày khác Với xuất phát điểm thấp, năng lực cạnh tranh không cao, công ty cổ phần da giày Việt Nam chắc chắn sẽ không đủ khả năng chống chọi với lại những doanh nghiệp lớn, những công ty da giày của nước ngoài, đặc biệt là các công ty của Trung Quốc. Vì vậy, nếu muốn tồn tại và phát triển, công ty cần tăng cường các mối liên kết kinh tế. Phải chọn cách “chạy tiếp sức” chứ không nên mạnh ai nấy chạy. Tức là, công ty cần phải phối hợp với cách doanh nghiệp khác trong hoạt động sản xuất như trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ hoặc hợp tác với nhau cùng thực hiên một hợp đồng gia công cho nước ngoài, tức là thực hiện các hợp đồng gia công nhiều bên. Đặc biệt, các công ty có thể phối hợp với nhau trong khâu nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất như vậy có thể tạo nên các sức ép nhằm giảm giá thành nhập khẩu nguyên vật liệu. Ngoài ra, công ty cần phối hợp với hiệp hội da giày Việt Nam thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại, đặc biệt là cùng chống lại các chính sách bảo hộ từ thị trương nước ngoài, điển hình là vụ kiến bán phá giá của liên minh châu Âu EU. 3.3.3. Một số kiến nghị 3.3.3.1. Đối với nhà nước Nhà nước cần có các biện pháp, chính sách tài chính và tiền tệ để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu các sản phẩm da giày của doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường EU : 1. Cổ phần hoá là phải mở cửa cho doanh nghiệp Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cần triển khai khẩn trương, đồng bộ các giải pháp : Thứ nhất là tạo ra sự thông suốt, nhất trí cao trong các ngành, các cấp và các doanh nghiệp. Thứ hai là tạo đủ khung pháp lý Thứ ba là giảm thiểu tối đa phiền hà các thủ tục hành chính rườm rà cho doanh nghiệp Thứ tư là soát xét, hoàn chỉnh các chính sách tạo môi trường lành mạnh cho các doanh nghiệp sau cổ phần hoá hoạt động tốt hơn. 2. Bảo lãnh tín dụng và cung cấp tín dụng xuất khẩu Bảo lãnh tín dụng : Để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài thì nhiều doanh nghiệp thực hiện việc bán chịu và trả chậm, hoặc dưới hình thức tín dụng hàng hoá với lãi suất ưu đãi đối với người mua hàng nước ngoài. Việc bán hàng như vậy thường có những rủi ro dẫn đến sự mất vốn. Trong trường hợp đó, để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn xuất khẩu hàng hoá bằng cách bán chịu, nhà nước có thể đứng ra bảo lãnh, đền bù nếu bị mất vốn. Tỉ lệ đền bù có thể lên đến 100% vốn bị mất, nhưng thường tỉ lệ đền bù là 60 – 70% khoản tín dụng để các nhà xuất khẩu phải quan tâm đến việc kiểm tra đến khả năng thanh toán của người nhập khẩu và quan tâm đến việc thu tiền bán hàng sau khi hết thời hạn tín dụng. Mặt khác, nếu áp dụng biện pháp này, nhà nước cần có các xác minh chặt chẽ nhằm tránh trường hợp các doanh nghiệp trong nước móc nối với các nhà nhập khẩu nước ngoài để rút tiền của nhà nước. Nhà nước thực hiện cấp tín dụng xuất khẩu : có 2 hình thức cấp tín dụng xuất khẩu mà nhà nước có thể áp dụng nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp : Nhà nước trực tiếp cho nước ngoài vay tiền với lãi suất ưu đãi để nước vay sử dụng số tiền đó để mua hàng của nước cho vay. Nguồn vốn vay thường lấy từ ngân sách nhà nước và thường kèm theo các điều kiện kinh tế, chính trị có lợi cho nước cho vay. Nhà nước ta chưa thể có vốn để cho nước ngoài vay với khối lượng lớn. Tuy nhiên, khi có điều kiện, nhà nước ta không nên bỏ qua hình thức cấp tín dụng gắn với việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá này. Nhà nước cấp tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước : cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu khác, vốn bỏ ra cho việc sản xuất và thực hiện hợp đồng xuất khẩu của các công ty sản xuất và xuất khẩu sản phầm da giày là rất lớn. Người xuất khẩu cần có được một số vốn cả trước và sau khi giao hàng để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu. Nhà nước có thể hỗ trợ các chương trình xuất khẩu bằng cách thông qua hệ thống ngân hàng mà nhà nước có quyền chi phối, các quỹ hỗ trợ xuất khẩu… nhằm cung cấp tín dụng ngắn hạn với lãi suất ưu đãi trong giai đoạn trước và sau khi giao hàng cho các doanh nghiệp xuất khẩu. 3. Áp dụng các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu phù hợp với luật pháp quốc tế Trợ cấp xuất khẩu có 2 hình thức đó là : trợ cấp xuất khẩu trực tiếp và trợ cấp xuất khẩu gián tiếp. Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, do đó các biện pháp trợ cấp xuất khẩu trực tiếp không còn được phép sử dụng. Nhà nước ta có thể thông qua hình thức trợ cấp xuất khẩu gián tiếp để thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng da giày ra thị trường nước ngoài miễn thuế, giảm thuế đối với hàng xuất khẩu, dùng ngân sách nhà nước để giới thiểu, triển lãm, quảng cáo về sản phầm da giày của Việt Nam với bạn hàng quốc tế nhằm tạo điều kiện cho các giao dịch xuất khẩu. Một hình thức khác đó là nhà nước có thể giúp đỡ kỹ thuật và đào tạo chuyên gia cho ngành hàng da giày, hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu da giày xây dựng lực lượng cán bộ, nhân viên giỏi nghiệp vụ xuất khẩu và có trình độ quản lý cao nhằm đáp ứng được nhu câu xâm nhập thị trường EU. Giải pháp này gồm các nội dung chủ yếu sau : Tăng cường hơn nữa đào tạo nguồn lao động cơ bản cho các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm da giày bằng ngân sách nhà nước. Khuyến khích các doanh nghiệp da giày xuất khẩu đầu tư kinh phí và phối hợp với các trường đại học, trường đạo tạo nghề … để đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực của doanh nghiệp. Đa dạng hoá các phương thức tổ chức đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ, ngoại ngữ cho lực lượng lao động đang tại nghiệp ở các doanh nghiệp xuất khẩu da giày. 4. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến xuất khẩu sản phẩm da giày sang thị trường EU Xúc tiến xuất khẩu là một bộ phận quan trọng của xúc tiến thương mại, đó là các hoạt động để tăng xuất khẩu của một quốc gia hay một công ty. Hiện nay, cạnh tranh trên thị trường thế giới rất gay gắt, hơn nữa, hoạt động xúc tiến xuất khẩu của các đối cạnh tranh về xuât khẩu mặt hàng da giày của chúng ta được thực hiện rất tốt, đặc biệt là Trung Quốc. Do đó, chính phủ Việt Nam cần tăng cường hơn nữa hoạt động thúc tiến xuất khẩu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu da giày của Việt Nam ra thị trương thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng. Các hoạt động này bao gồm Tham gia vào các hội chợ thương mại về da giày, cử các phái đoàn thương mại ra nước ngoài , tiến hành quảng cáo cho sản phẩm da giày của Việt Nam… Thiết lập chiến lược phát triển xuất khẩu cho sản phẩm da giày sang các thị trường trong tương lai. 3.3.3.2. Đối với hiệp hội da giày Việt Nam Tăng cường các hoạt động xúc tiến xuất khẩu như tổ chức và tham gia các hội chợ triển lãm chuyên ngành, tổ chức các đoàn khảo sát thị trường nước ngoài. Tuyên truyền hưỡng dẫn cho các doanh nghiệp về các qui định mới có liên quan đến thị trường thế giới, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc chống lại các vụ kiện bán phá giá tại thị trường nước ngoài Tăng cường cung cấp thông tin phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, thông tin về sự thay đổi nhu cầu, thị hiệu, xu hướng sản phẩm trên thị trường thế giói, xu hướng cạnh tranh đang diễn ra, thông tin về kênh phân phối… Giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc hoạch định và thực hiện các phương hướng, chiến lược xuất khẩu. KẾT LUẬN EU, nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới với 27 quốc gia thành viên với sức tiêu thụ khổng lồ là một thị trường xuất khẩu hấp dẫn đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Trong thời gian trước kia, da giày Việt Nam đã đạt được những thành công lớn tại thị trường EU, xuất khẩu mặt hàng da giày của Việt Nam vào thị trường này thường xuyên đạt được tốc độ tăng trưởng cao, mang lại nguồn thu lớn cho đất nước. Tuy nhiên, từ năm 2006, khi Việt Nam bị liên minh châu Âu EU chính thức áp mức thuế chống bán phá giá 10% đối với các sản phẩm giày mũ da, một sản phẩm chủ lực của ngành công nghiệp da giày Việt Nam, thì hoạt động xuất khẩu da giày của Việt Nam vào thị trường này đã giảm sút rõ rệt. Là một doanh nghiệp chuyên sản xuất và xuất khẩu mặt hàng da giày sang thị trường EU, công ty cổ phần da giày Việt Nam cũng không tránh khỏi thách thức này. Hơn nữa, cùng thời gian đó, công ty còn phải đối mặt với những khó khăn vướng mắc gặp phải sau quá trình cổ phần hoá. Chính những điều này đã làm cho hoạt động kinh doanh của công ty có dấu hiệu sa xút nghiêm trọng, cần có những biện pháp thích hợp để khôi phục và gia tăng hiệu qua kinh doanh của công ty và hoạt động xuất khẩu mặt hàng da giàu sang thị trường EU. Một mặt, công ty nên chuyển hướng hoạt động xuất khẩu của mình sang các thị trường lớn khác như Mỹ, Nhật Bản… nhằm giảm thiểu những rủi ro khi có biến động xảy ra. Mặt khác, công ty vẫn cần phải có các giải pháp phù hợp để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình sang thị trường EU, bởi đây vẫn là một thị trường giàu tiềm năng, hơn nữa, công ty lại có kinh nghiệm nhiều năm trong việc xuất khẩu sang thị trường này, do vậy không thể vì những khó khăn trước mắt gặp phải mà có thể từ bỏ nó. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Thị Hường, “ Giáo trình kinh doanh quốc tế “, trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, khoa Kinh Tế và Kinh Donh Quốc Tế, nhà xuất bản Lao Động – Xã Hội Hà Nội (2003), tr 271 – 277. Trần Chí Thành, “ Giáo trình quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu “, nhà xuất bản Thống Kê (2000), tr 24 – 158. Vũ Hữu Tửu, “ Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương “ , trường đại học Ngoại Thương, nhà xuất bản Giáo Dục (1998) , tr 5 – 45. Bùi Xuân Lưu, Nguyễn Hữu Khải, ” Giáo trình Kinh tế ngoại thương “ , Nhà xuất bản Lao Động – Xã Hội (2006), tr 141 – 178. Công ty cổ phần kinh tế đối ngoại, “ Da giày Việt Nam - truyền thống và hiện đại “ , Nhà xuất bản Chính Trị - Quốc Gia (2002 ), 91 – 102. Vũ Trọng Lâm, “ Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế “ , nhà xuất bản Chính Trị - Quốc Gia (2006), tr 39 – 49, tr 310 – 320. Nguyễn Duy Bột, “ Thương mại quốc tế và phát triển thị trường xuất khẩu “ , nhà xuất bản Thống Kê (2003), tr 98 – 100. Vũ Chí Lộc, “ Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường châu Âu”, Nhà xuất bản Lý Luận Chính Trị (2004), tr 252 – 284. , “Giải pháp nào cho thúc đẩy xuất khẩu?” ,“Ngành da giày Việt Nam trước những xu hướng cạnh tranh mới “ “Những cơ hội và thách thức đối với Ngành Da - Giầy Việt Nam trong quá trình hội nhập” “Xuất khẩu giày da: Khắc phục yếu điểm, tăng tính bền vững” “Thực trạng và phương hướng phát triển ngành da giày Việt Nam trong thời gian tới “ “Thị trường da giày Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo” “Sắp hết thời hạn áp thuế bán phá giá giày mũ da”. “cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước”. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26452.doc