Lời Mở đầu
“ Khác hẳn với các doanh nghiệp trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp trong thời mở cửa ngày nay luôn biết đặt mình vào trong vòng xoáy kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa “ Đó là lời của một số doanh nhân nước ngoài nhận xét về các doanh nghiệp nước ta hiện nay.
Quả đó không phải là lời đánh giá vu vơ mà nó phản ánh đúng thực trạng của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay trước cơ chế thị trường, trước sự thay đổi mạnh mẽ của kh
65 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1394 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của Công ty dệt Minh Khai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oa học công nghệ, trước xu hướng toàn cầu khu vực hoá, trước sự phân công lao động ngày càng phát triển sâu rộng trên phạm vi quốc tế.
Thế cho nên, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận, tuân thủ và biết cách khai thác tận dụng các qui luật kinh tế, đặc biệt là phải biết nâng cao hoạt động thúc đẩy sản xuất kinh doanh của chính doanh nghiệp mình.
Công ty dệt Minh Khai là một doanh nghiệp Nhà Nước trực thuộc Sở Công Nghiệp Hà Nội, cũng đang đứng trước thử thách gay gắt, hay nói đúng hơn là công ty đang đứng trên vũ đài cạnh tranh với các công ty khác trong ngành dệt kim nói riêng và ngành dệt may nói chung.
Qua thời gian thực tập, tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng hoạt động của công ty dệt Minh Khai, em chọn đề tài: “Một số biện pháp cơ bản nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của công ty dệt Minh Khai.” là khoá luận tốt nghiệp của mình.
Kết cấu bài như sau:
Phần I: Tổng quan về tiêu thụ sản phẩm.
Phần II: Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty dệt Minh Khai.
Phần III: Đánh giá khả năng tiêu thụ, phương hướng và một số giải pháp nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của công ty dệt Minh Khai.
Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các cô chú trong phòng kế hoạch xuất nhập khẩu thuộc công ty dệt Minh Khai và đặc biệt là TS: Phạm Thu Hà đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành đề tài.
Phần I
Tiêu thụ sản phẩm - một khâu không thể thiếu được trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất
1.1. Quan điểm cơ bản về công tác tiêu thụ
1.1.1. Khái niệm tiêu thụ
Đặc trưng lớn nhất của sản xuất hàng hoá là sản phẩm được sản xuất ra để nhằm thực hiện những mục tiêu đã định trong chương trình hoạt động của người sản xuất, của mỗi doanh nghiệp. Do đó tiêu thụ sản phẩm là một trong những khâu quan trọng của tái sản xuất xã hội. Quá trình tiêu thụ sản phẩm chỉ kết thúc khi quá trình thanh toán giữa mua và bán đã diễn ra và quyền sở hữu hàng hoá đã thay đổi.
Tiêu thụ sản phẩm là khâu lưu thông hàng hoá là cầu nối trung gian giữa một bên sản xuất, phân phối và một bên là tiêu dùng. Trong quá trình tuần hoàn các nguồn vật chất, việc mua và bán các sản phẩm được thực hiện. Giữa hai khâu này có sự quyết định bản chất của hoạt động lưu thông thương mại đầu vào và hoạt động thương mại đầu ra của doanh nghiệp.
C.Mác coi quá trình sản xuất theo nghĩa rộng bao gồm : sản xuất- phân phối- trao đổi tiêu dùng. Vậy tiêu thụ sản phẩm là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, làm cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục. Tiêu thụ sản phẩm nhằm đưa ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng về số lượng, chất lượng, chủng loại, qui cách, phương thức vận chuyển, thời hạn giao hàng, phương thức thanh toán.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự mình giải quyết 3 vấn đề trung tâm cho nên việc tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ được hiểu theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa rộng, tiêu thụ sản phẩm là một quá trình kinh tế bao gồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu thị trường, đặt hàng và tổ chức sản xuất, thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ, xúc tiến bán hàng... Nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất. Theo hiệp hội kế toán quốc tế thì tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ là việc chuyển dịch quyền sở hữu sản phẩm, dịch vụ đã thực hiện cho khách hàng đồng thời thu được tiền, hàng hoá hoặc được quyền thu tiền bán hàng.
Tóm lại, tiêu thụ sản phẩm là một quá trình nghiên cứu nhu cầu trên thị trường và biến nhu cầu đó thành nhu cầu mua thực sự của người tiêu dùng và tổ chức quá trình đưa hàng từ nơi sản xuất tới người tiêu dùng sao cho có hiệu quả nhất.
1.1.2. Các hình thức tiêu thụ
Trong nền kinh tế thị trường, việc tiêu thụ sản phẩm được thực hiện bằng nhiều kênh khác nhau, theo đó các sản phẩm được bán và vận động từ các doanh nghiệp sản xuất, cung cấp dịch vụ đến tận tay các hộ tiêu dùng cuối cùng.
Mặc dù có rất nhiều hình thức tiêu thụ nhưng đa số các sản phẩm, dịch vụ trong quá trình tiêu thụ nói chung đều thông qua một số kênh chủ yếu: Doanh nghiệp sản xuất, cung cấp dịch vụ bán trực tiếp các sản phẩm, dịch vụ cho các hộ tiêu dùng; Bán thông qua các công ty bán buôn và các hãng bán buôn độc lập. Tuỳ thuộc vào đặc điểm doanh nghiệp, thị trường, kênh tiêu thụ mà doanh nghiệp áp dụng các hình thức tiêu thụ hợp lý.
a. Tiêu thụ trực tiếp
Tiêu thụ trực tiếp là hình thức doanh nghiệp sản xuất bán thẳng sản phẩm, dịch vụ của mình cho người tiêu dùng cuối cùng không qua các khâu trung gian.
Sơ đồ 1. Tiêu thụ trực tiếp
Người tiêu dùng cuối cùng
Doanh nghiệp sản xuất
Hình thức này có ưu điểm là giảm được chi phí và các sản phẩm mới được đưa nhanh vào tiêu thụ... Doanh nghiệp thường xuyên tiếp xúc với khách hàng và thị trường, biết rõ nhu cầu thị trường và tình hình giá cả từ đó tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao uy tín cho doanh nghiệp.
b. Tiêu thụ gián tiếp
Tiêu thụ gián tiếp là hình thức doanh nghiệp sản xuất, cung cấp dịch vụ bán sản phẩm của mình cho người tiêu dùng cuối cùng thông qua các khâu trung gian, bao gồm: Người bán buôn, bán lẻ, đại lý... Với hình thức này các doanh nghiệp có thể tiêu thụ được hàng hoá trong thời gian ngắn nhất với khối lượng lớn, từ đó thu hồi vốn nhanh, tiết kiệm được cước phí bảo quản, giảm hao hụt. Nhưng với hình thức này thời gian lưu thông hàng hoá dài, tăng chi phí tiêu thụ và doanh nghiệp khó kiểm soát được các khâu trung gian.
Sơ đồ 2. Tiêu thụ gián tiếp
Bán lẻ
Đại lý
Bán buôn
Môi giới
Doanh nghiệp
Người tiêu dùng cuối cùng
c. Tiêu thụ hỗn hợp
Đây là hình thức tiêu thụ kết hợp hai dạng tiêu thụ trực tiếp và tiêu thụ gián tiếp. Doanh nghiệp vừa tổ chức bán trực tiếp sản phẩm, dịch vụ đến tận tay người tiêu dùng, vừa khai thác lợi thế trong hệ thống phân phối của người mua trung gian.
Sơ đồ 3. Tiêu thụ hỗn hợp
Người tiêu dùng cuối cùng
Người tiêu dùng cuối cùng
Người mua
trung gian
Lực lượng bán hàng của doanh nghiệp
Đại lý
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp có thể chỉ sử dụng một dạng kênh phân phối tuỳ theo đặc điểm cụ thể của doanh nghiệp và sản phẩm kinh doanh. Nhưng nhiều nhà doanh nghiệp thường có xu hướng sử dụng kênh hỗn hợp để phát huy được các ưu thế của từng dạng kênh trong tiêu thụ.
1.1.3. Một số chỉ tiêu đánh giá tốc độ tiêu thụ.
Tuỳ theo đặc điểm của từng hình thức tổ chức tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ khác nhau mà người ta áp dụng những chỉ tiêu thích hợp để đánh giá hoạt động tiêu thụ. Nhưng người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau để đánh giá.
a. Thị phần.
Là phần thị trường mà doanh nghiệp dành được trên toàn bộ tổng thị trường. Thị phần của doanh nghiệp được biểu hiện qua các công thức sau.
- Thị phần tính theo ngành
- Thị phần của doanh nghiệp tính theo phân đoạn thị trường
- Thị phần của doanh nghiệp tính theo doanh số của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất
Trong đó : TPdn: Thị phần doanh nghiệp
DTdn: Doanh số của doanh nghiệp
DTpd: Doanh số toàn phân đoạn
DTct : Doanh số đối thủ cạnh tranh mạnh nhất
b. Tốc độ tăng lượng sản phẩm tiêu thụ trên thị trường.
Tốc độ tăng lượng sản phẩm tiêu thụ là số lượng sản phẩm tiêu thụ năm sau so với năm trước của doanh nghiệp trên thị trường. Và được biểu hiện qua công thức sau.
Q(%) : Tốc độ tăng lượng sản phẩm tiêu thụ trên thị trường
Q1 : Số lượng sản phẩm tiêu thụ trên thị trường năm sau
Q0 : Số lượng sản phẩm tiêu thụ trên thị trường năm
c. Tốc độ phát triển khách hàng.
Là số lượng khách hàng của doanh nghiệp năm nay so với năm trước. Và được tính theo công thức sau:
Tỷ lệ chiếm lĩnh khách hàng. Là so sánh số lượng khách hàng của doanh nghiệp với toàn bộ khách hàng ở các khu vực.
Trong đó: KH(%): tốc độ phát triển khách hàng
KH1,KH0: Số lượng khách hàng của doanh nghiệp năm nay, năm trước
K: tỷ lệ chiếm lĩnh khách hàng
KHdn: Số lượng khách hàng của doanh nghiệp
KHkv: số lượng khách hàng của các khu vực
d. Tốc độ tăng doanh thu.
Là so sánh doanh thu của doanh nghiệp năm nay so với năm trước. Và được tính theo công thức sau:
DT(%): Tốc độ tăng doanh thu
DT1,DT0: Doanh thu của doanh nghiệp năm nay, năm trước
Đây là chỉ tiêu quan trọng phản ánh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ được thể hiện bằng tiền và cũng nói lên được quy mô thị trường của doanh nghiệp năm nay so với năm trước.
e. Vòng quay của vốn lưu động.
Trong quá trình sản xuất, cung cấp dịch vụ,vốn lưu động vận động không ngừng, thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình tái sản xuất (dự trữ, sản xuất, tiêu thụ ). Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để xác định tốc độ luân chuyển của vốn lưu động, người ta thường sử dụng chỉ tiêu sau:
K : Số vòng quay của vốn lưu động
DT : Doanh thu của doanh nghiệp
Vld : Vốn lưu động
g. Tốc độ tăng lợi nhuận.
Là so sánh lợi nhuận của doanh nghiệp năm nay so với năm trước. Và được tính theo công thức:
P(%): Tốc độ tăng lợi nhuận của doanh nghiệp
P1 : Lợi nhuận của doanh nghiệp năm nay
P0 : Lợi nhuận của công ty năm trước
1.1.4. Vai trò của tiêu thụ.
Tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh. Là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm là thực hiện mục đích của sản xuất hàng hoá, dịch vụ, là đưa sản phẩm, dịch vụ từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Nó là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung gian một bên là sản xuất và phân phối còn một bên là tiêu dùng.
ở các doanh nghiệp, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đóng vai trò quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp đó. Khi sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp được tiêu thụ, tức là nó đã được người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp được thể hiện ở mức bán ra, uy tín của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, sự thích ứng với nhu cầu người tiêu dùng và sự hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ kèm theo. Nói cách khác, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ phản ánh đầy đủ những điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp.
Công tác tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ gắn người sản xuất với người tiêu dùng, nó giúp cho các nhà sản xuất hiểu thêm về kết quả sản xuất của mình và nhu cầu của khách hàng.
Về phương diện xã hội thì tiêu thụ sản phẩm có vai trò trong việc cân đối giữa cung và cầu, vì nền kinh tế quốc dân là một thể thống nhất với những cân bằng, những tương quan tỷ lệ nhất định. Sản phẩm, dịch vụ sản xuất ra được tiêu thụ tức là sản xuất đang diễn ra một cách trôi chảy, tránh được sự mất cân đối, giữ được bình ổn trong xã hội. Đồng thời tiêu thụ sản phẩm giúp các đơn vị xác định phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất cho giai đoạn tiếp theo.
Thông qua tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ có thể dự đoán nhu cầu tiêu dùng của xã hội nói chung và từng khu vực nói riêng đối với từng loại sản phẩm, dịch vụ. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp sẽ xây dựng được các kế hoạch phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Tóm lại tiêu thụ sản phẩm là một quá trình thực hiện những biện pháp kinh tế, tổ chức nghiệp vụ khác nhau nhằm bán được hàng hoá sản xuất ra và thoả mãn tốt nhất những yêu câù và nhu cầu của khách hàng. Tiêu thụ là một trong những khâu quan trọng của tái sản xuất xã hội và của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ qua tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp mới thu được lợi nhuận từ đó mới thực hiện được tái sản xuất, nâng cao hiệu quả của hoạt động khác. Tiêu thụ sản phẩm trở thành nhân tố quyết định trong tình hình kinh doanh của tất cả các đơn vị.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác tiêu thụ.
1.2.1. Trước sản xuất.
a. Kế hoạch sản xuất, tiêu thụ.
+ Kế hoạch sản xuất.
Kế hoạch sản xuất giữ một vị trí rất quan trọng, nó cùng với kế hoạch tiêu thụ là bộ phận chủ đạo và trung tâm của kế hoạch hàng năm, là mục tiêu của mọi hoạt động trong doanh nghiệp và là cơ sở để tính toán các chỉ tiêu của mọi bộ phận kế hoạch trong doanh nghiệp. Kế hoạch này thể hiện khả năng sản xuất, khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường. Nội dung chủ yếu của kế hoạch sản xuất được phản ánh qua các chỉ tiêu: Sản lượng và sản phẩm chủ yếu và các loại sản phẩm khác tính bằng đơn vị hiện vật; Giá trị sản lượng hàng hoá và giá trị tổng sản lượng.
+ Kế hoạch tiêu thụ.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế độc lập và phải tự mình giải quyết được ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Lợi nhuận là mục tiêu sống còn của doanh nghiệp. Muốn có lợi nhuận, doanh nghiệp phải tiêu thụ được hàng hoá Sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp phải phù hợp với nhu cầu thị trường. Để tồn tại và phát triển lâu dài thì mỗi doanh nghiệp cần xác định được kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ.
Kế hoạch tiêu thụ là định hướng hoạt động có mục tiêu của doanh nghiệp và hệ thống các giải pháp, biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu đề ra trong tiêu thụ. Kế hoạch tiêu thụ bao gồm : Mặt hàng tiêu thụ, tăng doanh số, tối đa hoá lợi nhuận, mở rộng thị trường, nâng cao uy tín doanh nghiệp.
Kế hoạch tiêu thụ của doanh nghiệp giúp doanh nghiệp nắm bắt được nhu cầu khách hàng từ đó chủ động đối phó với mọi diễn biến của thị trường, giúp doanh nghiệp mở rộng thêm thị trường mới, kế hoạch hoá về khối lượng tiêu thụ, doanh thu, lợi nhuận, chọn kênh tiêu thụ, và các đối tượng khách hàng. Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ giữ vai trò quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của chiến lược kinh doanh.
b. Chính sách sản phẩm.
Chiến lược sản phẩm là xương sống của chiến lược tiêu thụ. Trình độ sản xuất càng cao, cạnh tranh càng gay gắt thì vai trò của chiến lược sản phẩm càng trở nên quan trọng. Chiến lược sản phẩm không những chỉ bảo đảm cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đúng hướng mà còn gắn bó chặt chẽ giữa các khâu của quá trình tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp nhằm thực hiện các mục tiêu của kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ.
Thông thường chính sách sản phẩm bao gồm 8 nội dung cơ bản và đây cũng là những bước tiến hành trong quy trình xây dựng chính sách sản phẩm.
+ Xác định mục tiêu và nhiệm vụ cơ bản của doanh nghiệp trong thời kỳ xây dựng chính sách sản phẩm. Thực chất là bám sát mục tiêu của kế hoạch tiêu thụ.
+ Quyết định số lượng sản phẩm, dịch vụ đưa ra thị trường. Đây là nội dung then chốt của phương án sản phẩm
+ Nêu các điều kiện cần thiết để sản xuất ra khối lượng sản phẩm, dịch vụ đã quyết định trong chính sách sản phẩm như: Vật tư, thiết bị, vốn, nhân lực...
+ Tính toán kết quả tiêu thụ theo khối lượng sản phẩm trong chính sách sản phẩm.
+ Kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách sản phẩm, bao gồm : Thời gian bắt đầu và kết thúc của phương án; những hoạt động cơ bản và biện pháp bảo đảm thực hiện phương án đã đề ra...
+ Dự kiến các sai lệch và các rủi ro có thể xẩy ra trong quá trình thực hiện phương án và các biện pháp đề phòng, xử lý các sai lệch đó.
+ Dự kiến điều chỉnh khối lượng sản phẩm khi sản xuất kinh doanh thuận lợi hơn và có khả năng tăng khối lượng sản phẩm cao hơn dự kiến hoặc gặp khó khăn quá đòi hỏi giảm bớt khối lượng sản phẩm.
+ Kết luận cơ bản về phương án sản phẩm. Nó cho phép doanh nghiệp có được bức tranh tổng thể về phương án đã xây dựng.
1.2.2. Trong quá trình sản xuất.
a. Cải tiến quá trình sản xuất, cung cấp sản phẩm.
Do những thay đổi về khoa học công nghệ, làm cho năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, dịch vụ ngày càng tăng. Trong khi giá sản phẩm, dịch vụ lại giảm, vì vậy doanh nghiệp thực hiện cải tiến quá trình sản xuất, cung cấp dịch vụ là một vấn đề quan trọng góp phần đưa doanh nghiệp phát triển và đứng vững trên thị trường.
Tổ chức cải tiến quá trình sản xuất là một quá trình quan trọng, nó bao gồm toàn bộ ngừng hoạt động tổ chức, phối hợp nhằm xác định những mục tiêu, tạo ra những điều kiện và mối quan hệ cần thiết để có được những sản phẩm đạt chất lượng cao, giá cả hợp lý, được thị trường chấp nhận. Những hoạt động này bao gồm cả những hoạt động nghiên cứu, thiết kế, nó có thể cải tiến ở một hay một số khâu trong quá trình sản xuất, cung cấp dịch vụ.
Thực hiện tổ chức cải tiến quá trình sản xuất gúp cho các doanh nghiệp gắn được tình hình sản xuất với thị trường, gắn quá trình sản xuất với công tác tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ.
b. Phát triển sản phẩm, dịch vụ mới.
Do những thay đổi nhanh chóng về thị hiếu, công nghệ, tình hình cạnh tranh. Doanh nghiệp không thể tồn tại và phát triển nếu chỉ dựa vào những sản phẩm hiện có. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp đều phải quan tâm đến chương trình phát triển sản phẩm hàng hoá, dịch vụ mới nếu muốn tồn tại và phát triển với uy tín ngày càng tăng.
Để có được sản phẩm mới doanh nghiệp có thể thực hiện theo hai cách là: Mua toàn bộ công ty nào đó, mua bằng sáng chế hay giấy phép sản xuất hàng hoá của người khác, hoặc tự thành lập bộ phận nghiên cứu marketing và thiết kế sản phẩm mới. Việc phát triển sản phẩm, dịch vụ mới được chia làm hai dạng: Đổi mới sản phẩm về mặt hình thức và đổi mới sản phẩm về mặt chất lượng.
1.2.3. Sau quá trình sản xuất.
a. Chính sách giá.
Chính sách giá đối với mỗi sản phẩm của các đơn vị sản xuất kinh doanh là việc qui định mức giá bán hoặc trong một số trường hợp là những mức giá bán. Giá cả biểu hiện tập trung các quan hệ kinh tế và vị trí, vai trò của các doanh nghiệp trên thị trường, nó giữ một vị trí cực kỳ quan trọng trong quá trình tái sản xuất. Việc quyết định chính sách giá có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp vì:
Giá cả có ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng bán của doanh nghiệp. Nó thường xuyên là tiêu chuẩn quan trọng trong việc mua và lựa chọn của khách hàng. Giá cả có liên quan trực tiếp đến thu nhập và lợi nhuận của doanh nghiệp. Giá cả cung cấp thông tin cho doanh nghiệp dưới góc độ là tín hiệu thị trường, do đó nó là vấn đề quan tâm thường xuyên của doanh nghiệp.
Giá cả là công cụ cạnh tranh để giữ vững và mở rộng thị trường của doanh nghiệp. Chính sách giá cả được sử dụng linh hoạt, đó là vũ khí sắc bén trên thị trường.
Chính sách giá có mối quan hệ mật thiết với kế hoạch tiêu thụ. Chiến lược giá cả phối hợp một cách chính xác các điều kiện sản xuất và thị trường, là đòn bẩy hoạt động có ý thức đối với thị trường. Chính sách giá đúng sẽ giúp doanh nghiệp bán được nhiều hàng hoá, thực hiện mục tiêu lợi nhuận, tăng thị phần và nâng cao uy tín doanh nghiệp trên thị trường.
b. Các dịch vụ kèm theo.
Quy mô sản xuất ngày càng tăng, tiến bộ khoa học kỹ thuật và các mối giao dịch thương mại ngày càng phát triển thì càng đặt ra nhiều yêu cầu mới cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, trong đó kể cả hoạt động dịch vụ khách hàng. Dịch vụ lúc này trở thành vũ khí cạnh tranh sắc bén của doanh nghiệp. Dịch vụ xuất hiện mọi nơi, mọi giai đoạn của quá trình bán hàng, nó hỗ trợ cả trước, trong và sau bán hàng.
Dịch vụ trước bán hàng nhằm giúp truyền đạt thông tin về sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp tới khách hàng được nhanh chóng, chính xác, giúp khách hàng hiểu rõ được về sản phẩm, dịch vụ để có được quyết định, lựa chọn, chính xác, phù hợp các sản phẩm, dịch vụ mà mình cần.
Dịch vụ trong quá trình bán hàng nhằm trợ giúp khách hàng mua được hàng hoá có được các thông tin về sản phẩm, dịch vụ và các đặc tính kinh tế kỹ thuật hay cách thức vận hành, bảo quản...
Dịch vụ sau khi bán hàng là tất cả các hoạt động làm tăng thêm hoặc tạo điều kiện thuận lợi trong việc sử dụng sản phẩm của khách hàng sau khi mua như: khuyến mại, tặng quà, bảo hành, bảo dưỡng, thay thế sản phẩm cho khách hàng sau khi thời gian bảo hành kết thúc....
1.2. 4. Các yếu tố thuộc về cạnh tranh.
a. Lợi thế cạnh tranh.
Những lợi thế được doanh nghiệp tạo ra và sử dụng cho cạnh tranh thì được gọi là lợi thế cạnh tranh.
Lợi thế cạnh tranh còn được hiểu như là các đặc điểm hay các biến số của sản phẩm hoặc nhãn hiệu, mà nhờ có chúng doanh nghiệp tạo ra một số tính trội hớn, ưu việt hơn so với những người cạnh tranh trực tiếp.
Lợi thế cạnh tranh bên ngoài đó là lợi thế được dựa trên chiến lược phân biệt sản phẩm, hình thành nên giá trị cho người mua, hoặc bằng cách giảm chi phí sử dụng hay bằng cách tăng khả năng sử dụng. Lợi thế này tạo cho doanh nghiệp "Quyền lực thị trường".
Lợi thế cạnh tranh bên trong dựa trên tính ưu việt của doanh nghiệp trong việc làm chủ chi phí sản xuất. Nó tạo nên giá trị cho người sản xuất bằng cách tạo ra cho doanh nghiệp một giá thành thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh chủ yếu.
b. Đối thủ cạnh tranh.
Đối thủ cạnh tranh là những đối thủ cung ứng cùng mặt hàng, mặt hàng tương tự hoặc có thể thay thế cho sản phẩm của doanh nghiệp.
Mọi doanh nghiệp đều có đối thủ cạnh tranh, việc xác định được chính xác đối thủ cạnh tranh về tiềm lực, khả năng. Chiến lược cạnh tranh thành công hay thất bại tuỳ thuộc vào doanh nghiệp có xác định chính xác đối thủ cạnh tranh hay không. Đây là vấn đề hết sức quan trọng có ảnh hưởng tới kết quả tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Chỉ dành được thắng lợi trong cạnh tranh thì doanh nghiệp mới tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của mình.
Đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm các công ty trong nước và các công ty nước ngoài. Các đối thủ cạnh tranh thường mang lại nguy cơ giành giật thị phần và người của doanh nhiệp. Vì vậy việc nắm được đối thủ cạnh tranh sẽ giúp cho doanh nhiệp đứng vững và phát triển trên thị trường.
c. Sản phẩm thay thế.
Sản phẩm thay thế là sản phẩm khác có thể thoả mãn cùng nhu cầu của người tiêu dùng. Đặc điểm cơ bản của nó thường có các ưu thế hơn sản phẩm bị thay thế ở các đặc trưng riêng biệt. Đây là một thách thức cho doanh nghiệp, vì vậy doanh nghiệp cần phải nghiên cứu những tiến bộ kỹ thuật- công nghệ, trong đó liên quan trực tiếp là đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, từ đó thực hiện cải tiến, đổi mới sản phẩm sao cho đảm bảo những đặc tính ưu việt hơn sản phẩm thay thế, phù hợp với nhu cầu thị trường, phát triển và mở rộng thị phần.
1.3. ổn định và phát Triển thị trường một nhân tố cơ bản đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ.
1. 3. 1. Quan điểm cơ bản về thị trường.
a. Khái niệm thị trường.
Thị trường ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Từ đó đến nay, nền sản xuất hàng hoá đã phát triển và trải qua nhiều thế kỷ, nên khái niệm về thị trường cũng rất phong phú và đa dạng.
Thị trường theo cách hiểu cổ điển là nơi diễn ra các quá trình trao đổi và buôn bán. Trong thuật ngữ kinh tế hiện đại, thị trường còn bao gồm cả các hội chợ cũng như các địa dư hoặc các khu vực tiêu thụ phân phối theo mặt hàng hoặc ngành hàng.
Thị trường là sự kết hợp giữa cung và cầu, trong đó những người mua và những người bán bình đẳng, cùng cạnh tranh. Số lượng người mua và người bán nhiều hay ít phản ánh quy mô của thị trường lớn hay nhỏ. Việc xác định nên mua hay nên bán hàng hoá và dịch vụ với khối lượng và giá bao nhiêu do cung và cầu quyết định. Từ đó ta thấy, thị trường còn là nơi thực hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa hai khâu: Sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
Theo quan điểm marketing thì thị trường là bao gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng có một nhu câù hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó.
Thị trường là một phạm trù riêng có của nền sản xuất hàng hoá. Hoạt động cơ bản của thị trường được thể hiện qua ba nhân tố có mối quan hệ hữu cơ hay mật thiết với nhau: Nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ, cung ứng hàng hoá và dịch vụ, và giá cả hàng hoá và dịch vụ. Qua thị trường chúng ta có thể xác định được mối tương quan giữa cung và cầu của thị trường hàng hoá và dịch vụ, hiểu được phạm vi và quy mô của việc thực hiện cung cầu dưới hình thức mua, bán hàng hoá dịch vụ trên thị trường, thấy rõ thị trường còn là nơi kiểm nghiệm giá trị của hàng hoá và dịch vụ và ngược lại hàng hoá và dịch vụ phải đáp ứng nhu cầu của thị trường và được thị trường chấp nhận.
b. Chức năng của thị trường.
+ Chức năng thừa nhận.
Bất cứ doanh nghiệp nào sản phẩm hay dịch vụ làm ra không phải để tiêu dùng mà để bán. Khi các sản phẩm và dịch vụ được bán thì nó trở thành hàng hoá. Hàng hoá không được bán đi có nghĩa là thị trường không chấp nhận. Muốn được thị trường chấp nhận hàng hoá đó phải phù hợp với nhu cầu tiêu dùng về giá cả, chủng loại, số lượng, mẫu mã, chất lượng và nghệ thuật bán hàng.
+ Chức năng thực hiện.
Đó là chức năng tiến hành vi trao đổi hàng hoá thực hiện tổng số cung và cầu trên thị trưởng
+ Chức năng điều tiết và kích thích.
Thị trường có các qui luật và cơ chế vận hành của nó. Chính nhờ các qui luật và cơ chế đó mà thị trường thực hiện chức năng điều tiết kích thích. Thông qua cạnh tranh giữa các ngành mà điều tiết vốn, thì ngành sinh lợi thấp sang ngành sinh lơị cao.
+ Chức năng thông tin.
Thông tin thị trường có vai trò quan trọng đối với quản lý kinh tế vĩ mô và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông tin thị trường rất đa dạng và phong phú về tổng số cung, tổng số cầu, có cần cung – cầu, giá cả, hướng vận động của hàng hoá - dịch vụ.
c. Vai trò của thị trường.
Thị trường được coi là một phạm trù trung tâm, vì qua đó các doanh nghiệp có thể thấy được sự phân phối các nguồn lực thông qua hệ thống giá cả. Trên thị trường, giá cả hàng hoá và dịch vụ, giá cả các yếu tố của các nguồn lực như thiết bị máy móc, nguyên vật liệu, lao động, đất đai... luôn luôn biến động nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để tạo ra hàng hoá và dịch vụ, đáp ứng nhu cầu thị trường và xã hội. Như vậy, chúng ta thấy, thị trường có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thị trường tồn tại khách quan, từng doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động thích ứng với thị trường. Mỗi doanh nghiệp phải trên cơ sở nhận biết nhu cầu của thị trường và xã hội cũng như thế mạnh của mình trong sản xuất, kinh doanh để có chiến lược, kế hoạch và phương án kinh doanh phù hợp với sự đòi hỏi của thị trường và xã hội.
1.3.2. Vấn đề ổn định và phát triển thị trường.
a. ổn định thị trường.
ổn định thị trường là việc duy trì thị trường hiện có của doanh nghiệp. ổn định thị trường cũng là việc duy trì chổ đứng của doanh nghiệp trên thị trường, đó là thực hiện các công việc để đảm bảo cho sản phẩm, dịch vụ được tiêu thụ trên thị trường và được khách hàng chấp nhận. Thực chất đây là một mảng của chiến lược thị trường với mục tiêu là tập trung và hướng vào thị trường hiện tại, để dữ vững được thị trường hiện tại thì doanh nghiệp phải thực hiện một loạt các chính sách như : Lập hàng rào ngăn cản các đối thủ gia nhập ngành, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, hoàn thiện các dịch vụ kèm theo đặc biệt chú ý đến dịch vụ bảo hành, dịch vụ sữa chữa, bảo dưỡng, hướng dẫn về kỹ thuật...
Duy trì thị trường hiện tại đồng nghĩa với duy trì khách hàng truyền thống. Khách hàng truyền thống là những khách hàng đã có quan hệ mua bán hàng hóa với doanh nghiệp trong một thời gian dài và ở đây người mua và người bán đã xây dựng được lòng tin và sự tín nhiệm giữa đôi bên. Thực tế đã chỉ ra rằng, duy trì khách hàng truyền thống giữ một vai trò hết sức quan trọng trọng sự thành bại của doanh nghiệp. Duy trì khách hàng truyền thống đồng nghĩa với việc giữ vững và tăng doanh số, giảm chi phí marketing, chi phí xử lý đơn đặt hàng, tăng uy tín và vị thế của công ty. Duy trì và giữ được khách hàng cũng có nghĩa là hạn chế được khả năng cạnh tranh của đối thủ cạnh tranh. Lợi nhuận mà công ty thu được tỷ lệ thuận với tính trung thành của khách hàng truyền thống.
b. Phát triển thị trường.
Phát triển thị trường là quá trình gia tăng thị phần bằng cách tăng tổng số lượng hàng bán ra hoặc tăng số lượng khách hàng mua hàng của doanh nghiệp. Để thực hiện thành công chiến lược mở rộng thị trường, đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa, mỗi một doanh nghiệp đều phải có chiến lược phân đoạn thị trường thích hợp. Trên cơ sở các phân đoạn thị trường, khách hàng đó, doanh nghiệp sẽ có kế hoạch sản xuất ra các sản phẩm phù hợp với từng thị trường cụ thể.
Việc phân đoạn thị trường có thể được định nghĩa là cách mà doanh nghiệp lựa chọn nhóm khách hàng dựa trên sự khác nhau quan trọng về nhu cầu hoặc sở thích của họ để đạt được lợi thế cạnh tranh. Nói chung, doanh nghiệp có thể thực hiện ba chiến lược khác nhau về phân đoạn thị trường.
Thứ nhất, thị trường có mức độ đồng nhất khá cao và doanh nghiệp áp dụng chính sách không phân biệt với toàn bộ thị trường này.
Thứ hai, Phân chia thị trường thành các bộ phận khác nhau và phát triển sản phẩm phù hợp với từng đoạn thị trường.
Thứ ba, Phân chia thị trường thành nhiều đoạn thị trường khác nhau, nhưng doanh nghiệp chỉ tập trung vào một đoạn hay một bộ phận thị trường.
Xâm nhập thị trường được coi là biện pháp mở rộng và phát triển thị trường. Doanh nghiệp thực hiện xâm nhập thị trường gắn với sản phẩm, dịch vụ mới và hiện có của doanh nghiệp.
Phát triển khách hàng, thị trường mới là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của doanh nghiệp. Nếu không mở rộng ra thị trường mới thì doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với việc dẫm chân tại chỗ. Xâm nhập thị trường mới là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có những nỗ lực lớn, phải vận dụng các chiến lược sách lược linh hoạt, nắm bắt thời cơ, thích nghi với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể về các mặt như chính trị, văn hóa... Doanh nghiệp có thể mở rộng thị trường bằng các cách như: kích thích những người đặt mua hiện có, tìm cách thu hút những người mua của đối thủ cạnh tranh, và tìm cách thu hút những khách hàng mới. Khách hàng là người ủng hộ tốt nhất đối với việc đánh giá những sản phẩm mới - phải liên tục tham khảo ý kiến của họ. Phải thiết lập luồng thông tin thường xuyên từ khách hàng về quan điểm của họ đối với thị trường hiện tại và tương lai và doanh nghiệp cần phải hỗ trợ cho khách hàng như thế nào. Những biến động thị trường là biến động liên tục và bất ngờ, nhất là khi đối thủ cạnh tranh đưa ra những sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu thị trường hiện tại. Điều này đến lượt nó, lại tạo ra những tiêu chuẩn mới khiến những nhu cầu thị trường giờ đây cần phải xem xét lại, vì vậy việc khai thác sản phẩm mới cũng như tính năng động của sản xuất là cộng cụ để duy trì và phát triển thị trường.
Tóm lại, tùy theo từng nhóm khách hàng, thị trường cụ thể mà doanh nghiệp quyết định chào bán một hoặc một số loại sản phẩm nhất định nào đó. Bên cạnh các sản phẩm truyền thống mà doanh nghiệp có thế mạnh về kinh nghiệm sản xuất và công nghệ, doanh nghiệp cũng cần phải nghiên cứu sản xuất ra các sản phẩm mới, đ._.a dạng hóa sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp có thể phân loại khách hàng của mình thành các nhóm khách hàng cụ thể, từ đó có kế hoạch sản xuất ra các sản phẩm cụ thể cho từng nhóm khách hàng đó.
c. Mối quan hệ giữa ổn định và phát triển với công tác tiêu thụ.
Hoạt động duy trì và phát triển thị trường sẽ giúp cho các doanh nghiệp tăng được số lượng khách hàng và từ đó tăng được số lượng sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ. Khách hàng là nhân vật quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trên thị trường. Nếu khách hàng ưa chuộng sản phẩm của doanh nghiệp thì doanh nghiệp đứng vững, còn ngược lại sẽ bị bại vong, chính vì vậy các doanh nghiệp trên thị trường rất quan tâm tới các vấn đề ổn định và không ngừng phát triển thị trường.
ổn định và phát triển thị trường đồng nghĩa với sự tăng lên của sản phẩm tiêu thụ và doanh thu. Sản phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ mạnh nó góp phần làm tăng vị thế và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, và khi doanh nghiệp và khách hàng có lòng tin với nhau, điều này sẽ gắn kết khách hàng với doanh nghiệp. Mặt khác, khi doanh nghiệp có uy tín cao thì dễ dàng ký kết được các hợp đồng thương mại cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các doanh nghiệp, tổ chức trong và ngoài nước.
Nhờ có hoạt động ổn định và mở rộng thị trường, các doanh nghiệp có thông tin tốt hơn về khách hàng và đối thủ cạnh tranh qua đó doanh nghiệp có hướng đổi mới chiến lược tiêu thụ và kinh doanh mới. Thông qua hoạt động ổn định và phát triển thị trường mà doanh nghiệp tiếp cận được với thị trường tiềm năng của doanh nghiệp, cung cấp cho khách hàng tiềm năng những thông tin cần thiết về sản phẩm, dịch vụ của công ty đồng thời thực hiện phân phối sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp cho khách hàng tiềm năng. Hơn nữa thông qua hoạt động ổn định và phát triển thị trường doanh nghiệp sẽ có điều kiện để nhìn nhận về ưu nhược điểm của hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp, từ đó có cơ sở để ra quyết định kịp thời, phù hợp.
Vấn đề ổn định và phát triển thị trường được tốt tức là thị trường không những được duy trì mà còn phát triển làm cho công tác tiêu thụ trở nên dễ dàng hơn, đưa hàng vào kênh phân phân một cách hợp lý, kích thích hiệu quả của lực lượng bán hàng.
Tóm lại, công tác tiêu thụ phụ thuộc rất lớn vào thị trường. Thị trường có ổn định và được mở rộng thì công tác tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ được thuận lợi và thông suốt, gúp cho doanh nghiệp xây dựng được một hình ảnh đẹp về doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp.
1.3.3. Sự cần thiết phải ổn định và phát triển thị trường.
Hoạt động trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất hàng hoá, dịch vụ với mục đích là để bán và thu được nhiều lợi nhuận.
Hoạt động trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều đối thủ canh tranh. Mục đích của cạnh tranh là giành dật thị trường và khách hàng để đứng vững trên thị trường.
Ngày nay nhu cầu của khách hàng biến đổi thường xuyên và khó dự đoán trước được nhu cầu, thị hiếu. Vì vậy, hoạt động duy trì và mở rộng thị trường cho phép doanh nghiệp tiếp cận tốt hơn với thị trường và khách hàng.
Mặt khác duy trì và mở rộng thị trường mang lại cho doanh nghiệp những lợi ích sau:
+ Công việc kinh doanh được duy trì.
+ Doanh thu, các chi phí ban đầu, các hoạt động marketing sẽ hiệu quả trong thời gian dài.
+ Số khách hàng quay trở lại với doanh nghiệp tỷ lệ ngịch với các chi phí phải bỏ ra.
+ Các khách hàng được thoả mãn sẽ gây ra nhiều ảnh hưởng phụ có lợi cho uy tín của công ty.
+ Các khách hàng đó sẽ sẵn sàng thanh toán với mức giá cao hơn.
Việc duy trì và phát triển thị trường cho phép doanh nghiệp phát triển mối quan hệ, khuyến khích và gia tăng các hoạt động mua lặp lại thường xuyên hơn ở phạm vi rộng. Đó là lúc khách hàng đặt lòng tin vào công ty với chữ tín rất cao.
Phần II
Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty
dệt minh khai
2.1. Quá trình hình thành và phát triển công ty dệt Minh Khai
2.1.1. Sự hình thành
Công ty dệt Minh Khai là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội. Công ty được khởi công xây dựng từ cuối những năm 1960, đầu những năm 1970. Đây là thời kỳ chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở miền Bắc đang ở giai đoạn quyết liệt nhất.Vì vậy việc xây dựng công ty có giai đoạn phải đi sơ tán ở nhiều địa điểm khác nhau. Tính đến nay công ty đã phát triển được hơn 40 năm với những giai đoạn thăng trầm trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tên công ty: Công ty dệt Minh Khai
Tên giao dịch quốc tế: MIKHATEX
Trụ sở công ty đặt tại: 243 Minh Khai- Hà Nội.
Điện thoại: 8624271- 8624256
FAX: 84- 4- 8624256
MIKHATEX là đơn vị hạch toán độc lập, tự chủ tài chính trong kinh doanh có con dấu riêng và hoạt động phù hợp với qui đinh của pháp luật.
Dệt Minh Khai là một công ty lớn, có vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp địa phương của Hà Nội, đóng góp một phần lớn vào GDP của địa phương, đặc biệt tạo công ăn việc làm cho một số người lao động của thành phố và các tỉnh lân cận. Nhiệm vụ sản xuất chủ yếu của công ty là sản xuất khăn mặt, khăn bông, khăn tắm, khăn ăn... phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa, sau này là phục vụ cho xuất khẩu là chính.
2.1.2. Sự phát triển
a. Giai đoạn từ những năm 1970-1990
Từ 1970-1974 công ty cơ bản đã xây dựng xong và được chính thức thành lập theo quyết định của uỷ ban nhân dân thành phố. Cũng năm đó công ty bắt đầu đi vào sản xuất thử.
Sang năm 1975, công ty chính thức nhận kế hoạch của nhà nước giao Nhiệm vụ chủ yếu của công ty ban đầu là: sản xuất khăn mặt bông, khăn tắm, khăn tay…phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa. Số thiết bị ban đầu chỉ có 260 máy dệt thoi Trung Quốc. Tài sản cố định khi thành lập chỉ có gần 3 triệu đồng.
Trong thời gian đầu mới thành lập và đi vào sản xuất công ty gặp rất nhiều khó khăn do nhà xưởng xây dựng chưa hoàn chỉnh, thiết bị do Trung quốc viện trợ về lắp đặt không đồng bộ. Số cán bộ nhân viên có 415 người. Là doanh nghiệp đầu tiên tại miền bắc sản xuất mặt hàng khăn bông nên nhiều thông số kỹ thuật không có sẵn mà phải vừa làm vừa mò mẫm tìm tòi. Đội ngũ kỹ thuật công nhân lành nghề còn thiếu nhiều.
Những năm đầu công ty mới đưa được hơn 100 máy dệt vào sản xuất.
Năm 1975, năm đầu tiên công ty đi vào hoạt động mới chỉ đạt được:
Giá trị tổng sản lượng gần 2,5 triệu đồng
Sản phẩm chủ yếu gần 2 triệu khăn các loại
Những năm tiếp theo công ty đi dần vào ổn định hoàn thiện nhà xưởng, hiệu chỉnh lại máy móc thiết bị đào tạo thêm lao động để tăng năng lực sản xuất.
Từ những năm 1981-1990 là thời kỳ phát triển ổn định với tốc độ cao của công ty. Những năm này công ty được Thành phố đầu tư thêm cho một dây truyền dệt kim đan dọc để dệt các loại vải tuyn, valide và dèm …Như vậy về sản xuất công ty đã được giao cùng một lúc quản lý và triển khai hai quy trình công nghệ dệt khác nhau là dệt thoi và dệt kim. Công ty đã đầu tư thêm chiều sâu đồng bộ hoá dây truyền sản xuất. Bằng mọi biện pháp kinh tế kỹ thuật đưa dần những thiết bị ở khâu đầu như nồi hơi, nồi nấu cao áp, máy nhuộm, máy sấy sợi đi vào hoạt động phục vụ cho sản xuất, chấm dứt tình trạng khâu đầu phải làm thủ công và đi thuê ngoài.
Về sản xuất cũng trong thời kỳ này để giải quyết những khó khăn về vấn đề cung cấp nguyên liệu và thị truờng, chủ động sản xuất kinh doanh, công ty đã chuyển hướng sản xuất để xuất khẩu (cả hai thị trường Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa) là chủ yếu.
Năm 1981 thông qua TEXTIMEX công ty đã ký hợp đồng xuất khẩu dài hạn sang Cộng hoà dân chủ Đức và Liên Xô (cũ).
Đến năm 1983, công ty đã bắt đầu sản xuất khăn ăn xuất khẩu cho thị trường Nhật Bản với sự giúp đỡ của UNIMEX Hà Nội và đã chiếm lĩnh thị trường ngày một lớn.
Từ năm 1988 đến nay, công ty được nhà nước giao cho phép xuất khẩu trực tiếp, và là doanh nghiệp đầu tiên được nhà nước cho phép làm thí điểm về xuất khẩu khẩu trực tiếp sang thị trường nước ngoài.
b. Giai đoạn 1990 đến nay
Bước vào thời kỳ nhũng năm 1990, trước sự tan dã ở Liên Xô và hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Đồng thời nền kinh tế nước ta chuyển sang thực hiện cơ chế quản lý mới theo tinh thần nghị quyết Đại hội VI và Đại hội VII của Đảng, cũng như các doanh nghiệp khác trong nước, Công ty dệt Minh Khai gặp không ít những khó khăn:
- Mất đi một thị trường quan trọng và truyền thống.
- Vốn phục vụ cho sản xuất thiếu nghiêm trọng.
- Máy móc thiết bị đã cũ và lạc hậu không đáp ứng cho nhu cầu sản xuất mới .
- Đội ngũ lao đông quá đông, công nhân thu nhập thấp.
- Trình độ quản lý không còn phù hợp.
Trong hơn 20 năm xây dựng và phát triển của công ty, có thể nói đây là thời kỳ công ty gặp phải những khó khăn lớn nhất, những thử thách khắc nghiệt nhất. Với tình hình như vậy, được sự quan tâm lãnh đạo các cấp trên sự giúp đỡ các doanh nghiệp bạn bè, toàn thể công ty đã phát huy tinh thần năng động sáng tạo tập trung sức tháo gỡ khó khăn, giải quyết từ những vấn đề quan trọng nhất về thị trường, về vốn và tổ chức lại sản xuất, lựa chọn bố trí lại đội ngũ lao động. Nhờ đó, công ty đã từng bước thích nghi với cơ chế thị trường, ổn định và phát triển sản xuất theo hướng xuất khẩu là chính, hoàn thành các nghĩa vụ nhà nước, bảo toàn và phát triển được vốn cho sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên.
2.2. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu của công ty dệt Minh Khai
2.2.1. Đặc điểm về bộ máy tổ chức quản trị và các phòng ban
Là một doanh nghiệp nhà nước, công ty dệt Minh Khai tổ chức bộ máy quản lý theo một cấp đứng đầu là ban giám đốc chỉ đạo trực tiếp đến từng đơn vị thành viên. Giúp việc cho giám đốc có các phòng ban nghiệp vụ. Toàn bộ bộ máy hành chính quản lý của công ty được thể hiện qua sơ đồ trang sau:
Sơ đồ 1. Tổ chức bộ máy quản lý công ty dệt Minh Khai
Giám đốc
Phó giám đốc
phụ trách sx
Phó giám đốc
phụ trách kt
Phòng kh thị trường
Phòng
tc- bv
Phòng
hc- ytế
Phòng kỹ thuật
PX
tẩy nhuộm
PX
dệt thoi
PX
dệt kim
PX
hoàn thành
Phòng tài vụ
Ghi chú : Quan hệ trực tuyến
Quan hệ chức năng
Ban giám đốc : Bộ máy quản trị gồm một đồng chí giám đốc và hai đồng chí phó giám đốc.
- Giám đốc là đại diện pháp nhân của doanh nghiệp chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh của công ty và nghĩa vụ đối với Nhà nước
- Hai phó giám đốc được phân công phụ trách hai mảng chính
+ Một phó giám đốc phụ trách sản xuất
* Quản lý điều hành quá trình sản xuất.
* Chỉ đạo sản xuất theo kế hoạch.
* Chỉ đạo kế hoạch tác nghiệp tại phân xưởng .
+ Một phó giám đốc kỹ thuật
* Quản lý kỹ thuật chất lượng sản phẩm.
* Quản lý nguồn cung cấp : điện, nước, than phục vụ cho sản xuất.
* Chỉ đạo việc xây dựng các định mức vật tư .
* Quản lý việc thực hiện an toàn lao động vệ sinh công nghiệp .
Phòng tổ chức bảo vệ.
Cũng như hầu hết các doanh nghiệp khác phòng tổ chức bảo vệ có nhiệm vụ sau:
+Nhiệm vụ tổ chức nhân lực vào các bộ phận sản xuất.
+Xây dựng chính sách trả lương theo qui chế nhà nước.
+Tham gia tuyển dụng lao động.
Trong điều kiện công ty dệt Minh Khai phòng tổ chức bảo vệ còn phụ trách phòng bảo vệ dịch vụ.
Phòng kỹ thuật và kiểm tra chất lượng sản phẩm .
+Thực hiện quản trị kỹ thuật và công nghệ.
+Kiểm tra chất lượng nguyên phụ liệu và thành phẩm.
Phòng kế toán tài vụ .
+Hạch toán các nghiệp vụ kế toán phát sinh, kết chuyển các tài khoản từ đó lên sổ sách kế toán .
+Lập báo cáo kế toán định kỳ và theo dõi hợp đồng kinh tế .
Phòng hành chính y tế.
+Nhiệm vụ hành chính bao gồm tổ chức hội nghị, lưu trữ văn thư, chuyển đạt chỉ thị của giám đốc đến các phòng ban phân xưởng.
+Thực hiện công tác khám chữa bệnh tại chỗ, chăm lo điều trị phục hồi và
tăng cường sức khoẻ cho nhân viên, chịu trách nhiệm chung công tác vệ sinh an toàn công ty.
2.2.2 Đặc điểm cơ cấu sản xuất
Xuất phát tư nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và tình hình thực tế của doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức sản xuất của công tydệt Minh Khai được tổ chức theo sơ đồ sau :
Sơ đồ 2. Cơ cấu sản xuất của công ty dệt Minh Khai.
Cơ cấu sản xuất của công ty
Phân xưởng dệt kim
Phân xưởng dệt thoi
Phân xưởng tẩy nhuộm
Phân xưởng hoàn thành
Kho sợi
Kho thành phẩm
Kho trung gian
Theo sơ đồ trên cơ cấu sản xuất công ty được tổ chức thành bốn phân xưởng:
Phân xưởng dệt thoi :
Có nhiệm vụ thực hiện các công đoạn chuẩn bị các trục dệt và suốt sợi ngang, đưa vào máy dệt để dệt thành khăn bán thành phẩm theo qui trình công nghệ sản xuất khăn bông.
Phân xưởng dệt kim :
Có nhiệm vụ thực hiện các công đoạn chuẩn bị các bôbin sợi mắc lên để dệt thành vải màn tuyn mộc theo quy trình công nghệ sản xuất vải màn tuyn.
Phân xưởng tẩy nhuộm :
Có nhiệm vụ thực hiện các công đoạn nấu, tẩy nhuộm sấy khô và định hình các loại khăn, sợi và màn tuyn theo quy trình công nghệ sản xuất các mặt hàng khăn bông, vải tuyn.
Phân xưởng hoàn thành :
Có nhiệm vụ thực hiện các công đoạn may, đóng gói, đóng kiện các sản phẩm khăn bông và cắt kiểm các loạivải tuyn, vải nôỉ vòng theo quy trình công nghệ sản xuất các mặt hàng.
Công ty dệt Minh Khai đang sử dụng 3 quy trình công nghệ chính để sản xuất các mặt hàng đó là
Quy trình công nghệ sản xuất khăn sử lý trước :
Sợi mộc được đưa vào sản xuất ở phân xưởng tẩy nhuộm dưới dạng quả sợi. Qua máy đáng ống xốp tạo thành ống sợi xốp trước khi đưa vào máy nhuộm bôbin. ở máy nhuộm bôbin sợi đã được qua các công đoạn nấu tẩy nhuộm đồng thời nếu mặt hàng yêu cầu phải nhuộm mầu. Sau đó sợi được chuyển qua máy sợi bôbin trước khi đánh ống lại thành ống sợi cứng để xuất sang phân xưởng dệt.
Tại phân xưởng dệt thoi đã được xử lý phân thành sợi ngang và sợi dọc tuỳ theo yêu cầu mặt hàng. Sợi ngang được chuyển sang máy đánh suốt. Sợi dọc được chuyển sang máy mắc tạo thành trục mắc trước khi đưa vào máy hồ dồn (tăng cường lực cho sợi) tạo thành trục dệt. Trục dệt và suốt ngang được đưa vào máy dệt thoi, dệt thành khăn bông bán thành phẩm. Trước khi xuất xưởng sang phân xưởng hoàn thành, khăn bông bán thành phẩm được kiểm sơ bộ để xác định chất lượng sản phẩm cho sản phẩm dệt thoi.
Tại phân xưởng hoàn thành, khăn bán thành phẩm trước khi đóng gói, đóng kiện và nhập kho thành phẩm.
Sơ đồ 3. Quy trình sản xuất khăn xử lý trước.
Sợi mộc quả
Đánh ống xốp
Nấu
Tẩy
Nhuộm
Sấy
Sợi dọc
Mắc
Hồ dồn
Sợi ngang
Đánh suốt
Dệt
Kiểm bán
T Phẩm
May
Kiểm T Phẩm
Đóng gói
Đóng kiện
Nhập kho
T Phẩm
Sơ đồ 4. Quy trình sản xuất khăn xử lý sau.
Sợi mộc quả
Sợi dọc, ngang
Mắc
Hồ dồn
Đánh suốt
Dệt
Kiểm mộc
Nấu
Tẩy
Nhuộm
Sấy
Cắt dọc
May dọc
Cắt ngang
May ngang
Kiểm T Phẩm
Đóng gói
Đóng kiện
Quy trình công nghệ sản xuất khăn mộc xử lý sau:
Sợi mộc được đưa vào phân xưởng dệt thoi dưới dạng sợi quả. Qua máy đánh ống, đánh ống lại để giảm tạp chất, tăng chất lượng sợi. Sau đó được phân thành sợi dọc và sợi ngang theo yêu cầu mặt hàng. Sợi dọc qua máy móc tạo thành trục mắc trước khi chuyển sang máy hồ dồn, sợi được tạo thành trục hồ. Sợi ngang qua máy đánh suốt tạo thành suốt dệt. Trục hồ và suốt dệt được đưa thành máy dệt thoi để dệt thành khăn mộc. Khăn mộc được kiểm trước khi xuất xưởng sang phân xưởng tẩy nhuộm.
Tại phân xưởng tẩy nhuộm, khăn mộc được đưa qua công đoạn nấu trên nồi nấu, tẩy trên máy tẩy nhuộm BC3, nhuộm trên máy nhuộm cao áp (nếu cần thiết ). Trước khi xuất xưởng sang phân xưởng hoàn thành khăn đã tẩy nhuộm được đưa qua máy sấy rung hoặc sấy văng tuỳ theo yêu cầu thiết kế mặt hàng.
Tại phân xưởng hoàn thành khăn bán thành phẩm được qua các công đoạn cắt, may, kiểm thành phẩm để phân loại thành phẩm, thứ phẩm, phế phẩm. Sau đó khăn được đưa sang đánh sang đóng gói, đóng kiện.
Quy trình công nghệ sản xuất màn tuyn:
Sợi được đưa vào máy mắc ở dạng quả sợi, để mắc thành bobin trước khi đưa lên máy dệt kim, tạo vòng thành vải dệt kim mộc trên máy dệt kim. Trước khi xuất xưởng sang phân xưởng tẩy nhuộm vải mộc được kiểm trên máy đo và kiểm.
Tại phân xưởng tẩy nhuộm vải mộc được nhuộm trên máy nhuộm cao áp ( tuỳ theo yêu cầu thiết kế ). Sau đó được đưa sang máy văng sấy để định hình vải, cũng trên máy văng sấy vải được lơ tạo độ trắng.
Sơ đồ 5. Sơ đồ quy trình sản xuất màn tuyn.
Sợi Petex
Mắc trục
Dệt kim
Kiểm mộc
Nhuộm
Văng sấy định hình
Cắt màn
May
Kiểm thành phẩm
Đóng gói
Đóng kiện
Tuỳ theo tình hình cụ thể, công ty thường xuyên phải cải tiến tổ chức sản xuất, bố trí hợp lý các tổ sản xuất hoạt động cân đối nhịp nhàng và liên tục.
Cơ cấu tổ chức sản xuất trên giúp công ty có điều kiện chuyên môn hoá và hiệp tác hoá giữa các bộ phận một cách có hiệu quả, đồng thời tạo ra khả năng tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhằm tăng năng suất lao động hạ giá thành đơn vị sản phẩm, khuyến khích nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng doanh thu và doanh lợi cho công ty
2.2.3 Đặc điểm về công nghệ kỹ thuật trong công ty.
Từ khi mới thành lập đến năm 1975 công ty dệt Minh Khai chỉ có 260 máy dệt thoi khổ hẹp do Trung Quốc viện trợ, đến nay công ty đã từng bước đầu tư cả về chiều sâu và chiều rộng và đã có một hệ thống thiết bị tương đối hoàn chỉnh để có thể sản xuất được các loại mặt hàng phục vụ cho nhu cầu thị trường cả sản phẩm cao cấp cũng như sản phẩm trung bình cho xuất khẩu và nội địa, cụ thể như sau:
Bảng 1
Kê khai máy móc thiết bị chuyên dùng của công ty dệt Minh Khai
Tên máy móc thiết bị
Nước sản xuất
Số lượng
Năm sd
Khổ rộng
1.Máy dệt thoi
-Máy 1511B và 1511S
Trung Quốc
150máy
1987
109cm
-Máy ATM
Liên Xô (cũ)
40máy
1987
175cm
-Máy SAKAMOTO
Nhật Bản
13máy
1987
180cm
2.Máy dệt kim
ITALIA
4máy
1970
260cm
3.Máy mắc đồng loạt và máy hồ dồn
Nhật Bản
1hệ thống
1990
4.Máy đánh ống sợi
Trung quốc
3máy
1990
5.Máy nhuộm vải cao áp
Liên bang Đức
2máy
1992
6.Máy nhuộm vải bobin
Liên bang Đức
1máy
1992
7.Máy đánh ống xốp
Liên bang Đức
2máy
1992
8.Nồi nấu cao áp
Trung quốc
3nồi
1990
9.Máy sấy rung
Liên bang Đức
1máy
1997
10.Máy sấy văng
Liên bang Đức
1máy
1997
11.Máy dệt kim đan
Liên bang Đức
20máy
1997
12.Máy mắc sợi cho dệt kim
Liên bang Đức
2máy
1997
13.Máy đo gấp
Đài Loan
1máy
1994
14.Máy may công nghiệp
Nhật Bản
130máy
1995
(Nguồn : Phòng kỹ thuật)
Nhờ có sự đầu tư thêm máy móc thiết bị mà trình độ công nghệ của công ty đã ngày càng được nâng cao. Từ khi mới thành lập trình độ công nghệ chỉ ở mức thủ công và bán cơ khí, đến nay trình độ công nghệ công ty tuy chưa cao nhưng nhiều bộ phận đã đạt được trình độ công nghệ tự động hoá.
2.2.4. Đặc điểm về nhân sự
Lao động là một yếu tố đóng vai trò quan trọng. Muốn phát triển tốt thì phải sử dụng tốt lao động. Tình hình phân bố lao động công ty như sau:
Bảng 2. Kê khai năng lực lao động của công ty.
TT
Đơn vị
Tổng số
Bâc nghề
1
2
3
4
5
6
1
Phân xưởng dệt thoi
550
50
168
200
117
15
2
Phân xưởng tẩy nhuộm
100
6
17
44
28
5
3
Phân xưởng dệt kim
56
16
23
8
3
4
Phân xưởng hoàn thành
211
25
44
89
47
6
5
Phòng ban
114
Tổng cộng
1031
(Nguồn: Phòng tổ chức hành chính )
Hiện nay tổng số cán bộ công nhân viên trong công ty là 1031 người (trong đó 889 nhân viên nữ )
Số lao động quản lý: 65 người
Trong đó: + Đại học: 40 người
+ Trung cấp: 25 người
Do công ty thường xuyên tổ chức đào tạo nâng cao tay nghề của từng công nhân. Chính vì vậy, công nhân bậc 1 hầu như không có, chủ yếu là tập trung ở thợ bậc 3, bậc 4. Số công nhân có tay nghề cao trong công ty cũng không ngừng tăng qua các năm như bậc thợ bậc 6 hiện nay là 30 người, thợ bậc 5 là gần 200 người...
Trình độ nhân lực như vậy của công ty đối với thời gian này là đáp ứng được trình độ máy móc cũng như các quy trình sản xuất của công ty . Sự hợp lý này đã tạo nên khả năng đồng bộ giữa nhân lực và máy lực nên có thể nói đó là một khả năng cạnh tranh hiện nay của công ty trước thực trạng các doanh nghiệp khác cũng có trình độ nhân lực như vậy.
Tuy nhiên, công ty sẽ gặp phải những khó khăn khi mà công nghệ phát triển và công ty trang bị lại các máy móc thiết bị hiện đại hơn thì công ty phải tốn một khoản chi phí để đào tạo lại công nhân cho phù hợp với khả năng công nghệ. Thêm vào đó họ còn là nhân tố quyết định đến chất lượng sản phẩm nên công ty cần phải có biện pháp kịp thời để phát triển nguồn nhân lực.
2.2.5. Đặc điểm về vốn:
Vốn là nhân tố quyết định đến năng lực sản xuất kinh doanh của công ty, là một công cụ cần thiết để bước đầu tái sản xuất kinh doanh rồi đến tái sản xuất mở rộng.
Bảng 3. Tổng số vốn của công ty năm (1999-2002)
Đơn vị : TrĐ
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
%
%
%
%
1.Vốn cố định
10298
69,7
10611
69,0
11220
70,1
11645
70,4
2.Vốn lưu động
4458
30,3
4758
31,0
4764
29,9
4873
29,6
3.Tổng vốn
14752
100
15369
100
15984
100
16518
100
(Nguồn: Trích báo cáo kết quả kinh doanh- phòng tài vụ)
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy được công ty có nguồn vốn chiếm tỷ trọng đáng kể, luôn ở mức gần 70%. Nó được bổ sung qua tích luỹ hàng năm, số vốn cố định và lưu động tăng lên hàng năm, cụ thể : số vốn cố định năm 2000 so với năm 1999 tăng 317 triệu đồng, năm 2001 tăng 609 triệu đồng, năm 2002 so với năm 2001 tăng 425 triệu đồng. Điều đó cho thấy tình hình dịch chuyển cơ cấu vốn của công ty tương đối đồng đều và hợp lý. Nó phản ánh thực chất kết quả hoạt động kinh doanh mà công ty đã đạt được trong những năm vừa qua là đáng khích lệ và đúng hướng.
Việc mở rộng lĩnh vực và quy mô sản xuất kinh doanh cùng với việc liên tục bổ sung vốn kinh doanh của công ty cũng ảnh hưởng phần nào đến tổng tài sản công ty, làm cho tổng tài sản công ty tăng lên một cách đáng kể góp phần duy trì và ổn đinh tình hình sản xuất của công ty.
Bảng 4. Tổng tài sản của công ty (1999-2002)
Đơn vị: TrĐ
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
%
%
%
%
1.Ts lưu động
18410
47,3
19697
46,7
21879
47,1
24838
48,1
2.Ts cố định.
20495
52,7
22453
53,3
24536
52,3
26819
51,9
3.Tổng tài sản
38905
100
42150
100
46415
100
51657
100
(Nguồn: Trích báo cáo kết quả kinh doanh – phòng tài vụ )
2.2.6. Đặc điểm về sản phẩm và thị trường sản phẩm của công ty
Từ ngày thành lập đến nay, công ty tiến hành sản xuất kinh doanh qua hai thời kỳ phát triển và hai cơ chế khác biệt nhau về chất : Cơ chế kế hoạch hoá tập trung và cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước. Nhưng dù ở thời kỳ nào công ty vẫn sản xuất kinh doanh theo đúng ngành nghề đã đăng ký và mục đích thành lập công ty. Điều đó được thể hiện qua những sản phẩm chủ yếu của công ty hiện nay.
Hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường công ty luôn quan tâm đến việc giữ gìn và mở rộng thị trường hiện có, đồng thời có ý thức tìm kiếm và thâm nhập thị trường mới. Đây là yếu tố quyết định sự sống còn của công ty.
Sản phẩm công ty có hai loại :
-Khăn bông các loại .
-Vải màn tuyn.
Với sản phẩm khăn bông :
Công ty sản xuất từ nguyên liệu sợi bông100% nên có độ thấm nước, độ mềm mại cao, phù hợp với yêu cầu sử dụng người tiêu dùng. Các loại khăn cụ thể như sau:
- Khăn ăn dùng cho các nhà hàng và gia đình. Đối loại khăn dùng cho nhà hàng, công ty bán cho các cơ sở cung cấp khăn cho các nhà hàng làm khăn ướt, loại khăn này chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản chỉ có một phần ít tiêu thụ trong nước.
- Khăn rửa mặt công ty có các mẫu mã phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước nhưng chủ yếu thông qua các nhà bán buôn và các siêu thị.
- Khăn tắm chủ yếu sản xuất cho các nhu cầu xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Hiện nay, xu hướng sử dụng khăn tắm trong nước cũng tăng lên, công ty đã có hướng nghiên cứu mặt hàng khăn tắm phù hợp với nhu cầu trong nước và phục vụ cho nhu cầu quảng cáo và khuyến mại các sản phẩm khác như : nước gội đầu, sứ vệ sinh, dụng cụ thể thao...
- Bộ khăn dùng cho khách sạn bao gồm khăn tắm, khăn mặt, khăn tay, thảm chùi chân và áo choàng tắm. Công ty có hợp đồng cung cấp cho gần100 khách sạn tại Nhật Bản thông qua công ty thương mại Nhật Bản ASAHI. Ngoài ra các khách sạn trong nước nhất là các khách sạn liên doanh với nước ngoài tại các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh cũng đặt hàng tại công ty.
- Các loại vải nối vòng sử dụng để may lót và may mũ giày phục vụ cho cơ sở may xuất khẩu như: Giầy Ngọc Hà, May X40.
Với sản phẩm vải màn tuyn :
Công ty sản xuất từ nguyên liệu 100% sợi PETEX đảm bảo cho màn tuyn có độ bền cao và chống được ôxy hoá gây vàng cho màn. Công ty cũng có may theo yêu cầu đặt hàng của khách hàng và bán, ký gửi tại các cửa hàng giới thiệu sản phẩm. Ngoài ra công ty cũng ký các hợp đồng sản xuất màn tuyn cho các nước Châu Phi theo chương trình phòngchống sốt rét của Liên Hợp Quốc.
Như trên đã trình bày cơ hội sản xuất kinh doanh của công ty dệt Minh Khai khá tiềm tàng, đó là khả năng thực tế đối với quá trình sản xuất kinh doanh cuả công ty.
2.3. Một số kết quả sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của công ty trong những năm vừa qua:
Qua hơn 40 năm xây dựng và trưởng thành, mặc dù có thời kỳ công ty gặp nhiều khó khăn nhưng với sự giúp đỡ của Nhà Nước và đội ngũ cán bộ dày dặn kinh nghiệm, có trình độ năng lực kinh doanh đã góp phần thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Doanh thu của công ty không ngừng tăng qua các năm.
Mặc dù năm 2002, thị trường diễn biến phức tạp, xuất khẩu hàng dệt may gặp nhiều khó khăn và phải cạnh tranh với nhiều cường quốc dệt may, đặc biệt là Trung Quốc. Song vượt lên khó khăn Công ty vẫn duy trì công việc ổn định cho hơn 1000 công nhân viên trong Công ty.
Bảng 5.
Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty dệt Minh Khai 4 năm gần đây.
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
Đơn
vị
1. Giá trị SXCN
55.124
57.245
64.585
65.748
Trđ
2. Doanh thu
64.550
67.199
77.621
81.930
Trđ
3. Doanh thu XK
56.500
53.411
68.920
65.622
Trđ
4. Sl khăn qui chuẩn
28.574
26.258
26.100
27.680
1000 cái
5. Trong đó XK
24.850
21.931
24.210
24.500
1000 cái
6. Vải tuyn khổ 1,8 m
775
1.677
2.350
2.175
1000 m
7. Lợi nhuận gộp
5.685
5.855
6.964
7.678
Trđ
8. Nộp ngân sách
1.967
1.586
1.298
1.376
Trđ
9. Thu nhập BQ
800
850
900
950
1000 Đ
10. Lao động BQ
1.000
1.000
1.000
1.000
Người
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh )
Qua bảng số liệu trên, ta thấy giá trị sản lượng của công ty dệt Minh Khai không ngừng tăng qua các năm. Năm 1999 tổng giá trị sản lượng đạt được là 55.124 TrĐ nhưng năm 2000 đã là 57.245 TrĐ tăng so với năm 1999 là 3,84%. Năm 2001 là 64.585 TrĐ tăng so với năm 2000 là 12,8 %. Năm 2002 là 65.748 TrĐ tăng so với năm 2001 là 1,8 %. Điều này chứng tỏ công ty có hướng đi đúng.
Về doanh thu thu lại từ tiêu thụ sản phẩm của công ty luôn ổn định, ngày một tăng. Nếu năm 1999 doanh thu của công ty là 64.550 TrĐ thì năm 2000 là 67.199 TrĐ tăng 4,1%. Năm 2001 doanh thu là 77.621 TrĐ tăng so với năm 2000 là 15,5 %. Năm 2002 doanh thu là 81.930 TrĐ tăng so với năm 2001 là 5,55 %. Điều này cho thấy tốc độ tiêu thụ sản phẩm của công ty là khá đều đặn. Công ty luôn giữ vững thị trường và có thể lại đang mở rộng ra một số thị trường mới.
Quan trọng hơn cả là thu nhập bình quân lao động trong một tháng cũng tăng rõ rệt. Chỉ tiêu này cho thấy công việc của công ty liên tục sản xuất ổn định. Đây là một lợi thế rất lớn đối với một doanh nghiệp Nhà Nước hiện nay vì đã giải quyết phần nào công tác việc làm cho người lao động. Đó chính là điểm mạnh để tăng uy tín cho công ty cũng như tranh thủ sự đồng tình của các cơ quan cấp trên.
Nhìn vào bảng trên ta thấy tình hình nộp ngân sách nhà nước của công ty qua các năm có giảm. Nguyên nhân nộp ngân sách thấp là do năm 2001 và 2002 công ty đã nộp hết không còn nợ, bên cạnh đó hoạt động chủ yếu của công ty là xuất khẩu mà xuất khẩu được miễn thuế.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty trong những năm qua cho thấy khả năng tiêu thụ sản phẩm của công ty là tương đối tốt. Tuy nhiên con số này chỉ để báo cáo lên nội bộ công ty cũng như để báo cáo lên cơ quan chủ quản. Do vậy để thấy khả năng tiêu thụ sản phẩm đích thực của công ty cần phải dùng đến các chỉ tiêu đánh giá khả năng tiêu thụ sản phẩm cụ thể và so sánh với những đối thủ cạnh tranh hay khả năng nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của công ty trong ngành.
* Tỷ lệ lợi nhuận : Chỉ tiêu này xác định rõ cho doanh nghiệp biết mình đang đứng trong thị trường có cạnh tranh mạnh mẽ hay không. Do vậy nó cũng quan trọng khi đưa ra để đánh giá khả năng tiêu thụ sản phẩm của công ty dệt Minh Khai. Bởi như vậy mới đánh giá chính xác khả năng hoạt động thị trường của công ty.
Lợi nhuận của DN
Tỷ lệ lợi nhuận dệt Minh Khai = ´ 100
Doanh thu của DN
Bảng 6. Tỷ lệ lợi nhuận của công ty dệt Minh Khai
Năm
1999
2000
2001
2002
Tỷ lệ lợi nhuận
8,8%
8,7%
8,97%
9,37%
( Nguồn: Trích báo cáo kết quả kinh doanh )
Với tỷ lệ lợi nhuận 9,37% công ty dệt Minh Khai sẽ gặp nhiều đối thủ mạnh trên vũ đài cạnh tranh, không những mạnh mà còn rất nhiều đối thủ tham gia kinh doanh mặt hàng này. Vì hiện nay, sản phẩm của công ty phục vụ chủ yếu cho hoạt động xuất khẩu. Do đó đối thủ cạnh tranh không chỉ là các doanh nghiệp trong nước mà còn có các doanh nghiệp nước ngoài. Đơn cử như Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh mạnh của công ty vì từ xưa tới nay Trung Quốc rất nổi tiếng trên thế giới trong lĩnh vực dệt may. Bên cạnh đó sản phẩm dệt may của Trung Quốc rất đa dạng phong phú về chất luợng, hình thức, giá cả. Đây là một trong những khó khăn lớn của công ty trong việc tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm nội địa cũng như xuất khẩu. Do vậy đòi hỏi Minh Khai phải biết chấp nhận và tìm mọi cách đưa thắng lợi về mình.
Nói chung, tình hình công ty dệt Minh Khai cho thấy đây là một doanh nghiệp có nhiều tiềm năng lớn trong ngành dệt hiện nay. Tuy các chỉ tiêu chỉ phản ánh tương đối khả năng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của công ty nhưng qua đây cũng phải nhận thấy rằng công tác thị trường của công ty vẫn còn những hạn chế so với đối thủ cạnh tranh cũng như còn yếu kém so với tiềm lực thực sự công ty đang có. Chính vì vậy sau đây em xin đưa ra những đánh giá và một số biện pháp nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường của công ty dệt Minh Khai.
Phần III
Đánh giá khả năng tiêu thụ, phương hướng và một số giải pháp nhằm thúc đẩy tiêu thụ
sản phẩm của dệt minh khai._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9389.doc