Thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu mây tre ở Công ty Hà Tây

Chương I Vai trò và nội dung của hoạt động xuất khẩu. I. Khái niệm và vai trò của hoạt động xuất khẩu. 1. Khái niệm Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu hàng hoá là hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá giữa các nước. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi thì các quốc

doc93 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1652 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu mây tre ở Công ty Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gia đều quan tâm và mở rộng hoạt động này. Thực tế cho thấy, nếu mỗi quốc gia chỉ đóng cửa nền kinh tế của mình, áp dụng phương thức tự cung tự cấp thì không bao giờ có cơ hội để vươn lên, củng cố thế lực của mình trên trường quốc tế và nâng cao đời sống nhân dân. Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương đã xuất hiện rất lâu đời và ngày càng phát triển. Tuy hình thức cơ bản là trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các nước nhưng hiện nay nó đã được biêủ hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến xuất khẩu hàng hoá phục vụ sản xuất, từ máy móc thiết bị cho đến các công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu là đem lại lợi ích cho các quốc gia. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng cả về điều kiện không gian lẫn điều kiện thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong một hai ngày hoặc kéo dài hàng năm, có thể được tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau. 2.Tính tất yếu của việc mở rộng hoạt động xuất khẩu Hoạt động xuất khẩu là một tất yếu của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế. Do những điều kiện khác nhau, mỗi quốc gia có thế mạnh về lĩnh vực này nhưng lại yếu về lĩnh vực khác. Để có thể dung hoà được nguy cơ và lợi thế, tạo ra được sự cân bằng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi với nhau, bán những gì mình thừa và những gì mình thiếu. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu không nhất thiết chỉ diễn ra giữa những quốc gia có lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vực khác mà các quốc gia thua thiệt hơn về tất cả các điều kiện như: nhân lực, tài chính, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ… thông qua hoạt động trao đổi thương mại quốc tế cũng sẽ thu được những lợi ích, tạo điều kiện phát triển nền kinh tế nội địa. Tính tất yếu của hoạt động xuất khẩu đã được chứng minh rất rõ qua lý thuyết về lợi thế so sánh của nhà kinh tế học David Ricardo. Theo quy luật lợi thế so sánh, nếu một nước có hiệu quả thấp hơn so với các nước khác trong việc sản xuất hầu hết các loại sản phẩm vẫn cần phải tham gia hoạt động thương mại quốc tế vì có thể tạo ra lợi ích không nhỏ mà nếu bỏ qua quốc gia có thể mất cơ hội phát triển. Nói cách khác, trong những điểm bất lợi nhất vẫn có thể tìm ra điểm có lợi để khai thác. Khi tiến hành xuất khẩu, một quốc gia có hiệu quả thấp trong việc sản xuất ra tất cả các loại hàng hoá sẽ có thể chuyên môn hoá vào sản xuất loại hàng hoá ít bất lợi nhất để trao đổi với các quốc gia khác và nhập về những loại hàng hoá mà việc sản xuất nó là bất lợi nhất để tiết kiệm được các nguồn lực của mình và thúc đẩy sự phát triển của sản xuất trong nước… Mô hình của nhà kinh tế David Ricardo với các giả thiết được đơn giản hoá như sau: + Thế giới chỉ có hai nước chẳng hạn là Việt Nam và Mỹ. Hai quốc gia này chỉ sản xuất hai chủng loại hàng hoá là vải và máy vi tính. Mỗi quốc gia chỉ có lợi thế về sản xuất một mặt hàng. Mỹ có lợi thế về sản xuất máy vi tính và Việt Nam có lợi thế sản xuất vải. + Yếu tố sản xuất duy nhất là lao động có thể tự do di chuyển trong một nước. + Công nghệ sản xuất của Mỹ và Việt Nam là cố định. + Chi phí sản xuất, không phát sinh các chi phí khác. Bảng 1: Lợi thế so sánh giữa hai quốc gia Việt Nam và Mỹ. Quốc gia Mặt hàng Việt Nam Mỹ Vải( m/giờ công ) 2 4 Máy tính( chiếc/giờ công ) 1 6 Số liệu bảng 1 cho thấy: Mỹ có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam trong sản xuất cả hai mặt hàng là vải và máy tính. Tuy nhiên nếu phân tích cụ thể thì khi năng suất lao động ở ngành chế tạo máy tính của Mỹ gấp 6 lần Việt Nam, năng suất của ngành dệt chỉ gấp có hao lần. Như vậy giữa chế tạo máy tính và sản xuất vải thì Việt Nam có lợi thế tương đối trong sản xuất vải. Theo quy luật lợi thế so sánh thì hai quốc gia sẽ cùng có lợi nếu đi sâu vào chuyên môn hoá sản xuất một loại sản phẩm( Mỹ chế tạo máy tính, Việt Nam sản xuất vải )và sau đó hai quốc gia tiến hành trao đổi ngoại thương, đổi một phần vải lấy một phần máy tính. Nếu tiến hành trao đổi 6 chiếc máy tính lấy 4 mét vải thì Mỹ sẽ chẳng có lợi gì vì ngay trong thị trường nội địa của Mỹ cũng trao đổi theo tỷ lệ này. Tương tự như vậy, nếu trao đổi theo tỷ lệ 2 mét vải lấy một chiếc máy tính thì Việt Nam cũng sẽ từ chối vì lợi ích ngoại thương không hơn gì trao đổi trong nước. Do đó, tỷ lệ trao đổi quốc tế phải nằm trong khoảng mà có thể đem lại lợi ích cho cả hai nước, tức là: 4/6 < Tỷ lệ trao đổi quốc tế Vải/Máy tính < 2/1 Giả sử tỷ lệ trao đổi quốc tế là 1/1 tức là 6 máy tính đổi lấy 6 mét vải. qua trao đổi này, ta thấy Mỹ có lợi 2 mét vải, tức là tiết kiệm được 1/2 giờ công. Còn Việt Nam nhận được 6 chiếc máy tính từ Mỹ mà bình thường Việt Nam phải bỏ ra 6 giờ công để sản xuất. Nếu dùng 6 giờ công này để dệt thì có thể tạo ra 12 mét vải, như vậy Việt Nam có lợi 6 mét vải hay tiết kiệm được 3 giờ công. Qua phân tích ví dụ trên cho thấy hoạt động trao đổi thương mại quốc tế đã mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia, thông qua việc xuất khẩu những hàng hoá có lợi thế tương đối và nhập khẩu những hàng hoá không có lợi thế tương đối. Sự chuyên môn hoá trong sản xuất và trao đổi những hàng hoá sẽ sử dụng tốt nhất những lợi thế của quốc gia mình, giúp tiết kiệm được những nguồn lực vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên…trong quá trình sản xuất hàng hoá phục vụ cho xuất khẩu. Bên cạnh đó cũng làm tăng số lượng và chất lượng sản phẩm của thế giới tạo điều kiện cho khả năng tiêu dùng của con người. 3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu. 3.1 Đối với một nền kinh tế Là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, xuất khẩu đã trở thành phương tiện để thúc đẩy phát triển kinh tế. Sự tăng trưởng kinh tế đòi hỏi các điều kiện: nhân lực, tài nguyên, vốn và công nghệ. Song hầu hết các nước đang phát triển và chậm phát triển đều nằm trong tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghệ và thừa lao động. Những yếu tố cơ bản này trong nước chưa có khả năng đáp ứng thì buộc phải nhập khẩu từ bên ngoài song muốn nhập khẩu được thì phải có ngoại tệ. Thực tiễn đã xác định xuất khẩu là một mũi nhọn có ý nghĩa quyết định đối với quá trình phát triển kinh tế của một đất nước. Công tác xuất khẩu được đánh giá quan trọng như vậy là do: +Một là, xuất khẩu đã tạo nguồn vốn chính cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Công nghiệp hoá với những bước đi phù hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Tuy nhiên, công nghiệp hoá đòi hỏi phải có số lưọng lớn vốn để nhập khẩu những máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn nhập khẩu có thể tập trung từ các hình thức như: Đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ xuất khẩu…Các nguồn này tuy quan trọng nhưng sẽ phải trả dù bằng cách này hay cách khác. Như vậy, nguồn vốn quan trọng cho nhập khẩu phần lớn trông chờ vào xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu. ở những nước kém phát triển với một nguyên nhân chủ yếu là thiếu tiềm lực về vốn trong quá trình phát triển, nguồn vốn huy động từ nước ngoài được coi là cơ sở chính nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng trả nợ của đất nưóc, trong đó họ rất chú trọng tới hoạt động xuất khẩu. + Hai là, xuất khẩu đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Dịch chuyển cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới là tất yếu đối với tất cả các nước kém phát triển. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: - Xuất khẩu chỉ tiêu thụ những sản phẩm thừa so với nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự “ thừa ra ” của sản xuất thì xuất khẩu chỉ ở quy mô nhỏ và tăng trưởng chậm. - Coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm này còn tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, thể hiện ở chỗ: Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển. Ví dụ: Khi phát triển ngành dệt phục vụ xuất khẩu thì các ngành chế biến nguyên liệu như: bông, may mặc… cũng có cơ hội phát triển theo. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, góp phần ổn định sản xuất. Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo ra vốn và thu hút khoa học công nghệ mới từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nội địa, tạo ra năng lực sản xuất mới. Hoạt động xuất khẩu đóng vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. Khoa học ngày càng phát triển thì phân công lao động ngày càng sâu sắc. Ngày nay, với một loại hàng hoá người ta có thể thiết kế ở nước thứ nhất, chế tạo ở nước thứ hai, lắp đặt ở nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứ tư và thanh toán cũng có thể ở nước khác. Như vậy, hàng hoá sản xuất ra ở một nước nhưng có thể tiêu thụ ở nhiều nước khác nhau cho thấy tác động ngược trở lại của hoạt động xuất khẩu đối với chuyên môn hoá sản xuất, tạo điều kiện cho các quốc gia tiến hành chuyên môn hoá một cách sâu sắc. Với các đặc điểm của đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai bên, xuất khẩu góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia. Đặc biệt đối với những nước nghèo, đồng tiền có giá trị thấp, thì đó là nhân tố tác động rất tích cực tới cung cầu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nền sản xuất trong nước phát triển. Thực tế đã chứng minh, những nước phát triển là những nước có nền ngoại thương mạnh và năng động. Hoạt động xuất khẩu với nhiều hình thức ngày càng đa dạng thể hiện sự phát triển của phân công lao động quốc tế. Vì vậy, nó đã chiếm lĩnh vị trí trung tâm trong các hoạt động kinh tế đối ngoại và thực hiện những chức năng cơ bản sau đây: - Lưu thông hàng hoá giữa thị trường trong nước với thị trường nước ngoài. - Tạo các nguồn lực từ bên ngoài, chủ yếu là vốn và công nghệ để phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Xuất khẩu hàng hoá mang lại nguồn ngoại tệ cho đất nước, là nguồn vốn quan trọng cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Trong khi đó, nhập khẩu tạo điều kiện cho việc tiếp nhận những dây chuyền công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, làm tăng hiệu quả sản xuất trong nước. - Xuất khẩu có thể làm thay đổi cơ cấu vật chất của tổng sản phẩm xã hội và tổng thu nhập quốc dân nhằm thích ứng với nhu cầu tiêu dùng và tích luỹ. - Xuất khẩu còn làm tăng hiệu quả của nền kinh tế bằng việc tạo ra một mội trường kinh doanh thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh, tăng khả năng khai thác lợi thế của một quốc gia. + Ba là, xuất khẩu tác động tích cực tới giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Tác động của xuất khẩu ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Sản xuất hàng hoá xuất khẩu sẽ thu hút hàng triệu lao động vào làm việc, tạo ra thu nhập ổn định, đồng thời tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của nhân dân. + Bốn là, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta trên cơ sở vì lợi ích của các bên, đồng thời gắn liền sản xuất trong nước với quá trình phân công lao động quốc tế. Xuất khẩu là một trong những nội dung chính trong chính sách kinh tế đối ngoại của nước ta với các nước trên thế giới vì mục tiêu dân giàu nước mạnh. Như vậy, có thể nói đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tạo ra động lực cần thiết giải quyết những vấn đề thiết yếu của nền kinh tế. Điều này nói lên tính khách quan của việc tăng cường xuất khẩu trong quả trình phát triển kinh tế. 3.2 Đối với một doanh nghiệp Thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia và tiếp cận vào thị trường thế giới. Nếu thành công đây sẽ là cơ sở để các doanh nghiệp mở rộng thị trường và khả năng sản xuất của mình. Xuất khẩu kết hợp với nhập khẩu trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần sẽ góp phần đẩy mạnh liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước một cách tự giác, mở rộng quan hệ kinh doanh, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hiện có, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Sản xuất hàng hoá xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động vào làm việc tạo ra thu nhập ổn định, tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng hoá, đáp ứng nhu cầu thị trường. Khi tham gia vào kinh doanh quốc tế tất yếu sẽ đặt các doanh nghiệp vào một môi trường cạnh tranh khốc liệt mà ở đó nếu muốn tồn tại và phát triển được thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm. Đây sẽ là một nhân tố thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. II. nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu mặt hàng mây tre đan Nội dung của hoạt động xuất khẩu Chúng ta đều biết rằng, xuất khẩu là việc bán sản phẩm hàng hoá sản xuất trong nước ra thị trường nước ngoài. So với hoạt động buôn bán trong nước thì nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố phức tạp hơn do phải thực hiện trong môi trường kinh doanh quốc tế. Vì vậy, nó được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu: từ nghiên cứu thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất khẩu, giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá đến cảng và chuyển giao quyền sở hữu cho người mua, hoàn thành thủ tục thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ đều phải nghiên cứu kỹ lưỡng và đặt trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt được các lợi thế nhằm đảm bảo xuất khẩu đạt hiệu quả cao nhất. 1.1 Nghiên cứu thị trường quốc tế Có thể nói, đây là hoạt động đầu tiên cần tiến hành hết sức cẩn thận, chu đáo. Nghiên cứu thị trường tốt tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu cung cấp và giá cả hàng hoá đó trên thị trường, giúp cho họ giải quyết được những vấn đề thực tiễn kinh doanh, theo yêu cầu thị trường, khả năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Công việc này bao gồm: a) Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới: Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng hoá, ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hoá thì ở đó có thị trường. Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới phải bao gồm việc nghiên cứu toàn bộ quá trình sản xuất của một ngành sản xuất cụ thể, tức là việc ngiên cứu không chỉ giới hạn ở lĩnh vực lưu thông mà cả ở lĩnh vực sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hoá. Những biến đổi trong quá trình tái sản xuất của một ngành sản xuất hàng hoá cụ thể được biểu hiện tập trung trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá đó. Nghiên cứu thị trường hàng hoá nhằm đem lại sự hiểu biết về quy luật vận động của chúng. Mỗi thị trường hàng hoá cụ thể có quy luật vận động riêng, quy luật đó được thể hiện qua những biến đổi nhu cầu, cung cấp và giá cả hàng hoá trên thị trường, nắm chắc các quy luật của thị trường hàng hoá để vận dụng giải quyết hàng loạt các vấn đề của thực tiễn kinh doanh liên quan ít nhiều đến vấn đề thị trường như thái độ tiếp thu của người tiêu dùng, yêu cầu của thị trường đối với hàng hoá các ngành tiêu thụ mới, các hình thức và biện pháp thâm nhập thị trường. Trong nghiên cứu thị trường thế giới, đặc biệt khi muốn kinh doanh xuất khẩu thành công, điều không thể thiếu được là phải nhận biết sản phẩm xuất khẩu có phù hợp với thị trường và năng lực của doanh nghiệp hay không. Muốn vậy, ta phải xác định các vấn đề sau: Thị trường cần mặt hàng gì? Tình hình tiêu dùng mặt hàng đó như thế nào? Mặt hàng ở thời kỳ nào của chu kỳ sống? Tình hình sản xuất mặt hàng đó như thế nào? Tỷ suất ngoại tệ của mặt hàng đó?… b) Dung lượng thị trường và các yếu tố ảnh hưởng: Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định. Nhưng nó không xác định mà thay đổi tình hình theo những nhân tố tổng hợp theo những giai đoạn nhất định. Có thể chia làm ba nhóm nhân tố ảnh hưởng đối với dung lượng thị trường. +Nhóm 1: Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến đổi có tính chất chu kỳ như sự vận động của tình hình kinh tế của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phương Tây, tính chất thời vụ trong quá trình sản xuất, phân phối và lưu thông hàng hoá. +Nhóm 2: Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến đổi của dung lượng thị trường như tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, các biện pháp, các chế độ chính sách của Nhà nước, thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng và ảnh hưởng của hàng hoá thay thế… +Nhóm 3: Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời tới dung lượng thị trường. Nhóm nhân tố này có thể kể ra như: hiện tượng đầu cơ trên thị trường gây ra những biến đổi về cung cầu, bão lụt hạn hán… cũng có thể gây ra những biến đổi về cung cầu đối với những loại hàng hoá nhất định. Như vậy, khi nghiên cứu thị trường các loại hàng hoá khác nhau phải căn cứ vào đặc điểm của chúng để đánh giá đúng ảnh hưởng của các nhân tố, xác định nhân tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định tới xu hướng vận động của thị trường trong giai đoạn hiện tại và tương lai. Đặc biệt, trong kinh doanh quốc tế nói chung và kinh doanh xuất khẩu nói riêng, việc nắm vững dung lượng thị trường giúp cho các nhà kinh doanh cân nhắc để đề ra những quyết định kịp thời chính xác, nhanh chóng chớp lấy thời cơ, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong kinh doanh. Cùng với việc nghiên cứu dung lượng thị trường, người kinh doanh còn phải nắm được nhiều thông tin khác như: tình hình kinh doanh các mặt hàng đó trên thị trường, các đối thủ cạnh tranh của mình. Quan trọng hơn nữa là phải nắm và hiểu được các điều kiện chính trị, luật pháp, văn hoá, tập quán buôn bán ở từng khu vực để có thể hoà nhập với thị trường, nhằm giảm tối đa những sơ xuất trong giao dịch kinh doanh. c) Lựa chọn đối tác buôn bán: Mục đích của hoạt động này là lựa chọn bạn hàng sao cho công tác kinh doanh an toàn và có lợi. Nội dung cần thiết để nghiên cứu lựa chọn đối tác bao gồm: Quan điểm kinh doanh của thương nhân đó. Lĩnh vực kinh doanh của họ. Khả năng vốn và cơ sở vật chất của họ. Uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh của họ. Những người được uỷ quyền và phạm vi chịu trách nhiệm của họ đối với nghĩa vụ của công ty. Lựa chọn đối tác giao dịch để xuất khẩu tốt nhất nên chọn những người nhập khẩu trực tiếp, hạn chế các hoạt động trung gian vì nó chỉ thích hợp khi thâm nhập thị trường mới, mặt hàng mới… cần nắm bắt các thông tin thị trường. Có thể nói, việc lựa chọn đối tác giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện quan trọng để thực hiện thắng lợi các hoạt động mua bán trong thương mại quốc tế. Song việc lựa chọn đối tác giao dịch cũng tuỳ thuộc một phần vào kinh nghiệm của người nghiên cứu và truyền thống trong mua bán của mình. d) Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới: Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời biểu hiện một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân như: quan hệ cung cầu hàng hoá, tích luỹ tiêu dùng…giá cả luôn gắn liền với thị trường và chịu tác động của nhiều nhân tố. Trong kinh doanh quốc tế, giá cả thị trường càng trở nên phức tạp do buôn bán ở các khu vực khác nhau, thời gian dài hơn, hàng vận chuyển qua nhiều nước với các chính sách thuế khác nhau. Để thích ứng với sự biến động của thị trường, các nhà kinh doanh tốt nhất là thực hiện định giá linh hoạt, phù hợp với mục đích cơ bản của doanh nghiệp. Thông thường việc định giá dựa vào: Giá thành sản xuất sản phẩm. Sức mua và nhu cầu của người tiêu dùng. Giá cả các hàng hoá cạnh tranh. Ngoài ra các doanh nghiệp còn phải xem xét đến các quy định của chính phủ nước chủ nhà và nước xuất khẩu để có thể định giá sản phẩm đáp ứng đòi hỏi của các quy định này. Khi định giá cần tuân thủ các bước: - Bước 1: Phân tích chi phí. Bước 2: Phân tích, dự đoán thị trường. Bước 3: Vùng giá và các mức giá dự kiến. Bước 4: Lựa chọn giá tối đa. Bước 5: Xác định cơ cấu giá. Bước 6: Báo giá cho khách hàng. Nghiên cứu giá cả được coi là vấn đề chiến lược vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới sức tiêu thụ và lợi nhuận của doanh nghiệp. Định giá đúng sẽ đem lại thắng lợi cho nhà xuất khẩu, tránh cho họ những rủi ro và thua lỗ. e) Thanh toán trong thương mại quốc tế: Thanh toán quốc tế là một khâu rất quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Hiệu quả kinh tế trong kinh doanh xuất khẩu phần nhiều nhờ vào sự lựa chọn phương thức thanh toán. Thanh toán là bước đảm bảo cho người xuất khẩu thu được tiền và người nhập khẩu nhận được hàng. Thanh toán quốc tế có thể hiểu đó là việc chi trả những khoản tiền tệ, tín dụng có liên quan đến việc xuất nhập khẩu hàng hoá đã được thoả thuận trong hợp đồng kinh tế. Trong xuất khẩu hàng hoá việc thanh toán phải xem xét đến các vấn đề: Tiền tệ trong thanh toán quốc tế: Việc sử dụng tiền tệ nào được hai bên thoả thuận và được ghi rõ trong hợp đồng. Đồng tiền được chọn thường là tiền tệ có khả năng chuyển đổi cao và ổn định. Ngoài ra còn cần phải xác định tỷ giá dùng trong thanh toán và thời điểm xác định tỷ giá để tránh được những rủi ro và tranh chấp có thể xảy ra sau này. Địa điểm thanh toán: Có thể ở nước người nhập khẩu hoặc ở nước người xuất khẩu hoặc ở nước thứ ba. Nhưng trong thực tế việc xác định địa điểm thanh toán là do sự so sánh lực lượng giữa hai bên quyết định, đồng thời cũng còn thấy rằng dùng đồng tiền thanh toán của nước nào thì địa điểm thanh toán thương ở nước ấy. Thời hạn thanh toán: Trong thanh toán quốc tế, điều kiện thời hạn thanh toán trong các nghiệp vụ ngoại thương là phức tạp hơn cả, thường theo các cách sau: thanh toán trước khi giao hàng( CBD ), thanh toán khi giao hàng( COD ), thanh toán ngay sau khi giao bộ chứng từ( CAD ), thanh toán sau khi giao hàng… tuỳ thuộc vào mối quan hệ làm ăn giữa các bên và điều kiện của người bán cũng như người mua mà có thể chọn một trong các cách đó hay cũng có thể vận dụng kết hợp các kiểu thanh toán đó. Phương thức thanh toán: tức là chỉ người bán dùng cách nào để thu tiền về, người mua dùng cách nào để trả tiền. Trong buôn bán, người ta có thể lựa chọn nhiều phương thức thanh toán khác nhau để thu tiền về hoặc trả tiền, nhưng xét cho cùng việc lựa chọn phương thức nào cũng đều xuất phát từ yêu cầu của người bán là thu tiền nhanh, đầy đủ, đúng và yêu cầu của người mua là nhập hàng đúng số lượng, chất lượng, đúng hạn. Các phương thức thanh toán thường dùng trong ngoại thương gồm: + Phương thức chuyển tiền: là phương thức mà trong đó khách hàng( người trả tiền )yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác( người hưởng lợi )ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu. Có thể chuyển tiền bằng điện, bằng thư… + Phương thức ghi sổ: Người bán mở một tài khoản( hoặc một quyển sổ ) để ghi nợ người mua sau khi người bán đã hoàn thành giao hàng hay dịch vụ, đến từng định kỳ( tháng, quý, năm) người mua trả tiền cho người bán. + Phương thức nhờ thu: Người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ cho khách hàng thì uỷ thác cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu của người bán lập ra. Nhờ thu có hai loại là nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ. + Phương thức tín dụng chứng từ: là một sự thoả thuận, trong đó một ngân hàng( ngân hàng mở thư tín dụng )theo yêu cầu của khách hàng( người yêu cầu mở thư tín dụng )sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác( người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng )hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng. + Phương thức thư uỷ thác mua( Authority to purchase, viết tắt là A/P ) + Thư đảm bảo trả tiền( Letter of Guarantee-L/G ) + Thanh toán qua tài khoản treo ở nước ngoài(Escrow Account) 1.2 Lập phương án kinh doanh Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu thị trường, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh cho mình. Phương án này là kế hoạch hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt tới những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Việc xây dựng phương án này bao gồm: + Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân, phác hoạ bức tranh tổng quát về hoạt động kinh doanh và những thuận lợi khó khăn. + Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh. Sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan. + Đề ra mục tiêu cụ thể: khối lượng, giá bán, thị trường xuất khẩu. Đề ra và thực hiện các biện pháp để đạt được mục tiêu đó. Những biện pháp này bao gồm : đầu tư vào cải tiến bao bì, ký kết hợp đồng kinh tế, quảng cáo, tham gia hội chợ quốc tế, mở rộng đại lý… + Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua các chỉ tiêu chủ yếu như: Tỷ suất ngoại tệ, thời gian hoàn vốn, tỷ suất doanh lợi, điểm hoà vốn… 1.3 Nguồn hàng cho xuất khẩu Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một công ty hoặc một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và bảo đảm điều kiện xuất khẩu được. Khi nói đến nguồn hàng cho xuất khẩu phải gắn với một địa danh cụ thể, không thể nói đến một nguồn hàng chung chung, không phải là của ai, có đảm bảo chất lượng quốc tế hay không. Do vậy, không phải toàn bộ khối lượng hàng hoá của một đơn vị, một công ty, một địa phương, một vùng đều là nguồn hàng cho xuất khẩu mà chỉ một phần hàng hoá đạt tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu mới là nguồn hàng cho xuất khẩu. Một nguồn hàng xuất khẩu mạnh là rất quan trọng đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu vì nó góp phần đáp ứng kịp thời, chính xác nhu cầu thị trường, thực hiện đúng hợp đồng với chất lượng tốt. Vì vậy, công việc tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một công việc rất quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, các doanh nghiệp có thể đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp cho sản xuất, có thể là thu gom hoặc có thể ký kết hợp đồng mua với các chân hàng, các đơn vị sản xuất. Tuỳ theo đặc điểm của ngành hàng mà người ta có thể tự sản xuất hoặc ký hợp đồng mua kết hợp với việc hướng dẫn kỹ thuật. Công tác thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu bao gồm các công đoạn: - Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu: là nghiên cứu khả năng cung cấp hàng xuất khẩu trên thị trường như thế nào? Khả năng cung cấp hàng được xác định bởi nguồn hàng thực tế và nguồn hàng tiềm năng. Nguồn hàng thực tế là nguồn hàng đã có và đang sẵn sàng đưa vào lưu thông. Với nguồn hàng này chỉ cần thu mua, phân loại, bao gói là có thể xuất khẩu được. Nguông hàng tiềm năng là nguồn hàng chưa xuất hiện, nó có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện trên thị trường. Đối với nguồn hàng này các doanh nghiệp ngoại thương phải có đầu tư, có đơn hàng, có hợp đồng kinh tế…thì người sản xuất mới tiến hành sản xuất. Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu là nhằm xác định chủng loại mặt hàng, kích cỡ, mẫu mã, công dụng, chất lượng, giá cả, thời vụ, những đặc điểm riêng của từng loại mặt hàng. Mặt khác, nghiên cứu nguồn hàng phải xác định được giá cả trong nước của hàng hoá so với gia cả quốc tế. Sau khi đã tính đủ chi phí vào giá thu mua như chi phí thu mua hàng, vận chuyển, bao gói, phân loại thì lợi nhuậnthu về là bao nhiêu. Cuối cùng, việc nghiên cứu nguồn hàng phải nắm được chính sách quản lý của Nhà nước về mặt hàng đó. Mặt hàng đó có được phép xuất khẩu hoặc có chính sách khuyến khích xuất khẩu hay không. Trong thực tế các chính sách này có thể thay đổi do vậy, công tác dự báo có ý nghĩa hết sức quan trọng. Tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu Hệ thống thu mua bao gồm mạng lưới các đại lý, hệ thống kho hàng ở các địa phương, các khu vực có mặt hàng thu mua. Hệ thống thu mua phải gắn với các phương án vận chuyển hàng hoá, với điều kiện giao thông của các địa phương. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa thu mua và vận chuyển là cơ sở đảm bảo tiến độ thu mua và chất lượng hàng hoá. - Ký kết hợp đồng: Thông thường, các doanh nghiệp ngoại thương bằng các hoạt động marketing của mình tìm được đối tác nước ngoài có nhu cầu về một mặt hàng nào đó mà trong nước có khả năng sản xuất được rồi ký kết hợp đồng xuất khẩu với họ sau đó mới giao dịch ký hợp đồng với các nhà sản xuất, các chân hàng để thực hiện hợp đồng ngoại thương. Hai hợp đồng này có nhiều điều khoản giống nhau, hợp đồng ngoại thương là cơ sở cho hợp đồng thu mua tạo nguồn. Tuy nhiên trong buôn bán quốc tế không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng tìm được khách hàng trước rồi mới tiến hành thu mua tạo nguồn nên các doanh nghiệp có thể chủ động thu mua theo kế hoạch, đồng thời tiến hành tìm kiếm bạn hàng để tiêu thụ hàng hoá. - Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu: Sau khi ký kết hợp đồng với các chân hàng và các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp ngoại thượng phải lập kế hoạch thu mua, tiến hành sắp xếp các phần việc phải làm và chỉ đạo các bộ phận thực hiện kế hoạch. - Tiếp nhận, bảo quản và giao hàng cho xuất khẩu: Phần lớn các hàng hoá trước khi xuất khẩu đều phải trải qua một số kho để phân loại, đóng gói hoặc đợi làm các thủ tục xuất khẩu. Bảo quản hàng hoá nhằm giữ gìn hàng hoá đủ về số lượng, chất lượng và giảm thiểu các hao hụt mất mát cho hàng xuất khẩu. Giao hàng là khâu cuối cùng, khi giao hàng cần quan tâm tới quy cách thủ tục giao hàng và phải có đầy đủ giấy tờ, hoá đơn hợp lệ. 1.4 Đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng: Các hình thức đàm phán Đàm phán là việc bàn bạc trao đổi với nhau về các điều kiện mua bán giữa các nhà doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến ký kết hợp đồng. Thường có các hình thức sau: Đàm phán qua thư tín: ngày nay việc sử dụng hình thức này vẫn là phổ biến để giao dịch giữa các nhà điều kiện xuất khẩu. Những cuộc tiếp xúc ban đầu thường qua thư tín. Ngay cả sau này khi hai bên đã có điều kiện gặp gỡ trực tiếp thì việc duy trì quan hệ cũng phải qua thư tín. Sử dụng thư tín để giao dịch đàm phán phải luôn nhớ rằng thư là sứ giả của mình đến với khách hàng bởi vậy, viết thư, gửi thư cần thể hiện tính lịch sự, chính xác, khẩn trương. Đàm phán qua điện thoại: bằng hình thức này sẽ giảm bớt thời gian, giúp cho các nhà kinh doanh t._.iến hành đàm phán khẩn trương, kịp thời cơ. Nhưng trao đổi qua điện thoại không có gì làm bằng chứng cho những thoả thuận, quyết định nên sau khi trao đổi bằng điện thoại cần có thủ tục xác nhận nội dung đã đàm phán. Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp: Đây là hình thức cẩn thận, có tác dụng đẩy nhanh tốc độ giải quyết các vấn đề mà các bên cùng quan tâm tuy nhiên phương pháp này rất tốn kém. Các bước tiến hành đàm phán: + Bước 1: Chào hàng( phát giá )là lời đề nghị ký kết hợp đồng từ phía người bán đưa ra. Trong buôn bán thì chào hàng là việc người xuất khẩu thể hiện ró ý định bán hàng của mình. Tuỳ vào loại đơn chào hàng nào mà chúng có tính chất pháp lý khac nhau. + Bước 2: Hoàn giá là một đề nghị mới do bên nhận chào hàng đưa ra sau khi đã nhận được đơn chào hàng của bên kia nhưng không chấp nhận hoàn toàn giá chào hàng. Khi hoàn giá thì coi như chào hàng trước đó bị huỷ bỏ. Trong kinh doanh quốc tế, mỗi lần giao dịch thường phải qua nhiều lần hoàn giá mới đi đến kết thúc. + Bước 3: Chấp nhận là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện chào hàng mà phía bên kia đưa ra, khi đó tiến hành ký kết hợp đồng. + Bước 4: Xác nhận: sau khi hai bên đã thoả thuận với nhau về điều kiện giao dịch thì ghi lại tất cả những điều đã thoả thuận gửi cho bên kia. Đó là văn bản có chữ ký của cả hai bên. b) Hợp đồng kinh tế về xuất khẩu hàng hoá: Sau khi các bên mua và bán tiến hành giao dịch, đàm phán có kết quả thì đi đến lập và ký kết hợp đồng. Hợp đồng có quy định rõ ràng và đầy đủ quyền hạn và nghĩa vụ của các bên tham gia. Hợp đồng thể hiện bằng văn bản là hình thức bắt buộc đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu của nước ta. Đây là hình thức tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của cả hai bên và tránh được những biểu hiện không đồng nhất trong ngôn từ hay quan niệm vì các đối tác tham gia thuộc các quốc tịch khác nhau. Các điểm cần lưu ý khi ký kết hợp đồng: Hợp đồng cần trình bày rõ ràng, sáng sủa, nội dung phải phản ánh đúng, đầy đủ các vấn đề đã thoả thuận. Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng là thứ ngôn ngữ phổ biến mà hai bên cùng thông thạo. Chủ thể ký kết hợp đồng phải là người có đủ thẩm quyền ký kết. Hợp đồng nên đề cập đầy đủ các vấn đề về khiếu nại, trọng tài để giải quyết tranh chấp nếu có tránh tình trạng tranh chấp kiện tụng kéo dài. c) Thực hiện hợp đồng: Sau khi hợp đồng đã được ký kết thì đơn vị sản xuất kinh doanh xuất khẩu phải thực hiện theo các quy định đã ký kết trong hợp đồng, tiến hành sắp xếp những phần việc phải làm, ghi thành bảng theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng, ghi lại những diễn biến kịp thời, những văn bản phát đi và nhận được để xử lý và giải quyết cụ thể. Đồng thời phải đảm bảo được quyền lợi quốc gia và lợi ích kinh doanh của doanh nghiệp. Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu như sau: Chuẩn bị hàng hoá Xin giấy phép XK Kiểm tra L/C Ký kết HĐXK Kiểm nghiệm hàng hoá Uỷ thác thuê tàu Làm thủ tục hải quan Giao hàng lên tàu Mua bảo hiểm Giải quyết khiếu nại Làm thủ tục thanh toán 2. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác xuất khẩu: Mỗi doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường dều có một môi trường kinh doanh nhất định. Môi trường kinh doanh có thể tạo ra những thuận lợi cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển, đồng thời nó cũng ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh xuất khẩu tham gia kinh doanh thương mại quốc tế cho nên môi trường kinh doanh phức tạp hơn nhiều so với môi trường trong nước. Do đó, có thể nói ngoài yếu tố chủ quan là trình độ của người tham gia kinh doanh xuất khẩu thì các yếu tố khác ảnh hưởng tới công tác xuất khẩu chủ yếu là các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh. Dưới đây là một số nhân tố tác động chủ yếu: 2.1 Các công cụ và chính sách kinh tế vĩ mô: Mặc dù thương mại quốc tế nói chung đem lại những lợi ích to lớn, nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên hầu hết các quốc gia đều có những chính sách thương mại riêng để thể hiện ý trí và mục tiêu của nhà nước đó trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế có liên quan đến nền kinh tế quốc gia. Để nền kinh tế quốc dân vận hành có hiệu quả thì một chính sách thương mại thích hợp là sự cần thiết. Trong lĩnh vực xuất khẩu những công cụ, chính sách chủ yếu thường được nhà nước sử dụng để điều tiết, quản lý các hoạt động này là: 2.1.1Thuế quan Trong hoạt động xuất khẩu thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị hàng xuất khẩu so với mức giá quốc tế nên đem lại bất lợi cho các nhà sản xuất kinh doanh xuất khẩu vì nó sẽ làm tăng giá thành xuất khẩu, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Do đó với mục tiêu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hầu hết các mặt hàng thuộc diện khuyến khích xuất khẩu đều có thuế xuất rất thấp hoặc bằng không. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ là mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu nên có thuế suất xuất khẩu bằng không. 2.1.2 Các công cụ phi thuế quan Hạn ngạch( quota ) được hiểu là quy định của Nhà nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng hoặc một nhóm mặt hàng được phép xuất khẩu sang một thị trường nhất định trong một thời gian nhất định thông qua hình thức cấp giấy phép. Mục đích của việc sử dụng công cụ hạn ngạch xuất khẩu là nhằm quản lý hoạt động kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả và điều chỉnh các loại hàng hoá xuất khẩu. Hơn thế nữa có thể bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên và cải thiện cán cân thanh toán. Trong khi thuế quan rất linh hoạt, mềm dẻo thì quota lại mang tính cứng nhắc, cố định lượng hàng hoá xuất khẩu. Việc sử dụng hạn ngạch xuất khẩu một mặt không mang lại thu nhập cho Chính phủ như thuế quan, mặt khác hạn ngạch có thể biến một doanh nghiệp trong nước thành một nhà xuất khẩu độc quyền có thể định mức giá cao hay thấp nhằm thu lợi nhuận lớn nhất. Hạn ngạch xuất khẩu được quy định theo mặt hàng, theo nước và theo thời gian nhất định. ở Việt Nam hiện nay hạn ngạch xuất khẩu chỉ quy định đối với mặt hàng gạo. Tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm: Các quốc gia đặt ra những tiêu chuẩn về chất lượng hàng hoá hay về các thông số kỹ thuật quy định cho hàng hoá xuất khẩu hay nhập khẩu. Giấy phép xuất khẩu: Nhà nước cấp giấy phép xuất khẩu cho các doanh nghiệp ránh việc xuất khẩu lung tung… 2.1.3 Trợ cấp xuất khẩu: là những ưu đãi tài chính mà Nhà nước dành cho người xuất khẩu khi họ bán được hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Mục đích của sự trợ cấp xuất khẩu là giúp cho nhà xuất khẩu tăng thu nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và do đó đẩy mạnh được xuất khẩu. Có hai loại trợ cấp xuất khẩu: gián tiếp và trực tiếp. Trợ cấp xuất khẩu trực tiếp như: áp dụng thuế xuất ưu đãi đối với hàng xuất khẩu, miễn hoặc giảm thuế đối với các nhà xuất khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu… Cho các nhà xuất khẩu được hưởng các giá ưu đãi các đầu vào sản xuất như điện, nước, vận tải, thông tin liên lạc, trợ giá xuất khẩu. Trợ cấp xuất khẩu gián tiếp như: dùng ngân sách Nhà nước để giới thiệu, triển lãm, quảng cáo, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch xuất khẩu hoặc Nhà nước giúp đỡ kỹ thuật và đào tạo chuyên gia. Mức độ trợ cấp phụ thuộc vào: chính sách của Nhà nước đối với từng mặt hàng và mức độ cạnh tranh trên thị trường. Trợ cấp xuất khẩu trực tiếp có xu hướng bị thu hẹp do sự đấu tranh giữa các Chính phủ có quan hệ buôn bán với nhau. Ngược lại, trợ cấp gián tiếp có xu hướng tăng lên và thường được che dấu. 2.1.4 Tỷ giá và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm đẩy mạnh xuất khẩu: Đây là nhân tố ảnh hưởng sâu sắc đến quy mô và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Một chính sách tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu là chính sách duy trì tỷ giá tương đối ổn định và ở mức thấp. Kinh nghiệm của các nước đang phát triển thực hiện chiến lược xuất khẩu( sản xuất hướng về xuất khẩu )cũng như ở Việt Nam trong thời gian qua là phải tiến hành phá giá thường kỳ để đạt được mức tỷ giá cân bằng được thị trường chấp nhận và sau đó duy trì tỷ giá tương quan với chi phí và giá cả đang bị lạm phát trong nước. Bên cạnh đó, nếu Chính phủ muốn các nhà sản xuất kinh doanh hướng ra thị trường thế giới thì phải giảm bớt sức hấp dẫn tương đối của việc sản xuất cho thị trường nội địa. Điều này đòi hỏi phải giảm thuế quan có tính chất bảo hộ đối với các ngành công nghiệp được ưu đãi và tránh quy định hạn ngạch số lượng nhập khẩu, các nhà sản xuất kinh doanh thường đầu tư vào lĩnh vực có lợi nhuận sản xuất thay thế nhập khẩu phải giữ ở mức độ phù hợp với lợi nhuận xuất khẩu. Điều này có nghĩa là bảo hộ bằng thuế quan không được cao hơn mức trợ cấp xuất khẩu và cũng phải thấp nhất đối với các mặt hàng. Muốn hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì chính sách đẩy mạnh xuất khẩu phải duy trì giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất trong nước ở mức độ phản ánh sự khan hiếm của chúng. Nguyên tắc cơ bản là xuất khẩu những mặt hàng sử dụng nhiều nhất yếu tố sxcó sẵn của nền kinh tế. Để đảm bảo cho các doanh nghiệp thuộc bất cứ thành phần kinh tế nào của nền kinh tế quyết định đầu tư hay sản xuất phù hợp với nguyên tắc đó thì giá cả tương đối họ trả cho lao động, vốn, đất đai không được quá chênh lệch với giá được hình thành bởi những lực lượng thị trường cạnh tranh trên cơ sở quan hệ cung cầu các nguồn lực đó. 2.1.5 Chính sách đối với cán cân thanh toán quốc tế và cán cân thương mại: Trong hoạt động thương mại quốc tế giữ vững được cán cân thanh toán và cán cân thương mại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng góp phần cungr cố nền độc lập và tăng trưởng kinh tế nhanh. Tuy nhiên để giữ có cán cân thanh toán quốc tế cân bằng không có nghĩa là hạn chế nhập khẩu, cấm nhập khẩu hoặc vay vốn. Cân bằng theo kiểu đó là cân bằng tiêu cực. Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải có chính sách thích hợp để khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia làm hàng xuất khẩu với chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh với thị trường quốc tế. Song song với việc đó là mở rộng quy mô xuất khẩu là đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu teong đó chú trọng đến những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Có như vậy, quốc gia mới có thể giảm dần nhập siêu, tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu. Như vậy, vô hình chung việc giữ cân bằng cán cân thanh toán và cán cân thương mại đã chứa đựng những yếu tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của một quốc gia. 2. Các quan hệ kinh tế quốc tế: Trong hoạt động kinh doanh quốc tế, các mối quan hệ kinh tế quốc tế có tác động và ảnh hưởng cực kỳ mạnh mẽ. Đối với hoạt động xuất khẩu cũng vậy,, khi xuất khẩu hàng hoá sang một nước nào đó tức là đưa hàng hoá thâm nhập vào một thị trường quốc gia khác, người xuất khẩu thường phải đối mặt với những rào cản như thuế thu nhập hay sự phân biệt đối sử với cá nhà kinh doanh nước ngoài, các tiêu chuẩn sản phẩm mang tính chất phân biệt đối sử với hàng nước ngoài… và đặc biệt là hạn ngạch nhập khẩu. Các rào cản này là chặt chẽ hay nới lỏng phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế song phương giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu. Trong khi đó, với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế như hiện nay nhiều liên minh kinh tế ở mức độ khác nhau được hình thành, nhiều hiệp định thương mại song phương, đa phương giữa các nước các khối kinh tế cũng đã được ký kết với mục tiêu là giảm bớt thuế quan giữa các nước tham gia, giảm giá cả và thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và toàn thế giới. Nếu một quốc gia tham gia vào liên minh kinh tế và những hiệp định thương mại ấy thì đó sẽ là tác nhân tích cực đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của một quốc gia. Bằng không chính nó sẽ trở thành rào cản đối với việc tham nhập thị trường nước ngoài của hàng hoá nước đó. Tóm lại, có được những mối quan hệ kinh tế quốc tế mở rộng, bền vững và tốt đẹp sẽ tạo tiền đề thuận lợi cho việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của một quốc gia. Để làm được điều đó các quốc gia cần tăng cường tham gia vào các liên minh kinh tế khu vực cũng như quốc tế và ký kết các hiệp định thương mại song phương cũng như đa phương với các quốc gia khác. 2.3 Các yếu tố khoa học công nghệ Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ trong thời gian qua, nhiều công nghệ tiên tiến đã ra đời tạo ra các cơ hội, nhưng cũng gây nên những nguy cơ đối với tất cả các ngành nghề nói chung và các đơn vị kinh doanh hàng xuất khẩu nói riêng. Đối với các lĩnh vực sản xuất hàng xuất nhập khẩu, việc nghiên cứu và đưa vào ứng dụng các công nghệ mới, các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật sẽ giúp các đơn vị sản xuất tạo ra được nhiều sản phẩm hơn với chất lượng cao hơn, giá thành rẻ hơn, hợp thị hiếu tiêu dùng hơn. Nhờ đó mà sức cạnh tranh của sản phẩm được nâng cao và lợi nhuận thu được cũng cao hơn. Bên cạnh đó, khoa học công nghệ còn tác động tới các lĩnh vực như vận tải hàng hoá, bảo quản hàng hoá, ngân hàng tài chính… làm cho các lĩnh vực này ngày càng được mở rộng và phát triển góp phần thúc đẩy xuất khẩu. Hơn nữa, ngày nay với sự phát triển của công nghệ thông tin, thương mại điện tử đã giúp xoá bỏ sự ngăn cách về lãnh thổ, về thời gian nên các giao dịch thương mại diễn ra rất nhanh chóng, thuận lợi và bớt tốn kém. 2.5 Điều kiện chính trị, xã hôi và quân sự Sự ổn định hay bất ổn định về chính trị, xã hội cũng là những nhân tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.Hệ thống chính trị và các quan điểm về chính trị, xã hội suy cho cùng đều trực tiếp tác động đến phạm vi, lĩnh vực hay mặt hàng, đối tác kinh doanh. Chẳng hạn các cuộc xung đột lớn nhỏ về quân sự trong nội bộ quốc gia và giữa các quốc gia sẽ dẫn đến sự thay đổi lớn về các mặt hàng sản xuất. Cụ thể là xung đột quân sự đã phá vỡ những quan hệ kinh doanh truyền thống, làm thay đổi hệ thống vận tải và chuyển hướng sản xuất tiêu dùng sang phục vụ chiến tranh. Chính việc chuyển snag phục vụ chiến tranh đã làm gián đoạn hoạt động xuất khẩu do các điều kiện sản xuất thay đổi và quan hệ giữa các quốc gia bị xấu đi dần dần tạo nên hàng rào vô hình ngăn cản hoạt động kinh doanh quốc tế. Chương ii: phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu mặt hàng mây tre đan ở unimex hà tây i. khái quát về unimex hà tây 1. Quá trình hình thành và phát triển: Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây là doanh nghiệp Nhà nước do Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây quyết định thành lập có nhiệm vụ: tổ chức sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu trong các lĩnh vực tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Công ty có tư cách pháp nhân do Uỷ ban nhân dân ra quyết định thành lập doanh nghiệp số 471/QĐ-UB ngày 01 tháng 12 năm 1992. - Tên bằng tiếng việt: Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây . Tên giao dịch tiếng Anh: HA TAY IMPORT- EXPORT COMPORATION. Công ty có trụ sở chính tại: 16A Trần Đăng Ninh thị xã Hà Đông tỉnh Hà Tây. Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây tiền thân là Chi sở ngoại thương của hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây được thành lâpj tháng 8 năm 1951 Ngày 07/01/1961: Bộ ngoại thương quyết định thành lập Công ty liên doanh hàng xuất khẩu tỉnh Hà Đông. Đến tháng 06/1965 thì đổi tên thành Công ty kinh doanh hàng xuất khẩu tỉnh Hà Tây. Năm 1976 do sát nhập hai tỉnh Hà Tây và Hoà Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình nên công ty xuất nhập khẩu Hà Tây sát nhập với công ty xuất nhập khẩu Hoà Bình thành liên hiệp Công ty xuất nhập khẩu Hà Sơn Bình. Tháng 09/1991 tách tỉnh Hà Sơn Bình thành hai tỉnh Hoà Bình và Hà Tây. Liên hiệp công ty xuất nhập khẩu Hà Sơn Bình được bàn giao các công ty thu mua hàng xuất khẩu các huyện thuộc tỉnh Sơn Tây cũ do Hà Nội bàn giao và đổi tên thành Công ty xuất nhập khẩu tỉnh Hà Tây trực thuộc sở Thương Mại. Kể từ khi thành lập công ty đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm nhưng dù ở giai đoạn nào công ty vẫn không ngừng phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch của Nhà nước giao trong từng giai đoạn lịch sử. Từ khi thành lập cho đến năm 1985, đây là thời kỳ bao cấp, Chính phủ ta và Chính phủ Liên Xô ký kết Hiệp định thương mại, sau đó ký kết với các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa và các nước không liên kết. Chức năng nhiệm vụ của công ty là thu mua hàng hoá vật tư theo kế hoạch cung ứng cho các Tổng công ty thuộc Bộ thực hiện hiệp định ký kết với các nước. Từ năm 1981 đến 1985 nhiệm vụ chính vẫn là tổ chức thu gom vật tư, hàng hoá cung ứng cho các Tổng công ty Trung ương theo kế hoạch, giá mua, phí và lãi định mức do các Tổng công ty quy định, được nhận trở lại vật tư hàng hoá nhập khẩu do Bộ ngoại thương phân phối theo giá bao cấp, giá trị ngoại tệ năm sau cao hơn năm trước từ 10% đến 30%. Năm 1980 đạt 1,47 triệu rúp, năm 1985 đạt 8,5 triệu rúp bằng 5,8 lần so với năm 1980. Trong 3 năm( 1983-1985 )nhập khẩu 5,85 triệu RUP/USD cung cấp cho nông dân 8,531 tấn đạm urê, nhập 60 tấn rayon và go chải dệt lụa trị giá 252.000USD… Trong thời kỳ này hợp tác xã thủ công phát triển, nhiều ngành nghề mới được mở rộng ở nông thôn thu hút hàng chục vạn lao động thủ công chuyên nghiệp và người lao động nông nghiệp, tận dụng thời gian nông nhàn tham gia sản xuất hàng xuất khẩu như dệt lụa Vạn Phúc và La Khê, thêu ren ở Thường Tín, Phú Xuyên, Thanh Oai…, thảm len ở Sài Sơn, Cát Quế, Dương Liễu… mây tre đan ở Phú Vinh, Trương yên, Quảng Bị, Phú Nghĩa…các mặt hàng sơn mài, khảm điêu khắc ở Chuyên Mỹ, Bình Minh, Vạn Điển… Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công ty luôn phấn đấu hoàn thành xuất sắc kế hoạch, đạt được nhiều thành tích, năm 1987 được vinh dự đón nhận huân chương lao động hạng 3. Từ năm 1986 đến nay, thực hiện chủ trương đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước công ty xuất nhập khẩu Hà Tây cũng chuyển mình và từng bước đi lên. Trong 4 năm đầu 1986-1989, kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty tăng bình quân từ 11%-14%/năm, các mặt hàng thảm len, mỹ nghệ, mây tre đan vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng hàng năm của thời kỳ trước đó. Các mặt hàng nông sản xuất khẩu tăng nhanh. Trong 3 năm 1990-1992 đây là giai đoạn khó khăn nhất về kim ngạch xuất nhập khẩu, giá trị kim ngạch giảm sút, cán bộ cônng nhân viên không đủ việc làm, các hợp tác xã và tổ hợp tan vỡ, đời sống thợ thủ công lâm vào tình cảnh khó khăn, nguyên nhân là do: + Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, thị trường quen thuộc bị mất, thị trường mới chưa có. + Từ cơ chế quản lý kế hoạch tập trung bao cấp chuyển đổi sang cơ chế thị trường, cán bộ đảng viên nhận thức về cơ chế thị trường không đầy đủ, tổ chức quản lý vận hành theo cơ chế thị trường chưa theo kịp với sự biến đổi nhanh chóng của nền kinh tế. Từ năm 1993 đến nay đã mở rộng quan hệ buôn bán với trên 30 nước, kim ngạch xuất nhập khẩu từng bước phát triển, tốc độ tăng bình quân là trên 15%/năm. Thực hiện nghị định 338 của Chính phủ, công ty xuất nhập khẩu Hà Tây là một đơn vị kinh doanh, hạch toán độc lập với số vốn năm 1992 là 3,927 tỷ đồng, trong đó vốn cố định là 2,599 tỷ và vốn lưu động là 1,285 tỷ đồng. 2. Cơ cấu tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty: 2.1 Sơ đồ tổ chức quản lý Bộ máy gồm: Giám đốc. Phó giám đốc. Các phòng ban chức năng: + Phòng kế hoạch thị trường. + Phòng kế toán tài chính. + Phòng tổ chức hành chính. + Các văn phòng đại diện ở các tỉnh và nước ngoài. - Các đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh trong công ty: + Các phòng nghiệp vụ kinh doanh. + Xí nghiệp tơ thảm thêu xuất khẩu. + Các trạm kinh doanh. + Các chi nhánh. Sơ đồ: Giám đốc Phòng TCHC Phòng Kế toán V.phòng đại diện Phó giám đốc Các chi nhánh Các trạm K. doanh Xí nghiệp Tơ thảm thêu Các phòng Nghiệp vụ KD Phòng KH-TT Chú thích: Quan hệ chỉ đạo trực tiếp. Quan hệ chỉ đạo phối hợp. 2.2 Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban trong bộ máy: Giám đốc, Phó giám đốc do Uỷ ban nhân dân tỉnh bổ nhiệm để thay mặt Nhà nước điều hành toàn bộ hoạt động của công ty. Có trách nhiệm quản lý và sử dụng tài sản, tiền vốn đưa vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước tại công ty, thường xuyên chăm lo bồi dưỡng giáo dục đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên chức, chăm lo việc làm, đời sống của cán bộ công nhân viên chức. Thực hiện thiết chế dân chủ trong doanh nghiệp. + Giám đốc là người đại diện cho công ty trước pháp luật. Giám đốc là người chịu trách nhiệm chính về mọi công việc tổ chức và điều hành công ty. Trực tiếp phụ trách phòng Kế hoạch tổng hợp, phòng Kế toán tài chính, phòng Tổ chức hành chính, các phòng nghiệp vụ kinh doanh và xí nghiệp tơ thảm thêu xuất khẩu. + Phó giám đốc là người giúp việc cho Giám đốc, được Giám đốc phân công trực tiếp phụ trách điều hành các chi nhánh, các trạm và tham gia chỉ đạo kinh doanh các mặt hàng có tính thời vụ, giá trị lớn. Các phòng ban của công ty có chức năng nhiệm vụ sau: + Phòng kế hoạch thị trường: - Xây dựng định hướng phát triển kinh doanh dài hạn( 5 năm- 10 năm ) của toàn công ty. - Tổng hợp kế hoạch quý, năm của các đơn vị trực tiếp kinh doanh - Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện kế hoạch và phối hợp với phòng kế toán tài chính giám sát việc sử dụng vốn của các đơn vị thành viên. - Kiểm tra các hợp đồng kinh tế, thẩm định các phương án sản xuất kinh doanh, đề xuất ý kiến với giám đốc, kiểm tra thẩm định thời gian không quá 2 ngày kể từ khi nhận được hợp đồng và phương án các đơn vị gửi đến. - Chịu trách nhiệm liên đới khi xảy ra kinh doanh thua lỗ hoặc thất thoát vốn do yếu tố chủ quan gây ra. + Phòng kế toán tài chính: - Phối hợp với phòng KH-TT xây dựng kế hoạch tài chính toàn công ty và kế hoạch từng đơi vị thành viên. - Các phương án kinh doanh đã được giám đốc duyệt trong thời hạn 3 ngày phải đáp ứng vốn để các đơn vị thực hiện hợp đồng. - Thanh toán tiền hành với bạn hàng trong nước và nước ngoài. - Giám sát việc sử dụng vốn của các đơn vị, đôn đốc thu hồi vốn, lãi tiền vay. - Lựa chọn phương án hạch toán phù hợp và hướng dẫn kế toán các đơn vị trong công tác hạch toán. Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ báo cáo kế toán, thống kê thuế kịp thời chính xác đúng quy định. - Kế toán trưởng từng quý báo cáo ban giám đốc tình hình quản lý sử dụng vốn, các khoản công nợ trong hạn, đến hạn và nợ quá hạn, đề xuất biện pháp sử lý. - Tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh của từng đơn vị và đề xuất giám đốc khen thưởng. - Kế toán trưởng liên đới chịu trách nhiệm khi để các đơn vị trực thuộc sử dụng vốn sai mục đích, làm thất thoát vốn. +Phòng tổ chức hành chính: *Tham mưu giúp Giám đốc về công tác tổ chức cụ thể. - Xây dựng phương án bố trí sắp xếp cán bộ viên chức toàn công ty và từng đơn vị. - Xây dựng quy hoạch cán bộ và kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ. - Làm công tác khác về tổ chức: quản lý hồ sơ cán bộ viên chức, làm các thủ tục về tiếp nhận, nghỉ hưu thôi việc, thuyên chuyển, khen thưởng và kỷ luật cán bộ. *Tham mưu giúp Giám đốc về công tác hành chính quản trị cụ thể: - Xây dựng phương án bảo vệ đảm bảo công tác an ninh trật tự an toàn cơ quan. - Làm tốt công tác văn thư, lưu trữ, quản lý dấu Công ty, dấu chức danh. - Quản lý nhà khách, đảm bảo các yêu cầu vật chất cho công tác điều hành hàng ngày. - Đảm bảo công tác vệ sinh môi trường cơ quan. +Văn phòng đại diện ở các tỉnh: - Giúp Giám đốc làm công tác tiếp thị. Trong một số trường hợp đặc biệt trưởng văn phòng đại diện được giám đốc uỷ nhiệm ký một sốvăn bản của Công ty. Tổ chức xuất nhập khẩu hàng hoá do tự khai thác được thị trường đảm bảo có hiệu quả, chấp hành tốt chính sách và các quy định của nhà nước, của địa phương nơi đặt văn phòng đại diện. + Các đơn vị trực tiếp sản xuất-kinh doanh trong công ty: Các đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh hoạt động trên nguyên tắc khoán với 3 hình thức: * Đối với hàng hoá xuất nhập khẩu có điều kiện( do giám đốc công ty giao)giám đốc công ty khoán các chi phí, 100% lợi tức nộp công ty. * Đối với hàng hoá xuất nhập khẩu do các đơn vị tự khai thác: giám đốc công ty khoán lợi tức phải nộp cho công ty( mức nộp tuỳ theo từng mặt hàng ). * Đối với hàng xuất nhập khẩu uỷ thác qua công ty và hàng hoá kinh doanh nội địa Giám đốc công ty quy định mức lợi tức phải nộp cho công ty ( % )tính trên hoa hồng uỷ thác hoặc tính trên doanh số kinh doanh đối với hàng nội địa. Với sự hoạt động trên nguên tắc khoán, trong phạm vi của mình các dơn vị có thể tự trực tiếp xuất nhập khẩu, xuất nhập khẩu uỷ thác qua các đơn vị khác, xuất khẩu, nhập khẩu mặt hàng của đơn vị khác, hợp đồng gia công, kinh doanh mua bán hàng nội địa, nhận đại lý mua bán hàng dưới sự chỉ đạo và giám sát của ban lãnh đạo công ty. Tuy vậy,, hàng năm cawn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty các đơn vị được giao một phần kế hoạch sản xuất kinh doanh đó. Điều này cho chúng ta thấy rõ hai nhiệm vụ cơ bản của các đơn vị trong công ty là hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh do công ty giao và đáp ứng nhu cầu thị trường. Đây là hướng đi táo bạo và đúng đắn của công ty nhằm từng bước gắn hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty với thị trường trong điều kiện mới của cơ chế thị trường nói chung điều kiện nước ta hiện nay nói riêng và nó phát huy tối đa sự năng động, sự sáng tạo của các đơn vị trong công ty. Các đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh thuộc công ty gồm có: Các phòng nghiệp vụ kinh doanh: Công ty hiện có 6 phòng nghiệp vụ kinh doanh tổng hợp và phòng mây tre đan. Xí nghiệp tơ thảm thêu xuất khẩu chuyên sản xuất các mặt hàng thảm len, thêu may, quần áo dệt kim… xuất khẩu. Các trạm Ba Vì, Chương Mỹ… Các chi nhánh Lạng Sơn, Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Nhiệm vụ và quyền hạn của công ty Tuỳ từng giai đoạn lịch sử cũng như tuỳ theo kế hoạch, nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho cũng như sự thay đổi của các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ mà công ty có nhiệm vụ cũng như quyền hạn khác nhau tương ứng. Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ và quyền hạn của công ty là: 3.1 Nhiệm vụ: Để thực hiện tốt được chức năng của mình, công ty xuất nhập khẩu Hà Tây đặt ra cho mình những nhiệm vụ chủ yếu sau đây: Xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh. Nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường, kiến nghị và đề xuất với Bộ thương mại và Nhà nước các biện pháp giải quyết các vấn đề vướng mắc trong sản xuất kinh doanh. Tuân thủ pháp luật Nhà nước về quản lý kinh tế tài chính, quản lý xuất nhập khẩu và đối ngoại. Nghiêm chỉnh chấp hành và thực hiện tốt các hợp đồng mua bán ngoại thương cũng như các hợp đồng sản xuất kinh doanh trong nước của công ty. Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn kết hợp với việc tự tạo ra nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh, mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị, tự bù đắp chi phí, tự cân đối giữa xuất và nhập đảm bảo thực hiện sản xuất kinh doanh có lãi và làm tròn nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước. Quản lý chỉ đạo và tạo điều kiện thuận lợi để các đơn vị trực thuộc Công ty được chủ động trong sản xuất kinh doanh theo quy chế luật pháp hiện hành của Bộ thương mại và Nhà nước. Nghiên cứu và thực hiện có hiệu quả các biện pháp nâng cao chất lượng các mặt hàng do công ty sản xuất, kinh doanh làm tăng sức cạnh tranh và mở rộng thị trường tiêu thụ. 3.2 Quyền hạn: Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây có các quyền cơ bản sau: - Được chủ động đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng kinh tế và các văn bản hợp tác liên doanh, liên kết đã ký với khách hàng trong và ngoài nước thuộc phạm vi hoạt động của công ty. - Được vay vốn( cả ngoại tệ ), huy động và sử dụng vốn ở trong và ngoài nước nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty theo đúng pháp luật hiện hành của Nhà nước. - Được lập các phương án kinh doanh và tiến hành kinh doanh trêncơ sở tự đảm bảo cân đối thu chi, làm ăn có lãi. - Được liên doanh liên kết, hợp tác sản xuất với các tổ chức Hà Tây và cá nhân kể cả các đơn vị khoa học kỹ thuật trong và ngoài nước để đầu tư, khai thác nguyên liệu sản xuất, gia công huấn luyện tay nghề trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. - Được lập các văn phòng đại diện, các chi nhánh của công ty ở trong nước cũng như nước ngoài. Được quyền tham gia các hoạt động kinh tế, văn hoá của Trung ương như được tham gia hội chợ, triển lãm… - Được tham dự hội thảo chuyên ngành hoặc các ngành có liên quan tới sản xuất hoặc kinh doanh của công ty. Được phép đóng góp ý kiến để hoàn thiện công tác quản lý kinh tế của Nhà nước. Được cử cán bộ công nhân viên của công ty đi học tập, công tác ngắn hạn hoặc dài hạn ở trong và ngoài nước hoặc được mời nước ngoài về Việt Nam làm việc theo quy chế của Bộ, hiểu được những nhiệm vụ và quyền hạn cũng như mục tiêu phấn đấu của công ty trong năm tới. Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây đã tạo cho mình một cơ chế hoạt động gọn nhẹ, hiệu quả, phù hợp với pháp luật. II. thực trạng hoạt động xuất khẩu mặt hàng mây tre đan ở công ty xuất nhập khẩu Hà Tây 1. Đặc điểm của mặt hàng mây tre đan 1.1 Đặc điểm của mặt hàng mây tre đan: Mặt hàng mây tre đan là một trong những mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam và là một trong 5 mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu trong suốt thời gian qua. Có thể nói mặt hàng mây tre đan xuất khẩu không xa lạ gì với mọi người dân Việt Nam từ già đến trẻ, từ thành thị đến nông thôn bởi một lẽ nó được làm ra từ các nguyên liệu rất gần gũi với cuộc sống, và mang đậm những nét đặc trưng của các làng quê nông thôn Việt Nam. Từ bao đời nay, người dân Việt Nam đã biết sử dụng những cây tre, mây, cói… để đan thành những vật dụng thường ngày cho sinh hoạt như cái rổ, cái rá, nong, nia, dần, sàng… cho đến những vật như mũ đội đầu hay những rỏ, lãng hoa và các vật dụng trang trí nhà của rất đẹp và tao nhã. Trên khắp đất nước Việt Nam còn hình thành các làng nghề chuyên làm hàng mây tre đan từ rất lâu đời như ở Chương Mỹ( Hà Tây ), Thái Bình, Nam Định, Vĩnh Long, thành phố Hồ Chí Minh…Mặt hàng mây tre đan có đặc điểm là nó được làm ra hầu như toàn bộ bằng phương pháp thủ công truyền thống, bằng tài hoa, sự khéo léo và óc thẩm mỹ tinh tế của những người thợ thủ công tài hoa của các làng nghề, nó không chỉ là những sản phẩm mang hơi thở của cuộc sống thường ngày mà nó còn thể hiện cái tâm của người thợ, thể hiện cả một bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Đây chính là điều khiến cho mặt hàng mây tre đan được rất nhiều nơi trên thế giới ưa chuộng. Việc sản xuất mặt hàng mây tre đan không đòi hỏi nhiều vốn cũng như không cần đầu tư vào nhà xưởng hay đào tạo thợ lâu vì có thể sản xuất ngay tại các hộ gia đình, thời gian đào tạo rất nhanh và không tốn kém, nguyên liệu lại là các thứ._.nâng cao hiệu quả làm việc trong công ty . Bên cạnh đó, công ty phải tạo được sự đoàn kết nhất trí trong cán bộ công nhân viên làm cho họ toàn tâm toàn lực đóng góp cho công việc chung bằng các biện pháp như : có chính sách khuyến khích cán bộ đi học thêm nhưng vẫn được hưởng lương, tạo điều kiện để họ có thể áp dụng ngay những điều đã học vào thực tế, khuyến khích các cán bộ sáng tạo trong lao động. Có chế độ thưởng thích hợp cho những ai có ý kiến đóng góp hiệu quả. Lồng các mục tiêu chung vào mục tiêu cá nhân để nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi cán bộ trong công ty. Tiến hành các hình thức biểu dương khen thưởng trước toàn công ty nhưng hiệu quả hơn vẫn là việc khuyến khích họ bằng hiện vật. Cần có chế độ ưu đãi đối với cán bộ công nhân viên lâu năm cũng như đặc biệt quan tâm tới thế hệ trẻ lực lượng kế nhiệm lãnh đạo và dẫn dắt công ty trong tương lai, cần tạo điều kiện cho toàn thể cán bộ trong công ty có cơ hội hiểu biết và giúp đỡ lẫn nhau. Các giải pháp khác Công ty cần kết hợp nhiều loại hình xuất khẩu khác nhau nhằm tạo thêm cho công ty nhiều bạn hàng mới. Việc thực hiện quá cứng nhắc nguyên tắc “ hàng ra tiền vào ”khi bán hàng đã làm giảm một lượng khách chưa có được khả năng thanh toán tức thời. Đa dạng hoá hình thức xuất khẩu sẽ tạo thêm nhiều bạn hàng mới và đặc biệt thích hợp khi công ty có chiến lược mở rộng thị trường. Công ty có thể áp dụng hình thức trao đổi đối lưu, đối với những khách hàng chưa thể thanh toán ngay hoặc bên đối tác muốn nhập khẩu theo điều kiện này thì công ty có thể chấp nhận hàng đổi hàng dựa trên khả năng thực tế của công ty. Hoặc công ty có thể áp dụng hình thức xuất khẩu trả chậm đối với khách hàng quen biết và có tín nhiệm. Mặc dù hình thức xuất khẩu này không thích hợp đối với một công ty có vốn ít nhưng để kinh doanh đạt hiệu quả thì ta vẫn cần phải tận dụng. Công ty cần sử dụng máy tính vào quản lý và truy cập thông tin phục vụ cho kinh doanh. Ngày nay, khi xã hội càng phát triển thì thương mại điện tử trở thành một phương tiện tiện lợi cho hoạt động kinh doanh, các công ty có thể liên hệ làm ăn với nhau qua mạng máy tính để tìm cái mình cần. Không những thế, công ty có thể truy cập thông tin về tình hình giá cả, thị trường cũng như những biến động của nó thông qua máy tính nối mạng… Công ty cũng cần tăng cường hơn mối quan hệ của công ty với các cơ quan, tổ chức có chức năng liên quan như Bộ thương mại, phòng thương mại và công nghiệp, các tổng công ty Trung ương … để nắm bắt kịp thời các thông tin và được sự chỉ đạo quan tâm của cấp trên. Đa dạng hoá các hình thức thanh toán đồng thời củng cố và hoàn thiện tốt hơn các khâu trong quy trình thanh toán nhằm đảm bảo tính hiệu quả và nhanh chóng. Đối với hàng ứ đọng thì có thể bán giảm giá nhằm thu hồi vốn và giảm bớt các chi phí có liên quan. Các giải pháp từ phía Nhà nước Đối với đất nước ta, việc quản lý kinh tế được thực hiện bằng các chính sách kinh tế vĩ mô. Các biện pháp này có tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp . Bởi vì các công cụ, chính sách vĩ mô này tạo ra một môi trường pháp lý mà mọi hoạt động của các doanh nghiệp đều phải thực hiện phù hợp với môi trường này .Đối với hoạt động kinh doanh quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng nếu như thực sự có một hệ thống các công cụ, chính sách điều tiết nền kinh tế đồng bộ, hoàn thiện hơn và thực sự thông thoáng sẽ là nhân tố thúc đẩy xuất khẩu rất mạnh mẽ . Các biện pháp, chính sách của Nhà nước thương dùng để thúc đẩy hoạt động xuầt khẩu là: thuế quan, tỷ giá hối đoái, các biện pháp phi thuế quan, các chính sách tài chính tín dụng hỗ trợ xuất khẩu…Dưới đây chúng ta sẽ xem xét một số chính sách thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Nhà nước. Các biện pháp tài chính, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu Các biện pháp tài chính tín dụng là một biện pháp có tác dụng rất lớn đối với việc thúc đẩy xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam và đặc biệt là nó rất có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ như công ty XNK Hà Tây. Các hình thức của biện pháp này bao gồm: Cấp tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Vốn bỏ ra cho việc sản xuất và thực hiện các hoạt động xuất khẩu thường là rất lớn. Người xuất khẩu cần có một số vốn trước và sau khi giao hàng để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu. Nhiều khi người xuất khẩu cũng cần có thêm vốn để kéo dài các khoản tín dụng ngắn hạn mà họ dành cho người mua nước ngoài. Đặc biệt, khi bán hàng theo phương thức bán chịu tiền hàng xuất khẩu thì việc cấp tín dụng xuất khẩu trước khi giao hàng là hết sức quan trọng. Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây là một doanh nghiệp có vốn không lớn do vậy sẽ rất khó khăn cho doanh nghiệp nếu doanh nghiệp thực hiện hình thức bán chịu hàng xuất khẩu. Việc cấp tín dụng cho công ty sẽ là là một nguồn động viên, khuyến khích thực sự hữu hiệu giúp công ty mở rộng hoạt động xuất khẩu. Nhà nước cấp tín dụng cho công ty không chỉ đơn thuần là sự trợ giúp để thực hiện xuất khẩu mà còn giúp công ty giảm chi phí về vốn cho hàng xuất khẩu và giảm giá thành hàng xuất khẩu. Trợ cấp tín dụng đem lại hiệu quả cao cho hoạt động xuất khẩu vì công ty có thể thực hiện việc bán chịu mà giá bán chịu bao gồm giá bán trả ngay cộng với các phí tổn đảm bảo lợi tức, trong trường hợp này cần có sự trợ giúp của các ngân hàng trong giai đoạn trước và sau khi giao hàng. Nhà nước trực tiếp cho người nước ngoài vay tiền với lãi xuất ưu đãi để họ sử dụng số tiền đó mua hàng của nước ta. Nước ta hiện nay chưa có điều kiện cho nước ngoài vay để nhập khẩu, tuy nhiên trong các năm tới nếu có điều kiện Chính phủ không nên bỏ qua hình thức này để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ở nước ta. Hình thức này có tác dụng: khi cho vay thường kem theo các điều kiện kinh tế có lợi cho nước cho vay, giúp cho các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu vì sẵn có thị trường, trên khía cạnh nào đó thì hình thức này giải quyết tình trạng dư thừa hàng hoá ở trong nước, giúp tăng cường quan hệ ngoại giao giữa các nước với nhau( chẳng hạn có thể áp dụng với Lào, Campuchia ). Nhà nước đảm bảo tín dụng cho xuất khẩu. Để chiếm lĩnh thị trường, nhiều doanh nghiệp thực hiện bán chịu, trả chậm hoặc với hình thức tín dụng hàng hoá với lãi xuất ưu đãi đối với người mua hàng nước ngoài. Việc bán chịu như vậy thường có rủi ro là chậm thu hồi vốn và có thể mất vốn. Trong trường hợp này để khuyến khích xuất khẩu Nhà nước cần phát huy hiệu quả của các dịchvụ bảo hiểm xuất khẩu, đền bù mất vốn để các công ty xuất khẩu yên tâm xuất khẩu và tránh được rủi ro. Tỷ lệ đền bù có thể là 100% vốn bị mất, bình thường tỷ lệ này là 60-70% khoản tín dụng để các nhà xuất khẩu phải quan tâm tới việc kiểm tra khả năng thanh toán của các nhà nhập khẩu và quan tâm tới việc thu tiền hàng sau kh hết thời hạn tín dụng. Nhà nước thực hiện trợ cấp xuất khẩu Trợ cấp xuất khẩu là những ưu đãi tài chính mà Nhà nước dành cho người xuất khẩu khi họ bán được hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Mục dích của trợ cấp xuất khẩu là giúp nhà xuất khẩu tăng thêm thu nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu do đó đẩy mạnh được xuất khẩu. có hai loại trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp trực tiếp và gián tiếp. Trợ cấp trực tiếp: Đó là việc áp dụng thuế suất ưu đãi đối với hàng xuất khẩu miễn hoặc giảm thuế đối với các nhà xuất khẩu khi nhập nguyên vật liệu cho sản xuất sản phẩm xuất khẩu cũng như khi xuất sản phẩm ra nước ngoài… cácnhà xuất khẩu được hưởng giá ưu đãi các đầu vào của quá trình sản xuất như điện, nước, thông tin liên lạc… Đối với công ty XNK Hà Tây và cụ thể là mặt hàng mây tre đan hiện đang được miễn thuế xuất khẩu. mặc dù vậy hình thức trợ cấp xuất khẩu trực tiếp cần được phát huy hơn nữa đặc biệt là việc hoàn thiện và giảm thuế nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất hàng xuất khẩu mây tre đan. Trợ cấp gián tiếp: Đây là hình thức Nhà nước thông qua việc dùng ngân sách của mình để giới thiệu, triển lãm, quảng cáo… tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch xuất khẩu hoặc Nhà nước trợ giúp về kỹ thuật và đào tạo chuyên gia. Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, công ty cần sự giúp đỡ của Nhà nước trong việc nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, giới thiệu, triển lãm và quảng cáo sản phẩm mây tre mỹ nghệ truyền thống. Những vấn đề này bản thân doanh nghiệp gặp khó khăn khi thực hiện và thực hiện với hiệu quả không cao. Đối với việc trợ giúp kỹ thuật và chuyên gia thì cần thiết phải có sự giúp đỡ từ phía Nhà nước, để công ty có thể phát triển cả về kỹ thuật và nghiệp vụ kinh doanh ngoại thương cũng như trong sản xuất và nâng cao tay nghề. Trợ cấp gián tiếp cũng có thể là Nhà nước mở các lớp đào tạo nghiệp vụ ngắn hạn hoặc trung hạn để bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ ngoại thương trong tình trạng khó khăn như hiện nay, đồng thời Nhà nước cũng có thể mở các trung tâm hướng dẫn, đào tạo tay nghề cho thợ thủ công sản xuất hàng mỹ nghệ xuất khẩu. Các biện pháp về thể chế và tổ chức Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu và từ đó các doanh nghiệp có thể thâm nhập thị trường nước ngoài. Nhà nước cần phải mở rộng hơn nữa vai trò của mình thúc đẩy xuất khẩu thông qua: + Các quy định của pháp luật Việt Nam đối với hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế( thuế, mặt hàng…)sớm thể bằng luật tự do kinh doanh của các doanh nghiệp, đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường. + Tham gia ký kết, công nhận hoặc thừa nhận các công ước quốc tế chung về thương mại và các hiệp định thương mại… + Lập các viện nghiên cứu cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời chính xác cho nhà xuất khẩu. + Đào tạo các cán bộ chuyên gia giúp nhà xuất khẩu. Hoàn thiện thủ tục xuất nhập khẩu và chính sách thuế Tuy cơ chế mới làm cho thủ tục xuất nhập khẩu đã thuận tiện và đơn giản hơn nhưng thủ tục xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng còn nhiều vướng mắc gây rất nhiều khó khăn cho các công ty xuất nhập khẩu và khách hàng nước ngoài cũng còn e ngại khi quan hệ buôn bán đối với Việt Nam. Đó là vấn đề lớn mà Nhà nước cần sớm khắc phục và chấn chỉnh lại. Về hệ thống thuế, để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong đó có mặt hàng mây tre đan, Nhà nước đã miễn giảm thuế xuất khẩu cho mặt hàng này đó là tiến bộ lớn và nó cần phải được duy trì như thế trong dài hạn. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần giảm và tiến tới miễn thuế đối với một số nguyên liệu nhập ngoại để phục vụ cho việc sản xuất hàng mây tre đan truyền thống này. Thúc đẩy và giúp đỡ các doanh nghiệp vươn lên trong môi trường cạnh tranh bình đẳng và trung thực, coi đó là phương thức bảo hộ tích cực nhất đối với sản xuất trong nước. Theo tinh thần đó cần phải xem xét lại chính sách bảo hộ bằng hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Thực hiện chính sách bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện và thời hạn, vừa giúp đỡ vừa tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải đổi mới và vươn lên nâng cao sức cạnh tranh. Từ đó xác định một lộ trình giảm thuế nhập khẩu và bãi bỏ hàng rào phi thuế quan. Lộ trình này phải công bố rõ ràng để từng doanh nghiệp có kế hoạch phấn đấu làm cho sản phẩm do mình sản xuất và xuất khẩu có thể cạnh tranh với hàng nước ngoài. Thành lập hiệp hội các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Nhà nước nên thành lập hiệp hội các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói chung, hàng mây tre đan nói riêng, với nhiệm vụ theo dõi sản xuất, phát hiện kịp thời khó khăn, thuận lợi để giúp đỡ các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Tập hợp nguyện vọng đề xuất của người sản xuất, xuất khẩu để Chính phủ điều chỉnh cơ chế, chính sách cho phù hợp. Hiệp hội chủ động cùng các doanh nghiệp nghiên cứu khai thác thị trường hiện có, mở rộng thị trường mới. Giúp các doanh nghiệp thống nhất về giá cả tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp xuất khẩu dẫn đến giảm hiệu quả kinh tế xã hội của đất nước. Các vấn đề khác Nhà nước cần quan tâm Trên đây là một số biện pháp chính mà Nhà nước cần phải làm tốt để đẩy mạnh xuất khẩu hàng mây tre đan mỹ nghệ tuy nhiên Nhà nước còn cần phải làm những việc khác như: Đổi mới cơ chế tài chính theo hướng sớm tạo ra thị trường vốn để mở rộng giao lưu các nguồn vốn trên thị trường trong nước cũng như quốc tế để cho các doanh nghiệp dễ dàng huy động các nguồn vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất khẩu. Xây dựng và phát triển mạng lưới ngân hàng trên nhiều lĩnh vực, nhiều địa bàn. Cần có sự phối hợp ăn ý giữa các ngân hàng thương mại và ngân hàng tư thương nhằm tổ chức tốt thị trường tiền tệ, cung ứng kịp thời cho doanh nghiệp mạnh dạn vay vốn để mở rộng hoạt động lưu thông. Tạo điều kiện cho đồng tiền Việt Nam sớm trở thành đồng tiền có thể tự do chuyển đổi, trước mắt là trở thành đông tiền thanh toán chính ở Việt Nam. Tỷ giá hối đoái phải được điều chỉnh từng bước hợp lý có lợi cho xuất khẩu. Tích cực và chủ động tham nhập thị trường thế giới. Xúc tiến khẩn trương việc chuẩn bị điều kiện gia nhập WTO. Đi đôi với việc duy trì và phát triển thị trường đã tạo lập với các nước trong khu vực và cộng đồng Châu Âu, cần mở nhanh thị trường Mỹ. Phát triển thương mại chính ngạch với Trung Quốc, tăng cường buôn bán hợp tác với ấn Độ, tìm thị trường mới ở Trung Cận Đông, Châu Phi và Mỹ La tinh. Chú trọng đa phương hoá quan hệ thương mại, giảm sự tập trung cao vào một đối tác, thu hẹp dựa vào thị trường trung gian. Tạo điều kiện và giúp đỡ các doanh nghiệp, hiệp hội tự lập cơ quan đại diện ở nước ngoài. Tăng cường vai trò của các cơ quan ngoại giao trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, đổi mới và tổ chức hoạt động của cơ quan thương vụ ở nước ngoài. Tổ chức các hiệp hội buôn bán với nước ngoài qua cửa khẩu, bảo đảm sự phối hợp thống nhất trên một cửa khẩu. Hình thành môi trường kinh doanh đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp kinh doanh định hướng xã hội chủ nghĩa. Môi trường kinh doanh đồng bộ bao gồm môi trường kinh tế, chính trị, văn hoá- xã hội, khoa học công nghệ, luật pháp phải hoàn thiện là đòi hỏi bức xúc trong kinh doanh. * Một số kiến nghị đối với Nhà nước và Chính phủ nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và hàng mây tre đan nói riêng: 1. Tăng đầu tư vào sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ Với hệ thống chính sách ưu đãi hiện hành thì trong sản xuất kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các nghành nghề truyền thống được hưởng mức ưu đãi cao hơn các mặt hàng khác. Những mức ưu đãi đó còn quá thấp chưa tạo được động lực cho ngành này phát triển. Vì vậy đề nghị : Hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các ngành nghề truyền thống như quy định thì được hưởng mức ưu đãi cao hơn liền kề, ví dụ: -Dự án sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ thuộc nghành nghề truyền thống, có sử dụng nhiều lao động được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp hai năm và giảm 50% cho 4 năm tiếp theo. -Nếu dự án thực hiện xuất khẩu trên 30% thì được hưởng ưu đãi : miễn 3 năm thuế thu nhập doanh nghiệp và giảm 50% cho các năm tiếp theo. 2. Xây dựng các chính sách ưu đãi về vay vốn và về đất đai cho các cơ sở sản xuất hàng thủ công xuất khẩu Theo nghị định 43/1999NĐ-CP ngày 29/06/1999 của chính phủ về đầu tư tín dụng nhà nước, thì những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn ( trong đó có các dự án sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là các dự án sử dụng nhiều lao động ) mới được vay từ quỹ hỗ trợ phát triển của nhà nước. Vì vậy, đề nghị Chính phủ mở rộng thêm việc cho vay vốn từ quỹ này đối với các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh thuộc các nghành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống đã được quy định, không kể là các dự án đầu tư tại vùng nào, đồng thời các dự án này cũng được hưởng chính sách “hỗ trợ lãi xuất sau đầu tư ” theo quy định tại Nghị định 43 nêu trên. Trong trưởng hợp dự án đầu tư sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu có thể được quỹ hỗ trợ xuất khẩu quốc gia cấp tín dụng xuất khẩu ưu đãi và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu. Chính sách khuyến khích ưu đãi hiện có đối với các nghành nghề truyền thống ( theo luật khuyến khích đầu tư trong nước ) là áp dụng cho các dự án đầu tư thành lập mới hoặc mở rộng các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ. Thực trạng hiện nay là các đơn vị thực hiện sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ đều thiếu vốn hoặc không đủ sức vay vốn với lãi xuất cao để tổ chức sản xuất kinh doanh ( mua nguyên vật liệu để sản xuất hoặc mua các sản phẩm để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu ). Vì vậy, để khuyến khích khai thác cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có, tăng nguồn hành cho xuất khẩu, đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh có hợp đồng xuất khẩu đạt mức 50.000 USD trở lên, đề nghị chính phủ cho hưởng các mức ưu đãi về vốn kinh doanh. - Được ngân hàng ưu tiên cho vay đủ vốn sản xuất kinh doanh theo hợp đồng đã ký. -Sau khi thực hiện hợp đồng, được quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà nước hoặc quỹ hỗ trợ xuất khẩu hỗ trợ lãi suất theo quy định tại Nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29/06/1999 tức là hỗ trợ 50% lãi suất trên số vốn thực tế đã vay tại ngân hàng. 3. Chính sách đối với nghệ nhân. - Nghệ nhân, thợ cả có vai trò quan trọng đối với nghề và làng thủ công truyền thống. Có thể nói không có nghệ nhân thì không có làng nghề hoặc ít nhất cũng không thể có làng nghề phát triển, làng nghề lừng danh. Nghệ nhân, thợ giỏi có vai trò tích cực trong bảo tồn và phát triển làng nghề cùng như nghành nghề. -Vì vậy, muốn duy trì và phát triển nghành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống nhà nược cần có chính sách đối với nghệ nhân, giúp đỡ hỗ trợ tài chính, khuyến khích phát huy tài năng, phát triển sản xuất phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi để truyền dậy nghề cho con cháu, đào tạo nghề cho lao động sản xuất. - Chính sách đối xử với nghệ nhân được thực hiện tốt là một đảm bảo để duy trì và phát triển đội ngũ thợ lành nghề trong các làng nghề trong các làng nghề thủ công mỹ nghề truyền thốn, góp phần bảo tồn và phát triển một trong những di sản văn hoá qúy của dân tộc. 4. Chính sách đối với làng nghề truyền thống Nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam được duy trì và phát triển chủ yếu ở các làng nghề. Hiện nay, cả nước có đến hàng nghìn làng nghề, có những làng nghề tồn tại và phát triển hàng trăm năm, thâm chí hàng nghìn năm nay ( nghề gốm Bát Tràng có từ 500 năm, nghề tơ lụa Hà Đông có từ 1700 năm). Theo một số tài liệu nghiên cứu thì ở Việt Nam có đến 52 nhóm nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống. Trong quá trình phát triển, nhất là trong những năm gần đây hoạt động theo cơ chế thì trường, các làng nghề đã phân hoá rõ rệt, một số làng nghề phát triển mạnh và có sự lan toả sang các vùng xung quanh ( như nghề gốm, chạm khảm, chế biến gỗ mây tre ), một số làng nghề phát triển cầm chừng không ổn định ( đúc đồng …..), có những làng nghề gặp nhiều khó khăn, ít có cơ hội phát triển ( nghề giấy gió, gò đồng, dệt thổ cẩm Chăm…) đồng thời có những làng nghề đang trong quá trình suy vong và có khả năng mất đi ( như nghề giấy sắc, tranh dân gian Đông Hồ, nón quai thao …). Trong quá trình phát triển, những làng nghề có điều kiện và có cơ hội phát triển nhanh đều gặp khó khăn như thiếu vốn hoạt động, cơ sở hạ tầng yếu kém, ô nhiễm môi trường và hiện nay có nơi vấn đề môi trường đặt ra rất gay gắt, bức súc như làng gốm Bát Tràng, làng giấy, làng sắt ở Bắc Ninh… Để các nghành nghề thủ công truyền thống, các làng nghề duy trì và phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ làng nghề. Ví dụ như : + Phổ biến, hướng dẫn cho các nhà sản xuất kinh doanh trong làng nghề đăng ký hoạt động theo đúng pháp luâtj, hiểu biết các chính sách và các thủ tục đã quy định để được hưởng các chính sách khuyến khích, ưu đãi hiện có hoặc sẽ được nhà nước ban hành. + Mặt khác, làng nghề với tư cách là một đơn vị hành chính, một đơn vị tổ chức làm ăn có tính phường hội cũng cần được có sự hỗ trợ của nhà nước để xử lý một số vấn đề như : Cơ sở hạ tầng, môi trường.. đối với toàn bộ làng nghề. Từ đó đề nghị Chính phủ cho thực hiện chính sách hỗ trợ tài chính, thực hiện các dự án xây dựng xây dưng cơ sở hạ tầng ( đường giao thông, bến bãi ), dự án xử lý các vấn đề về môi trường tại khu vực làng nghề. Cụ thể là nhà nước đầu tư riêng qua ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để thực hiện các dự án đầu tư cho làng nghề được duyệt hàng năm với mức không thấp hơn 50% tổng số thu vào ngân sách từ làng nghề trong năm trước. 5. Chính sách đào tạo làng nghề thủ công truyền thống -Thợ thủ công trong các làng nghề thủ công truyền thống thường không học nghề trong các trường lớp như các nghành nghề khác mà chủ yếu do các nghệ nhân giỏi truyền dậy nghề theo “ kiểu cha truyền con nối ” các làng nghề, trong đó có những thủ pháp kỹ thuật, bí quyết nhà nghề của các nghệ nhân chỉ truyền cho con cháu từ đời này sang đời khác, không dễ gì lọt ra ngoài, họ giữ gìn các bí quyết đó một cách cẩn trọng. -Trong các lĩnh vực khác thường được nhà nước đầu tư xây dựng các trường dậy nghề, vì vậy Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề thủ công trong các nghành nghề phù hơpj với các đặc điểm nêu trên. Để thực hiện yêu cầu này có thể áp dụng một số biện pháp chính sách sau: +Mở một số trường mỹ thuật thực hành ở một số nơi có yêu cầu hoặc mỏ thêm các khoa mỹ thuật thực hành trong các trường cao đẳng mỹ thuật hiện có để đào tạo các nhà thiết kế mẫu mã sản phẩm cho các cơ sở sản xuất, mở lớp đào tạo các lao động phổ thông theo phương thức vừa học vừa lao động sản xuất tại các làng nghề, cơ sở sản xuất là những cơ sở có nhiều hàng xuất khẩu. Nhà nước, hỗ trợ một phần chi phí và những cơ sở sản xuất vừa học vừa làm đóng góp một phần. Chi phí nhà nước hỗ trợ chủ yếu sử dụng để trang trải các chi phí về giảng dậy như mời nghệ nhân về giảng dậy, hướng dẫn thực hành( nếu có ). Nếu không mở trường lớp như trên thì Nhà nước phải hỗ trợ một phần chi phí từ quỹ hỗ trợ việc làm để các cơ sở sản xuất nhất là các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu tự tổ chức việc đào tạo nghề, kinh phí hỗ trợ được thực hiện theo dự án đào tạo hoặc theo kết quả đào tạo nghề do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố xét duyệt. 6. Xây dựng chính sách xúc tiến thương mại, mở rộng thì trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Do đặc điểm khó khăn trong sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ, các làng nghề thường có quy mô nhỏ phân tán nên gần như không thực hiện được công tác xúc tiến quảng cáo. Nên đề nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ một phần chi phí xúc tiến thương mại, tiếp thị mở rộng thị trường xuất khẩu. Trong các lĩnh vực xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, đề nghị nhà nước hỗ trợ với các hình thức sau: *Hỗ trợ 50% chi phí thuê gian hàng cho cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ tham gia hội chợ triển lãm nước ngoài. 50% chi phí còn lại được hỗ trợ hết nếu trong quá trình hội chợ triển lãm đơn vị ký được hợp đồng xuất khẩu với giá trị trên 20.000USD. *Việc hỗ trợ này có thể thực hiện trực tiếp đối với các doanh nghiệp từ một trung tâm xúc tiến thương mại hoặc thông qua các công ty quốc doanh được giao nhiệm vụ tổ chức tham gia hội chợ triển lãm quốc tế *Đề nghị cho thành lập một số trung tâm xúc tiến thương mại( chủ yếu là khuyếch trương xuất khẩu )tại một số nơi ở nước ngoài. Các trung tâm này có gian hàng cho các doanh nghiệp trong nước thuê để trưng bầy chào hàng xuất khẩu với giá khuyến khích, riêng hàng thủ công mỹ nghệ thì được miễn phí. *Phục vụ lễ hội của các nước trên thế giới là một hướng quan trọng thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, trên thế giới hàng năm có rất nhiều lễ hội của các dân tộc, nếu biết nắm bắt nhu cầu, thiết kế mẫu mã hàng hoá phù hợp với nhu cầu của từng lễ hội về ăn mặc, trò chơi giải trí, vật lưu niệm … thì có thể có nhiều hàng để bán, nhất là hàng thủ công mỹ nghệ. Để có thể triển khai việc xuất khẩu phục vụ cho các nhu cầu lễ hội của các nước trên thế giới như là một trong những mũi nhọn khuyếch trương hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm tới, đề nghị : *ở nhưng nơi Việt Nam có đại diện thương mại thì giao nhiệm vụ cho họ tìm hiểu khảo sát nhu cầu phục vụ lễ hội tại địa bàn, khi phát hiện nhu cầu và đối tác thì cử ngay nhóm công tác đến tận nơi khảo sát, thiết kế mẫu mã chào bán và ký hợp đồng cho các cơ sở sản xuất trong nước sản xuất và giao hàng. Chi phí cho nhóm công tác trong một vài năm đầu do Nhà nước hỗ trợ 100%. Nếu ký được hợp đồng thì được hưởng thêm. *ở những nước ta chưa có đại diện thương mại thường trú thì giao cho ban xúc tiến thương mại cùng công ty hội chợ triển lãm của Bộ chủ quản nghiên cứu, có kế hoặch gửi nhóm công tác bao gồm : hoạ sĩ nghệ nhân, cán bộ kinh doanh nghành hàng thủ công mỹ nghệ đến tìm hiểu, khảo sát, thiết kế mẫu mã chào bán theo cơ chế chính sách đã nêu. *Cho phép các tổ chức, các nhân được nhận tiền thù lao hoặc tiền hoa hồng môi giới và cho phép các công ty xuất khẩu được các khoản này theo mức thoả thuận khi ký hợp đồng và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. *Ngoài ra theo viên nghiên cứu thuộc liên minh các hợp tác xã Việt Nam cho biết, hiệp hội hàng thủ công mỹ nghệ quôcs tế thường có mời các nghệ nhân nghành nghề thủ công của các nước tham gia hội thảo, biểu diễn thao tác nghề nghiệp. Hội bảo trợ thủ công ở Mỹ có chương trình hỗ trợ 10.000 làng nghề của thế giới và thường có mời nghệ nhân của các nước sang Mỹ biểu diễn thao tác nghề nghiệp. Tại Achentina vào tháng 4 hàng năm có tổ chức hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ, có trưng bầy gian hàng miễn phí cho các nghệ nhân. Việt Nam nên có chính sách khai thác các hoạt động quốc tế này. 7. Xây dựng vùng nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ khắc phục một số khó khăn hiện nay trong việc tiếp cận nguồn nguyên liệu khai thác ở trong nước, nhất là một số nguyên liệu như gỗ, song, mây … đề nghị Nhà nước cho áp dụng một số biện pháp sau: -Đối với gỗ nguyên liệu khai thác từ rừng tự nhiên được các bộ nghành, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giao hạn mức cho các doanh nghiệp, đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh sản phẩm gỗ mỹ nghệ thuộc nghành địa phương quản lý trên cơ sở hạn mức chung do Chính phủ phê duyệt. Đề nghị ưu tiên giao cho các đơn vị có hợp đồng xuất khẩu sản phẩm gỗ mỹ nghệ. Các đơn vị này phải quyết toán việc sử dụng gỗ nguyên liệu cho các hợp đồng đó để được giao hạn mức gỗ nguyên liệu cho năm sau và được nhận gỗ trực tiếp từ các đơn vị khai thác gỗ, tránh việc giao nhận lòng vòng đẩy giá thành lên cao, khó cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm. -Đối với các loại nguyên liệu khác như song mây, tre lá… các đơn vị khai thác phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu đề nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ các dự án đầu tư xây dựng vùng trồng nguyên liệu phục vụ cho sản xuất ( giao đất, giảm tiền thuê đất hoặc thuế sử dụng đất). 8. Hỗ trợ tiền cước vận chuyển và giảm các lệ phí khác tại các cảng, cửa khẩu đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ Hàng thủ công mỹ nghệ thường là những mặt hàng cồng kềnh, gias trị không cao( hàng mây tre đan, nhiều loại gốm mỹ nghệ, xuất khẩu 1 container 40feet chỉ được khoảng 7000-8000USD theo giá FOB ), do đó cần có chính sách hỗ trợ ưu đãi, cụ thể như sau : -Hàng thủ công mỹ nghệ vận chuyển từ nơi sản xuất đến cảng, cửa khẩu để giao hàng xuất khẩu, trên tất cả các loại phương tiện vận chuyển đều được giảm 30 đến 50 % cước vận chuyển theo biểu giá cước hiện hành. Chủ phương tiện được phép tăng giá cước các loại hàng hoá khác để bù lại hoặc được nhà nước hỗ trợ thông qua việc công nhận giảm thu trong hạch toán thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp hàng năm. -Giảm 50% ( theo biểu giá hiện hành ) tất cả các chi phí hoặc lệ phí thu tại các cảng, cửa khẩu có liên quan đến việc giao hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu ( hàng lưu kho, bãi gửi hàng, lệ phí xuất khẩu, thủ tục phí…) -Giảm 50% ( theo biểu giá hiện hành ) tiền cước phí, bưu phí gửi hàng, mẫu hàng là hàng thủ công mỹ nghệ cho khách nước ngoài hoặc gửi hàng mẫu tham dự các hội nghị triển lãm ở nước ngoài. 9. Thưởng xuất khẩu đối với kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Theo quy định hiện hành, để được thưởng về kim ngạch xuất khẩu đối với hàng thủ công mỹ nghệ, doanh nghiệp phải đạt mức kim ngạch 5 triệu USD/năm trở lên. Còn sau đó, nếu doanh nghiệp duy trì và phát triển tốt để được xét thưởng tiếp thì doanh nghiệp phải có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu đạt mức quy định, mức hiện hành là 20% /năm đối với toàn bộ kim ngạch năm sau so với năm trước. Thực tế tốc độ tăng trưởng này quá cao, hiếm có doanh nghiệp nào đạt được. Vì vậy, đề nghị nhà nược nên có chính sách mới là chỉ cần đạt được tốc độ tăng trưởng là 10% /năm cũng được thưởng xuất khẩu. 10. Một số vấn đề quản lý nhà nước đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ. Trước đây còn liên hiệp hợp tác xã thủ công mỹ nghệ Trung ương được nhà nước uỷ quyên thực hiện một số chức năng của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong các nghành nghề truyền thốngkhi tổ chức này bị giải thể, các chức năng trên được chuyển sang cơ quan nhà nước khác nên các nghành nghề này ít được quan taam. Đề nghị Chính phủ chính thức giao nhận chức năng, nhiệm vụ quản lý và chỉ đạo phát triển các nghành nghề này Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn và có thể uỷ quyền liên minh hợp tác xã Việt Nam thực hiện một số chức năng nào đó cho phù hợp. Đề nghị nghiên cứu thành lập một số tổ chức thích hợp cho việc hỗ trợ và quản lý của Nhà nước nhằm phát triển các nghành nghề này theo các chủ trương chính sách Nhà nước, tổ chức đó có thể là “ Trung tâm hỗ trợ phát triển nghành nghề truyền thống ”trực thuộc bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, hoặc một trung tâm hoạt động độc lập theo sự chỉ đạo trực tiếp của Chính Phủ. Để có thể theo dõi sát tình hình thực hiện các chính sách của nhà nước và trên cơ sở đó có những sửa đổi bổ sung cần thiết trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, đề nghị Chính phủ giao Tổng cục hải quan tổ chức lại việc thống kê xuất khẩu tương đối chi tiết các loại hàng hoá thuốc nhóm hàng thủ công mỹ nghệ. Bộ Thương Mại sẽ phối hợp cùng Tổng cục hải quan để hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện quyết định của Chính phủ trong việc khải báo hải quan khi xuất khẩu loại hàng này. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0141.doc
Tài liệu liên quan