Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu giày dép sang thị trường EU

LỜI MỞ ĐẦU Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế, bắt nguồn từ quy luật phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu của các nước là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội nhập quốc tế và phát triển trong mối quan hệ tùy thuộc vào nhau giữa các quố

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1676 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu giày dép sang thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c gia. Sự độc lập phát triển của mỗi quốc gia là sự phụ thuộc của quốc gia đó vào thế giới phải cân bằng với sự phụ thuộc của thế giới vào quốc gia đó. Hoạt động xuất nhập khẩu còn là yếu tố quan trọng nhằm phát huy mọi nguồn nội lực, tạo thêm vốn đầu tư để đổi mới công nghệ, tăng thêm việc làm, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, đứng trước nhiều cơ hội nhưng cũng có nhiều thách thức mới. Vì vậy, đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tạo cho Việt Nam phát huy được lợi thế so sánh của mình. Trong cơ cấu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam, giầy dép luôn là mặt hàng chủ chốt – không chỉ chiếm tỷ trọng cao mà còn liên tục tăng trưởng theo từng năm. Ngành công nghiệp giầy dép Việt Nam là một trong những ngành công nghiệp có lợi thế xuất khẩu, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của ngành này trong vài năm gần đây đạt khá cao. Việt Nam hiện là một trong 10 nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu giày dép với sản phẩm có mặt ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là EU và Hoa Kỳ. Nhận thức được đây là một vấn đề quan trọng nên em đã chọn đề tài “ Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu giày dép sang thị trường EU ” để tiến hành nghiên cứu. Em xin chân thành cảm ơn GS.TS. Đỗ Đức Bình đã nhiệt tình hướng dẫn để em có thể hoàn thành đề tài này. Do khả năng và tài liệu tham khảo còn hạn chế nên bài viết không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Kính mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU 1.1. Khái niệm xuất khẩu Xuất khẩu là việc cung cấp hàng hoá (hữu hình hoặc vô hình) và dịch vụ nhằm thu một khoản ngoại tệ nhất định. Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ là một bộ phận của thương mại quốc tế. “Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ (hàng hoá hữu hình và vô hình) giữa các quốc gia, tiền tệ là phương tiện thanh toán, tuân theo các nguyên tắc trao đổi ngang giá nhằm vào các bên đều có lợi”. 1.2. Các hình thức xuất khẩu 1.2.1. Xuất khẩu trực tiếp Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu mà hàng hoá và dịch vụ được công ty sản xuất và bán trực tiếp thông qua các cơ sở của mình. Hàng hoá bao gồm hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình. Hàng hoá hữu hình như : nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, lương thực thực phẩm, các loại hàng tiêu dùng … còn hàng hoá vô hình như : các bí quyết công nghệ, bằng sáng chế phát minh, phần mềm máy vi tính, các bảng thiết kế kỹ thuật, các dịch vụ lắp ráp thiết bị máy móc, dịch vụ du lịch và nhiều loại hình dịch vụ khác … * Ưu điểm : hàng hoá của công ty tiếp cận được trực tiếp với thị trường nước và là người tiêu dùng nước ngoài, lợi nhuận công ty thu được cao ( không mất chi phí qua trung gian), nắm bắt kịp thời nhu cầu, thị hiếu của khách hàng để có những thay đổi. * Nhược điểm: xuất khẩu trực tiếp thường chỉ áp dụng đối với các công ty lớn, am hiểu thị trường, cho nên rất rủi ro với những doanh nghiệp nhỏ, khi mới xâm nhập thị trường nước ngoài. Chi phí tiếp cận thị trường lớn, đòi hỏi vốn lớn và kinh nghiệm quản lý cao. 1.2.2. Xuất khẩu uỷ thác Xuất khẩu ủy thác là hình thức xuất khẩu mà đơn vị sản xuất trong nước phải thông qua trung gian (người kinh doanh xuất khẩu) để tiến hành hoạt động bán hàng và phải trả một khoản phí nhất định cho nhà kinh doanh xuất khẩu. * Ưu điểm: rủi ro mà doanh nghiệp xuất khẩu bằng hình thức này thấp hơn nhiều so với xuất khẩu trực tiếp. Chi phí thâm nhập thị trường thấp hơn. Hình thức xâm nhập thị trường bằng phương thức này chủ yếu áp dụng với doanh nghiệp mới thành lập, kinh nghiệm thị trường nước ngoài còn hạn chế. * Nhược điểm: phải mất một khoản phí cho trung gian và công ty không nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin về thị trường, không có được sự thay đổi nhanh chóng để thích nghi với điều kiện mới. 1.2.3. Gia công thuê cho nước ngoài Gia công xuất khẩu là hình thức xuất khẩu trong đó có một bên nhận gia công và khi gia công xong lại xuất ngược lại cho bên thuê gia công và nhận tiền (phí gia công). Khi trình độ phát triển còn thấp, thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu thị trường thì nên chú trọng các hoạt động gia công thuê cho nước ngoài. * Ưu điểm: tận dụng được nơi có chi phí nhân công rẻ. Công ty chỉ gia công thuê cho nước ngoài thì chỉ cần vốn rất ít, công nghệ không cần hiện đại, trình độ quảny lý không cao … phù hợp với các nước đang phát triển, trình độ thấp ( như Việt Nam). * Nhược điểm: phí nhận được từ gia công xuất khẩu thấp, doanh nghiệp không có sự chủ động trong việc sản xuất, tìm kiếm thị trường. 1.2.4. Tái xuất và chuyển khẩu Tái xuất khẩu là hình thức hàng hoá được nhập khẩu tạm thời và xuất luôn sang nước thứ ba mà không qua quá trình gia công, chế biến. Trong đó, tái xuất khẩu thực hiện hành vi mua bán còn chuyển khẩu không thực hiện hành vi mua bán mà chỉ thực hiện dịch vụ vận tải, lưu kho lưu bãi. * Ưu điểm: tái xuất khẩu thì lợi nhuận thu vê cao hơn còn chuyển khẩu thì rủi ro thấp hơn. * Nhược điểm: tái xuất khẩu lợi nhuận cao hơn nên rủi ro gặp phải cũng cao hơn và thường áp dúng hình thức này khi hàng hoá của nước sản xuất bị cấm nhập khẩu vào nước xuất khẩu. Còn chuyển khẩu thì lợi nhuận đem lại thấp hơn. 1.2.5. Xuất khẩu tại chỗ Xuất khẩu tại chỗ là xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ mà chưa vượt qua biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa về kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu : đều cung cấp hoàng hoá và dịch vụ cho người nước ngoài ( như ngoại giao đoàn, khách du lịch và thăm quan quốc tế …) * Ưu điểm: không tốn chi phí bao bì, đóng gói hàng hoá (như xuất khẩu hàng hoá qua biên giới quốc gia), không tốn chi phí vận tải…, rủi ro thấp, không phải tìm hiểu thị trường xuất khẩu cũng như chi phí nghiên cứu thị trường. * Nhược điểm: khả năng phát triển kém, chỉ trói buộc tại địa điểm trong nước, không nắm được thông tin thị hiếu của thị trường và người tiêu dùng nước ngoài nhạy bén, lợi nhuận thấp. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu 1.3.1. Các nhân tố nội tại của doanh nghiệp * Về nguồn nhân lực Nguồn nhân lực đóng vai trò rất quan trọng trong một doanh nghiệp. Nó quyết định đến sự thành bại, phát triển hay giải thể. Vì mọi chiến lược quyết định của doanh nghiệp đều do con người, nhân sự đưa ra. Nếu có tiềm lực vốn mạnh, công nghệ hiện đại mà không có bàn tay khối óc của con người thì mọi thứ đều trở nên vô nghĩa. Chỉ có một bộ máy quản lý giỏi, đội ngũ nhân công lao động lành nghề thì doanh nghiệp đó mới có thể tồn tại và phát triển. Do đó, muốn doanh nghiệp hoạt động tốt nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng thì trước tiên phải giải quyết vốn vấn đề con người. * Về khả năng tài chính Với khả năng tài chính mạnh mẽ, nguồn vốn dồi dào thì doanh nghiệp có thể thực hiện nhiều chiến lược mở rộng, phát triển hoạt động xuất khẩu; có thể mở rộng sản xuất phục vụ xuất khẩu, đầu tư dây chuyền công nghệ để sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng của nước nhập khẩu. Do vậy, yếu tố về vốn, tài chính của doanh nghiệp cũng là một nhân tố rất lớn tác động mạnh mẽ đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp * Về công nghệ Nếu như doanh nghiệp không từng bước nâng cao chất lượng dây chuyền công nghệ thì các sản phẩm tạo ra sẽ lỗi thời, chất lượng không cao, không đáp ứng được nhu cầu ngày một cao của khách hàng, số lượng khách hàng sẽ ít đi, ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Vì công nghệ là yếu tố quyết định đến chất lượng, hình thức của sản phẩm nên luôn phải đổi mới, nâng cao. 1.3.2 Các nhân tố bên ngoài * Về sự ổn định chính trị Ổn định chính trị là nhân tố rất quan trọng cho mọi nhà kinh doanh. Có ổn định thì doanh nghệp mới làm ăn và phát triển được. Một đất nước có chính trị ổn định sẽ tạo tâm lý an toàn, yên tâm đối với doanh nghiệp. Ngược lại, khi chính trị bất ổn, khi họ xuất khẩu hàng hóa sang thì dễ dẫn tới việc hàng bị trưng thu, sung công, mất mát, hư hỏng, không thu được tiền… * Về chính sách pháp luật Các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng đều phải chịu sự điều chỉnh của ba hệ thống pháp luật: hệ thống pháp luật của nước sở tại, hệ thống pháp luật của nước nhập khẩu và hệ thống pháp luật quốc tế cùng các tập quán quốc tế. Do vậy, tác động của chính sách ngoại thương của quốc gia tác động đến hoạt động xuất khẩu của công ty theo hướng khuyến khích hay hạn chế đều thông qua các công cụ thuế quan, hạn ngạch, các quy định khác … * Về cạnh tranh Môi trường cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt. Khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, doanh nghiệp cần phải quan tâm đến tất cả các đối thủ cạnh tranh, môi trường cạnh tranh để đưa ra được hướng phát triển, giải pháp tối ưu cho doanh nghiệp. Từ việc phân tích các nhân tố cạnh tranh, doanh nghiệp sẽ có những cải tiến cho sản phẩm, giá cả, mẫu mã … để tăng tính cạnh tranh của hàng hóa, thúc đẩy xuất khẩu. 1.4. Vai trò của xuất khẩu Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ là hình thức không thể thiếu được của hoạt động kinh tế đối ngoại. Đây là một hoạt động rất quan trọng, nếu không muốn có hoạt động này thì quốc gia đó coi như là bế quan tỏa cảng, không có sự giao du với bên ngoài, như vậy thì quốc gia đó sẽ không phát triển được và đi ngược lại với quá trình kinh tế hóa, toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay. Còn đối với công ty thì điều này đồng nghĩa với việc công ty đó tự trói buộc mình trong một phạm vi nhỏ hẹp, không có khả năng để phát triển Xuất khẩu là yếu tố vô cùng quan trọng để kích thích sự tăng trưởng và phát triển của đất nước nói chung và cho các công ty nói riêng. Khi xuất khẩu thì chúng ta thường quan tâm tới mặt hàng nào có lợi thế so sánh, sự dụng lợi thế so sánh thì sẽ đem lại hiệu quả hơn cho đất nước, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên hợp lý, thu lợi nhuận nhiều hơn. Thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu giúp cán cân thương mại thặng dư. Tuy nhiên, không nên quá chú trọng vào công tác thúc đẩy xuất khẩu vì nó sẽ gây ra cơn sốt hàng hóa trong nước, đẩy giá hàng hóa lên cao, gây cho người tiêu dùng trong nước rơi vào tình trạng khan hiếm hàng hóa phải mua với giá cao hơn rất nhiều. Thúc đẩy xuất khẩu giúp tăng ngoại tệ, giúp ngân sách nhà nước không rơi vào tình trạng khan hiếm ngoại tệ, phục vụ nhu cầu phát triển của quốc gia. Tuy nhiên, không nên chỉ quá chú trọng xuất khẩu vì nếu quá nó sẽ dẫn đến mất cân đối. Như đã nói ở trên, hiện nay chúng ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và rộng, Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO. Xuất khẩu không những đóng vai trò là “chất xúc tác” cho sự phát triển mà còn có vai trò là yếu tố tác động đến các vấn đề kinh tế như : lao động, kỹ thuật, thị trường, nguyên liệu… CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GIẦY DÉP SANG EU 2.1. Tổng quan về thị trường EU 2.1.1. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của liên minh Châu Âu Liên minh Châu Âu (European Union) là một tổ chức liên chính phủ của các nước châu Âu. Từ 6 thành viên ban đầu, hiện nay EU có 27 quốc gia thành viên. Liên minh được thành lập với tên gọi hiện nay theo Hiệp ước về Liên minh châu Âu năm 1992. Tuy nhiên, nhiều phương diện của Liên minh châu Âu đã có từ trước, kể từ thập niên 1950, thông qua một loạt các tổ chức tiền thân. Vào năm 1952, cộng đồng than thép châu Âu (gồm 6 nước thành viên là Lucxembourg, Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan) là mô hình thử nghiệm đầu tiên của thị trường chung với hai sản phẩm là than và thép. Nếu tính từ khi ký Hiệp Ước thành lập cộng đồng Than – Thép châu Âu (Paris năm 1951) thì Liên minh Châu Âu đã bước vào năm thứ 56. Năm 1992, Cộng đồng châu Âu (EC) đã ký Hiệp ước Mastrict đánh dấu sự ra đời Liên Minh Châu Âu (EU). EU là một tổ chức kinh tế hùng mạnh trên thế giới, chiếm 19,8% GDP toàn cầu, đồng thời cũng là một trung tâm Thương mại – Tài chính khổng lồ được hình thành và hoạt động trên cơ sở các Hiệp ước (Hiệp ước Paris thành lập Cộng đồng Than – Thép Châu Âu ECSC; Hiệp ước Rome thành lập Cộng đồng năng lượng nguyên tử Châu Âu Euratom và Cộng đồng kinh tế châu Âu EEC; Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu Âu EC; Hiệp ước Mastrict thành lập Liên minh Châu Âu và Hiệp ước Amsterdam). Có thể nói Liên minh Châu Âu đang tiến dần từng bước tới thống nhất toàn diện và chiếm vị trí số một thế giới. EU ngày càng có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống kinh tế thương mại, chính sách của các quốc gia trên thế giới. * Tình hình phát triển kinh tế của EU trong những năm gần đây EU là một trung tâm kinh tế hùng mạnh của thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ổn định. Châu Âu là một khu vực phát triển đồng đều nhất thế giới, thu nhập bình quân đầu người cao, mức sống của người dân ở các nước cao vào bậc nhất thế giới. Tăng trưởng kinh tế luôn tăng cao qua các năm trong khi đó lạm phát vẫn duy trì ở mức thấp. Các chuyên gia kinh tế đều tin tưởng lạc quan vào sự tiếp tục phát triển kinh tế của EU bởi Ngân Hàng Trung Ương Châu Âu tiếp tục kiểm soát chặt chẽ mức cung tiền và duy trì lãi suất ở mức 4,5 %. Các nhà kinh tế dự báo, tốc độ tăng trưởng của EU còn mạnh hơn nữa, vào năm 2015 tốc độ tăng GDP của các nước trong khu vực đồng EURO là 4,2%, tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp và tương lai có thể vượt Mỹ. Châu Âu luôn quan tâm tới sự phát triển bền vững, không chỉ quá chú trọng vào phát triển, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế phải luôn đi đôi với việc bảo vệ môi trường sinh thái, duy trì mức lạm phát, tạo nhiều việc làm cho người lao động, tăng phúc lợi xã hội, giảm khoảng cách giàu nghèo. Tất cả các điều đó tạo nên một châu Âu cường thịnh như ngày nay. Chỉ tiêu kinh tế cơ bản của EU Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tốc độ tăng trưởng (%) 2.7 2.0 2.6 2.7 2.71 2.76 GDP (tỷ USD) 8482 8510 9044 9124 9543 9857 Xuất khẩu (%) 5.6 2.4 5.5 6.3 6.8 7.1 Nhập khẩu (%) 8.4 3.4 5.2 5.9 4.7 6.0 Nguồn : Số liệu thống kê của Phái đoàn EC 2.1.2. Quan hệ Việt Nam – EU Việt Nam và EU đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao từ tháng 11/1990 Từ đó tới nay, EU đã trở thành một đối tác rất quan trọng của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực như chính trị, hợp tác phát triển, thương mại và đầu tư. Quan hệ thương mại Việt Nam – EU không ngừng phát triển cùng với tiến trình hợp tác của phía EU và đà lớn mạnh của nền kinh tế Việt Nam do chính sách ” Đổi mới” mang lại. Hiện nay EU là một trong những đối tác lớn của Việt Nam. Quy mô thương mại ngày càng được mở rộng. Hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường EU phát triển mạnh và có nhiều triển vọng. Việt Nam có 15 thị trường xuất khẩu trong khối EU kể từ năm 1995, khi EU mở rộng thành 15 nước thì tất cả các nước thành viên đều có mối quan hệ buôn bán với Việt Nam tuy ở mức độ khác nhau. * Kim ngạch xuất khẩu Theo số liệu của hải quan Việt Nam mấy năm gần đây, hàng năm kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU đều tăng (trừ thị trường Phần Lan và Hy Lạp). Nơi có nhịp độ tăng cao là Thụy Điển, Anh, Hà Lan, Bỉ, Phần Lan, Đan Mạch, Đức và Italia. Chỉ tính riêng thời kỳ 1995-2000, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Thụy Điển đã tăng 63,64%/ năm; sang Bỉ tăng 55,21%/ năm; sang Anh tăng 45,09%/ năm;sang Hà Lan tăng 37,40%/ năm; sang Đan Mạch tăng 35,57%/ năm; sang Phần Lan tăng 35,54%/ năm; sang Italia tăng 30,73%/ năm Thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong khối EU là Đức, chiếm 26,5% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU; Anh 15,8%; Pháp 14,9%; Hà Lan 14,3%; Bỉ 9,8%...Từ năm 1997 Anh đã vượt Pháp và Hà Lan, vươn lên chiếm vị trí thứ hai sau Đức. Thống kê của EU cũng cho thấy thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong khối vẫn là Đức với tỷ trọng 30,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU, vị trí thứ hai là Pháp:15,9%; Anh:14,4%; Bỉ và Luxembourg:9,3%; … 2.1.3. Thị trường giầy dép EU 2.1.3.1. Tình hình sản xuất EU có ngành công nghiệp giầy từ rất lâu với quy mô sản xuất lớn và tiên tiến. Công nghệ sản xuất, máy móc, dây chuyền sản xuất giầy của EU luôn được đầu tư và đổi mới, nâng cao, đạt tới trình độ cao. Những thương hiệu nổi tiếng về giày dép chủ yếu ở Châu Âu. Hằng năm, ngành công nghiệp này sản xuất trên dưới 1 tỷ đôi, chiếm 10% toàn thế giới. Ngành công nghiệp này có vai trò quan trọng trong việc giữ ổn định và tăng trưởng, duy trì lượng cung cấp giầy dép ổn định và chất lượng cao, tinh xảo, thời trang cho các quốc gia trên thế giới. Trong đó, Italia là nước có vai trò chủ chốt trong công nghiệp giầy của khu vực châu Âu. Quốc gia này có quy mô sản xuất giầy lớn nhất, sản lượng luôn đứng đầu, chất lượng cao nổi tiếng thế giới. Hiện nay, để củng cố và nâng cao uy tín chất lượng của sản phẩm hơn nữa, ngành công nghiệp giầy EU đang có xu hướng thu hẹp lại để chuyển sang chuyên sản xuất những hàng có chất lượng cao sử dụng ít lao động, chuyển dịch sản xuất sang các nước có lợi thế về giá nhân công rẻ (chủ yếu là thuê nước ngoài gia công). 2.1.3.2. Tình hình tiêu thụ Do khí hậu ôn đới cộng với dân số đông (trên 500 triệu người) , mức sống cao vào loại nhất thế giới, nhu cầu giầy dép là rất lớn. Bình quân một người dân châu Âu tiêu thụ từ 4 đến 5 đôi trong một năm. EU là một thị trường giầy khổng lồ của thế giới, sức sản xuất giầy dép của EU vẫn chưa đáp ứng được hết nhu cầu đó và ngoài ra còn do yếu tố giá thành của sản phẩm giầy dép EU quá cao so với một số nhóm người nên nhu cầu giầy dép nhập khẩu của châu Âu là rất lớn. Trong đó, Đức là nước có số lượng tiêu thụ giầy dép lớn nhất EU. Tiếp đến là Pháp với mức bình quân 330 triệu đôi. Ngược lại, Tây Ban Nha là nước có mức tiêu thụ giầy dép thấp nhất, bình quân 110 triệu đôi. EU là một thị trường khó tính, người tiêu dùng yêu cầu sản phẩm có chất lượng cao và đặc biệt yếu tố quyết định khi họ lựa chọn sản phẩm là sản phẩm đó phải có thương hiệu nổi tiếng. Những xu hướng tiêu dùng của người dân Châu Âu ngày càng thể hiện sự chú trọng cao hơn nữa vào chất lượng, kiểu dáng, xu hướng thời trang của thế giới. Và xu thế tiêu dùng của người dân trong vài năm gần đây là dùng giầy vải thay cho giầy da, thiên về thích sử dụng chất liệu tự nhiên. Còn nhu cầu giầy dép của nữ thiên về tính thời trang hơn so với trước kia chỉ quan tâm hàng đầu là chất lượng. Nhu cầu giầy dép ở lứa tuổi thanh thiếu niên và trung niên thì thiên về giầy thể thao, mang tính trẻ trung và mạnh mẽ. Đồng thời, người dân EU rất tôn trọng luật pháp và tính dân chủ cao, do vậy người tiêu dùng luôn có xu hướng tìm hiểu kỹ lưỡng trước khi sử dụng bất kỳ một loại sản phẩm nào. Vì thế, doanh nghiệp xuất khẩu cần phải xây dựng một kho dữ liệu để sẵn sàng trả lời các câu hỏi của khách hàng. Thu nhập người dân cao, dân số ngày càng tăng nhu cầu giầy dép ngày càng nhiều, yêu cầu về chất lượng ngày một cao hơn, sự lựa chọn của người tiêu dùng nhiều hơn (vì có nhiều nhà sản xuất giầy dép hơn trước rất nhiều). Ở mỗi nước đều có sở thích khác nhau, sự lựa chọn khác nhau, văn hoá đời sống, tâm lý cũng khác nhau: sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội giữa các nước tạo nên sự đa dạng trong một tổng thể thống nhất của liên minh Châu Âu nên ở mỗi nước có sự khác biệt trong tiêu thụ, nhu cầu riêng. Việc am hiểu các thị trường riêng biệt trong EU là một nhân tố quyết định sự thành công của các doanh nghiệp khi xuất khẩu giầy dép sang thị trường EU. 2.2. Tình hình chung về xuất khẩu giầy dép của Việt Nam 2.2.1. Ngành giầy dép Việt Nam Sản xuất giầy dép của Việt Nam từ năm 1991 trở về trước hầu như chỉ có tiêu thụ nội địa, không có xuất khẩu. Đến năm 1992, ngành Giầy dép đã xuất khẩu được 5 triệu USD và đã liên tục tăng trưởng với tốc độ cao từ năm 1993 đến nay. Sau 10 năm xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu giầy dép đã tăng 369,2 lần, đó là tốc độ tăng cao nhất so với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác trong thời gian tương ứng.   Ngành da giầy Việt Nam là ngành công nghiệp đạt vị trí thứ ba về kim ngạch xuất khẩu, chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Là ngành có định hướng xuất khẩu rõ rệt (chiếm trên 90% sản lượng sản xuất), tỷ lệ xuất khẩu của ngành luôn chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Giá trị xuất khẩu da giầy Việt Nam 2001-2006 (Đơn vị: Triệu USD) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 1.500 1.600 1.800 2.250 2.700 3.039 3.550 Nguồn: Hiệp hội Da Giầy Việt Nam Việt Nam luôn là một trong 10 nước sản xuất và xuất khẩu giầy lớn nhất thế giới. Từ năm 2004, Việt Nam đã trở thành nước đứng thứ tư thế giới về xuất khẩu giầy dép, sau Trung Quốc, Hồng Kông, Italy, với kim ngạch đạt hơn 2,6 tỷ USD trong năm 2004, tăng gần 15% so với năm 2003. Đến năm 2005, kim ngạch xuất khẩu của ngành da giầy Việt Nam đã đạt 3,039 tỷ đô la (2,34 tỷ euro). Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu của ngành da giầy Việt Nam đạt 3,59 tỷ USD, tăng bình quân 0,403 tỷ USD/năm trong giai đoạn 2001-2006. Đến cuối năm 2006, theo thống kê trong 10 đôi giầy tiêu thụ trên thế giới có tới 2 đôi sản xuất tại Việt Nam, giúp Việt Nam trở thành "nước lớn" về sản xuất giầy dép trên thế giới, xét trong chấu Á thì chỉ đứng sau Trung Quốc và Ấn Độ. Năm 2006, có 490 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu giầy dép, nhiều hơn 15 doanh nghiệp so với năm 2005. Kim ngạch xuất khẩu của 321 doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước chiếm 36,2% kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành, đạt 1,3 tỷ USD, tăng 18,18% so với năm 2005. Như vậy, kim ngạch xuất khẩu giầy dép của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước đã tăng trở lại sau 3 năm liên tiếp bị giảm. Có được thành công này là nhờ sự chủ động của nhiều doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường, chuyển đổi cơ cấu sản xuất kịp thời, đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Với sự nỗ lực to lớn, nhiều doanh nghiệp đã vượt bậc đáng kể trong danh sách các doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép đạt kim ngạch cao năm 2006, tiêu biểu là các doanh nghiệp: Cty TNHH Đông phương Đồng Nai Việt Nam, Cty TNHH SX Thương mại Đức Thành, Cty Cao su Thống Nhất, Cty TNHH Tam Đa, Cty SX Giầy Đồng nai Việt Vinh, Cty TNHH May thêu An Phước… Trong 113 doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép đạt kim ngạch trên 5 triệu USD trong năm 2006, có 59 doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và 54 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện tại, toàn ngành da giầy Việt Nam có trên 750 dây chuyền đồng bộ sản xuất các loại giầy dép hoàn chỉnh với công suất 715 triệu đôi/năm. 2.2.2. Vai trò của Hiệp hội Da giầy Việt Nam Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam là tổ chức liên kết kinh tế -xã hội tự nguyện của các nhà sản xuất kinh doanh, nghiên cứu khoa học kỹ thuật và dịch vụ Da - Giầy thuộc mọi thành phần kinh tế đang hoạt động tại Việt Nam. Mục tiêu của Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam là tổ chức các hoạt động liên kết kinh tế, phân công và phối hợp thực hiện giữa các doanh nghiệp hội viên trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm.... trong ngành Da - Giầy nhằm khai thác tối đa tiềm năng hiện có, nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp hội viên, tăng khả năng cạnh tranh của toàn ngành trên thị trường xuất khẩu và có tiếng nói đại diện cho các doanh nghiệp hội viên. Đồng thời, Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam là đầu mối xúc tiến các mối quan hệ hợp tác Quốc tế, hỗ trợ kỹ thuật - công nghệ đào tạo, cung cấp các thông tin chuyên ngành tới các doanh nghiệp hội viên và các doanh nghiệp khác trong ngành nhằm thúc đẩy sự phát triển của toàn ngành. Trong những năm gần đây, Hiệp hội đã tổ chức được 10 khóa đào tạo về thiết kế và phát triển sản phẩm, marketing, kinh doanh, xuất nhập khẩu và các khóa dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hướng tới để các doanh nghiệp vượt qua các rào cản, đảm bảo thực hiện những yêu cầu của các nhà nhập khẩu (về môi trường, an toàn sức khoẻ). Hiệp hội tập trung công tác đào tạo vào 2 đối tượng chính: Đội ngũ cán bộ thiết kế và phát triển sản phẩm, đội ngũ marketing, xuất nhập khẩu và kinh doanh giỏi. Hai lực lượng này là nhân tố quyết định giúp cho việc đáp ứng mẫu mã và thời hạn giao mẫu chào hàng. Song hành với các hoạt động trên, công tác thông tin tuyên truyền, quảng bá sản phẩm và giới thiệu hình ảnh doanh nghiệp cũng đã được ý thức và quan tâm... 2.2.3. Các thị trường cho giầy dép xuất khẩu Việt Nam Trong số các thị trường xuất khẩu chủ yếu, EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ngành da giầy Việt Nam. Hàng năm, có khoảng 90% sản phẩm do ngành sản xuất được xuất khẩu sang các thị trường, trong đó thị trường EU chiếm tỷ trọng 59% (không kể số xuất khẩu qua các nước thứ ba), thị trường Mỹ hơn 20%, thị trường Nhật Bản 3%, còn lại là các thị trường nhỏ khác. Hiện tại, Việt Nam đứng thứ hai sau Trung Quốc về xuất khẩu giầy dép sang EU và giầy dép đang chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Mỹ là thị trường nhập khẩu giầy dép lớn thứ hai của Việt Nam với tốc độ nhập khẩu gia tăng mạnh trong thời gian qua, đặc biệt từ sau khi Việt Nam ký kết Hiệp định song phương với Mỹ và sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam sang Mỹ đạt 802 triệu USD, tăng 31% so với năm 2005, chiếm 22% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành. Trong thời gian tới, Mỹ sẽ là thị trường xuất khẩu mục tiêu đối với sản phẩm giầy dép của Việt Nam, với các sản phẩm xuất khẩu chính là giầy thể thao, giầy da nam nữ. Nhật Bản đang là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba với yêu cầu rất cao về chất lượng sản phẩm, thời hạn giao hàng và chủng loại sản phẩm. Tuy Việt Nam và Nhật Bản chính thức dành cho nhau quy chế Tối huệ quốc từ năm 2000, song ngành da giầy vẫn chưa gia tăng xuất khẩu được nhiều sang thị trường này. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản mới chỉ chiếm gần 3% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành. Dự kiến đến năm 2010, giầy dép của Việt Nam sẽ tăng tỷ lệ xuất khẩu vào Nhật cũng như vào các nước Đông Nam Á. Trong khu vực châu Á, Việt Nam đứng thứ ba trong số các nước xuất khẩu giầy dép lớn nhất vào Nhật Bản, chỉ sau Trung Quốc và Italia. Thị trường Mêhicô, tuy chiếm tỷ trọng không lớn (Năm 2005 đạt 105,257 triệu USD), song có dấu hiệu sẽ bị kiện phá giá do tốc độ xuất khẩu từ Việt Nam vào Mehicô tăng nhanh, giá cả thấp (các doanh nghiệp và đối tác tranh thủ xuất khẩu qua thị trường này để vào Hoa kỳ và các nước lân cận với lợi thế ưu đãi của khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA)). Các thị trường khác (như Đông Âu, các nước Nam Phi...) đã và đang được các doanh nghiệp quan tâm khảo sát và tìm hiểu, song hạn chế của thị trường này là khâu thanh toán, rủi ro cao. Thị trường giầy dép xuất khẩu Việt Nam 2.2.4.Thị trường EU Cho đến nay, có nhiều số liệu khác nhau về tỷ trọng của EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu giầy dép và sản phẩm da của Việt Nam . Tính chung cả năm 2006, kim ngạch xuất khẩu giầy dép của nước ta sang EU đạt 1,951 tỷ USD, tăng 10,83% so với năm 2005. EU vẫn là thị trường nhập khẩu giầy dép lớn nhất của nước ta, nhưng chiếm tỷ trọng kim ngạch thấp hơn so với những năm trước đây. Từ năm 2003 trở về trước, EU luôn chiếm trên 70% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu giầy dép của nước ta. Năm 2005, tỷ trọng này giảm xuống còn 57,9% và năm 2006 giảm còn 54,32%. Kim ngạch xuất khẩu giầy dép Việt Nam sang EU (Đơn vị : triệu USD) Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Kim ngạch 1060,8 1181,5 1363,7 1605,5 1782,4 1810,9 1951 Nguồn : Hải quan Việt Nam Cơ cấu sản phẩm Các loại sản phẩm chủ yếu là giầy thể thao, chiếm trên 40% kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam sang thị trường này; giầy vải gần 20%; giầy nữ xấp xỉ 15%; dép khoảng 17% và giầy da hơn 1,5%. Sự thay đổi về cơ cấu sản phẩm Các mặt hàng giầy có mũ từ da giảm mạnh (đặc biệt giầy nữ có mũ từ da), nhiều đối tác chuyển hướng đặt sản xuất giầy thể thao công nghệ cao hoặc giầy khác có mũ từ giả da nhằm tránh bị ảnh hưởng của việc áp thuế. Mặt hàng giầy vải tăng mạnh, một phần do nhu cầu tiêu dùng gia tăng, một phần do được duy trì trở lại sau thời gian dai suy giảm (bởi các đơn hàng dự trữ hoăc tồn kho nhiều…). Để đáp ứng nhu cầu giầy vải, một số doanh nghiệp tập trung khai thac tối đa năng lực sản xuất hiện có, một số khác khôi phục trở lại các dây chuyền sản xuất đã chuyển đổi trước đây. Tuy nhiên, yêu cầu về chất lượng, mẫu mã các loại giầy vải cao hơn nhiều so với những năm trước đây, đặc biệt các loại giầy vải thời trang. Sản lượng dép sandals, dép đi trong nhà gia tăng với nhiều mẫu mã da dạng, phong phú. Vụ kiện bán phá giá Vụ kiện chống bán phá giá giầy có mũ da Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU bắt đầu ngày 07/07/2005, khi Uỷ ban Châu Âu (EC) chính thức thông báo Quyết định mở cuộc điều tra chống bán phá giá đối với các sản phẩm giầy mũ da của Việt Nam và Trung Quốc theo đơn kiện của Liên minh ngành sản xuất giầy da Châu Âu, đại diện cho các nhà sản xuất chiếm tới hơn 40% tổng sản lượng giầy có mũ da của EU. 115 doanh nghiệp Việt Nam đã tự nguyện tham gia và hợp tác đầy đủ với EC trong tiến trình điều tra.60 nhà sản xuất của Việt Nam bị liệt kê trong đơn kiện. Vụ kiện bán phá giá giầy mũ da vào châu Âu được một số nhà sản xuất giầy, chủ yếu của Pháp và Italia, đã hối thúc EU tiến hành vì cho rằng giầy xuất xứ từ Trung Quốc và Việt Nam đang bán phá giá trên thị trường châu Âu. Trong 5 tháng đầu năm nay, lượng nhập khẩu giầy da của Trung Quốc vào châu Âu đã tăng 900%. EU đã tự tính ra mức thuế  hết sức vô lý để áp cho ngành da giầy Việt Nam. Họ đã lấy giá bán bình quân của cùng một nhóm sản phẩm (khởi kiện) trừ cho giá thành của nước tham chiếu là Brazil để cho ra mức chênh lệch làm biên độ phá giá. Sự vô lý ở chỗ là ngành giầy Việt Nam và Brazil hoàn toàn khác biệt, trong đó quan trọng nhất là giá nhân công và nguyên liệu của Brazil cao hơn Việt Nam rất nhiều, trong khi Việt Nam có lợi thế chi phí lao động thấp và công nghệ hiện đại. EU cũng “phớt lờ” yêu cầu của các doanh nghiệp Việt Nam chọn Thái Lan là nước có điều kiện tương đồng để so sánh tính biên độ phá giá. Rõ ràng, mọi sự đã có tính toán để đạt được mục tiêu là ngăn chặn sản phẩm giầy Việt Nam vào châu Âu. Thuế chống bán phá giá của EU đối với giầy mũ da của nước ta là nguyên nhân chính làm cho kim ngạch xuất khẩu giầy dép của nước ta sang EU bị giảm liên tiếp trong các tháng cuối năm 2006. Hiệp hội Da giầy cho biết, do tác động của vụ kiện chống bán phá giá đối với ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36063.doc