A. Mở đầu
Như chúng ta đã biết, phá sản là một hiện tượng có từ lâu đời trên thế giới. Phá sản đã trở thành một hiện tượng, một xu thế tất yếu của quá trình cạnh tranh, quá trình đào tạo và chọn lọc tự nhiện. Nó loại bỏ các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Như vậy phá sản là một hiện tượng khách quan nó góp phần làm lành mạnh hoá thị trường, thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, từ đó góp phần vào đẩy nhanh và sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. ở các nước trên thế giới đều dùng t
28 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1503 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thủ tục giải quyết phá sản theo Luật phá sản mới 2004, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huật ngữ phá sản để mô tả tình trạng không có khả năng thanh toán nợ đến hạn của một con nợ. Riêng đối với Việt Nam, trước đây nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung luật pháp không đặt ra vấn đề phá sản. Khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, có rất nhiều loại hình doanh nghiệp đã ra đời tồn tại và phát triển. Rất nhiều doanh nghiệp đã hoạt động có hiệu quả, có nhiều đóng góp cho sự ổn định và phát triển nền kinh tế đóng góp cho ngân sách Nhà nước tạo công ăn việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp đã và đang làm ăn thua lỗ nợ chồng chất mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và thực chất đã lâm vào tình trạng phá sản. Vì vậy Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật phá sản doanh nghiệp ngày 30/12/1993. Tuy nhiên khái niệm về vấn đề phá sản có nhiều cách hiểu khác nhau. Chẳng hạn Luật phá sản của úc quy định một số doanh nghiệp có thể bị tuyên bố phá sản do chủ nợ gửi đơn yêu cầu toà án tuyên bố phá sản nến khoản nợ ở đây ít nhất là 1000$. Còn luật của Anh quy định rõ một doanh nghiệp mất khả năng thanh toán một khi có một chủ nợ số tiền trên 50 bảng gửi đơn đòi nợ doanh nghiệp sau 3 tuần lễ. Doanh nghiệp không trả được nợ thì coi như doanh nghiệp bị mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và bị đưa ra thi hành thủ tục phá sản của doanh nghiệp. Còn đối với Việt Nam thì Luật phá sản của Việt Nam không xác định khái niệm phá sản mà chỉ nêu ra khái niệm "doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản" Theo quy định của pháp luật, doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp phải khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định 189/CP ngày 23/12/1994 trong đó đã xác định một doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản được xác định bởi ba dấu hiệu sau:
- Doanh nghiệp gặp phải khó khăn thua lỗ trong kinh doanh
- Doanh nghiệp áp dụng các biện pháp tài chính cần tiết
- Doanh nghiệp vẫn không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
Qua đây ta thấy rõ dấu hiệu mất khả năng thanh toán là dấu hiệu đặc trưng cơ bản để xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản doanh nghiệp thua lỗ trong vòng 2 năm liên tiếp sau khi đã áp dụng vào các biện pháp tài chính cần thiết vẫn không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
Vấn đề phá sản là một vấn đề không phải là mới đối với chúng ta (vì đã được ban hành bắt đầu từ năm 1993) tuy nhiên do cơ chế thị trường thay đổi. Vấn đề phá sản lại là một vấn đề rất hấp dẫn đối với mỗi người nghiên cứu. Bởi một nền kinh tế thị trường mở cửa và năng động làm cho cạnh tranh gay gắt nên vấn đề phá sản cũng khác với chế độ cũ khi mà cạnh tranh luôn yếu ớt. Rất nhiều vấn đề liên quan đến phá sản đã được nêu ra, nghiên cứu bàn bạc và tranh luận, nhưng đối với tôi vấn đề "Thủ tục giải quyết phá sản theo Luật phá sản mới 2004" là thực sự cuốn hút. Bởi lẽ thủ tục giải quyết phá sản theo luật phá sản 1993 có nhiều điểm không còn phù hợp với cơ chế hiện nay. Trong phạm vi bài tiểu luận tôi xin được trình bày sự hiểu biết của mình về vấn đề này.
B. Nội dung
I Khái niệm chung về phá sản và phân loại phá sản
1. Khái niệm chung về phá sản
Phá sản là một hiện tượng có từ lâu đời trên thế giới. Phá sản đã trở thành một hiện tượng, một xu thế tất yếu của quá trình cạnh tranh đào thải và chọn lọc tự nhiên. Nó loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả thua lỗ từ đó càng khẳng định vị trí tồn tại và sự phát triển của doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Phá sản là một hiện tượng khách quan nó góp phần làm lành mạnh hoá thị trường thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả từ đó đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế đất nước. ở Việt Nam, theo điều 3 của Nghị định 189/CP một doanh nghiệp nếu lâm vào tình trạng phá sản được xác định bởi 3 dấu hiệu sau:
- Doanh nghiệp gặp khó khăn thua lỗ trong kinh doanh
- Doanh nghiệp đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết
- Doanh nghiệp vẫn không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
Rõ ràng là dấu hiệu mất khả năng thanh toán là dấu hiệu đặc trưng cơ bản để xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Doanh nghiệp kinh doanh bị thua lỗ trong vòng 2 năm liên tiếp sau khi áp dụng những biện pháp tài chính cần thiết vẫn không khắc phục được tình trạng phá sản, không đặt ra vấn đề thanh toán nợ đến hạn. Tuy nhiên chúng ta cũng cần hiểu rằng. Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chưa hẳn đã bị phá sản mà chỉ coi là phá sản khi đã tiến hành một thủ tục tố tụng nhất định
Pháp luật về phá sản có khác với các văn bản pháp luật khác ở chỗ ngay chính trong một văn bản vừa chứa đựng quy phạm pháp luật nội dung vừa chứa đựng quy phạm pháp luật hình thức đó chính là thủ tục tố tụng. Tuy nhiên pháp luật ở mỗi nước khác nhau: ở nhiều nước vấn đề xử lý phá sản thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều văn bản khác nhau. Ví dụ ở Cộng hoà Liên bang Đức ngoài luật phá sản thì Bộ thương mại còn một số quy định về phá sản đối với công ty. Mặc dù điều kiện kinh tế - xã hội cũng như đặc điểm về lịch sử văn hoá tập quán ở mỗi nước khác nhau nhưng pháp luật về phá sản ở các nước có sự quy định gần giống nhau theo cơ cấu phần quy phạm mở thủ tục phá sản, điều kiện mở thủ tục, tài sản phá sản...
Nhìn chung pháp luật phá sản của các nước nói chung đã đáp ứng được những mục tiêu cơ bản như bảo vệ quyền về tài sản của các chủ nợ, cơ cấu lại nền kinh tế bảo vệ lợi ích của lao động, bảo vệ trật tự kỷ cương xã hội đồng thời bảo vệ cả những con nợ. Việc tuyên bố phá sản là hình thức "giải phóng cho con nợ khỏi những ràng buộc pháp lý cũng như về đạo lý, tạo thêm điều kiện và cơ hội cho họ trở lại môi trường kinh doanh tránh cho họ sức ép đối với nợ theo kiểu "luật rừng"". Như vậy ta thấy pháp luật phá sản là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định điều kiện thủ tục giải quyết phá sản và xử lý các quan hệ xã hội có liên quan đến phá sản
2. Phân loại phá sản
Tuỳ thuộc vào góc độ xem xét có nhiều cách phân loại khác nhau
2.1. Phá sản trung thực và phá sản gian trá
Sự phân biệt này dựa trên tính chất quan hệ kinh tế dưới góc độ nguyên nhan gây ra tình trạng phá sản. Như tên gọi phá sản trung thực là hậu quả khách quan của tình trạng làm ăn thua lỗ kéo dài do các nguyên nhân khách quan như: do thiên tai lũ lụt, bão, động đất, sóng thần, hoặc do rủi ro của thị trường. Còn phá sản gian trá là hậu quả của những thủ đoạn gian trá có sự sắp đặt trước của con nợ nhằm lợi dụng cơ chế phá sản để chiếm đoạt tài sản của chủ nợ.
2.2. Phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc
Sự phân biệt này dựa trên căn cứ phát sinh quan hệ pháp lý cụ thể là dựa trên căn cứ cụ thể ai là người đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Phá sản tự nguyên là do chính chủ doanh nghiệp mắc nợ viết đơn khi thấy mình không có khả năng thanh toán nợ cho các chủ thể ngược lại phá sản bắt buộc được thực hiện do yêu cầu của các chủ nợ
2.3. Phá sản doanh nghiệp và phá sản cá nhân
Sự phân biệt này có liên quan đến việc đối tượng điều chỉnh luật phá sản. Pháp luật của nhiều nước trên thế giới không có sự phân biệt này vì bất kể cá nhân hay doanh nghiệp, thương gia hay không phải thương gia khi lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn đều thuộc phạm vi điều chỉnh của luật phá sản. Trong khi đó luật phá sản của nước ta chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam
2.4. Phân biệt phá sản và giải thể
Phá sản và giải thể đều là sự chấm dứt sự tồn tại của mọt doanh nghiệp và sự phân chia tài sản còn lại cho các chủ nợ, giải quyết quyền lợi của người làm công nhưng về bản chất phá sản và giải thể lại là hai chế định pháp lý khác nhau.
- Lý do phá sản hẹp hơn lý do giải thể bởi lẽ: phá sản bao giờ cũng bắt nguồn từ việc doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài dẫn đến mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Trong khi đó vấn đề giải thể lại có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau như: hết hạn hoạt động ghi trong điều lệ hoạt động, thấy mục tiêu của doanh nghiệp không thể thực hiện được nữa hoặc không còn có lợi hoặc doanh nghiệp đã hoàn thành mục tiêu đã định...
- Việc giải thể cơ sở sản xuất kinh doanh là do những người chủ sở hữu của cơ sở đó tự quyết định hoặc do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định thì phá sản thuộc thẩm quyền của một cơ quan Nhà nước duy nhất là toà án. Như vậy phá sản và giải thể có sự khác nhau ở cơ quan thẩm quyền và thực hiện các hành vi ấy.
- Thủ tục tiến hành giải thể là thủ tục hành chính còn thủ tục phá sản là một thủ tục thuần tuý tư pháp do toà án có thẩm quyền thực hiện
- Về thái độ của Nhà nước đối với chủ sở hữu hay người điều hành quản lý doanh nghiệp bị phá sản, giải thể, cũng có sự phân biệt rõ rệt. Chẳng hạn như điều 50 khoản 1 của luật phá sản hạn chế quyền tự do kinh doanh hành nghề của chủ sở hữu hay người điều hành quản lý doanh nghiệp bị tuyên bô phá sản. Trong khi đó doanh nghiệp bị giải thể không đặt ra điều kiện này. Như vậy Nhà nước thể hiện rõ thái độ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp bị phá sản.
Giải thể bao giờ cũng dẫn tới kết qủa là chấm dứt hoạt động và xoá tên doanh nghiệp,ngược lại phá sản không phải lúc nào cũng dẫn tới kết quả như vậy.Bời trong thực tế không loại trừ khả năng một cá nhân hay pháp nhân mua lại toàn bộ doanh nghiệp mắc nợ,giữ nguyên tên hãng và tiếp tục duy trì sản xuất.
II .TìM HIểU CHUNG Về LUậT PHá SảN 2004.
1. Vài nét về sự ra đời của Luật phá sản 2004.
Với sự chi phối của các quy luật trong nền kinh tế thị trường, phá sản là một hiện tượng tất yếu, là hệ quả của nền kinh tế mở cửa, là kết quả của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên loại bỏ các chủ thể kinh doanh yếu kém, khẳng định sự tồn tại của chủ thể kinh doanh có hiệu quả. ở Việt Nam, Luật phá sản doanh nghiệp lần đầu tiên được Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ V thông qua ngày 30/12/1993 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/1994. Qua hơn 9 năm thi hành đạo luật này đã phát huy được vai trò nhất định trong việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh có hiệu quả và bảo vệ trật tự kỷ cương xã hội trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên được xây dựng và ban hành trong điều kiện thời gian đầu thực hiện công cuộc chuyển đổi nền kinh tế, thiếu kinh nghiệm về giải quyết phá sản của Việt Nam còn hạn chế cả về lý luận và thực tiễn do đó Luật phá sản 2003 đã dần bộc lộ nhiều thiếu sót bất cập trước đòi hỏi thực tiễn phá sản ở Việt Nam hiện nay
Những hạn chế của Luật phá sản doanh nghiệp 1993 là một trong những nguyên nhân cơ bản làm giảm hiệu quả xử lý phá sản ở Việt Nam. Theo tổng kết của toà án nhân dân tối cao trong hơn 9 năm thi hành Luật phá sản doanh nghiệp toàn ngành toà án chỉ thụ lý 151 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp trong đó chỉ tuyên bố được 46 doanh nghiệp bị phá sản. So với đa số các nước có nền kinh tế thị trường trên thế giới số vụ phá sản hàng năm được giải quyết tại toà án Việt Nam là rất ít. Thực trạng này có nhiều nguyên nhân cơ bản phải kể đến là do Luật phá sản doanh nghiệp 1993 có những nội dung chưa phù hợp với thực thế nên chưa đi vào cuộc sống điều này t hể hiện ở các quy định như tiêu chí xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, hội nghị chủ nợ, trình tự tố tụng về thứ tự phân chia tài sản... Những hạn chế này gây không ít khó khăn vướng mắc cho các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
Trong tờ trình Quốc hội về dự án luật phá sản sửa đổi ngày 10/10/1993.Toà án nhân dân tối cao cũng đã nhận định rằng con số 151 vụ thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản và 46 doanh nghiệp đã bị tuyên bố phá sản trong 9 năm thi hành luật phá sản doanh nghiệp 1993 không phải nói lên rằng doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ở nước ta ít, các doanh nghiệp đều hoạt động kinh doanh lành mạnh có lãi mà thực tế số lượng doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản lớn hơn rất nhiều lần con số này nhưng không thể tuyên bố phá sản được đối với các doanh nghiệp đó với lý do nhiều vấn đề liên quan đến phá sản chưa được luật phá sản doanh nghiệp 1993 quy định. Nhiều quy định của luật phá sản 1993 còn bất cập không phù hợp với thực tế khách quan. nguyên nhân là do luật này được xây dựng từ đầu những năm 90, là những năm đầu tiên của đổi mới hiểu biết của chúng ta về nền kinh tế thị trường còn ít, điều kiện tham khảo các quy định của pháp luật nước ngoài về phá sản còn bị hạn chế. Chúng ta còn thiếu kinh nghiệm cho nên nhiều vấn đề chưa lường trước được để quy định trong luật phá sản hiện hành
Thực hiện Nghị quyết của quốc hội số 12/2004/QUAN Hệ 11 ngày 16/12/2002 về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của quốc hội nhiệm kỳ khoá XI (2002 - 2007) để khắc phục kịp thời những bất cập của Luật phá sản doanh nghiệp 1993 tăng cường hiệu quả giải quyết phá sản ngày 15/6/2004 tại kỳ họp thứ 5 (khoá XI). Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua luật phá sản. Luật này có hiệu lực kể từ ngày 15/10/2004 và thay thế cho luật phá sản năm 1993. Luật phá sản 2004 được xây dựng và ban hành với những tư tưởng chủ đạo cơ bản là:
- Thể chế hoá các quan điểm và nội dung phương hướng nhiệm vụ khách quan về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 - 2005) được xác định trong Nghị quyết đại hội IX của ĐCSVN Nghị quyết hội nghị lần thứ 3 ban chấp hành trung ương khoá IX về sắp xếp đổi mới phát triển doanh nghiệp Nhà nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 ban chấp hành trung ương khoá IX về phát triển kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đang ở trong tình trạng kinh doanh khó khăn,thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thương trường một cách trật tự, bảo vệ quyền lợi thích hợp, lợi ích hợp pháp của chủ nợ, các doanh nghiệp mắc nợ, luật phá sản đóng vai trò là một công cụ quan trọng để thu hồi nợ
- Khắc phục kịp thời những tồn tại vướng mắc đang xảy ra trong thực tiễn phá sản.
- Kế thừa những quy định hợp lý về luật phá sản doanh nghiệp 2004, đồng thời nghiên cứu tham khảo có chọn lọc pháp luật về phá sản của nước ngoài.
- Xúc tiến việc hình thành đồng bộ các loại thị trường đi đối với việc thành lập khung pháp luật bảo đảm đúng sự quản lý giám sát của Nhà nước. Coi trọng công tác tiếp thị và tổ chức thị trường, tạo thêm thuận lợi cho các cá nhân và doanh nghiệp tiếp cận thị trường, ký kết hợp đồng tự chủ và tự chịu trách nhiệm kinh doanh, giảm đến mức tối đa sự can thiệp hành chính của các cơ quan Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch trong kinh doanh
- Chủ sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà nước có quyền thành lập, sát nhập, chia tách, chuyển đổi sở hữu, giải thể, yêu cầu phá sản doanh nghiệp
- Hợp tác xã tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong lựa chọn ngành nghề kinh doanh, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, quản lý sự phát triển của kinh tế tư nhân theo pháp luật, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế
- Chuyển quyền kiểm soát tài sản sang các chủ nợ và góp phần tái phân phối sản phẩm nhằm mục đích sử dụng hiệu quả hơn các tài sản đó trên cơ sở kết hợp giữa việc tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã thanh toán và tài sản của doanh nghiệp. HTX trong trường hợp không có khả năng phục hồi hoạt động kinh doanh.
- Thúc đẩy sự lưu thông vốn trong điều kiện nền kinh tế thị trường bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ và đóng vai trò là một trong những công cụ quan trọng để thu hồi nợ
2. Thủ tục giải quyết phá sản theo luật phá sản 2004.
2.1 Nộp và thụ lý đơn
Được quy định trong điều 7 và điều 8
Điều 7: 1. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là toà án nhân dân cấp huyện) có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đói với hợp tác xã đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện đó.
2. Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là toà án nhân dân cấp tỉnh) có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký cáp kinh doanh cấp tỉnh đó. Trong trường hợp cần thiết toàn án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để tiến hành thủ tục phá sản đối với hợp tác xã thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân cấp huyện
3. Toà án nhân dân cấp thành phố nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đó.
Điều 8. Nhiệm vụ và quyền hạn của thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản
1. Việc tiến hành thủ tục phá sản tại toà án nhân dân cấp huyện do một thẩm phán phụ trách tại toà án nhân dân cấp tỉnh do một thẩm phán hoặc tổ thẩm phán gồm có 3 thẩm phán phụ trách
2. Trong trường hợp tổ thẩm phán phụ trách tiến hành thủ tục phá sản thì một thẩm phán được giao làm tổ trưởng. Quy chế làm việc của tổ thẩm phán do chánh án toà án nhân dân tối cao quy định.
3. Thẩm phán hoặc tổ thẩm phán (sau đây gọi chung là thẩm phán) có nhiệm vụ quyền hạn giám sát tiến hành thủ tục phá sản. Trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản nếu có phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì thẩm phán cung cấp tài liệu (bản sao) cho viện kiểm soát nhân dân cùng cấp để xem xét việc khởi tố về hình sự và vẫn tiến hành thủ tục phá sản theo quy định của luật này
4. Thẩm phán chịu trách nhiệm trước chánh án và trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình
Điều 7. Điều 8 luật phá sản doanh nghiệp quy định 2 loại chủ thể có quyền đệ đơn và yêu cầu toà án giải quyết việc tuyên bố phá sản là chủ nợ và người lao động
Đối với chủ nợ sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày gửi giấy đòi nợ đến hạn mà không được doanh nghiệp thanh toán chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn đến toà án nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp mắc nợ. Tuy nhiên quyền của chủ nợ có đảm bảo bị hạn chế bởi chính sự thoả thuận về việc xử lý trị giá tài sản được bảo đảm. Còn chủ nợ không có bảo đảm (có khoản nợ mà không được bảo đảm bằng bất kỳ tài sản nào của doanh nghiệp mắc nợ) và chủ nợ có bảo đảm một phần (được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp mắc nợ nhưng giá trị tài sản đó nhỏ hơn số nợ) được quyền viết đơn yêu cầu toà án giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Gửi kèm theo đơn là bản sao các giấy tờ tài liệu chứng minh tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp mắc nợ
Đối với người lao động, nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của người làm công trong doanh nghiệp
Điều 13, 14 Luật phá sản doanh nghiệp quy định trong trường hợp doanh nghiệp không trả được lương cho người lao động trong 3 tháng liên tiếp thì đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động cũng có quyền đệ đơn như các chủ nợ khác và sau khi nộp đơn trở thành chủ nợ của doanh nghiệp mắc nợ. Ngoài ra chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp mắc nợ có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản nếu hết thời hạn áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết để thanh toán các khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp không thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn vì hơn ai hết doanh nghiệp biết rõ tình trạng tài chính của mình
Kèm theo đơn phải có bản danh sách các chủ nợ và số nợ phải trả cho mỗi chủ nợ địa chỉ của các chủ nợ bản tường trình về trách nhiệm của giám đốc và các thành viên của hội đồng quản trị trong doanh nghiệp đối với tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, báo cáo tình hình tài chính kinh doanh 6 tháng trước khi không trả được nợ đến hạn, báo cáo tổng kết năm tài chính của 2 năm cuối cùng, nếu doanh nghiệp hoạt động chưa đến 2 năm thì phải gửi báo cáo tài chính của cả thời gian hoạt động, các hồ sơ kế toán có liên quan. Điều này đã được pháp luật quy định rõ rệt trong điều 13, điều 14 trong luật phá sản 2004.
Điều 13.1. Khi nhận thấy doanh nghiệp, HTX, lầm vào tình trạng phá sản thì các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần đều có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, HTX đó.
2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải có các nội dung chính sau đây:
- Ngày, tháng, năm làm đơn
- Tên, địa chỉ của người làm đơn
- Tên địa chỉ của doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản
- Các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần đến hạn mà không được doanh nghiệp, HTX thanh toán
- Quá trình đòi nợ
- Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản
3. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải được gửi cho toà án có thẩm quyền quy định tại điều 7 của luật này
Điều 14. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
1. Trong trường hợp doanh nghiệp, HTX không trả được lương, các khoản nợ cho người lao động và nhận thấy doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản thì người lao động cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, HTX đó.
Đại diện cho người lao động được cử hợp pháp sau khi được quá nửa số người lao động trong doanh nghiệp HTX tán thành bằng cách lấy phiếu kín hoặc lấy chữ ký với doanh nghiệp, HTX với quy mô lớn có nhiều đơn vị trực thuộc thì đại diện cho người lao động được cử hợp pháp phải được quá nửa số người được cử làm đại diện từ các đơn vị trực thuộc tán thành.
2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải có các nội dung chính sau
- Ngày tháng năm làm đơn
- Tên,địa chỉ người làm đơn
- Tên địa chỉ của doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản
- Số tháng nợ tiền lương, tổng số tiền lương và các khoản nợ khác mà doanh nghiệp, HTX không trả được cho người lao động.
3. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải được gửi cho toà án có thẩm quyền quy định tại điều 7 của luật này.
4. Sau khi nộp đơn đại diện cho người lao động hoặc đại diện cho công đoàn được coi là chủ nợ
Còn đối với toà án, trong quá tình giải quyết các vụ án có liên quan đến doanh nghiệp, nếu phát hiện ra doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì toà án thông báo cho các chủ nợ và doanh nghiệp đó biết để nộp đơn yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên toà án không phải là chủ thể có nghĩa vụ nộp đơn. Việc toà án thực hiện nghĩa vụ này có ý nghĩa tương tự như đối với cơ quan thanh tra tài chính... khi thực hiện chức năng của mình.
Theo quy định của luật thì toà kinh tế thuộc toà án nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc trung ương là cơ quan có thẩm quyền thụ lý đơn và giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp. Toà án thụ lý đơn phải vào sổ và cấp cho người nộp đơn giấy báo đã nhận được đơn và các giấy tờ kèm theo đơn. Trong thời hạn một tuần kể từ ngày thụ lý đơn toà phải thông báo cho doanh nghiệp mắc nợ biết có bản sao đơn và các tài liệu có liên quan kèm theo. Trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày thụ lý đơn chánh toà toà kinh tế phải xem xét và ra quyết định mở hay không mở thủ tục giải quyết tuyên bố phá sản.
2.2Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lý đơn xét thấy không có đủ căn cứ. Chánh toàn kinh tế ra quyết định không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Các bên có liên quan có quyền khiếu nại với chánh án toà án nhân dân cấp tỉnh và các quyết định của chanh án toà kinh tế, thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại chánh toàn án nhân dân cấp tỉnh phải ra được 1 trong 2 quyết định
- Giữ nguyên quyết định của chánh toà kinh tế toà án cấp tỉnh
- Huỷ quyết định của chánh toà kinh tế toà án cấp tỉnh và yêu cầu xem xét lại.
Trường hợp vẫn còn khiếu nại thì chánh toà án nhân dân cấp tỉnh ss quyết định quyết định của chánh án toà án nhân dân cấp tỉnh có hiệu lực thi hành.
Nếu thấy đủ căn cứ chánh toà kinh tế cấp tỉnh ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Quyết định này phải nêu rõ lý do mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Thời điểm ngừng thanh toán các khoản nợ,họ tên thẩm phán phụ trách và chỉ định nhân viên tổ quản lý tài sản. Tuỳ tính chất và công việc cụ thể chánh án toà án cấp tỉnh chỉ định một thẩm phán hoặc một tập thể thẩm phán gồm 3 người để giải quyết. Thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản là toà kinh tế, toà án nhân dân tỉnh còn trực tiếp tiến hành các hoạt động đó là thẩm phán và tổ quản lý tài sản. Thẩm phán chịu trách nhiệm trước toà án nhân dân cấp tỉnh về việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Tập thể thẩm phán làm việc theo quy chế do chánh án TAND tối cao ban hành trong bộ luật phá sản có quy định rõ nhiệm vụ quyền hạn của mình bao gồm:
- Thu thập tài liệu chứng cứ để lập hồ sơ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp
- Giám sát và kiểm tra hoạt động của các nhân viên tổ quản lý tài sản
- Ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật để đảm bảo tài sản của doanh nghiệp mắc nợ.
- Tổ chức và chủ trì hội nghị chủ nợ
- Ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp
- Tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì toà án nhân dân cung cấp tài liệu cho viện kiểm sát nhân dân cung cấp xem xét để khởi tố về hình sự. Theo quy định của Luật phá sản doanh nghiệp cùng với việc ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Chánh toàn kinh tế cấp tỉnh sẽ chỉ định tổ quản lý tài sản. Thành phần tổ quản lý tài sản gồm cán bộ của toàn kinh tế cấp tỉnh chấp hành viên của phòng thi hành án thuộc sở tư pháp đại diện chủ nợ, đại diện doanh nghiệp mắc nợ, đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động (nơi chưa có tổ chức công đoàn), chuyên viên của các cơ quan tài chính ngân hàng cấp tỉnh và các ngành chuyên môn khác. Tổ quản lý tài sản do một cán bộ toà án làm tổ trưởng. Quy chế tổ chức và hoạt động của tổ quản lý tài sản do Chính phủ quy định sau khi thống nhất ý kiến với TAND tối cao. Nhiệm vụ và quyền hạn của tổ quản lý tài sản gồm
- Lập bảng kê toàn bộ tài sản của doanh nghiệp.
- Giám sát kiểm tra việc quản lý tài sản của doanh nghiệp. Trong trường hợp cần thiết có quyền đề nghị thẩm phán áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp mắc nợ
- Tập hợp danh các chủ nợ và số nợ phải trả cho từng chủ nợ
- Tổ quản lý tài sản phải chịu trách nhiệm trước thẩm phán về việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình. Tổ quản lý tài sản là bộ phận giúp việc của toà án có trách nhiệm lên danh sách các chủ nợ và số nợ phải trả cho từng chủ nợ dựa trên cơ sở giấy đòi nợ do các chủ nợ gửi đến toà án và và giấy tờ sổ sách của doanh nghiệp mắc nợ.
2.3Hoà giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Pháp luật của nhiều nước nói chung đều sử dụng cơ chế này với mục đích tìm giải pháp duy trì doanh nghiệp, tạo cơ hội để doanh nghiệp mắc nợ vượt qua tình trạng mất khả năng thanh toán thay vì bị tuyên bố phá sản. Luật phá sản doanh nghiệp của Việt Nam quy định: Ngay sau khi ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, thẩm phán phải yêu cầu chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp xây dựng phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại kinh doanh. Thời hạn tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do hội nghị chủ nợ quyết định và không quá 2 năm kể từ khi hội nghị chủ nợ thông qua phương án. Biện pháp hoà giải được thực hiện dưới hình thức hoặc nệ (thoả thuận cho khất nợ hoặc xoá giảm nợ và không nhất thiết phải gắn với những điều kiện cụ thể nào). Biện pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải được thực hiện trên cơ sở các biện pháp cụ thể về tổ chức, điều chỉnh lại bộ máy, sắp xếp lại lao động, cải tiến quản lý, đổi mới công nghệ và các biện pháp khác trong đó nêu rõ thời hạn và kế hoạch thực hiện trong điều 68 luật phá sản doanh nghiệp quy định về điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
"1. Thẩm phán ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sau khi hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ và yêu cầu doanh nghiệp, HTX phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
2. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua nghị quyết. Doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của mình và nộp cho toà án nếu thấy cần phải có thời gian dài hơn thì phải có văn bản đề nghị thẩm phán gia hạn. Thời hạn gia hạn không qua ba mươi ngày. Trong thời hạn nói trên bất kỳ chủ nợ hoặc người nào nhận nghĩa vụ phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, HTX đều có quyền xây dựng dự thảo phương án phục hồi hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp, HTX và nộp cho toà án.
Trong điều 69 có quy định về nội dung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
"1. Phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản phải nêu rõ các biện pháp cần thiết để phục hồi hoạt động kinh doanh, các điều kiện thời hạn và kế hoạch thanh toán các khoản nợ
2. Các biện pháp cần thiết phục hồi hoạt động kinh doanh gồm có:
- Huy động vốn mới
- Thay đổi mặt hàng, sản xuất - kinh doanh
- Đổi mới công nghệ sản xuất
- Tổ chức lại bộ máy quản lý sáp nhập hoặc chia tách bộ phận sản xuất nhằm nâng cao năng suất chất lượng sản xuất
- Bán lại cổ phần cho chủ nợ- Bán hoặc cho thuê tài sản không cần thiết
- Các biện pháp khác không trái pháp luật
3. Trước khi bắt đầu hoặc tại hội nghị chủ nợ phương án phục hồi hoạt động kinh doanh có thể được sửa đổi bổ sung theo sự thoả thuận của các bên
Điều 70 luật phá sản quy định: về vấn đề xem xét phương án phục hồi hoạt động kinh doanh trước khi đưa ra hội nghị chủ nợ
"Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh thẩm phán xem xét phương án phục hồi hoạt động kinh doanh để ra một trong các quyết định:
1. Đưa phương án ra hội nghị chủ nợ xem xét quyết định
2. Đề nghị sửa đổi bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh nếu thấy phương án đó chưa đảm bảo các nội dung quy định tại điều 69 của luật phá sản này".
Sau khi xem xét phương án phục hồi hoạt động kinh doanh trước khi đưa ra hội nghị chủ ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6090.doc