Tài liệu Thúc đẩy Xuất khẩu giày dép sang thị trường EU của các doanh nghiệp: LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, một trong những mục tiêu quan trọng đó là tạo nguồn ngoại tệ cho sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hoá đất nước. Do vậy đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu là biện pháp hữu hiệu.
Thị trường EU là thị trường lớn, với nhu cầu nhập khẩu cao phần lớn là nguyên liệu, may mặc, giày da, thuỷ sản...Mọi doanh nghiệp đều muốn thâm nhập vào thị trường đầy tiềm năng này. Nhưng bên cạnh đó, cạnh tranh trên thị trường này cũng hết sức k... Ebook Thúc đẩy Xuất khẩu giày dép sang thị trường EU của các doanh nghiệp
57 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1847 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thúc đẩy Xuất khẩu giày dép sang thị trường EU của các doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hốc liệt. Đối với nước ta, EU luôn được coi là đối tác lâu dài và ổn định. Nước ta đã xuất khẩu nhiều mặt hàng sang thị trường EU như dệt may, giày dép, thủ công mỹ nghệ...Trong đó ngành giày dép đóng vai trò quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu của nước ta sang EU. Thị trường giày dép đã dần khẳng định được vị thế của mình trên thị trường này thể hiện kim ngạch xuất khẩu trong những năm gần đây liên tục tăng. Nhưng những thành tích đó vẫn chưa xứng đáng với tiềm năng của ngành.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều khó khăn, mặt hàng giày dép của nước ta đã bị kiện bán phá giá trên thị trường EU- điều này ảnh hưởng nhiều đến kim ngạch xuất khẩu của ngành đồng thời còn ảnh hưởng nhiều đến đời sống lao động. Do vậy cần có những biện pháp để tránh cho nước ta có nguy cơ mất thị trường đầy tiềm năng. Do vậy tôi lựa chọn đề tài:"Thúc đẩy xuất khẩu giày dép sang thị trường EU của các doanh nghiệp."
Mục tiêu của đề tài:" Từ cơ sở lý luận và đánh giá một cách khách quan ưu, nhược điểm cũng như những thuận lợi và khó khăn của các doanh nghiệp xuất khẩu giày dép trong thời gian qua, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm giày dép sang thị trường EU của các doanh nghiệp.
Trong quá trình nghiên cứu, với thời gian có hạn và tính chất phức tạp của vấn đề nghiên cứu nên đề án này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em mong được sự đóng góp, phê bình từ phía người đọc để đề tài sẽ có giá trị thực tiễn hơn.
Trong khi thực hiện đề tài, em đã nhận được sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn: TS. Trần Văn Bão. Em xin chân thành cảm ơn thày đã giúp em hoàn thành đề tài này.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
1.1 Vai trò và nội dung của hoạt động xuất khẩu.
1.1.1 Khái niệm cơ bản.
- Khái niệm xuất khẩu:
Xuất khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ ra nước ngoài nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây là một hoạt động cơ bản của lĩnh vực kinh doanh Thương mại quốc tế.
Để thực hiện mục tiêu đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước thì mở rộng xuất khẩu là một trong những mục tiêu quan trọng của chính sách đối ngoại của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
Doanh nghiệp có thể tiến hành hoạt động xuất khẩu dưới nhiều hình thức như: xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu ủy thác, buôn bán đối lưu, gia công xuất khẩu và xuất khẩu theo nghị định thư.
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu mà doanh nghiệp tự sản xuất ra hàng hoá hoặc tiến hành thu mua, gom hàng; sau đó bán ra thị trường nước ngoài thông qua mạng lưới, tổ chức kinh doanh của mình. Người xuất khẩu và người nhập khẩu trực tiếp quan hệ với nhau không thông qua bất cứ khâu trung gian nào.
Xuất khẩu uỷ thác là hình thức xuất khẩu mà hoạt động xuất khẩu được tiến hành thông qua một hoặc một số tổ chức trung gian thương mại như: môi giới đại lý. Theo hình thức này, doanh nghiệp xuất khẩu ( bên uỷ thác) sẽ giao cho tổ chức xuất khẩu trung gian ( bên được uỷ thác hay bên nhận uỷ thác) tiến hành xuất khẩu lô hàng với danh nghĩa của bên nhận uỷ thác nhưng chi phí của bên uỷ thác.
Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu; người bán đồng thời cũng là người mua với một giá trị hàng hóa tương đương nhau. Mục đích của hoạt động này không phải là thu ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá có giá trị tương đương mà sản xuất trong nước đang cần.
Gia công xuất khẩu là hình thức xuất khẩu mà trong đó, bên đặt ở nước ngoài cung cấp máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu hoặc bán thành phẩm the yêu cầu của bên đặt gia công và nhận về một khoản thù lao ( phí gia công ) mà hai bên đã thoả thuận từ trước.
Xuất khẩu theo nghị định thư là hình thức xuất khẩu mà theo đó hàng hoá được thực hiện theo nghị định thư giữa các chính phủ của hai nước. Ưu điểm của hình thức này là giá cả hàng hóa dễ được chấp nhận, khả năng thanh toán tốt.
Như vậy tuỳ thuộc vào khả năng của từng doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể lựa chọn theo các hình thức xuất khẩu khác nhau sao cho phù hợp với doanh nghiệp và đạt hiệu quả cao nhất.
1.1.2 Vai trò của xuất khẩu
-Vai trò đối với đất nước.
Mở rộng và đẩy mạnh xuất khẩu làm tăng nguồn ngoại tệ cho ngân sách nhà nước, từ đó tạo cơ hội cho việc thúc đẩy hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại nhằm phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hoá đất nước.
Xuất khẩu góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, vùng kinh tế, sản xuất phát triển theo chiều rộng và cả theo chiều sâu. Đồng thời khi hoạt động xuất khẩu phát triển góp phần giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp; từ đó góp phần ổn định đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Mặt khác, nó cũng góp phần mở rộng mối quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao của nước ta với các nước trên thế giới.
- Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với doanh nghiệp xuất khẩu.
Đối với doanh nghiệp mục tiêu quan trọng là tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đã quan tâm hơn đến hoạt động kinh doanh của mình nhằm tăng năng lực sản xuất, tăng sức cạnh tranh nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sản phẩm, hàng hoá ra thị trường thế giới. Xuất khẩu không chỉ đóng vai trò to lớn đối với nhà nước mà không những thế có vai trò rất quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, đó là:
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa giúp cho doanh nghiệp thực hiện được mục tiêu của doanh nghiệp đó là tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hoạt động này càng quan trọng hơn đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu.
Các doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường thì cần phải có sự đầu tư thích đáng đến cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp. Vì một doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao thì cần phải có cơ sở vật chất tốt, không bị lạc hậu. Để có thể mua sắm, thay thế trang thiết bị thì hoạt động xuất nhập khẩu giúp doanh nghiệp có được nguồn vốn để đầu tư.
Khi hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp phát triển thì sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có nguồn tài chính dồi dào, từ đó có thể đầu tư vào việc mở rộng sản xuất kinh doanh, góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động. giúp cải thiện đời sống của lao động... Với nguồn tài chính dồi dào cũng sẽ giúp doanh nghiệp có thể đầu tư vào các hoạt động như thâm nhập thị trường, thực hiện các hoạt động xúc tíên thương mại... tạo điều kiện đẩy nhanh thị trường tạo lập các mối kinh doanh mới, tạo uy tín và vị thế của doanh nghiệp trong kinh doanh.
Cán bộ công nhân viên sẽ ngày càng được cải thiện, tăng mức thu nhập của người lao động, từ đó tạo động lực cho cán bộ công nhân sẽ gắn bó hơn với doanh nghiệp.
Do vậy, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò hết sức to lớn đối với đẩt nước nói chung và với doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng. Đồng thời xuất khẩu sẽ làm tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước góp phần làm cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, làm cho nền kinh tế giữ vững ổn định và không ngừng phát triển.
1.2 Nội dung hoạt động xuất khẩu
1.2.1 Nghiên cứu thị trường xuất khẩu.
Đây là vấn đề rất cần thiết đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tham gia hoạt động kinh doanh đặc biệt là khi tham gia vào thị trường kinh doanh quốc tế.
Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng là quá trình điều tra để tìm triển vọng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm, kể cả phương pháp thực hiện mục tiêu đó. Qúa trình nghiên cứu thị trường thực chất là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích những số liệu và rút ra kết luận, từ đó đề ra biện pháp thích hợp đối với doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp Việt Nam muốn thâm nhập thị trường EU thì điều quan trọng là phải có đầy đủ thông tin về thị trường EU để có thể đề ra các phương án hay chiến lược kinh doanh phù hợp. Các doanh nghiệp cần trang bị cho mình những kiến thức về thị hiếu, phong tục, thu nhập...của người dân.
EU là một thị trường khó tính, người tiêu dùng yêu cầu sản phẩm có chất lượng cao và đặc biệt yếu tố quyết định khi họ lựa chọn sản phẩm là sản phẩm đó phải có thương hiệu. Những xu hướng tiêu dùng của người dân Châu Âu ngày càng thể hiện sự chú trọng hơn nữa vào chất lượng, kiểu dáng, xu hướng thời trang của thế giới...
Khi các doanh nghiệp tham gia thị trường xuất khẩu thì có rất nhiều vấn đề cần được giải quyết và chính giai đoạn nghiên cứu thị trường sẽ giúp cho doanh nghiệp giải quyết được những thắc mắc. Nghiên cứu thị trường giúp doanh nghiệp giải quyết các câu hỏi sau:
- Nước nào là thị trường có triển vọng đối với các sản phẩm của doanh nghiệp?
- Số lượng hàng hóa bán ra là bao nhiêu?
- Sản phẩm có những thích ứng trước đòi hỏi của thị trường như thế nào?
- Các doanh nghiệp tham gia bán sản phẩm đó trên thị trường như thế nào?
- Lựa chọn phương thức bán hàng cho phù hợp?
Khi tiến hành nghiên cứu thị trường doanh nghiệp có thể áp dụng 2 phương pháp để có thể thu thập thông tin cần thiết đó là phương pháp nghiên cứu tại bàn và phương pháp nghiên cứu tại hiện trường. Hai phương pháp này hỗ trợ lẫn nhau giúp cho doanh nghiệp có nguồn thông tin đầy đủ và chính xác hơn.
- Phương pháp nghiên cứu tại bàn về cơ bản bao gồm việc thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu. Đây là phương pháp phổ thông nhất về nghiên cứu thị trường. Áp dụng phương pháp này đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng tài chính của nhiều doanh nghiệp khi mới tham gia thị trường, tuy nhiên cũng có nhiều hạn chế như chậm, độ chính xác không cao. Thông tin có thể lấy qua sách báo, mạng internet... cũng có thể lấy thông tin từ các tổ chức quốc tế như trung tâm thương mại quốc tế, tổ chức thương mại quốc tế, tổ chức phát triển liên hợp quốc, phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam...
- Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường: việc thu thập thông tin theo phương pháp này chủ yếu thông qua tiếp xúc với mọi người trên hiện trường. Đây là phương pháp quan trọng trong nghiên cứu thị trường. Phương pháp này chủ yếu thu thập thông tin trực tiếp và qua quan hệ giao tiếp với thương nhân và người tiêu dùng. Đây là nguồn thông tin đem lại cho doanh nghiệp độ chính xác cao. Nhưng phương pháp này tốn kém đòi hỏi doanh nghiệp phải có nguồn lực tài chính đủ mạnh để có thể nghiên cứu thị trường theo phương pháp này.
Các phương pháp này giúp cho doanh nghiệp có thể định hướng tốt hơn cho việc xây dựng chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp. Giúp doanh nghiệp phân tích được các yếu tố cung,cầu thị trường và các điều kiện khác của thị trường.
Giá cả hàng hoá không chỉ là phương tiện tính doanh thu mà còn là phương tiện để bán hàng. Nên muôn bán được sản phẩm thì yếu tố không thể thiếu được đó là vấn đề nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường. Ngoài ra, giá cả hàng hoá còn phản ánh quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường thế giới có ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu.
Các doanh nghiệp nên tiến hành nghiên cứu thị trường theo các trình tự sau:
- Xác định mục tiêu nghiên cứu thị trường
- Xây dựng hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu thị trường
- Lựa chọn phương pháp nghiên cứu
- Xây dựng kế hoạch nghiên cứu
- Thực hiện các hoạt động điều chỉnh và viết báo cáo.
1.2.2 Xác định nhu cầu của thị trường xuất khẩu
Sau khi nghiên cứu thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ xác định cho mình thị trường mục tiêu của doanh nghiệp. Để cho doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả thì nhất thiết doanh nghiệp cần phải xác định chính xác nhu câu của thị trường là như thế nào, để từ đó đưa ra được chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp với doanh nghiệp và có hiệu quả cao.
Nghiên cứu thị trường đã giúp cho doanh nghiệp xác định được phong tục tập quán, thị hiếu tiêu dùng, thu nhập, và dự đoán được khả năng thanh toán của khách hàng. Từ đó đưa ra những chiến lược sản xuất sản phẩm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
1.2.3 Ký kết hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi nghiên cứu và lựa chọn được thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ tiến hành giao dịch và ký kết hợp đồng. Để có thể ký kết hợp đồng mua bán với nhau, hai bên mua bán thường phải tiến hành giao dịch, thương lượng về các điều kiện giao dịch. Các bước giao dịch thường diễn ra như sau:
- Hỏi giá (inquiry): Về phương diện pháp luật thì đây là lời thỉnh cầu bước vào giao dịch, nhưng xét về phương diện thương mại thì đây là việc người mua đề nghị người bán báo cáo cho mình biết giá cả và các điều kiện để mua hàng.
Người mua có thể hỏi về: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, địa điểm giao hàng, phương thức thanh toán...
- Phát giá hay chào hàng ( offer): luật pháp coi đây là lời đề nghị ký hợp đồng và như vậy phát giá có thể do người bán hoặc người mua đưa ra. Nhưng trong buôn bán thì phát giá lại là chào hàng, là việc người xuất khẩu thể hiện rõ ý định bán hàng của mình.
Trong chào hàng người ta nêu rõ: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng...
- Đặt hàng ( order): lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được đưa ra dưới hình thức đặt hàng.
- Hoàn giá ( couter offer): là việc mặc cả về giá cả hoặc các điều kiện giao dịch.
- Chấp nhận (accpetance): là sự đồng ý hoàn toàn tất cả các điều kiện của chào hàng mà phía bên kia đưa ra.
- Xác nhận (confirmation): hai bên mua và bán, sau khi đã thống nhất thoả thuận với nhau về điều kiện giao dịch, có khi cần thận trọng ghi lại mọi điều đã thoả thuận và gửi cho bên kia- đó gọi là văn kiện xác nhận. Văn kiện đó do bên bán gửi gọi là xác nhận bán hàng, do bên mua gửi gọi là giấy xác nhận mua hàng.
Sau khi đã giao dịch thì doanh nghiệp sẽ tiến hành ký kết hợp đồng. Một số đặc điểm của hợp đồng xuất khẩu bao gồm:
Luật điều chỉnh: là luật của nước xuất khẩu, nhập khẩu và điều ước quốc tế mà hai bên thoả thuận và can kết thực hiện. Ngoài ra còn quy định chủ thể hợp đồng, ngôn ngữ trong hợp đồng, đồng tiền thanh toán và phương thức thanh toán.
Do vậy các doanh nghiệp trước khi ký kết hợp đồng giao dịch cần hiểu và nắm chắc các điều kiện cơ bản của hợp đồng kinh doanh xuấtt khẩu gồm các điều kiện:
- Điều kiện về đơn hàng.
- Điều kiện về phẩm chất.
- Điều kiện về số lượng.
- Điều kiện về cơ sở giao hàng.
- Điều kiện về giá cả.
- Điều kiện giao hàng.
- Điều kiện về thanh toán tiền trả.
- Điều kiện về khiếu nại và cách thức giải quyết khiếu nại khi có tranh chấp xảy ra…
1.2.4 Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu
Nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một công ty hoặc một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và đảm bảo điều kiện xuất khẩu được.
Công tác thu mua tạo nguộn hàng cho xuất khẩu là một hệ thống nghiệp vụ trong kinh doanh mua bán, trao đổi hàng hoá nhằm tạo ra nguồn hàng cho xuất khẩu.
Công tác thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, thực hiện chuyên môn hoá, phân công lao động xã hội trên phạm vi quốc tế, tiết kiệm nhân công giảm lao động dư thừa đồng thời góp phần quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng theo đúng tiêu chuẩn. Có nhiều hình thức tạo nguồn hàng xuất khẩu như mua theo đơn đặt hàng, theo hợp đồng gia công...hoặc thông qua liên doanh, liên kết, đại lý...
Tạo nguồn hàng xuất khẩu gồm các nội dung sau: nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu, tổ chức thu mua hàng cho xuất khẩu, ký kết hợp đồng trong tạo nguồn, xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu, tiếp nhận bảo quản và xuất kho giao hàng.
1.2.5 Tổ chức việc thực hiện xuất khẩu
Sau khi doanh nghiệp đã có hàng hoá xuất khẩu theo đúng yêu cầu của đối tác nước ngoài, doanh nghiệp sẽ tổ chức bán hàng ra nước ngoài. Việc bán hàng dựa trên cơ sở hợp đồng được ký kết giữa doanh nghiệp và đối tác. Doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình phương thức bán hàng xuất khẩu và chi phí thấp nhất song lại tối ưu và hiệu quả nhất. Việc tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu cần thực hiện các yêu câu sau:
- Xin giấy phép xuất khẩu.
- Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu.
- Kiểm tra chất lượng hàng hoá.
- Thuê tàu lưu cước
- Mua bảo hiểm
- Làm thủ tục hải quan.
- Giao nhận hàng với tàu
- Giải quyết khiếu nại (nếu có).
1.2.6 Kiểm tra, giám sát và đánh giá hoạt động xuất khẩu.
Trong quá trình thực hiện xuất khẩu doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra giám sát các hoạt động để có các biện pháp kịp thời khắc phục những tình huống phát sinh trong quá trình thực hiện xuất khẩu. Vì hoạt động kinh doanh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá ra nước ngoài là hoạt động rất phức tạp và trải qua nhiều khâu nên không thể tránh khỏi những rủi ro. Đồng thời doanh nghiệp phải đánh giá các kết quả thu được từ hoạt động kinh doanh xuất khẩu xem có hiệu quả không để đề ra những biện pháp thích hợp và rút ra kinh nghiệm cho những lần xuất khẩu sau.
Và một trong những hoạt động quan trọng của hoạt động xuất khẩu là thanh quyết toán hợp đồng:
Tiền hàng xuất khẩu có thể được thanh toán theo nhiều phương thức: thanh toán bằng thư tín dụng, thanh toán bằng phương thức nhờ thu, phương thức tiền mặt trao tay, Séc, uỷ nhiệm chi.
Thanh toán bằng thư tín dụng: Đơn vị kinh doanh xuất khẩu phải đôn đốc người mua ở nước ngoài mở thư tín dụng (L/C) đúng hạn và sau khi nhận được L/C phải kiểm tra L/C và khả năng thuận tiện trong việc thu tiền hàng xuất khẩu bằng L/C đó, nếu L/C đó, nếu L/C không đáp ứng được yêu cầu cần buộc người mua sửa chữa lại rồi mới giao hàng.
Sơ đồ thanh toán theo L/C:
NH mở L/C NH thông báo L/C
Người NK Người XK
1.3 Các nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu
1.3.1 Nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu.
- Nhân tố kinh tế
Mọi doanh nghiệp khi quyết định xuất khẩu hàng hoá vào thị trường nào đó cần nghiên cứu vấn đề kinh tế của thị trường đó. Đây là vấn đề quan trọng, là yếu tố tiên quyết để có thể khẳng định quốc gia đó có hấp dẫn doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu hay không?
Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp: như thu nhập của người dân, mức sống của dân cư, nhu câu tiêu dùng của người dân, khả năng chi trả của người dân... do vậy cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp muốn thu được lợi nhuận cao, mức tiêu thụ lớn thì quốc gia nhập khẩu mà doanh nghiệp lựa chọn phải có nền kinh tế ổn định, tăng trưởng đều... Như vậy thì sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể thâm nhập vào thị trường, và có thể ổn định được sức mua của người tiêu dùng. Ngược lại, nếu doanh nghiệp quyết định xuất khẩu hàng hoá vào quốc gia có nền kinh tế biến động thì thị trường kinh doanh của doanh nghiệp cũng sẽ không ổn định, do vậy sẽ gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp khó có thể thâm nhập vào thị trường đó và sẽ không thể nghĩ tới việc mở rộng thị trường kinh doanh của mình.
- Nhân tố chính trị, pháp luật.
Tình hình chính trị của một quốc gia có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của quốc gia đó. Và chính trị cũng là nhân tố khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp vào quốc gia đó.
Chính trị thường gắn liền với kinh tế của mỗi quốc gia. Chính trị không ổn định sẽ không thể tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh. Đồng thời nếu nước đó có nền chính trị thông thoáng sẽ có nhiều chính sách tạo cơ hội cho doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường. Chính trị không ổn định thì kinh tế rất khó có thể phát triển. Do đó nếu doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá vào quốc gia có nền chính trị ổn định thì sẽ rất có lợi cho hoạt động xuất khẩu. Đặc biệt, nếu nước xuất khẩu lại có mối quan hệ chính trị ngoại giao tốt đẹp với nước ta thì việc nhập khẩu sẽ rất thuận lợi. Do đó, phải tiến hành đánh giá cơ hội kinh doanh của đồng thời tìm tòi hướng kinh doanh phù hợp trên thị trường sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Doanh nghiệp có thể lựa chọn xuất khẩu hàng hoá vào thị trường có nhu cầu về hàng hóa của mình nhưng nếu giữa các quốc gia có sự khác biệt về nền chính trị thì doanh nghiệp nên chọn xuất khẩu hàng hoá vào quốc gia có nền chính trị ổn định hơn- môi trường kinh doanh sẽ an toàn hơn đối với doanh nghiệp.
Mọi hoạt động kinh doanh trên thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài đều phải chịu sự kiểm soát của hệ thống pháp luật. Đặc biệt đối với doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu thì hệ thống pháp luật mà doanh nghiệp phải tuân theo là rất phức tạp cả hệ thống pháp luật trong nước lẫn hệ thống pháp luật của nước nhập khẩu. Do vậy phải nghiên cứu kỹ và tuân thủ hệ thống pháp luật. Pháp luật điều tiết hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hướng dẫn doanh nghiệp phải làm gì, làm như thế nào để hoạt động kinh doanh diễn ra có hiệu quả, đảm bảo tuân thủ pháp luật...
Pháp luật của mỗi quốc gia đều quy định rõ ràng hàng hoá nào được phép kinh doanh, hàng hoá nào không được phép kinh doanh; đồng thời quy định các hàng rào thuế quan, phi thuế quan để bảo vệ cho hàng hoá của nước nhập khẩu. Do vậy doanh nghiệp cần phải nắm rõ và có sự hiểu biết đối với các hàng rào đó.
Hệ thống pháp luật và nền chính trị của mỗi quốc gia vừa tạo cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp đồng thời cũng tạo ra những thách thức đối với doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu.
- Nhân tố văn hoá.
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có một nền văn hoá riêng đặc trưng cho quốc gia, dân tộc mình như phong tục tập quán, giá trị về chuẩn mực... Khi tiến hanhg hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp cần tiến hành nghiên cứu kỹ vấn đề văn hoá của nước nhập khẩu. Do các yếu tố thuộc về phong tục tập quán, giá trị chuẩn mực... quy định thái độ và hành vi tiêu dùng của người tiêu dùng xã hội.
Nếu muốn thâm nhập vào một thị trường nào đó thì cần phải xem sản phẩm có phù hợp với phong cách tiêu dùng của nước nhập khẩu hay không? nếu không quan tâm đến vấn đề đó thì doanh nghiệp không thể đưa sản phẩm của mình chiếm lĩnh thị trường. Để làm tốt vấn đề này thì doanh nghiệp cần phải tăng cường công tác nghiên cứu thị trường và nhu cầu của khách hàng nhằm đưa ra sản phẩm phù hợp. Với mọi nền văn hoá thì đính hướng sản phẩm và các hoạt động khác theo nền văn hoá của nước nhập khẩu chứ không nên cố gắng thay đổi phong cách tiêu dùng của nước nhập khẩu. Riêng đối với sản phẩm giày dép thì ngoài những yếu tố trên còn chiụ sự tác động của yếu tố thời trang. Đây là yếu tố đầu tiên mà doanh nghiệp cần phải quan tâm khi tiến hành kinh doanh của doanh nghiệp.
- Nhân tố khoa học - công nghệ
Khoa học công nghệ có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào quá trình kinh doanh thì sẽ làm giảm chi phí cho hoạt động kinh doanh, làm tăng hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp. Đặc biệt với tốc độ phát triển của khoa học- kỹ thuật ngày nay thì tác động của khoa học kỹ thuật ngày càng trở nên sâu sắc thì ảnh hưởng của nó tới hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng mạnh mẽ. Máy móc thiết bị tham gia vào hẩu hết các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nên yếu tố này lại càng trở nên quan trọng. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu việc tiến hành cải tiến máy móc. thiết bị sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, và nâng cao chất lượng hàng hoá... Từ đó giúp cho sản phẩm của doanh nghiệp có thể cạnh tranh được với các hàng hoá khác có mặt trên thị trường. Đồng thời trong quá trình vận chuyển hàng hoá, bảo quản hàng hoá công nghệ tiên tiến sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm lượng hao phí và chi phí, thời gian...
Đặc biệt, EU có ngành công nghiệp giầy từ rất lâu với quy mô sản xuất lớn và tiên tiến. Công nghệ sản xuất, máy móc, dây chuyền sản xuất giày của EU luôn được đầu tư và đổi mới, nâng cao, đạt tới trình độ tinh xảo. Do đó mà sản phẩm giày mà thị trường sản xuất ra có chất lượng cao và tinh xảo. Đây cũng là một khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường này.
- Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp khác
Thị trường EU là một thị trường đầy tiềm năng không chỉ đối với các doanh nghiệp nước ta mà còn rất hấp dẫn đối với các doanh nghiệp của các quốc gia trên thế giới. Do vậy, cạnh tranh trên thị trường này là rất khốc liệt. Trên thế giới hiện nay quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức mạnh mẽ. mở ra cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp trên toàn thế giới. Do vậy số lượng doanh nghiệp trên thị trường này là rất lớn. Các công ty xuyên quốc gia phát triển mạnh, các quốc gia, các công ty đều muốn mở rộng thị trường, thị phần của mình.
Do sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt nên đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn tìm cách nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượn sản phẩm, cải tiến mẫu mã...
Doanh nghiệp nào có khả năng thích ứng, đổi mới nhanh đáp ứng nhu cầu của thị trường thì cơ hội kinh doanh sẽ rất lớn và sẽ dần khẳng định được vị thế của mình trên thị trường. Doanh nghiệp nào khả năng thích ứng, đổi mới chậm thì sẽ không thu được lợi nhuận cao và hoạt động kinh doanh không có hiệu quả.
Cái khó của các doanh nghiệp giày Việt Nam là: nếu tham gia thị trường giày dép sản phẩm chất lượng cao cấp thì không cạnh tranh được với sản phẩm của chính các quốc gia nội khối như Italia, Pháp, Tây Ban Nha, Anh, Đức. Còn nếu trong sản phẩm cấp thấp, có chất lượng trung bình thì không cạnh tranh được với sản phẩm sản xuất hàng loạt của Trung Quốc. Chính lý do này đã buộc các doanh nghiệp giày Việt Nam thời gian qua phải chọn hướng đi là làm gia công cho các đối tác từ EU nà chưa có nhiều sản phẩm giày trực tiếp vào thị trường này.
1.3.2 Nhân tố bên trong ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu
- Nguyên liệu đầu vào
Nguyên liệu đầu vào là yếu tố quan trọng cấu thành nên sản phẩm, hàng hoá. Nó quyết định trực tiếp tới chất lượng và giá thành của sản phẩm hàng hoá.
Một doanh nghiệp nếu giải quyết tốt vấn đề nguyên vật liệu đầu vào thì sẽ thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc sản xuất hàng hoá, sản phẩm và thâm nhập thị trường. Chất lượng của sản phẩm hàng hoá sản xuất chủ yếu phụ thuộc vào nguyên vật liệu và trình độ lao động. Nên nếu doanh nghiệp giải quyết tốt các yếu tố đầu vào thì sẽ tạo điều kiện cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp được thuận lợi đồng thời sẽ giúp cho doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hoá và khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam thì nguyên vật liệu chủ yếu là nhập khẩu từ nước ngoài, giá nhập khẩu cao làm cho giá thành sản phẩm tăng lên. Đồng thời, nguyên vật liệu phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu nên các doanh nghiệp không chủ động được nguyên vật liệu đầu vào gây khó khăn cho sản xuất.
Do vậy doanh nghiệp cần phải chủ động hơn trong việc cung ứng nguyên vật liệu, phải tận dụng triệt để nguồn nguyên liệu trong nước: giá rẻ, ổn định...
- Nguồn lao động
Lao động là yếu tố không thể thiếu trong mọi hoạt động kinh doanh trong bất cứ doanh nghiệp nào. Lao động là người trực tiếp tạo nên sản phẩm do đó trình độ của người lao động là rất quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm và tạo nên giá trị của sản phẩm. Đối với các quốc gia có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ sẽ làm cho chi phí sản xuất sản phẩm giảm tạo điều kiện mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu.
Đối với ngành giày dép, lao động chủ yếu là lao động giản đơn, có thể đào tạo tại chỗ, vừa học vừa làm. Đồng thời nước ta có thuận lợi là một nước đông dân, số người trong độ tuổi lao động lớn nên rất thuận lợi cho ngành giày dép.
Song với yêu cầu của thị trường đòi hởi doanh nghiệp cần phải tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quy định do vậy doanh nghiệp cần có biện pháp đào tạo người lao động, tạo cho người lao động có trình độ cao, có tác phong công nghiệp, có khả năng sử dụng máy móc công nghệ hiện đại và tạo ra sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường xuất khẩu.
- Máy móc, trang thiết bị, công nghệ
Máy móc thiết bị công nghệ là yếu tố cần thiết trong việc gia tăng năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Máy móc thiết bị là một phần tất yếu của quá trình sản xuất. Ngày nat, khoa học công nghệ phát triển như vũ bão. Doanh nghiệp nào không kịp đổi mới kịp thời thì sẽ không thể cạnh tranh được với những khác trên thị trường. Ngược lại, nếu doanh nghiệp nắm bắt được công nghệ kỹ thuật tiên tiến thì sẽ cải tiến được chất lượng sản phẩm, tăng năng suất, tạo ra những sản phẩm có tính đồng bộ cao... tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Doanh nghiệp nào muốn đứng vững trên thị trường cần phải đầu tư thích đáng vào việc áp dụng khoa học công nghệ sản xuất.
- Khả năng tài chính và quy mô sản xuất.
Vấn đề tài chính là một yếu tố không thể thiếu khi doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh. Nó quyết định hầu hết các vấn đề kinh doanh của doanh nghiệp như áp dụng khoa học công nghệ, trả lương cho người lao động, mức độ đãi ngộ... Nếu doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh, có thể phát triển sản xuất theo chiều rộng và theo chiều sâu. Đồng thời có thể tạo ra những sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường.
Khi quy mô sản xuất càng lớn thì cùng với nó là khó khăn và thách thức càng nhiều và đối thủ cạnh tranh càng lớn nên tiềm lực tài chính mạnh sẽ giúp cho doanh nghiệp có những quyết định về chiến lược phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời có những quyết định mạnh bạo cho công tác marketing sản phẩm, giúp khuyếch trương sản phẩm trên thị trường.
Quy mô sản xuất càng lớn thì đó cũng chính là lợi thế của doanh nghiệp. Góp phần làm giảm chi phí sản xuất và vận chuyển, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp khi tham gia thị trường thế giới.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GIÀY DÉP THỜI GIAN QUA
2.1 Khái quát về ngành giày dép Việt Nam và đặc điểm thị trường EU
2.1.1 Đặc điểm và vai trò hoạt động xuất khẩu giày dép.
Đặc điểm
Giày dép luôn là mặt hàng có nhu cầu trên thị trường, được sự quan tâm của tất cả mọi người, mọi lứa tuổi. Do vậy thị trường tiêu thụ giày dép là rất lớn. Đồng thời ngành giày dép là ngành có hàm lượng chế biến cao, kỹ thuật sản xuất đơn giản, tốc độ thay đổi kiểu dáng và mẫu mã nhanh. Việc sản xuất giày trên thị trường có thể phát triển trên mọi vùng kinh tế, sản xuất không cần đòi hỏi quy mô lớn, ít phụ thuộc vào biến động toàn cầu về năng lượng, nhiên liệu, nhưng lượng giày dép tiêu thụ trên thị trường lại rất lớn và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tốc độ tăng trưởng dân số hàng năm, mức tăng thu nhập và yếu tố giá cả.
Khi thu nhập của người dân càng cao thì nhu cầu về giày dép của người tiêu dùng càng lớn đ._.ồng thời là yêu cầu về chất lượng sản phẩm, về chủng loại, kiểu dáng đặc biệt là tính thời trang của sản phẩm càng cao.
Đối với doanh nghiệp xuất khẩu giày dép sang thị trường nước ngoài thì cần phải gắn sản phẩm của mình với thị hiếu và thói quen tiêu dùng, đời sống văn hoá của người tiêu dùng ở nước nhập khẩu.
Thị trường giày dép ở 27 nước Châu Âu ( EU) có nhữn đặc trưng riêng, song vẫn có những đặc điểm chung. Các đặc điểm chung này tạo nền tảng cơ bản mang tính định hướng, đón đầu cho bất cứ doanh nghiệp nước ngoài nào. EU là một thị trường đầy tiềm năng trong việc xuất khẩu giày dép của nước ta. Nhiều năm qua, lượng giày dép nước ta xuất vào thị trường này đều đạt trên 70%. Do đó, cơ hội sẽ mở ra ngày càng nhiều cho Việt Nam. Các đặc điểm chung của thị trường giày EU:
- Sự già hoá dân số
Dân số EU đang có xu hướng già đi. Nhiều nhà xã hội học châu Âu đều có chung nhận định rằng, xu hướng này sẽ diễn ra mạnh hơn trong tương lai, đặc biệt với nhóm người có độ tuổi từ 65 trở lên. Tín hiệu lạc quan ở đây là chính những người cao tuổi ở EU lại có sức chi tiêu rất mạnh đối với các sản phẩm giày dép.
Tuy nhiên, những người trong độ tuổi này (từ 65 trở lên) là những người nghỉ hưu, sống bằng trợ cấp, thích đi bộ đường dài, du lịch dài ngày và thường xuyên. Vì thế, sản phẩm giày dép cho họ cần được thiết kế đặc biệt với nhiều tính năng lý, hỗ trợ cơ bắp nhiều hơn như chất liệu phải rất mềm, đếp thấp, lót êm, mũi êm, kiểu dáng giản đơn, màu sắc không loè loẹt và phải có độ bền cao.
- Thời tiết và thời vụ
Thời tiết là chất xúc tác quan trọng nhưng “khó dùng” nhất. Vào mùa đông, nên cung cấp nhiều hơn cho thị trường EU sản phẩm giày ống, trong khi mùa hè người tiêu dùng lại ưa chuộng với sản phẩm dép lê hoặc có quai hậu. Với thị trường EU, không thể cung cấp sản phẩm của một mùa mà dùng trong bốn mùa.
Thời vụ cũng là chất xúc tác “khó dùng” không kém. Tính thời vụ của sản phẩm giày dép châu Âu gắn chặt với tính thời vụ của thị trường quần áo. Điều này cũng làm cho các nhà xuất khẩu giày dép, cũng như các nhà bán lẻ tại châu Âu lao đao. Để hạn chế tình trạng này, các nhà xuất khẩu nước ta thường không sản xuất vượt mức cầu, nhưng phải đa dạng hoá chủng loại dựa theo các dự báo xu hướng thời trang tại EU để tạo nhiều cơ hội lựa chọn hơn cho người tiêu dùng vốn thích thay đổi ở thị trường này.
- Từ sang trọng đến bình dân
Phong cách tiêu dùng của nhiều người tiêu dùng EU đang đi theo hướng từ sang trọng đến... bình dân. Xu hướng này đang tiếp diễn mạnh mẽ và dự báo gia tăng trong tương lai. Bằng chứng là các sản phẩm giày thể thao, giày vải hơi bụi, thường chỉ dùng để đi chơi hoặc trong sinh hoạt gia đình, gần đây bỗng chiếm cảm tình đặc biệt với giới văn phòng và công chức lớn tuổi.
Bên cạnh đó, việc xem thương hiệu là yếu tố số 1 để lựa chọn sản phẩm giày dép sang trọng của nhiều người châu Âu đã phần nào giảm bớt. Người Pháp thể hiện rõ nhất hiện tượng này. Người Đức cũng vậy. Theo Deichmann Group, nhà bán lẻ hàng đầu tại Đức thì sự thoải mái, phù hợp và chất lượng là 3 yếu tố quan trọng nhất đối với người tiêu dùng Đức, cho dù sản phẩm đó thuộc thương hiệu nào. Và số lượng người mua sắm theo quan điểm này chiếm đến 70% thị trường giày dép ở Đức.
Các nhà xuất khẩu nhiều kinh nghiệm dự báo, người tiêu dùng EU đang bắt đầu thú vị với những sản phẩm làm nên sự thoải mái hơn là các sản phẩm sang trọng, lịch lãm.
- Thời trang và nữ giới
Các sản phẩm giày dép tuy không cần lịch lãm sang trọng như đã nêu trên song vẫn phải thời trang. Người tiêu dùng châu Âu, đặc biệt là phái nữ có 2 khuynh hướng thời trang trong việc lựa chọn giày dép.
Một là, sản phẩm đó có mẫu mã đơn giản, giá cả trung bình nhưng phải đặc biệt trong chất liệu, kiểu dáng, màu sắc, phụ kiện trang trí.
Hai là, sản phẩm đó không đẹp nhưng phải có tính bền cao, thể hiện cá tính mạnh. Ngoài ra, khoảng hơn một nửa doanh thu xuất khẩu giày dép vào EU của họ tập trung vào nhóm giày dép nữ có mẫu mã đơn giản nhưng mang tính thời trang cao. Trong nhiều năm tới, sản phẩm thời trang cho nữ được nhận định là rất tiềm năng.
Hiện nay, người tiêu dùng nữ luôn chiếm xấp xỉ 50% tại các thị trường giày dép ở Anh, Pháp, Đức. Dự báo tỷ lệ lao động nữ sẽ tăng mạnh tại các quốc gia Ý, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Phần Lan, Đan Mạch, Hy Lạp trong nhiều năm tới. Điều đó sẽ góp phần làm gia tăng giá trị cho thị trường giày dép thời trang tại các quốc gia này. Đây sẽ là cơ hội cho những nhà xuất khẩu giày dép các nước nói chung và nước ta nói riêng.
Vai trò
Ngành giày dép có kim ngạch ngày càng tăng trong hệ thống các mặt hàng chủ lực. Hiện nay, ngành công nghiệp giày dép đang phát triển rất nhanh. Ngành giày dép là một trong ba ngành đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn nhất nước ta đứng sau dầu thô và dệt may, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Giày dép đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của mọi tầng lớp xã hội và đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Ngành giày dép góp phần to lớn vào sự tăng trưởng của nền kinh tế, thu ngoại tệ lớn góp phần đẩy nhanh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, ngành giày dép đóng một phần không nhỏ trong việc giải quyết công ăn việc làm của người lao động đặc biệt là lao động nữ. Hiện nay số lao động của ngành thì gần 80% là lao động nữ. Từ đó góp phần ổn định đời sống của người lao động, thúc đẩy và mở rộng mối quan hệ quốc tế của nước ta với các nước khác trên thế giới.
Xuất khẩu giày dép phát triển tạo đà cho doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, cải tiến máy móc kỹ thuật, nâng cao trình độ của người lao động, phát triển các quỹ khen thưởng... nhằm mục đích tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
2.1.2 Đặc điểm thị trường EU
Liên minh châu Âu (EU) là hình thức hội nhập khu vực ở trình độ cao với nhiều triển vọng tốt đẹp cho các nước thành viên và cho toàn châu Âu, đang phát triển sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực phấn đấu trở thành khu vực phát triển nhất hành tinh, đủ sức đối phó với các thách thức trong thế kỷ 21 cũng như là đối trọng đáng kể của Trung Quốc, Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc và góp phần cho hoà bình và ổn định trên thế giới.
Vị thế chính trị, tiềm lực kinh tế, thương mại, tài chính, khả năng phòng thủ của EU không ngừng tăng sau mỗi lần mở rộng, đặc biệt mở rộng lần thứ năm thêm 10 thành viên và lần thứ 6 thêm 2 thành viên mới ở Đông và Nam Âu. Việc này đặt ra cho tất cả các thành viên EU, châu Âu và thế giới rất nhiều vấn đề cần được nghiên cứu xử lý, không chỉ kinh tế thương mại.
Hiến pháp mới của EU được soạn thảo theo hướng minh bạch hơn, dân chủ hơn và hiệu quả hơn đang đứng trước nguy cơ sụp đổ do các bất đồng về quyền lực giữa nước lớn và nhỏ, giữa chính phủ quốc gia thành viên và bộ máy hành pháp của khối, giữa thành viên cũ và mới về khoảng cách phát triển, về nhập cư, lao động, an sinh xã hội, thâm hụt ngân sách, chính sách đối ngoại, an ninh phòng thủ chung...
Đồng tiền chung châu Âu (Euro) sau 21 năm đã được lưu hành tại 12 nước thành viên từ 1/1/2002, kết thúc quá trình nhất thể hoá về tiền tệ, một sự kiện quan trọng thứ 2 sau việc Mỹ quyết định chấm dứt đổi USD ra vàng, làm cho vị thế của USD bị hạ thấp.
Hiện nay, với dân số đông trên 500 triệu người, đời sống cao vào loại nhất thế giới, nhu cầu giày dép là rất lớn. Mỗi người dân một năm trung bình tiêu dùng khoảng từ 4 đến 5 đôi giày. EU là thị trường giày lớn nhất thế giới, đồng thời cũng có ngành sản xuất giày dép từ rất lâu đời với quy mô sản xuất lớn và tiên tiến. Công nghệ sản xuất, máy móc, dây truyền sản xuất luôn được đầu tư đổi mới và nâng cao đạt tới trình độ tinh xảo. Ngành công nghiệp này có vai trò quan trọng trong việc giữ ổn định, tăng trưởng, duy trì lượng cung cấp giày dép ổn định và chất lượng cao, tinh xảo, thời trang cho thị trường thế giới. Trong đó, Italia là nước có vai trò chủ chốt trong công nghiệp giày khu vực Châu Âu. Quốc gia này có quy mô sản xuất giày lớn nhất, sản lượng đứng đầu, chất lượng cao nổi tiếng trên thế giới. Nhưng sức sản xuất giày của EU vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu. Đồng thời, EU là thị trường khó tính người tiêu dùng yêu cầu sản phẩm có chất lượng cao và đặc biệt khi họ quyết định mua sản phẩm thì sản phẩm đó phải có thương hiệu nổi tiếng. Xu hướng tiêu dùng của người tiêu dùng Châu Âu càng thể hiện sự chú trọng cao hơn về chất lượng, kiểu dáng, xu hướng thời trang của thế giới. Thị trường EU về cơ bản có những nhóm người tiêu dùng sau:
- Nhóm 1: có khả năng thanh toán cao, chiếm gần 20% dấn số EU, dùng hàng chất lượng tốt nhất, giá cả đắt nhất hoặc những hàng hoá hiếm, độc đáo.
- Nhóm 2: có khả năng thanh toán trung bình, chiếm khoảng 68% dân số EU, sử dụng hàng hoá chất lượng, giá cả thấp hơn nhóm 1.
- Nhóm 3: có khả năng thanh toán thấp, chiếm khoảng 10% dân số EU, sử dụng hàng hoá chất lượng, giá cả thấp hơn nhóm 1 và nhóm 2.
Gía sản phẩm giày do EU sản xuất có giá thành quá cao so với một số nhóm người tiêu dùng nên nhu cầu nhập khẩu giày dép của EU là rất lớn. Trong đó, Đức là nước tiêu thụ lớn nhất, tiếp đó là Pháp khoảng 330 triệu đôi, Tây Ban Nha là nước tiêu thụ giày thấp nhất mức tiêu thụ bình quân khoảng 110 triệu đôi. Hiện nay, ngành công nghiệp giày của EU đang có xu hướng thu hẹp lại để chuyển sang chuyên sản xuất những mặt hàng có chất lượng cao sử dụng ít lao động, chuyển dịch sản xuất sang các nước có lợi thế về giá nhân công rẻ ( chủ yếu là thuê nước ngoài gia công).
Khách hàng chủ yếu của nước ta là những khách hàng thuộc nhóm 2 và nhóm 3. Đồng thời, thị trường có đặc tính là mẫu mốt và kiểu dáng hàng hoá thay đổi nhanh. Xu hướng của những năm gần đây là dùng giày vải thay cho giày da thiên về sử dụng chất liệu tự nhiên. Nhu cầu tiêu dùng của nữ thiên về tính thời trang hơn so với trước kia chỉ quan tâm đến chất lượng. Đối với thanh thiếu niên và trung niên có xu hướng dùng giày thể thao tạo cảm giác trẻ trung và mạnh mẽ.
2.1.3 Quan hệ Việt Nam -EU
Nhìn chung quan hệ Việt Nam-EU phát triển toàn diện theo hướng tích cực đặc biệt về kinh tế thương mại phù hợp với lợi ích chiến lược của ta, góp phần tạo thế cân bằng tích cực với các đối tác khác.
Chính sách của EU với Việt Nam nằm trong chính sách với các nước đang phát triển, hợp tác trong khuôn khổ Việt Nam là thành viên của ASEAN, WTO. Chính sách này được hình thành rõ nét trong các năm gần đây đang trong quá trình vừa hoàn thiện vừa khai thác. Mặc dù thiện cảm về chính trị, ủng hộ giúp đỡ nhiều mặt, đặc biệt viện trợ phát triển, cho đại bộ phận hàng xuất khẩu của Việt Nam được hưởng ưu đãi GSP, nhưng EU chưa công nhận Việt Nam là nước kinh tế thị trường.
Quan hệ kinh tế thương mại của Việt Nam với các nước thành viên và với thể chế EU đã hình thành từ lâu, phát triển mạnh vào những năm đầu của thập kỷ 1990, nhất là sau khi hai bên ký các Hiệp định về Hợp tác kinh tế, Thương mại, Khoa học kỹ thuật với các mục tiêu:
- Đảm bảo các điều kiện cần thiết thúc đẩy phát triển thương mại, đầu tư trên cơ sở cùng có lợi và dành cho nhau quy chế tối huệ quốc.
- Trợ giúp phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam , đặc biệt chú trọng cải thiện đời sống cho các tầng lớp dân cư nghèo.
- Trợ giúp các nỗ lực của Việt Nam trong việc cơ cấu lại nền kinh tế theo cơ chế thị trường.
- Trợ giúp nhằm bảo vệ môi trường và sử dụng lâu dài nguồn tài nguyên thiên nhiên theo hướng phát triển bền vững.
Cùng với các Hiệp định giày dép, thoả thuận Việt Nam gia nhập WTO ký năm 2004, quan hệ thương mại giữa EU với Việt Nam đã bước sang thời kỳ phát triển mới, mạnh mẽ và toàn diện hơn.
Việt Nam nhập khẩu từ EU nhiều máy móc, thiết bị công nghệ nguồn chất lượng cao chiếm 10% kim ngạch nhập khẩu, chủ yếu gồm thiết bị toàn bộ, máy, phụ tùng, phương tiện vận tải bao gồm cả máy bay, tàu biển, ô tô, xe lửa, nguyên liệu, hoá chất, tân dược, phân bón, vật liệu xây dựng, sắt thép, sản phẩm cơ khí, hàng tiêu dùng cao cấp… Tuy vậy, thương mại dịch vụ chưa phát triển.
EU đồng thời là nhà cung cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam trong 19 lĩnh vực gồm các dự án quản lý kinh tế, quản trị phát triển, tài nguyên, nông lâm thuỷ sản, phát triển vùng, công nghiệp, năng lượng, thương mại, vận tải, truyền thông, xã hội, y tế, phòng chống thiên tai, viện trợ nhân đạo, hỗ trợ về giới tính v.v…Trong đó, các lĩnh vực/ngành nghề được tài trợ nhiều nhất là nông lâm thủy sản (17,58%), tài nguyên (13,15%), y tế (9,59%), phát triển xã hội (9,58%). Ngoài ra, các nước thành viên EU còn cung cấp vốn ODA thông qua các tổ chức tài chính đa phương.
Hiện nay 19 trong số 27 nước thành viên EU có các dự án đầu tư vào Việt Nam. Tính đến 3/2006, EU có 551 dự án với tổng vốn đăng ký 7,34 tỷ USD, thực hiện 4,06 tỷ USD. Trong đó, Pháp dẫn đầu với 168 dự án tổng vốn đầu tư 2,8 tỷ USD, tiếp theo là Hà Lan 62 dự án với tổng vốn đăng ký gần 2 tỷ, Anh 70 dự án, tổng vốn đăng ký là 1,28 tỷ USD.
Các nhà đầu tư EU đó có mặt tại hầu hết các ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam nhưng tập trung nhiều nhất vào công nghiệp và xây dựng (280 dự án với tổng vốn đầu tư là 4,18 tỷ USD, chiếm 54,8 % số dự án và 59,8 % tổng vốn đầu tư), trong đó công nghiệp nặng có 118 dự án với tổng vốn đầu tư gần 1,97 tỷ USD, tiếp theo là khai thác dầu khí 6 dự án với 1,32 tỷ USD. Trong lĩnh vực dịch vụ, EU có 181 dự án với tổng vốn 2,43 tỷ USD (chiếm 35,4 % số dự án và 34,6 % tổng vốn đầu tư). Còn lại là nông, lâm nghiệp - 50 dự án với tổng vốn đầu tư là 457,6 triệu USD.
Nhìn chung, các nhà đầu tư Châu Âu có ưu thế về công nghệ, vì vậy đã góp phần tích cực trong việc tạo ra một số ngành nghề mới và sản phẩm mới có hàm lượng công nghệ cao. Một số tập đoàn lớn của EU đang hoạt động có hiệu quả tại Việt Nam như BP (Anh), Shell Group (Hà Lan), Total Elf Fina (Pháp Bỉ), Daimler Chrysler (Đức), Siemen, Alcatel Comvik (Thuỵ Điển)…. Xu thế đầu tư của EU chủ yếu vẫn tập trung vào các ngành công nghiệp công nghệ cao, tuy nhiên, gần đây có xu hướng phát triển tập trung hơn vào các ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, văn phòng cho thuê, bán lẻ
2.2 Tình trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam.
2.2.1 Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua
Tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước của nước ta trong những năm gần đây liên tục tăng. Đặc biệt, sau một năm trở thành thành viên của WTO, xuất khẩu hàng hoá của nước ta đạt được kết quả quan trọng, vượt kế hoạch đề ra, thị trường xuất khẩu tiếp tục được mở rộng cả ở thị trường truyền thống và các thị trường mới có nhiều tiềm năng. Gía trị xuất khẩu hàng hoá của nước ta năm 2007 đạt 48 tỷ USD tương đương 67,4% GDP, tăng 20,5% so với năm 2006. Bình quân mỗi tháng xuất khẩu đạt 4 tỷ USD (bình quân mỗi tháng của năm 2006 đạt 3,3 tỷ USD) mức cao nhất từ trước tới nay.
Bảng 1 : Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam 2004-2008
Đơn vị :( triệu USD)
Năm
2004
2005
2006
2007
KH 2008
Kim ngạch
26485
32420
39826
48000
57120
Biểu đồ 1 : Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam 2003-2008
2.2.2 Hoạt động xuất khẩu giày dép thời gian qua.
Sản xuất giầy dép của nước ta từ năm 1991 trở về trước, hầu như chỉ có tiêu thụ nội địa, không có xuất khẩu. Đến năm 1992 ngành Da giầy đã xuất khẩu được 5 triệu USD và đã liên tục tăng trưởng với tốc độ cao từ năm 1993 đến nay. Sau 10 năm xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu da giầy đã tăng 369,2 lần, đó là tốc độ tăng cao nhất so với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác trong thời gian tương ứng.
Ngành da giày nước ta là ngành công nghiệp đạt vị trí thứ ba về kim ngạch xuất khẩu, chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Là ngành có định hướng xuất khẩu rõ rệt (chiếm trên 90% sản lượng sản xuất), tỷ lệ xuất khẩu của ngành luôn chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Việt Nam luôn là 1 trong 10 nước sản xuất và xuất khẩu giày lớn nhất thế giới.
Trong số các thị trường xuất khẩu chủ yếu, EU là thị trường xuất khẩu giày lớn của ngành giày da Việt Nam, hàng năm có khoảng 90% sản phẩm do ngành sản xuất được xuất khẩu sang các thị trường, trong đó thị trường EU chiếm tỷ trọng 59%. Hiện tại, hàng giày da của nước ta xuất sang thị trường EU đứng thứ 2 sau Trung Quốc và chiếm tỷ trọng lớn trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU. Các năm trước EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất nhưng trong những tháng đầu năm 2008 thì Mỹ đã vươn lên đứng đầu.
Bên cạnh đó, khi xuất khẩu hàng hoá sang thị trường EU, hàng hoá nước ta cũng gặp nhiều khó khăn. Ngày 07/07/2005 Uỷ ban châu Âu (EC) chính thức thông báo quyết định mở cuộc điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm mũ da của Việt Nam và Trung Quốc theo đơn kiện của Liên minh ngành sản xuất giày da của Châu Âu, đại diện cho các nhà sản xuất tới hơn 40% tổng sản lượng giày có mũ da của EU. Có 115 doanh nghiệp Việt Nam đã tự nguyện tham gia hợp tác đầy đủ với EC trong tiến trình điều tra, và có 60 nhà sản xuất của nước ta bị liệt kê trong đơn kiện.
Thuế chống bán phá giá của EU đối với giày mũ da của nước ta là nguyên nhân chính làm cho kim ngạch xuất khẩu giày dép sang EU bị giảm. Tác động của việc kiện bán phá giá là doanh nghiệp da giày đối mặt với tình trạng thiếu đơn hàng. Các nhà nhập khẩu lo sợ mức thuế chống bán phá giá cao. Tuy nhiên, sau quyết định của liên minh châu Âu áp thuế chống bán phá giá 10% đối với giày mũ da có xuất xứ từ Việt Nam thì tình hình xuất khẩu đã dần ổn định trở lại.
Kênh tiêu thụ giày dép
Các nhà cung cấp
nước ngoài
Các nhà nhập khẩu Các nhà sản xuất Các nhà bán buôn trong nước
Các nhóm mua buôn và
Nơi bán lẻ lớn các hợp tác xã Nơi đặt mua
qua bưu điện
Các cửa hàng Các cửa hàng Các cửa hàng
bán lẻ hoặc chi nhánh bán lẻ độc lập
Người tiêu dùng
2.3 Xuất khẩu giày sang EU
2.3.1 Kim ngạch xuất khẩu sang EU trong những năm gần đây.
EU là thị trường lớn, có tầm quan trọng đối với xuất nhập khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, kinh tế thế giới sa sút, giá dầu mỏ tăng cao và nhiều biến động khác, việc duy trì mức tăng trưởng xuất khẩu vào EU đã và đang chịu tác động không nhỏ. Thị trường EU với 27 nước thành viên, gồm hầu hết các nước châu Âu. GDP đạt gần 11.000 tỷ USD (chiếm 27% GDP thế giới); tổng kim ngạch ngoại thương đạt gần 1.400 tỷ USD (chiếm gần 20% thương mại toàn cầu). Nếu tính cả mậu dịch nội khối thì tổng kim ngạch mậu dịch là 3.092 tỷ USD (chiếm 41,4% thị phần thế giới). EU đứng đầu thế giới về xuất khẩu dịch vụ, chiếm 43,8% thị phần thế giới (gấp 2,5 lần Mỹ); đầu tư ra nước ngoài chiếm 47% FDI toàn cầu. Điều này cho thấy, EU đã và đang là một thị trường rộng lớn, đầy hứa hẹn đối với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trên con đường phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
Năm 2007, thương mại Việt Nam- EU được đánh giá là rất "năng động", tổng kim ngạch hai chiều đạt 14,23 tỷ USD (tăng 39,26%) vượt mức dự báo trước đó. Trong đó, Việt Nam xuất khẩu 9,1 tỷ USD (tăng 28,2%) và nhập khẩu 5,13 tỷ USD (tăng 64,3%). Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu từ EU là tác động mở cửa thị trường của Việt Nam và sự tăng đầu tư của EU vào Việt Nam. Theo Bộ Công Thương, thông qua việc khai thác triệt để các thị trường trọng điểm có kim ngạch lớn gồm Đức, Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ, đồng thời đẩy mạnh xúc tiến thương mại vào các thị trường mới của EU, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU năm 2008 có thể sẽ đạt 11,18 tỷ USD, tăng 23,5% so với năm 2007.
Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU qua các năm
Năm
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD)
3.198
3.919
4.939
5.480
7.045
9.028
So với năm trước
3,88
22,56
26,02
10,96
28,54
28,16
Biểu đồ 2 : Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam 2002-2007
Đơn vị:( triệu USD)
Trong thị trường EU, Việt Nam có quan hệ với nhiều nước. Kim ngạch xuất khẩu sang các nước hàng năm đều tăng. Đặc biệt trong năm 2007, là năm nước ta gia nhập WTO, nước ta phải đối mặt với nhiều thách thức và có nhiều cơ hội.
Bảng 3: Xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thuộc EU năm 2007
Thị trường
Tháng 12/07 (ngàn USD)
So tháng 12/06 (%)
Năm 2007 (ngàn USD)
So năm 2006 (%)
Tổng
941.401
-4,96
9.028.338
28,16
Đức
211.813
15,40
1.855.056
28,35
Anh
126.545
14,09
1.431.424
21,34
Hà Lan
119.997
35,29
1.182.144
37,87
Pháp
95.929
16,58
884.351
10,93
Bỉ
88.651
26,47
849.028
23,50
Italia
93.970
18,32
816.849
25,08
Tây Ban Nha
75.085
7,68
759.632
36,13
Ba lan
20.375
12,27
220.890
37,95
Thụy điển
24.471
48,16
202.356
18,36
Đan mạch
15.565
-0,04
138.049
26,04
áo
7.742
-21,57
111.949
14,85
CH Séc
12.780
90,21
102.047
45,59
Phần Lan
9.997
32,92
92.512
34,32
Hy lạp
8.268
35,39
81.805
26,54
Slôvakia
6.288
78,03
71.480
209,87
Hungari
6.467
35,69
62.713
89,80
Bồ Đào Nha
5.892
72,48
52.115
58,90
Bungari
2.630
0,00
35.868
-
Rumani
3.642
0,00
32.317
-
Sôlôvenhia
2.289
52,91
18.087
57,05
Látvia
842
13,78
8.932
75,69
CH Síp
936
61,38
6.958
18,33
Extônia
662
-99,69
5.787
-27,13
Aixơlen
312
-15,45
4.748
36,52
Manta
253
40,56
1.241
-35,57
Các mặt hàng xuất khẩu sang EU cũng tăng cả về số lượng mặt hàng và về cơ cấu mặt hàng.
Bảng 4: Các mặt xuất khẩu sang thị trường EU trong năm 2007
Mặt hàng
Tháng 12/2007 (nghìn USD)
So tháng12/06(%)
Năm 2007 (nghìn USD)
So năm 2006 (%)
Tổng
941.401
-4,96
9.028.338
28,16
Giày dép các loại
238.839
16,54
2.176.308
11,45
Hàng dệt may
147.455
8,34
1.487.636
20,14
Hàng hải sản
120.459
102,82
911.479
40,69
Cà phê
104.005
3,93
878.873
63,18
Gỗ, sản phẩm gỗ
129.812
135,36
621.197
27,85
Máy vi tính, sp điện tử và linh kiện
37.654
50,03
415.195
50,96
Túi xách, ví, vali, mũ và ô dù
25.760
21,98
247.161
20,55
Sản phẩm chất dẻo
209.258
1.672,17
185.024
77,15
Hạt điều
12.444
71,17
164.527
56,08
Cao su
15.305
-66,44
147.566
-4,12
Sản phẩm mây, tre, cói, thảm
58.407
499,66
119.303
27,28
Sản phẩm gốm sứ
16.084
5,29
116.707
19,12
Sản phẩm đá quý, kim loại quý
5.956
-3,25
88.290
-2,35
Hạt tiêu
6.039
28,08
85.586
37,52
Than đá
0
-
40.633
112,78
Hàng rau quả
4.458
75,30
39.062
49,61
Đồ chơi trẻ em
4.097
90,12
29.203
-7,56
Xe đạp và phụ tùng
2.204
14,61
21.041
-59,54
Mỳ ăn liền
23.400
1.182,19
17.564
27,24
Chè
1.165
-18,53
11.630
7,02
Dây điện và dây cáp điện
859
87,96
9.272
174,48
Thiếc
260
-64,96
5.601
100,47
Gạo
281
307,25
4.894
106,76
Quế
0
-
303
32,89
2.3.2 Kim ngạch xuất khẩu giày dép sang thị trường EU.
Hiện nay, EU là thị trường nhập khẩu giày dép của Việt Nam lớn thứ 2 trên thế giới (sau Hoa Kỳ) và được coi là thị trường trọng điểm của Việt Nam. Nhu cầu nhập khẩu giày dép những năm gần đây của thị trường EU khoảng trên 29 tỷ USD/năm. Theo số liệu thống kê, xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị trường EU đã tăng khá nhanh trong thời gian qua và đạt 2,184 tỷ USD trong năm 2007, tăng 8% so với năm 2006 và chiếm 7,2% kim ngạch nhập khẩu của khu vực này.
Nhìn chung, giày dép Việt Nam xuất khẩu vào EU tăng trưởng nhanh về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, 33 mã hàng giày thể thao và giày mũ da bị áp thuế chống bán phá giá, các chủng loại khác vẫn được hưởng ưu đãi thuế quan.
Tuy đạt được tốc độ tăng trưởng khá nhưng nhìn chung, xuất khẩu giày dép của Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều hạn chế như nhiều nguyên liệu đầu vào của ngành da giày phải nhập khẩu từ bên ngoài, khâu tiêu thụ còn phụ thuộc lớn vào đối tác trong liên doanh, khâu nghiên cứu thị hiếu thị trường, thiết kế mẫu mã và phát triển sản phẩm mới còn yếu. Mục tiêu dự kiến của mặt hàng giày dép năm 2008 đối với thị trường EU là đạt kim ngạch 2,7 tỷ USD, tăng 26% so với năm 2007.
Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu giày dép 2003-2008
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
KH 2008
Kim ngạch (triệu USD)
1605
1782
1810
1951
2184
2700
Biểu đồ 3 : Kim ngạch xuất khẩu giày sang EU
Thị phần xuất khẩu
- Dưới tác động của vụ kiện bán phá giá giày mũ da, thị phần xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị trường EU đã bị giảm mạnh. Thống kê mới nhất của Hiệp hội Da giày Việt Nam cho biết, xuất khẩu vào EU chỉ chiếm 50% tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép so với tỷ lệ 70% trước đây.
Tuy nhiên, EU vẫn là thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Thị phần XK vào thị trường này vẫn chiếm số lượng lớn là do giày dép Việt Nam tiếp tục được hưởng ưu đãi theo hệ thống thuế quan phổ cập khi nhập khẩu vào EU.
Cơ cấu sản phẩm
Các loại sản phẩm xuất khẩu sang thị trường EU là giày thể thao chiếm tới 40% kim ngạch xuất khẩu, giày vải chiếm gần 20%, giày nữ xấp xỉ 20%, dép chiếm khoảng 15%, giày da 1,5% và các loại sản phẩm khác chiếm 3,5%.
Bảng 6 : Cơ cấu các loại sản phẩm xuất khẩu sang EU
Loại sản phẩm
Tỷ trọng
Giày thể thao
40%
Giày vải
20%
Giày nữ
20%
Dép
15%
Giày da
1,5%
Các loại sản phẩm khác
3,5%
Sự thay đổi về cơ cấu sản phẩm:
- Các mặt hàng giày có mũ từ da giảm mạnh ( đặc biệt là giày nữ có mũ da) nhiều đối tác chuyển hướng đặt sản xuất giày thể thao công nghệ cao hoặc giày khác có mũ từ giả da nhằm tránh bị ảnh hưởng của việc áp thuế.
- Mặt hàng giày vải tăng mạnh, một phần do nhu cầu tiêu dùng tăng, một phần do được duy trì trở lại sau thời gian suy giảm ( bởi các đơn hàng dự trữ hoặc tồn kho). Để đáp ứng nhu cầu giày vải một số doanh nghiệp tập trung khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có, một số doanh nghiệp khôi phục trở lại các dây chuyền sản xuất đã chuyển đổi từ trước đó. Tuy nhiên, yêu cầu về chất lượng và mẫu mã các loại giày vải cao hơn nhiều so với những năm trước đây, đặc biệt là các loại giày vải thời trang.
- Sản lượng dép sandals, dép đi trong nhà gia tăng với nhiều mẫu mã đa dạng và phong phú.
2.3.3 Đánh giá hoạt động xuất khẩu giày dép
Thành tựu đạt được
Thời gian qua hoạt động xuất khẩu giày dép đã đạt được những thành tựu to lớn và ngày càng khẳng định được vị thế của mình trên thị trường trong nước và trên thế giới.
Những năm qua ngành luôn tìm cách để nâng cao kim ngạch xuất khẩu, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm...nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
Ngành chủ động khai thác thị trường và chủ động tìm kiếm bạn hàng, đặc biệt là bạn hàng nước ngoài.
Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác xuất khẩu giỏi về nghiệp vụ, chuyên môn và giàu kinh nghiệm.
Từng bước xây dựng, áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật ISO vào quá trình kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm những vấn đề phát sinh trong quá trình xuất khẩu, đặc biệt là sang thị trường EU- một trong những thị trường có yêu cẩu cao về chất lượng và kỹ thuật của sản phẩm.
Thuận lợi
Ngành giày dép tuy không chủ động được nguồn nguyên liệu để sản xuất giày nhưng lại có ưu thế là nhân công rẻ, kỹ năng làm các loại giày cao cấp, đòi hỏi tay nghề cao nên rất thích hợp cho việc sản xuất chủng loại giày trung và cao cấp vốn đòi hỏi sự tỉ mỉ, cầu kỳ và khéo léo của người thợ. Ngoài ra, dây chuyền sản xuất tương đối tiên tiến, đồng bộ vì được đầu tư mới dẫn đến năng suất cao, cùng với chi phí quản lý thấp, giá gia công rẻ hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Khi ngành đã sản xuất được những sản phẩm chất lượng cao sẽ khẳng định được năng lực sản xuất của ngành. Điều đó sẽ giúp cho doanh nghiệp dễ dàng mở rộng khách hàng.
Ngoài ra còn có những ưu thế sau: Được EU dành cho quy chế ưu đãi GSP: nhu cầu tiêu dùng lớn, ổn định và ngày càng gia tăng cùng với sự gia tăng giá trị đồng EURO; chất lượng sản phẩm giày dép ngày càng phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng EU; các nước EU mở rộng tạo thêm nhiều cơ hội để các doanh nghiệp Da Giày Việt Nam xuất khẩu sang EU.
Đồng thời thành công của Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại: đây chính là tiền đề giúp cho doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trường thế giới. Bắt đầu bằng việc Việt Nam gia nhập ASEAN; APEC; AFTA; đặc biệt là việc gia nhập WTO. Ngành đã từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu thuận lợi hơn.
Qua thời gian phát triển, ngành đã từng bước thiết lập thị trường cung ứng trong nước cũng như nước ngoài, tạo điều kiện cho việc cung ứng sản phẩm, tạo được các mối quan hệ truyền thống...
Ngoài ra, ngành còn đưa ra những phương hướng chung định hướng cho toàn ngành - từ đó giúp doanh nghiệp có định hướng đúng đắn. Ngành thường xuyên tổ chức các cuộc thi thiết kế sản phẩm... tạo điều kiện cho thúc đẩy đa dạng hoá sản phẩm. Đồng thời, thiết lập được hệ thống phân phối của ngành, tạo điều kiện cho hàng hoá lưu thông thuận lợi.
Sắp hết thời hạn chống bán phá giá của EU.
Theo thông báo của Ủy ban Châu Âu (EC) về thời hạn áp thuế chống bán phá giá đối với giày mũ da có xuất xứ từ Việt Nam và Trung Quốc, nếu không có yêu cầu rà soát, thời hạn áp thuế chống bán phá giá nói trên sẽ kết thúc ngày 7/10/2008. Theo EC, trong thời gian tới, các nhà sản xuất châu Âu có thể nộp đơn yêu cầu rà soát và cần cung cấp đầy đủ các bằng chứng chứng minh nếu không áp thuế chống bán phá giá nêu trên sẽ có khả năng dẫn đến việc tiếp tục hoặc tái diễn bán phá giá và gây thiệt hại đối với ngành sản xuất giày của châu Âu.
Trong trường hợp Ủy ban châu Âu quyết định tiến hành rà soát các nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu thì đại diện của nước xuất khẩu và các nhà sản xuất EU có thể tham gia trao đổi, bình luận, và phản bác về những vấn đề nêu trong đơn yêu cầu rà soát.
Vụ kiện chống bán phá giá giày mũ da nhập khẩu vào EU từ Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu từ năm 2005. Tháng 4/2006, EC đã đề xuất các mức thuế sơ bộ đối với VN là 16,8% và 19,4% với Trung Quốc. Mức thuế này được áp dụng theo từng giai đoạn trong khoảng thời gian 6 tháng, bắt đầu từ mức 4%.
Trong vụ kiện này, phía Việt Nam luôn giữ quan điển, doanh nghiệp VN không bán phá giá vào thị trường EU. Việc EC áp dụng mức thuế chống bán phá giá sơ bộ đối với giày có mũ da của VN là không phản ánh đúng thực tế. Lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp VN là do giá nhân công rẻ và công nghệ hiện đại. Việc áp dụng mức thuế này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới ngành giày da của VN, đặc biệt là hơn 500.000 lao động và 80% trong số đó là lao động nữ. Ngoài ra, việc áp dụng mức thuế này cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới lợi ích chính đáng của người tiêu dùng ở 27 nước thành viên EU
Khó khăn và h._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11782.doc