Thu hút vốn FDI theo vùng kinh tế ở Việt Nam

Tài liệu Thu hút vốn FDI theo vùng kinh tế ở Việt Nam: ... Ebook Thu hút vốn FDI theo vùng kinh tế ở Việt Nam

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1944 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Thu hút vốn FDI theo vùng kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Nền kinh tế thế giới đang vận động phát triển không ngừng đòi hỏi từng quốc gia phải từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, để giảm khoảng cách của sự nghèo nàn với các nước tư bản phát triển. Đặc biệt trong những năm gần đây khu vực Châu á - Thái Bình Dương là khu vực kinh tế có thể nói là năng động nhất trên thế giới. Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực này và cũng chịu ảnh hưởng của quy luật phát triển. Trong nền kinh tế của mỗi một quốc gia thì vốn là không thể thiếu được, nó thúc đẩy nền kinh tế của quốc gia đó phát triển. Đối với các nước phát triển thì có lượng vốn vô cùng lớn và rất muốn đầu tư ra nước ngoài bằng cách có thể là đầu tư trực tiếp và gián tiếp. Còn đối với các nước đang phát triển và các nước kém phát triển thì nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài là điều kiện rất quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội trong đó có Việt Nam. Đầu tư là động lực quan trọng để tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Trong đó vốn đầu tư trực tiếp có tầm quan trọng đặc biệt, bởi muốn công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước cần có giải pháp để thu hút vốn. Thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng và nhà nước ta đã ban hành luật đầu tư nước ngoài vào năm 1987 và qua 5 lần sửa đổi và hoàn thiện vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000 và gần đây nhất là năm 2005. Để thực hiện ổn định kinh tế xã hội tăng GDP, tạo công ăn việc làm cho người lao động và nhiều mục tiêu khác thì nguồn vốn trong nườc mới chỉ đáp ứng được một nửa, cho nên cần phải huy động vốn từ nước ngoài mà chủ yếu là vốn đầu tư trực tiếp. Tuy nhiên từ khi ban hành và thực hiện luật đầu tư đến nay tuy không phải là thời gian dài song chúng ta đã thu được một số kết quả khả quan. Những kết quả ban đầu thể hiện là kết quả đúng đắn phù hợp với việc tiếp nhận và chú trọng quan tâm, phát triển đến vấn đề đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Cho đến nay đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam vẫn còn vấn đề mới cần phải được xem xét giải quyết, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang trong tình trạng khủng hoảng đòi hỏi mỗi một quốc gia, trong đó có Việt Nam phải hết sức nỗ lực gia tăng phát triển kinh tế. Do đó việc tìm hiểu nghiên cứu để có được sự đánh giá về những kết quả đã đạt được tìm ra những hạn chế khắc phục nhằm tăng cường hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới là thực sự cần thiết, bên cạnh những mặt được còn có những hạn chế, bất cập chưa thu hút có hiệu quả điều đó có thể thấy số vốn xin vào đầu tư đã giảm. Trong bài viết này để có thể thấy rõ hơn về vấn đề này và có những phương hướng giải quyết, em đã chọn đề tài : "Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo vùng kinh tế ở Việt Nam" Bài viết này bao gồm ba phần : Phần I: Tổng quan về đầu tư trực tiếp với nước ngoài (FDI) và vùng kinh tế. PhầnII: Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các vùng kinh tế thời gian qua. PhầnIII: Phương hướng và các giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư vào phát triển các vùng kinh tế ở Việt Nam. PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ VÙNG KINH TẾ I. Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung và hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng đang diễn ra hết sức mạnh mẽ. Nhưng đối với Việt Nam, đầu tư nước ngoài vẫn còn là một vấn đề hết sức mới mẻ. Do vậy để có một cái nhìn tổng thể, khai thác được những mặt tích cực và hạn chế được những mặt tiêu cực của đầu tư nước ngoài nhằm thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH), đòi hỏi phải nghiên cứu vấn đề này một cách thấu đáo. 1.Đầu tư và đặc điểm của đầu tư Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một thời gian tương đối dài nhằm thu được lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế- xã hội. Vốn đầu tư bao gồm: - Tiền tệ các loại: nội tệ, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý.. - Hiệnvật hữu hình: tư liệu sản xuất, tài nguyên, hàng hoá, nhà xưởng.. - Hàng hoá vô hình: Sức lao động, công nghệ, thông tin, bằng phát minh, quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, dịch vụ, uy tín hàng hoá... - Các phương tiện đặc biệt khác: cổ phiếu, hối phiếu, trái phiếu, các chứng từ có giá khác. Đặc điểm của đầu tư: - Tính sinh lợi: Đầu tư là hoạt động tài chính ( đó là việc sử dụng tiền vốn nhằm mục đích thu lại một khoản tiền có giá trị lớn hơn khoản tiền đã bỏ ra ban đầu ). - Thời gian đầu tư thường tương đối dài. Những hoạt động kinh tế ngắn hạn trong vòng một năm thường không gọi là đầu tư. - Đầu tư mang tính rủi ro cao: Hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn trong hiện tại nhằm thu được lợi ích trong tương lai. Mức độ rủi ro càng cao khi nhà đầu tư bỏ vốn ra nước ngoài. 2.Đầu tư trực tiếp nước ngoài. a. Khái niệm. FDI đối với nước ta vẫn còn khá mới mẻ bởi hình thức này mới xuất hiện ở Việt Nam sau thời kỳ đổi mới. Do vậy, việc đưa ra một khái niệm tổng quát về FDI không phải là dễ. Xuất phát từ nhiều khía cạnh, góc độ, quan điểm khác nhau trên thế giới đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về FDI. - Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) (1977): "Đầu tư trực tiếp ám chỉ số đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một hãng hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư, mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả trong công việc quản lý hãng đó". - Theo luật Đầu tư nước ngoài của Liên Bang Nga (04/07/1991"Đầu tư trực tiếp nước ngoài là tất cả các hình thức giá trị tài sản và những giá trị tinh thần mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các đối tượng sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác nhằm mục đích thu lợi nhuận" - Theo Hiệp hội Luật quốc tế Henxitiky (1996 ) Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó những xí nghiệp kinh doanh hay dịch vụ. - Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sửa đổi, ban hành 12/11/1996, tại Điều 2 Chương 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của luật này. Như vậy, mặc dù có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái niệm về FDI, song ta có thể đưa ra một khái niệm tổng quát nhất, đó là: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức mà nhà đầu tư bỏ vốn để tạo lập cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư. Trong đó nhà đầu tư nước ngoài có thể thiết lập quyền sở hữu từng phần hay toàn bộ vốn đầu tư và giữ quyền quản lý, điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn nhằm mục đích thu được lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư đó trên cơ sở tuân theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài của nước sở tại. b. Ph©n lo¹i ®Çu t­. - Theo phạm vi quốc gia: + Đầu tư trong nước. + Đầu tư ngoài nước. - Theo thời gian sử dụng: + Đầu tư ngắn hạn. + Đầu tư trung hạn. + Đầu tư dài hạn. - Theo lĩnh vực kinh tế: + Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. + Đầu tư vào sản xuất công nghiệp. + Đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. + Đầu tư khai khoáng, khai thác tài nguyên. + Đầu tư vào lĩnh vực thương mại - du lịch - dịch vụ. + Đầu tư vào lĩnh vực tài chính. - Theo mức độ tham gia của chủ thể quản lý đầu tư vào đối tượng mà mình bỏ vốn: + Đầu tư trực tiếp. + Đầu tư gián tiếp. Trên thực tế, người ta thường phân biệt hai loại đầu tư chính: Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Cách phân loại này liên quan đến việc tiếp nhận, quản lý và sử dụng vốn đầu tư. - Đầu tư gián tiếp: là hình thức mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn không phải là một. Người bỏ vốn không đòi hỏi thu hồi lại vốn ( viện trợ không hoàn lại ) hoặc không trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, họ được hưởng lợi tức thông qua phần vốn đầu tư. Đầu tư gián tiếp bao gồm: + Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (official Development assistance - ODA). Đây là nguồn vốn viện trợ song phương hoặc đa phương với một tỷ lệ viện trợ không hoàn lại, phần còn lại chịu mức lãi xuất thấp còn thời gian dài hay ngắn tuỳ thuộc vào từng dự án. Vốn ODA có thể đi kèm hoặc không đi kèm điều kiện chính trị. + Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (Non Government organization- NGO): Tương tự như nguồn vốn ODA nhưng do các tổ chức phi chính phủ viện trợ cho các nước đang thiếu vốn. Đó là các tổ chức như: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)... + Tín dụng thương mại: là nguồn vốn chủ yếu nhằm hỗ trợ cho hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu giữa các quốc gia. + Nguồn vốn từ việc bán tín phiếu, trái phiếu, cố phiếu...Đây là nguồn vốn thu được thông qua hoạt động bán các chứng từ có giá cho người nước ngoài. Có quốc gia coi việc mua chứng khoán là hoạt động đầu tư trực tiếp. - Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư mà người bỏ vốn đồng thời là người sử dụng vốn. Nhà đầu tư đưa vốn ra nước ngoài để thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh, làm chủ sở hữu, tự quản lý, điều hành hoặc thuê người quản lý, hoặc hợp tác liên doanh với đối tác nước sở tại để thành lập cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu được lợi nhuận. Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nguồn vốn tài chính đưa vào một nước trong hoạt động đầu tư nước ngoài. 3. Các lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI) a. Lý thuyết về lợi nhuận cận biên: Năm 1960 Mac. Dougall đã đề xuất một mô hình lý thuyết, phát triển từ những lý thuyết chuẩn của Hescher Ohlin - Samuaelson về sự vận động vốn. Ông cho rằng luồng vốn đầu tư sẽ chuyển từ nước lãi suất thấp sang nước có lãi suất cao cho đến khi đạt được trạng thái cân bằng (lãi suất hai nước bằng nhau). Sau đầu tư, cả hai nước trên đều thu được lợi nhuận và làm cho sản lượng chung của thế giới tăng lên so với trước khi đầu tư. Lý thuyết này được các nhà kinh tế thừa nhận những năm 1950 dường như phù hợp với lý thuyết. Nhưng sau đó, tình hình trở nên thiếu ổn định, tỷ suất đầu tư của Mỹ giảm đi đến mức thấp hơn tỷ suất trong nước, nhưng FDI của Mỹ ra nước ngoài vẫn tăng liên tục. Mô hình trên không giải thích được hiện tượng vì sao một số nước đồng thời có dòng vốn chảy vào, có dòng vốn chảy ra; không đưa ra được sự giải thích đầy đủ về FDI. Do vậy, lý thuyết lợi nhuận cận biên chỉ có thể được coi là bước khởi đầu hữu hiệu để nghiên cứu FDI. b. Lý thuyết chu kỳ sản phẩm (Vernon, 1966): Lý thuyết chu kỳ sản phẩm do nhà kinh tế học Vernon đề xuất vào năm 1966. Theo lý thuyết này thì bất kỳ một công nghệ sản phẩm mới nào đều tiến triển theo 3 giai đoạn: Giai đoạn phát minh và giới thiệu, giai đoạn phát triển qui trình và đi tới chín muồi và giai đoạn chín muồi hay được tiêu chuẩn hoá. Trong mỗi giai đoạn này các nền kinh tế khác nhau có lợi thế so sánh trong việc sản xuất những thành phần khác nhau của sản phẩm. Quá trình phát triển kinh tế, nó được chuyển dịch từ nền kinh tế này sang nền kinh tế khác. Giả thuyết chu kỳ sản xuất giải thích sự tập trung công nghiệp hoá ở các nước phát triển, đưa ra một lý luận về việc hợp nhất thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế giải thích sự gia tăng xuất khẩu hàng công nghiệp ở các nưóc công nghiệp hoá. Tuy nhiên, lý thuyết này chỉ còn quan trọng đối với việc giải thích FDI của các công ty nhỏ vào các nước đang phát triển. c. Những lý thuyết dựa trên sự không hoàn hảo của thị trường c.1. Tổ chức công nghiệp (hay còn gọi là lý thuyết thị trường độc quyền): Lý thuyết tổ chức công nghiệp do Stephen Hymer và Charles Kindleberger nêu ra. Theo lý thuyết nay, sự phát triển và thành công của hình thức đầu tư liên kết theo chiều dọc phụ thuộc vào 3 yếu tố: Quá trình liên kết theo chiều dọc các giai đoạn khác nhau của hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm giảm bớt chi phí sản xuất, việc sản xuất và khai thác kỹ thuật mới và cơ hội mở rộng hoạt động ra đầu tư nước ngoài có thể tiến hành được do những tiến bộ trong ngành giao thông và thông tin liên lạc. Chiến lược liên kết chiều dọc của các công ty đa quốc gia là đặt các công đoạn sản xuất ở những vị trí khác nhau trên phạm vi toàn cầu, nhằm tận dụng lợi thế so sánh ở các nền kinh tế khác nhau, hạ thấp giá thành sản phẩm thông qua sản xuất hàng loạt và chuyên môn hoá, tăng khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường. Cách tiếp cận của Hymer đã được các nhà kinh tế Graham và Krugman sử dụng (1989) để giải thích cho sự tăng lên của FDI vào nước Mỹ trong những năm gần đây (khi mà họ đã đánh mất những lợi thế đã có cách đây 20 năm). Giả thuyết của tổ chức công nghiệp chưa phải là giả thuyết hoàn chỉnh về FDI. Nó không trả lời được câu hỏi: vì sao công ty lại sử dụng hình thức FDI chứ không phỉa là hình thức sản xuất trong nước rồi xuất khẩu sản phẩm hoặc hình thức cấp giấy phép hoặc bán những kỹ năng đặc biệt của nó cho các công ty nước sở tại. c.2. Giả thuyết nội hoá: Giả thuyết này giải thích sự tồn tại của FDI như là kết quả của các công ty thay thế các giao dịch thị trường bằng các giao dịch trong nội bộ công ty để tránh sự không hoàn hảo của các thị trường. d. Mô hình đàn nhạn của Akamatsu: Mô hình “đàn nhạn” của sự phát triển công nghiệp được Akamatsu đưa ra vào những năm 1961 -1962. Akamatsu chia quá trình phát triển thành 3 giai đoạn: (1) sản phẩm được nhập khẩu từ nước ngoài để phục vụ cho nhu cầu trong nước; (2) sản phẩm trong nước tăng lên để thay thế cho nhập khẩu; sản xuất để xuất khẩu, FDI sẽ thực hiện ở giai đoạn cuối để đối mặt với sự thay đổi về lợi thế tương đối. Ozawa là người tiếp theo nghiên cứu mối quan hệ giữa FDI và mô hình “đàn nhạn”. Theo ông, một ngành công nghiệp của nước đang phát triển có lợi thế tương đối về lao động, sẽ thu hút FDI vào để khai thác lợi thế này. Tuy nhiên sau đó tiền lương lao động của ngành này dần dần tăng lên do lao động của địa phương đã khai thác hết và FDI vào sẽ giảm đi. Khi đó các công ty trong nước đầu tư ra nước ngoài (nơi có lao động rẻ hơn) để khai thác lợi thế tương đối của nước này. Đó là quá trình liên tục của FDI. Mô hình đã chỉ ra quá trình đuổi kịp của các nước đang phát triển: khi một nước đuổi kịp ở nấc thang cuối cùng của một ngành công nghiệp từ kinh tế thấp sang kỹ thuật cao thì tỷ lệ FDI ra sẽ lớn hơn tỷ lệ FDI vào. Một quốc gia đứng đầu trong đàn nhạn, đến một thời điểm nhất định sẽ trở nên lạc hậu và nước khác sẽ thay thế vị trí đó. Đóng góp đáng kể của mô hình này là sự tiếp cận “động” với FDI trong một thời gian dài, gắn với xu hướng và quá trình của sự phát triển, có thể áp dụng để trả lời câu hỏi: vì sao các công ty thực hiện FDI, đưa ra gợi ý đối với sự khác nhau về lợi thế so sánh tương đối giữa các nước dẫn đến sự khác nhau về luồng vào FDI. Tuy nhiên, mô hình “đàn nhạn” chưa thể trả lời các câu hỏi vì sao các công ty lại thích thực hiện FDI hơn là xuất khẩu hoặc cung cấp kỹ thuật của mình, và không dùng nó để giải thích vì sao FDI lại diễn ra giữa các nước tương tự về các nhân tố và lợi thế tương đối, vì sao FDI lại diễn ra từ khu vực kinh tế này sang khu vực kinh tế khác. Vấn đề quan trọng hơn là mô hình này lờ đi vai trò của nhân tố cơ cấu kinh tế và thể chế. e. Lý thuyết chiết trung hay mô hình OLI: Theo Dunning một công ty dự định tham gia vào các hoạt động FDI cần có 3 lợi thế: Lợi thế về sở hữu (Ownership advantages - viết tắt là lợi thế O - bao gồm lợi thế về tài sản, lợi thế về tối thiểu hoá chi phí giao dịch), lợi thế về khu vực (Locational advantages - viết tắt là lợi thế L - bao gồm: tài nguyên của đất nước, qui mô và sự tăng trưởng của thị trường, sự phát triển của cơ sở hạ tầng, chính sách của Chính phủ) và lợi thế về nội hoá (Internalisation advantages - viết tắt là lợi thế I - bao gồm: giảm chi phí ký kết, kiểm soát và thực hiện hợp đồng; tránh được sự thiếu thông tin dẫn đến chi phí cao cho các công ty; tránh được chi phí thực hiện các bản quyền phát minh, sáng chế). Theo lý thuyết chiết trung thì cả 3 điều kiện kể trên đều phải được thoả mãn trước khi có FDI. Lý thuyết cho rằng: những nhân tố “đẩy” bắt nguồn từ lợi thế O và I, còn lợi thế L tạo ra nhân tố “kéo” đối với FDI. Những lợi thế này không cố định mà biến đổi theo thời gian, không gian và sự phát triển nên luồng vào FDI ở từng nước, từng khu vực, từng thời kỳ khác nhau. Sự khác nhau này còn bắt nguồn từ việc các nước này đang ở bước nào của quá trình phát triển và được Dunning phát hiện vào năm 1979. f. Lý thuyết về các bước phát triển của đầu tư (Investment Development Path - IDP): Theo lý thuyết này, quá trình phát triển của các nước được chia ra thành 5 giai đoạn: Giai đoạn 1: lợi thế L của một nước ít hấp dẫn, luồng vào FDI không đáng kể do hạn chế của thị trường trong nước: thu nhập thấp, cơ sở hạ tầng lạc hậu, giáo dục yếu kém, lao động không có kỹ năng… và hiếm khi thấy luồng ra FDI. Giai đoạn 2: luồng vào của FDI bắt đầu tăng do lợi thế L đã hấp dẫn các nhà đầu tư: sức mua trong nước bắt đầu tăng, cơ sở hạ tầng đã được cải thiện … FDI trong bước này chủ yếu là đầu tư vào sản xuất để thay thế nhập khẩu và những ngành khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc sản xuất ra nguyên vật liệu, sản phẩm sơ chế. Luồng ra của FDI trong giai đoạn này không đáng kể. Giai đoạn 3: luồng vào của FDI bắt đầu giảm và luồng ra lại bắt đầu tăng. Khả năng kỹ thuật của nước sở tại đã tiến tới sản xuất sản phẩm được tiêu chuẩn hoá. Mặt khác lợi thế về lao động giảm dần, nên phải chuyển đầu tư sang những nước có lợi thế tương đương đối về lao động nhằm tìm kiếm thị trường hoặc giành những tài sản chiến lược để bảo vệ lợi thế O. Trong giai đoạn này, luồng vào của FDI tập trung vào những ngành thay thế nhập khẩu có hiệu quả. Giai đoạn 4: lợi thế O của các công ty trong nước tăng lên. Những công nghệ sử dụng nhiều lao động dần dần được thay thế bởi công nghệ sử dụng nhiều vốn. Mặt khác chi phí vốn trở nên rẻ hơn chi phí lao động. Kết quả là, lợi thế L của đất nước sẽ chuyển sang các tài sản. FDI từ các nước đang phát triển ở bước 4 sẽ vào nước này để tìm kiếm những tài sản trên hoặc từ các nước kém phát triển hơn nhằm tìm kiếm thị trường và đặt quan hệ thương mại. Trong bước này các công ty trong nước vẫn thích thực hiện FDI ra nước ngoài hơn là xuất khẩu sản phẩm, bởi vì họ có thể khai thác lợi thế I của mình. Do vậy, luồng vào và luồng ra của FDI vẫn tăng, nhưng luồng ra sẽ nhanh hơn. Giai đoạn 5: luồng ra và luồng vào của FDI tiếp tục và khối lượng tương tự nhau. Luồng vào từ các nước có mức độ phát triển thấp hơn với mục đích tìm kiếm thị trường và kiến thức; hoặc từ các nước đang phát triển ở bước 4 và 5 để tìm kiếm sản xuất có hiệu quả. Do vậy luồng ra và luồng vào là tương tự. Mô hình OLI giải thích hiện tượng FDI theo trạng thái tĩnh, trong khi lý thuyết IDP lại xem xét hiện tượng FDI trong trạng thái động với sự thay đổi các lợi thế này trong từng bước phát triển. Do vậy, lý thuyết này cùng với mô hình OLI là thích hợp nhất để giải thích hiện tượng FDI trên toàn thế giới, tất nhiên trong đó có Việt Nam. 4. Bản chất và vai trò của FDI a. Bản chất : Hiện nay ở trên nhiều loại sách báo, tạp chí của các tổ chức quốc tế cũng như Chính phủ các nước có tương đối nhiều định nghĩa về FDI, như định nghĩa của tổ chức Ngân hàng Thế giới thì FDI là đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư từ nước ngoài mà mang lại lãi suất từ 10% trở lên. Theo giáo trình Kinh tế Đầu tư của trường Đại học Kinh tế Quốc dân do PGS. TS Nguyễn Ngọc Mai làm chủ biên thì đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) là vốn của các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia trực tiếp quản lý quá trình sử dụng và thu hồi số vốn bỏ ra. Đến nay định nghĩa mà nhiều nước và các tổ chức hay dùng nhất là định nghĩa của tổ chức Tiền tệ Thế giới (IMF) đã đưa ra vào năm 1977 như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là số vốn đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Ngoài mục đích lợi nhuận, nhà đầu tư còn mong muốn dành được chỗ đứng trong việc quản lý doanh nghiệp và mở rộng thị trường”. Đầu tư nước ngoài bao gồm đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) và đầu tư gián tiếp (FPI). Trong đó, FDI quan trọng hơn nhiều, dù cho đầu tư gián tiếp có xu hướng tăng lên. FDI tăng lên nhanh chóng trong vòng 15 năm qua với đặc điểm tập trung co cụm về địa dư, ngành, và hãng. Hầu hết FDI diễn ra ở Đông á (Malaisia, Thái Lan, Singapore, Hong Kong, Trung Quốc) và Châu Mĩ Latinh (Brazil, Mexico), trong lĩnh vực thiết bị vận tải, hoá chất, máy móc và điện tử. Một số lượng ít các hãng lớn từ các nước công nghiệp chiếm một phần lớn đầu tư nước ngoài. Mô hình đầu tư cũng thiên lệch về địa lý; các hãng của Mỹ đầu tư mạnh vào châu Mỹ Latinh, các hãng của Nhật đầu tư vào châu á, còn các hãng của Anh lại tập trung vào các nước thuộc khối Thịnh vượng Chung. Tầm quan trọng tăng nhanh của FDI là nhờ nhận thức về những đóng góp to lớn của FDI vào phát triển kinh tế, cung cấp cho các nước chủ nhà về vốn, công nghệ, và kỹ năng quản lý hiện đại. FDI chịu ảnh hưởng của các yếu tố cụ thể trong nước chủ nhà cũng như nước đầu tư. Với nước chủ nhà, các yếu tố hấp dẫn FDI là nguồn tài nguyên thiên nhiên như khoáng sản (như dầu mỏ ở Indonesia) hay giá lao động rẻ mạt (như Trung Quốc, Malaisia) cũng có vai trò quan trọng không kém, đặc biệt khi áp dụng chính sách thay thế nhập khẩu là một cơ hội lớn cho các nhà đầu tư. Để thu hút FDI, nhiều Chính phủ đưa ra các biện pháp khuyến khích như miễn giảm thuế, khấu hao nhanh, giảm thuế nhập khẩu đầu vào sản xuất, đặc khu kinh tế, hay khuyến khích xuất khẩu đối với những người muốn đầu tư. Dù có những khuyến khích đặc biệt như vậy nhưng người ta nhận thấy FDI trở nên hấp dẫn ở những nước có môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường chính trị tốt. Chính sách bảo hộ - chống cạnh tranh của hàng ngoại nhập - của các nước chủ nhà đôi khi khiến các nhà đầu tư đặt cơ sở sản xuất ngay tại nước chủ nhà. FDI cũng phụ thuộc vào các yếu tố của các nước đi đầu tư. Các hãng đầu tư ra nước ngoài nhằm giành trước hay ngăn chặn những hoạt động tương tự của các đối thủ cạnh tranh. Một số nước cho phép các nhà đầu tư được nhập khẩu miễn thuế một số sản phẩm chế tạo tại các chi nhánh của họ tại nước ngoài. Cuối cùng, phân tán rủi ro bằng cách đầu tư tại nhiều đặc điểm khác nhau cũng là một động cơ của các nhà đầu tư. Trên đây ta có thể thấy được một số nét đặc trưng của FDI: - FDI mặc dù vẫn chịu sự chi phối của Chính phủ, nhưng nó ít bị lệ thuộc hơn vào quan hệ chính trị hai bên nếu so sánh với hình thức tín dụng quan hệ quốc tế. - Bên nước ngoài trực tiếp tham gia quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, nên họ trực tiếp kiểm soát sự hoạt động và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho việc đầu tư. Vì vậy mức độ khả thi của công cuộc đầu tư khá cao, đặc biệt trong việc tiếp cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu. - Do quyền lợi của chủ đầu tư nước ngoài gắn liền với lợi ích do đầu tư đem lại cho nên có thể lựa chọn kỹ thuật, công nghệ thích hợp, nâng cao dần trình độ quản lý, tay nghề cho công nhân ở nước tiếp nhận đầu tư. - FDI liên quan đến việc mở rộng thị trường của các công ty đa quốc gia và sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế và thương mại quốc tế. b. Vai trò của FDI: b.1. Đối với nước đi đầu tư: - Đứng trên góc độ quốc gia: Hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là cách để các quốc gia có thể mở rộng và nâng cao quan hệ hợp tác về nhiều mặt đối với các quốc gia khác mà mình sẽ đầu tư. Khi một nước đầu tư sang nước khác một mặt hàng thì nước đó thường có những ưu thế nhất định về mặt hàng như về chất lượng, năng suất và giá cả cùng với chính sách hướng xuất khẩu của nước này; thêm vào đó là sự có một sự sẵn sàng hợp tác chấp nhận sự đầu tư đó của nước sở tại cùng với những nguồn lực thích hợp cho sản phẩm đó. Mặt khác, khi đầu tư FDI nước đi đầu tư có rất nhiều có lợi về kinh tế cũng như chính trị. Thứ nhất, quan hệ hợp tác với nước sở tại được tăng cường và vị thế của nước đi đầu tư được nâng lên trên trường quốc tế. Thứ hai, mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, khi trong nước sản phẩm đang thừa mà nước sở tại lại thiếu. Thứ ba, giải quyết công ăn việc làm cho một số lao động, vì khi đầu tư sang nước khác, thì nước đó phải cần có những người hướng dẫn, hay còn gọi là các chuyên gia trong lĩnh vực này. Đồng thời tránh được việc phải khai thác các nguồn lực trong nước, như tài nguyên thiên nhiên hay ô nhiễm môi trường. Thứ tư, đó là vấn đề chính trị, các nhà đầu tư nước ngoài có thể lợi dụng những kẻ hở của pháp luật, sự yếu kém về quản lý hay sự ưu đãi của Chính phủ nước sở tại sẽ có những mục đích khác như làm gián điệp. - Đứng trên góc độ doanh nghiệp: Mục đích của doanh nghiệp cũng như mục đích của một quốc gia thường là lợi nhuận, lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Một khi trong nước hay các thị trường quen thuộc bị tràn ngập những sản phẩm của họ và sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh thì họ phải đầu tư ra nước khác để tiêu thụ số sản phẩm đó. Trong khi đầu tư ra nước ngoài, họ chắc chắn sẽ tìm thấy ở nước sở tại những lợi thế so sánh so với thị trường cũ như lao động rẻ hay tài nguyên chưa bị khai thác nhiều. Một nguyên nhân nữa là họ có thể bán được những máy móc và công nghệ cũ kỹ lạc hậu hay bị hao mòn vô hình do thời gian với giá cao nhưng lại là mới đối với nước nhận đầu tư (khi nước đầu tư là nước đang phát triển). Thêm vào đó, là sản phẩm của họ được bán tại thị trường này sẽ ngày càng tăng uy tín và tiếng tăm cho nó và làm tăng sức cạnh tranh đối với các đối thủ có sản phẩm cùng loại. b.2. Đối với nước nhận đầu tư: * Những mối lợi: - Chuyển giao vốn, công nghệ và năng lực quản lý (chuyển giao nguồn lực): Đối với một nước lạc hậu, trình độ sản xuất kém, năng lực sản xuất chưa được phát huy kèm với cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn thì việc tiếp thu được một nguồn vốn lớn, công nghệ phù hợp để tăng năng suất và cải tiến chất lượng sản phẩm, trình độ quản lý chặt chẽ là một điều hết sức cần thiết. Như ta đã biết thì công nghệ chính là trung tâm của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá một đất nước đang phát triển như nước ta. Chúng ta cần có vốn và công nghệ để có thể thực hiện được nó. Khi đầu tư trực tiếp diễn ra thì công nghệ được du nhập vào trong đó có cả một số công nghệ bị cấm xuất theo con đường ngoại thương, các chuyên gia cùng với các kỹ năng quản lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công nghệ này, do vậy các cán bộ bản địa có thể học hỏi kinh nghiệm của họ. Có những khác biệt lớn giữa các nước về mức độ thay thế của FDI cho các luồng vốn nước ngoài khác, do những khác biệt trong cơ cấu kinh tế có những tác động đến sức hấp dẫn của đất nước đối với các nhà đầu tư, cũng như những khác biệt trong các yếu tố kinh tế vĩ mô đòi hỏi phải có các luồng vốn chảy vào. Các nước có thị trường nhỏ bé, ít các nguồn lực tự nhiên, kết cấu hạ tầng yếu kém và ít khả năng xuất khẩu hàng công nghiệp thì ít có khả năng thu hút các nguồn FDI lớn, ngay cả khi có những qui chế tự do và những ưu đãi hào phóng. Về cơ bản, các nước đó nói chung cũng không có khả năng vay nợ theo các điều kiện thương mại thông thường, và chủ yếu dựa vào kết quả ưu đãi. Kết quả là những khả năng thay thế giữa tín dụng thương mại nước ngoài và FDI chủ yếu có liên quan tới các nước lớn, có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, hoặc có khu vực công nghiệp khá phát triển. Các nước đã có được một số lượng lớn các nguồn FDI nói chung cũng sẽ dễ tác động hơn tới cơ cấu tương lai của nguồn vốn, bởi vì họ cũng có thể tác động tới hoạt động FDI thông qua cơ cấu tài chính của các chi nhánh hiện hữu thuộc các công ty nước ngoài, và cụ thể là tới số lượng vay từ các nguồn trong nước và các nguồn khác ở nước ngoài. Nhưng so với vay nước ngoài, FDI có xu hướng tập trung nhiều hơn tại một số ít nước. Những nguyên nhân kinh tế vĩ mô của các luồng vốn vào cũng có thể ảnh hưởng lớn tới mức độ thay thế giữa FDI và tín dụng thương mại với tư cách là nguồn vốn nước ngoài. Tại các nước có các thị trường vốn phát triển, các nguồn gốc mất cân bằng kinh tế vĩ mô riêng lẻ có thể chỉ có tác động hạn chế tới cơ cấu luồng vốn vào. Tuy nhiên, phần lớn các nước đang phát triển đều có các thị trường vốn trong nước phân tán, và đối với các nước này, những nguyên nhân làm cho luồng vốn chảy vào có ý nghĩa lớn hơn. Có ba loại yếu tố khiến cần thiết phải có các luồng vốn chảy vào ngày càng nhiều, thể hiện khả năng thay thế khác nhau giữa FDI và vay nước ngoài. Thứ nhất là, tổng cầu có thể tăng lên tương đối so với tổng cung do chỉ tiêu tăng thêm vào các dự án đầu tư mà chúng được coi là có khả năng thành công về mặt tài chính. Nếu hoạt động đầu tư ấy diễn ra trong khu vực tư nhân thì khả năng thay thế sẽ cao, miễn là các qui định về thuế khoá và qui chế tỏ ra thích hợp đối với FDI. Nếu hoạt động đầu tư ấy được thực hiện chủ yếu bởi các doanh nghiệp nhà nước, thì tại nhiều nước, khả năng thay thế sẽ thấp do các hàng rào thể chế ngăn cản hoạt động FDI. Tuy nhiên, vẫn có khả năng lớn cho sự tham gia cổ phần của nước ngoài thông qua những thoả thuận đầu tư liên doanh với các doanh nghiệp nhà nước thích hợp, với điều kiện những hình thức này là phù hợp với phương hướng phát triển chung của nước nhận đầu tư. Những thoả thuận như vậy là phổ biến trong ngành thăm dò và khai thác khoáng sản, một ngành có nhiều rủi ro với vốn cổ phần nước ngoài hoạt động liên kết với các công ty nhà nước, nhưng chúng còn được thấy rõ trong nhiều khu vực khác nữa. Brazil đã khuyến khích hoạt động đầu tư liên doanh, bao gồm sự kết hợp của nhà nước với vốn cổ phần tư nhân trong nước cũng như nước ngoài, đặc biệt là trong ngành công nghiệp hoá dầu. Kinh nghiệm của Trung Quốc, một nước hiện nay đang sử dụng nguồn FDI nhiều hơn so với hình thức vay tín dụng thương mại nước ngoài, cho thấy rằng hệ thống doanh nghiệp nhà nước không nên cản trở sự thay thế giữa các hình thức khác nhau của vốn nước ngoài. Một biện pháp chính để thường xuyên thay thế đó là việc đưa ra những bảo đảm của nhà nước đối với các khoản vay do các doanh nghiệp nhà nước vay của ngân hàng thương mại nước ngoài. Điều này làm giảm bớt chi phí vay tín dụng thương mại cho doanh nghiệp, vì nhà nước gánh chịu một phần sự rủi ro của người cho vay, do vậy, nó trở nên tương đối hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp nhà nước, nếu so với hình thức tham gia cổ phần của phía nước ngoài. Thứ hai là, tổng cầu có thể tăng lên tương đối so với tổng cung, do chi tiêu nhiều hơn cho tiêu dùng hoặc cho các dự án đầu tư được coi như không khả thi về tài chính (bao gồm các dự án về kết cấu hạ tầng có thể đưa lại lợi nhuận kinh tế nói chung cao hơn, nhưng lại không tạo ra một nguồn thu trực tiếp nào). Sự vượt quá của nhu cầu như vậy thường xảy ra ở dưới dạng những thâm hụt lớn về tài chính, ví dụ như chi tiêu nhà nước vào các khoản trợ cấp, các khoản trả lương cao hơn hoặc sự mở rộng kết cấu hạ tầng xã hội. Trong trường hợp này, FDI khó có thể thay thế việc Chính phủ hoặc ngân hàng TW đi vay nước._. ngoài. Sẽ không có những dự án đầu tư bổ xung có khả năng thu hút các nhà đầu tư trực tiếp. Về nguyên tắc, khoản vay mượn cao hơn ở trong nước do Chính phủ thực hiện sẽ làm tăng mức lãi suất ở trong nước và dẫn tới các luồng vốn chảy vào hoặc đầu tư trực tiếp lớn hơn. Tuy nhiên, trong thực tế, những ảnh hưởng gián tiếp đó tới các luồng vốn nước ngoài là có hạn, bởi vì ở nhiều nước đang phát triển, thị trường vốn bị phân tán và không có các chính sách linh hoạt. Cuối cùng, một phần vốn vay nước ngoài của các nước đang phát triển thường không dùng để trang trải cho sự gia tăng trong tổng chi phí quốc nội mà để bù vào luồng vốn chảy ra của tư nhân. Khả năng thay thế sự vay mượn đó bằng đầu tư trực tiếp là thấp, đặc biệt là do chính sách tỷ giá hối đoái và lãi suất không thích hợp. Những chính sách này thường gây ra sự thất thoát vốn, và như vậy cũng thường không thúc đẩy được hoạt động FDI. Do đó, mức độ thay thế vay nước ngoài bằng FDI trong thập kỷ vừa qua của các nước đang phát triển có lẽ phụ thuộc vào cách thức sử dụng khoản vay mượn đó. Phần lớn số vốn vay sau hai lần tăng đột biến giá dầu lửa là nhằm hỗ trợ cho thâm hụt cán cân thanh toán ngắn hạn. Đối với khoản vay đó, khả năng thay thế là rất thấp. Tuy nhiên, phạm vi chuyển dịch giữa các hình thức vốn vào có lẽ đã tăng lên theo độ dài của thời kỳ diễn ra sau sự mất cân đối đối ngoại ban đầu. Về vấn đề này, bằng chứng nêu ra trên tờ Triển vọng Kinh tế Thế giới 1983 về nguồn vốn đã cho thấy rằng, đối với hầu hết các nước vay mượn lớn nhất trong số các nước đang phát triển không sản xuất dầu lửa, sự gia tăng nợ nước ngoài trong thập kỷ vừa qua đã gắn liền với mức đầu tư cao hơn và phần lớn không sử dụng vào việc chi cho tiêu dùng. Tuy nhiên, một bộ phận đầu tư lớn cần được dành cho các dự án về kết cấu hạ tầng, nhưng chúng không thu hút được FDI. Những hoạt động chuyển giao công nghệ (bao gồm cả năng lực quản lý và marketing) khó đo lường hơn so với các luồng chảy vào, nhưng phần lớn chuyển giao đã diễn ra ở công ty mẹ ở nước ngoài và các chi nhánh của chúng. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng tầm quan trọng của các hoạt động chuyển giao công nghệ trong nội bộ các công ty như thế tuỳ thuộc vào những chuyển giao từ các phía khác nhau. Tại Hàn Quốc là nơi FDI được điều chỉnh và hướng vào các khu riêng biệt, gần 3/4 số hợp đồng cấp giấy phép sản xuất của nước ký kết; tuy nhiên, ở Singapore là nơi có tương đối ít những hạn chế về đầu tư trực tiếp, hầu hết các hợp đồng cấp giấy phép sản xuất đã được ký kết bởi các công ty có ít nhất một phần thuộc quyền sở hữu nước ngoài. Trong các ngành sử dụng kỹ thuật mới hoặc kỹ thuật đặc thù của doanh nghiệp (như các ngành điện tử), đa số các hoạt động chuyển giao diễn ra giữa các công ty mẹ và chi nhánh thuộc quyền sở hữu hoàn toàn hoặc sở hữu một phần lớn của công ty mẹ; do có sự lo lắng tới việc duy trì sự kiểm soát chặt chẽ đối với kỹ thuật công nghệ có liên quan. Tuy nhiên, trong nhiều ngành khác, các hoạt động chuyển giao công nghệ diễn ra thông qua các hợp đồng cấp giấy phép sản xuất khác nhau đã tăng lên nhanh hơn so với sự chuyển giao công nghệ thông qua FDI. - Các nhà đầu tư gánh chịu rủi ro: Đầu tư trực tiếp khác với đầu tư gián tiếp là nhà đầu tư phải tự đứng ra quản lý đồng vốn của mình, tự chịu trách nhiệm trước những quyết định đầu tư của mình, do vậy độ rủi ro cao hơn so với đầu tư gián tiếp. Các nước nhận đầu tư trực tiếp do vậy cũng không phải lo trả nợ hay như đầu tư gián tiếp theo mức lãi suất nào đó hay phải chịu trách nhiệm trước sự phá sản hay giải thể của nhà đầu tư nước ngoài. - Tăng năng suất và thu nhập quốc dân; cạnh tranh hơn, hiệu quả kinh tế hơn: Do có công nghệ cùng với trình độ quản lý được nâng lên nên đối với các ngành sản xuất thì việc tăng năng suất là điều tất yếu. Không những thế những công nghệ này còn cho ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn, tính năng đa dạng hơn, bền hơn và với những mẫu mã đa dạng, hàng hoá lúc này sẽ nhiều và tất nhiên sẽ rẻ hơn so với trước. Điều này chính là cung tăng lên nhưng thực ra nó tăng lên để đáp ứng lại lượng cầu cũng tăng lên rất nhanh do quá trình đầu tư có tác động vào. Tốc độ quay của vòng vốn tăng lên nhanh hơn, do vậy sản phẩm cũng được sản xuất ra nhiều hơn và tiêu thụ cũng nhiều hơn. Do sự tiêu thụ được tăng lên do vậy các ngành sản xuất, dịch vụ được tiếp thêm một luồng sức sống mới, nhân lực, máy móc và các nguyên vật liệu được đem ngay vào sản xuất, từ đó sức đóng góp của các ngành này vào GDP cũng đã tăng lên. Việc có được những công ty có hiệu quả với khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới có thể đưa lại một sự khai thông quan trọng, tiềm tàng cho việc chuyển giao các kỹ năng quản lý và công nghệ cho các nước chủ nhà. Điều này có thể xảy ra ở bên trong một ngành công nghiệp riêng rẽ, trong đó có những người cung ứng các đầu vào cho các chi nhánh nước ngoài, những người tiêu dùng trong nước đối với các sản phẩm của chi nhánh này và những đối thủ cạnh tranh của chúng, tất cả đều muốn lựa chọn những phương pháp kỹ thuật có hiệu quả hơn. Nó cũng có thể diễn ra một cách rộng rãi hơn trong nội bộ nền kinh tế thông qua sự tăng cường có kết quả công tác đào tạo và kinh nghiệm của lực lượng lao động và thông qua sự khuyến khích có thể có đối với các ngành hỗ trợ tài chính và kỹ thuật có khả năng dẫn tới sự hạ thấp toàn bộ chi phí công nghiệp. - Khuyến khích năng lực kinh doanh trong nước: Do có các nhà đầu tư nước ngoài nhảy vào các thị trường vốn có các nhà đầu tư trong nước chiếm giữ phần lớn thị phần, nhưng ưu thế này sẽ không kéo dài đối với nhà đầu tư trong nước khi ưu thế về nguồn lực của nhà đầu tư nước ngoài trội hơn hẳn. Chính vì vậy các nhà đầu tư trong nước phải đổi mới cả quá trình sản xuất của mình từ trước từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ bằng việc cải tiến công nghệ và phương pháp quản lý để có thể trụ vững trên thị trường đó. Đó chính là một trong những thử thách tất yếu của nền kinh tế thị trường đối với các nhà sản xuất trong nước, không có kẻ yếu nào có thể tồn tại nếu không tự nó làm mình mạnh lên để sống trong cơ chế đó. - Tiếp cận với thị trường nước ngoài: Nếu như trước đây khi chưa có FDI, các doanh nghiệp trong nước chỉ biết đến có thị trường trong nước, nhưng khi có FDI thì họ được làm quen với các đối tác kinh tế mới không phải trong nước. Họ chắc chắn sẽ nhận thấy rất nhiều nơi cần cái họ đang có, và họ cũng đang cần thì ở nơi đối tác lại có, do vậy cần phải tăng cường hợp tác sẽ có nhiều sản phẩm được xuất khẩu để thu ngoại tệ về cho đất nước đồng thời cũng cần phải nhập khẩu một số loại mặt hàng mà trong nước đang cần. Từ các việc trao đổi thương mại này sẽ lại thúc đẩy các công cuộc đầu tư giữa các nước. Như vậy quá trình đầu tư nước ngoài và thương mại quốc tế là một quá trình luôn luôn thúc đẩy nhau, hỗ trợ nhau và cùng phát triển. - Chuyển đổi cơ cấu kinh tế: Đầu tư nước ngoài góp phần tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế của nước sở tại theo chiều hướng tích cực hơn. Nó thường tập trung vào những ngành công nghệ cao có sức cạnh tranh như công nghiệp hay thông tin. Nếu là một nước nông nghiệp thì bây giờ trong cơ cấu kinh tế các ngành đòi hỏi cao hơn như công nghiệp và dịch vụ đã tăng lên về tỷ trọng và sức đóng góp cho Ngân sách, GDP và cho xã hội nói chung. Ngoài ra về cơ cấu lãnh thổ, nó có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, đưa những tiềm năng chưa khai phá vào quá trình sản xuất và dịch vụ, và làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. * Những thua thiệt: - Vốn nước ngoài rất hạn chế: Mặc dù tính tổng thể vốn đầu tư trực tiếp lớn hơn và quan trọng hơn đầu tư gián tiếp, nhưng so với đầu tư gián tiếp thì mức vốn trung bình của một dự án đầu tư là thường nhỏ hơn nhiều. Do vậy tác động kịp thời của một dự án đầu tư trực tiếp cũng không tức thì như dự án đầu tư gián tiếp. Hơn thế nữa các nhà đầu tư trực tiếp thường thiếu sự trung thành đối với thị trường đang đầu tư, do vậy luồng vốn đầu tư trực tiếp cũng rất thất thường, đặc biệt khi cần vốn đầu tư trực tiếp thì nó lại rất ít làm ảnh hưởng đến kế hoạch kinh tế chung của đất nước nhận đầu tư. - Công nghệ không thích hợp, “giá chuyển nhượng nội bộ” cùng với việc giảm tính linh hoạt trong xuất khẩu, ảnh hưởng đến cán cân thanh toán: người ta cho rằng các công ty có sự kiểm soát nước ngoài có thể sử dụng các kỹ thuật sản xuất sử dụng nhiều tư bản là chủ yếu (mà chúng sẵn có, nhưng không thích hợp) dẫn tới sự chuyển giao công nghệ không đầy đủ ở mức chi phí quá cao (để duy trì ưu thế công nghệ), định ra những giá cả chuyển nhượng giao cao một cách giả tạo (để bòn rút lợi nhuận quá mức), gây ra sự căng thẳng cho cán cân thanh toán (bởi vì với tư cách là một bộ phận của các chi nhánh sản xuất đa quốc gia, các doanh nghiệp đó có thể có ít khả năng hơn so với các công ty thuộc quyền kiểm soát trong nước trong việc mở rộng xuất khẩu, và có thể phải lệ thuộc nhiều vào hàng nhập khẩu). Bản chất thông tin của công nghệ được chuyển giao, cho nên nó được chuyển giao trong một thị trường không hoàn hảo cao độ mà trong đó thường khó có thể cố định giá cả một cách chính xác. Các nước đang phát triển thường xuyên ở vào vị trí thương lượng yếu hơn trong các thị trường này, đặc biệt là khi họ thiếu lực lượng cán bộ chuyên môn để có thể giúp xác định mức đóng góp thích hợp của hoạt động chuyển giao công nghệ cần thiết. Điều này có thể đặc biệt đúng khi công nghệ được chuyển giao như một yếu tố trong hệ thống các nguồn lực do FDI đưa vào, bởi vì thường không được biết rõ các chi phí chính xác của công nghệ đó. Một số nước đang phát triển đã cố gắng tăng cường vị trí thương lượng của họ bằng cách đặt ra những giới hạn cho các khoản tiền trả sử dụng bản quyền phát minh (chẳng hạn trả theo tỷ lệ cố định phần trăm của doanh thu) hoặc bằng cách thiết lập các thủ tục xem xét lại đối với toàn bộ các hợp đồng công nghệ. Sự sẵn sàng hơn của công ty xuyên quốc gia trong việc xem xét các hình thức chuyển giao công nghệ có thể khác nhau - bao gồm việc cấp giấy phép cho đặc quyền sử dụng và cho bao thầu lại - có thể giúp để hạ thấp các khoản chi phí chuyển giao này, đặc biệt là cho các nước chủ nhà mà họ có thể không cần tới các yếu tố khác trong hệ thống FDI trọn gói, chẳng hạn như kỹ năng về quản lý và marketing. Giá chuyển nhượng nội bộ được áp dụng trong các hoạt động giao dịch kinh doanh nội bộ công ty như vậy có thể khác xa với giá thị trường tương ứng nằm ngoài tầm kiểm soát của nó và nó có thể phải trả trong quan hệ buôn bán giữa các bên không có quan hệ với nhau. Việc lập hoá đơn hàng thấp hơn hay cao hơn so với số thực có là nhằm thay đổi mức lợi nhuận tính thuế, hay để tránh thuế ngoại thương, hoặc kiểm soát hối đoái đều là những vấn đề chung cho mọi hoạt động thương mại. Nhưng cơ hội cho các hoạt động như vậy rõ ràng lớn hơn trong nội bộ công ty. Điều này đặt gánh nặng tương ứng lên khả năng kiểm soát hải quan đặc biệt là đối với các sản phẩm có thể phân chia nhỏ được (chẳng hạn như các loại dược phẩm), hoặc đối với các cấu kiện chuyên dùng không có một mức giá nhất định với khách hàng bên ngoài. - Và những vấn đề khác: Các vấn đề ô nhiễm môi trường cùng với tài nguyên bị cạn kiệt và những lợi dụng về chính trị đó là một trong những điều tất yếu mà nước chủ nhà phải hứng chịu khi quá trình FDI diễn ra. 5. Vai trò của chính phủ. Vai trò Chính phủ về FDI không chỉ dừng lại ở chính sách khuyến khích. Hầu hết các Chính phủ đều có vai trò trực tiếp khuyến khích hay hạn chế FDI, quản lý quá trình FDI, và tạo ra khuôn khổ thể chế hỗ trợ. Sự khuyến khích của Chính phủ nước chủ nhà có thể chia làm bốn dạng. Dạng thứ nhất là nhằm giúp tăng thu cho các hãng có FDI. Những khuyến khích loại này bao gồm thuế qui định thuế nhập khẩu đối với hàng hoá của hãng, miễn thuế trong một thời hạn nào đó đối với sản phẩm của hãng. Hầu hết các nước chủ nhà muốn khuyến khích đầu tư nước ngoài đều cung cấp cho các nhà đầu tư trọn gói cơ sở hạ tầng, thường là khu chế xuất hay khu tự do thương mại. Một số nước chủ nhà giúp các nhà đầu tư nước ngoài giảm rủi ro phi kinh tế, đảm bảo không quốc hữu hoá hay sung công tài sản của họ. Các nước chủ nhà đầu tư cũng ký với các nước nhận đầu tư những hiệp ước song phương để bảo hộ đầu tư, bảo lãnh đầu tư, nhằm bảo hiểm rủi ro về chính trị đối với khả năng không chuyển đổi đồng tiền, sung công, chiến tranh hay bạo động và vi phạm hợp đồng (cơ quan Bảo lãnh Đa phương (MIGA) của Ngân hàng Thế giới (WB), thành lập năm 1988, đóng vai trò này. Bảo hiểm tư nhân, như của các công ty Lloyd’s London, cũng càng ngày càng quan trọng hơn). Các biện pháp hạn chế bao gồm không cho phép FDI vào một số lĩnh vực, đặc biệt là những lĩnh vực công nghệ thấp mà các hãng trong nước có thể đảm đương được, hoặc cái gọi là ngành “chiến lược”, giới hạn tỷ lệ góp vốn liên doanh, bắt buộc tăng dần tỷ lệ góp vốn của bên đối tác trong nước sau một số năm nhất định, hạn chế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, đề ra chỉ tiêu hoạt động như tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu, hay qui định về hàm lượng trong nước, hạn chế khả năng tiếp cận thị trường tài chính, hoặc khả năng bán sản phẩm trong thị trường nội địa. Chính phủ quản lý quá trình FDI nhờ vai trò chủ động can thiệp trong quá trình đàm phán và giám sát hoạt động. Kinh nghiệm của các nước Đông á cho thấy rằng nên sử dụng luật áp dụng chung cho mọi cuộc đàm phán chứ không nên qui định cho từng trường hợp như châu Mỹ Latinh vẫn áp dụng. Cũng tương tự, nên chỉ có một cơ quan phụ trách về đàm phán. Chính phủ cũng vẫn đóng vai trò tích cực ngay cả khi FDI đã được thực hiện dưới hình thức giám sát hoạt động của các xí nghiệp có vốn FDI. Việc giám sát bao gồm các điều khoản thuế, kiểm tra không cho tiến hành giao dịch giá chuyển nhượng trong nội bộ hãng, sản lượng ra thị trường và đào tạo cho công nhân bản xứ. Một số Chính phủ cũng đo lường FDI trên cán cân thanh toán. Cũng cần kiểm tra độ lạc hậu của công nghệ, và thời hạn đàm phán hoặc điều chỉnh của hợp đồng FDI. Nếu có cơ quan mạnh thì việc quản lý FDI sẽ hiệu quả hơn. ở các nước đang phát triển, cần phải tăng cường thể chế trên hai lĩnh vực - năng lực công nghệ và quá trình ra quyết định. Về vấn đề thứ nhất, những yếu kém về phân tích đầu tư của các cơ quan phụ trách FDI khiến họ không chọn những dự án FDI có lợi nhất cho quốc gia. Thậm chí những người có năng lực kỹ thuật không phải lúc nào cũng phân tích đầu tư một cách có hệ thống. Về khả năng ra quyết định thường phản ánh ý chí chính trị yếu, khiến các chính sách của Chính phủ được thực thi không nhất quán. Các nước Đông á thành công trong việc khuyến khích FDI có các cơ quan phụ trách FDI mạnh (thường trực thuộc Thủ tướng). Và không phải lúc nào người ta cũng nhận thức được rằng, cần phải có riêng hai cơ quan phụ trách vấn đề qui định và khuyến khích FDI. 6. Các loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, hiện nay tại Việt Nam có các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: • Hợp đồng hợp tác kinh doanh: là hình thức đầu tư được ký giữa một hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngoài với một hoặc nhiều doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế để tiến hành một hay nhiều hoạt động kinh doanh ở nước chủ nhà trên cơ sở quy định về trách nhiệm và phân phối kết quả kinh doanh mà không thành lập một công ty, xí nghiệp hay không ra đời một tư cách pháp nhân nào mới. • Công ty liên doanh: là hình thức công ty được hình thành với sự tham gia của một hoặc nhiều bên của nước nhận đầu tư và nước đầu tư; cho ra đời một pháp nhân mới ở nước nhận đầu tư và hoạt động dưới sự chi phối của pháp luật của nước nhận đầu tư. • Hình thức công ty 100% vốn nước ngoài: là hình thức công ty hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của tổ chức, cá nhân nước ngoài và do bên nước ngoài tự thành lập, tự quản lý và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh; cho ra đời một pháp nhân mới ở nước nhận đầu tư và hoạt động dưới sự chi phối của pháp luật của nước nhận đầu tư. • Hợp đồng Xây dựng – Kinh doanh - Chuyển giao (BOT-Build-Operation-Transfer): là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. • Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao – Kinh doanh (BTO): là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý. • Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT): là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cầu hạ tầng, sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý. 7. Đặc điểm và môi trường của đầu tư trực tiếp nước ngoài. a. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đặc điểm và môi trường của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm cơ bản sau: - Hoạt động FDI không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận đầu tư mà còn có cả công nghệ, kỹ thuật, bí quyết kinh doanh, sản xuất, năng lực Marketing, trình độ quản lý...Hình thức đầu tư này mang tính hoàn chỉnh bởi khi vốn đưa vào đầu tư thì hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành và sản phẩm được tiêu thụ trên thị trường nước chủ nhà hoặc xuất khẩu. Do vậy, đầu tư kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm là một trong những nhân tố làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Đây là đặc điểm để phân biệt với các hình thức đầu tư khác, đặc biệt là với hình thức ODA (hình thức này chỉ cung cấp vốn đầu tư cho nước sở tại mà không kèm theo kỹ thuật và công nghệ). - Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một lượng vốn tối thiểu vào vốn pháp định tuỳ theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài ở từng nước, để họ có quyền trực tiếp tham gia điều hành, quản lý đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Chẳng hạn, ở Việt Nam theo điều 8 của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: ”Số vốn đóng góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30% vốn pháp định của dự án” (Trừ những trường hợp do chính phủ quy định). - Quyền quản lý, điều hành doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phụ thuộc vào vốn góp. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài càng cao thì quyền quảnlý, ra quyết định càng lớn. Đặc điểm này giúp ta phân định được các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu nhà đầu tư nước ngoài góp 100% vốn thì doanh nghiệp đó hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành. - Quyền lợi của các nhà ĐTNN gắn chặt với dự án đầu tư: Kết quả hoạt động sản xuất kinh của doanh nghiệp quyết định mức lợi nhuận của nhà đầu tư. Sau khi trừ đi thuế lợi tức và các khoản đóng góp cho nước chủ nhà, nhà ĐTNN nhận được phần lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định. - Chủ thể của đầu tư trực tiếp nước ngoài thường là các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia ( chiếm 90% nguồn vốn FDI đang vận động trên thế giới ). Thông thường các chủ đầu tư này trực tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp ( vì họ có mức vốn góp cao) và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. - Nguồn vốn FDI được sử dụng theo mục đích của chủ thể ĐTNN trong khuôn khổ luật Đầu tư nước ngoài của nước sở tại. Nước tiếp nhận đầu tư chỉ có thể định hướng một cách gián tiếp việc sử dụng vốn đó vào những mục đích mong muốn thông qua các công cụ như: thuế, giá thuê đất, các quy định để khuyến khích hay hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một lĩnh vực, một ngành nào đó. - Mặc dù FDI vẫn chịu sự chi phối của Chính Phủ song có phần ít lệ thuộc vào quan hệ chính trị giữa các bên tham gia hơn so với ODA. - Việc tiếp nhận FDI không gây nên tình trạng nợ nước ngoài cho nước chủ nhà, bởi nhà ĐTNN chịu trách nhiệm trực tiếp trước hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Trong khi đó, hoạt động ODA và ODF ( official Development Foreign) thường dẫn đến tình trạng nợ nước ngoài do hiệu quả sử dụng vốn thấp. b. Môi trường đầu tư FDI tại Việt Nam Từ thực tiễn thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) 20 năm qua, đến nay có thể nói trong điều kiện của thế giới và khu vực hiện nay, ĐTNN thực sự trở thành hình thức hợp tác kinh tế quốc tế rất hiệu quả đối với các nước đang phát triển.  Nhìn lại 20 năm trước, trong bối cảnh quốc tế:  chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan vỡ; các thế lực thù địch tìm cách chống phá Việt Nam trên nhiều mặt. Thế giới có những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị và an ninh quốc tế, sự phục hồi chậm của nền kinh tế thế giới và biến động giá cả trên thị trường quốc tế... Các nước đang phát triển ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á thực hiện cải cách kinh tế, trở thành khu vực phát triển năng động của thế giới. Tình hình trong nước: Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, nền kinh tế ở tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ, mang nặng tính chất tự cấp tự túc, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, mức lạm phát lên tới trên 700% vào năm 1986, sản xuất đình trệ, cơ sở kỹ thuật lạc hậu và lâm vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Với bối cảnh trong nước và quốc tế như vậy, để khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội, Đảng ta đã chủ trương mở cửa nền kinh tế, thực hiện công cuộc “đổi mới” toàn diện, trong đó có việc  hoàn thiện, nâng Điều lệ Đầu tư  năm 1977 thành bộ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, đã khẳng định sự đúng đắn của chủ trương, đường lối mở cửa nền kinh tế của Đảng, góp phần quan trọng vào thành công của sự nghiệp đổi mới trong chặng đường vừa qua. Sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài  tại Việt Nam năm 1987 đã tạo môi trường pháp lý cao hơn để thu hút vốn ĐTNN vào Việt Nam. Luật này đã bổ sung và chi tiết hoá các lĩnh vực cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Đây là một trong những đạo luật đầu tiên của thời kỳ đổi mới. Việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam đã thể chế hóa đường lối của Đảng, mở đầu cho việc thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ĐTNN, theo phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại; góp phần thực hiện chủ trương phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Kể từ khi ban hành năm 1987 đến nay, Luật ĐTNN đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần với các mức độ khác nhau vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000; cùng với các văn bản dưới Luật đã được cộng đồng quốc tế đánh giá là một đạo luật thông thoáng, hấp dẫn, về cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế. Pháp luật ĐTNN và các văn bản pháp luật liên quan đến ĐTNN được ban hành đã tạo môi trường pháp lý đồng bộ cho các hoạt động ĐTNN tại Việt Nam. Cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, khung pháp lý song phương và đa phương liên quan đến ĐTNN cũng không ngừng được mở rộng và hoàn thiện với việc nước ta đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các nước và vùng lãnh thổ. Vì vậy, ngay trong điều kiện cơ chế thị trường của Việt Nam chưa hoàn thiện, các nhà ĐTNN vẫn có thể tiến hành các hoạt động đầu tư thuận lợi ở Việt Nam mà không có sự khác biệt đáng kể so với một số nước có kinh tế thị trường truyền thống. Nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư và tạo "một sân chơi" bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động đầu tư, năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư có hiệu lực từ ngày 01/7/2006 và thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Sự thay đổi này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với thành phần kinh tế có vốn ĐTNN, một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Mặt khác, đó cũng là yêu cầu phù hợp với quy luật chung, nhằm đáp ứng kịp thời sự biến đổi khách quan của tình hình phát triển kinh tế trong nước cũng như quốc tế trong từng thời kỳ, để tiến tới một đạo luật ngày càng hoàn chỉnh phù hợp với xu thế hội nhập, nâng cao khả năng thu hút và sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN. Thực tế đã chứng minh việc ban hành Luật Đầu tư đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra những chuyển biến tích cực của tình hình ĐTNN vào Việt Nam kể từ năm 2006 tới nay. Từ thực tiễn thu hút ĐTNN 20 năm qua cho thấy việc tạo dựng môi trường pháp lý cho ĐTNN trong thời gian qua là rất cần thiết trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt thu hút vốn ĐTNN ở khu vực và trên thế giới, Luật Đầu tư nước ngoài đã thực sự trở thành “đòn bẩy” quan trọng trong việc thu hút ĐTNN vào Việt Nam trong 20 năm qua, đảm bảo cho việc thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN của Đảng và Nhà nước để phát triển kinh tế-xã hội đất nước ta vừa qua. Luật Đầu tư năm 2005 xác định việc phân cấp mạnh cho UBND cấp tỉnh và Ban quản lý Khu Công nghiệp, Khu chế xuất, Khu Công nghệ cao và Khu kinh tế (sau đây gọi là Ban quản lý) cấp Giấy Chứng nhận đầu tư (GCNĐT) cũng như quản lý hoạt động đầu tư và giảm bớt những dự án phải trình Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ chỉ chấp thuận về nguyên tắc đối với một số dự án quan trọng chưa có trong quy hoạch, hoặc chưa có quy hoạch. Những dự án đã có trong quy hoạch được duyệt và đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế  cũng như  các dự án còn lại sẽ do UBND cấp tỉnh và Ban quản lý tự quyết định và cấp GCNĐT. Việc phân cấp cấp GCNĐT về UBND cấp tỉnh và Ban quản lý là một chủ trương thực hiện cải cách hành chính trong quản lý kinh tế và đã được tổng kết trong nhiều năm qua, đã tạo điều kiện thuận lợi để UBND cấp tỉnh và Ban quản lý thực hiện được trách nhiệm quản lý hoạt động đầu tư trong nước và ĐTNN trên địa bàn. Việc phân cấp mạnh cho UBND tỉnh và Ban quản lý đã tạo điều kiện cho các Bộ, ngành quản lý nhà nước tập trung thực hiện chức năng hoạch định chính sách, dự báo, kiểm tra, giám sát. Cho tới nay, công tác quản lý hoạt động ĐTNN ở địa phương, nhất là các địa phương có nhiều doanh nghiệp ĐTNN đã đi vào nề nếp, theo trình tự hợp lý, đã được đơn giản hóa,…được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá có nhiều đổi mới, góp phần cải thiện môi trường đầu tư-kinh doanh của địa phương. Bên cạnh đó, các Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh đã phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện các nội dung quản lý hoạt động ĐTNN, từ thẩm định cấp GCNĐT đến hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổ chức tập huấn, trao đổi nghiệp vụ và hỗ trợ các địa phương từ việc tổ chức hội nghị, hội thảo vận động xúc tiến, xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư, ban hành văn bản hướng dẫn về ĐTNN tại địa bàn,…. đưa hoạt động quản lý ĐTNN ở các địa phương đi vào nề nếp. Mô hình “một cửa, liên thông”, cách làm “trải thảm đỏ đón nhà đầu tư” tiếp tục xuất hiện và có tác động lan toả rộng khắp trong cả nước, đã góp phần nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ĐTNN vào Việt Nam.  Khuôn khổ pháp lý từng bước được hoàn thiện và nâng cao chất lượng quản lý là các yếu tố và động lực góp phần đưa lại kết quả đáng khích lệ của hoạt động ĐTNN tại Việt Nam, góp phần xác định vai trò quan trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước ta. II.Sự hình thành các vùng kinh tế ở Việt Nam Nguồn lực là tiền đề vật chất quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Quy mô và tốc độ phát triển - xã hội của một nước, ở mức độ lớn, phục thuộc vào việc khai thác hợp lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong và bên ngoài, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Tài nguyên thiên nhiên là tài sản của một quốc gia, là một trong những nguồn lực để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Tài nguyên thiên nhiên tuy không có tác dụng quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, song đó là điều kiện thường xuyên, cần thiết cho mọi hoạt động sản xuất, là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Tài nguyên thiên nhiên là một trong những yếu tố tạo vùng quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với việc hình thành các ngành sản xuất chuyên môn hoá, các ngành mũi nhọn. Cùng với tài nguyên thiên nhiên còn có tài nguyên nhân văn cũng là tiền đề để phát triển kinh tế - xã hội của một nước, một vùng. Dân cư và nguồn lao động không chỉ là lực lượng trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội, mà còn là lực lượng tiêu thụ sản phẩm của xã hội, kích thích quá trình tái tạo sản xuất mở rộng của xã hội. Dân cư và các nguồn lực lao động vốn khó di chuyển đi xa, vì vậy khi lựa chọn đị điểm sản xuất kinh doanh trước hết cần tận dụng tới mức tối đa nguồn lao động tại chỗ. Trong tài nguyên nhân văn còn có yếu tố về văn hoá - lịch sử. Mỗi một vùng ở nước ta đều có một bản sắc dân tộc khác nhau, và có các ngành nghề truyền thống khác nhau. Do đó, nhà đầu tư nước ngoàiđánh giá từng ngành nghề truyền thống, ngành nào có lợi hơn và thu được lợi nhuận nhanh thì họ sẽ đầu tư vào. Ngoài ra, các nhà đầu tư còn căn cứ và hiện trạng và tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội ở nơi mình định đầu tư vào. Cơ cấu GDP cũng là một nhân tố quan trọng để nhà đầu tư xem xét để từ đó nhà đầu tư biết mình phải đầu tư vào ngành nào, vào lĩnh vực nào. Với những căn cứ trên mà các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư chủ yếu vào nước ta ở 8 vùng từ Bắc đến Nam. III.Sự cần thiết phải thu hút FDI phát triển các khu vực kinh tế ở Việt Nam Trước hết FDI là ngồn bổ xung vốn đầu tư. Giải quyết tình trạng thiếu vốn ở các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển thường trong vòng luẩn quẩn như sau: SX kh«ng hiÖu qu¶ Thu nhËp thÊp TÝch luü thÊp §Çu t­ thÊp Khi có FDI Þ Đầu tư tăng Þ Quy mô XS, hiệu quả XS tăng Þ Thu nhập tăng Þ Tích luỹ tăng Þ Tạo đà phát triển cho giai đoạn sau. Đầu t._.ải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ. 3. Nguyên nhân    - Tư duy kinh tế chậm đổi mới. Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị trường theo nguyên tắc thị trường. Nhận thức về chung về ĐTNN đều thống nhất như các chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước là coi ĐTNN là một bộ phận cấu thành hữu cơ của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, thực tế xử lý các vấn đề cụ thể ở nhiều Bộ, ngành và địa phương vẫn còn phân biệt rất khác nhau giữa đầu tư trong nước và ĐTNN, chưa thực sự coi ĐTNN là thành phần kinh tế của Việt Nam. Điều đó thể hiện ngay từ khâu quy hoạch sản phẩm, phân bổ các nguồn lực phát triển kinh tế (lao động, đất đai, vốn…) cũng chưa thực sự cho phép ĐTNN tham gia. Việc xử lý tranh chấp kinh tế giữa các bên cũng thiên về bảo vệ quyền lợi cho phía Việt Nam. Trong những thời điểm khó khăn, ta tranh thủ vốn ĐTNN nhưng khi điều kiện thuận lợi lại có xu hướng không khuyến khích ĐTNN mà để trong nước tự làm; những biểu hiện này có tác động làm  nản lòng nhà ĐTNN. - Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Một số Bộ, ngành chậm ban hành các thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ. - Môi trường đầu tư-kinh doanh nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn ĐTNN tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt. - Định hướng chiến lược thu hút vốn ĐTNN hướng chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp ĐTNN với doanh nghiệp trong nước còn yếu nên giá trị gia tăng trong một số sản phẩm xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) còn thấp. Nhiều tập đoàn công nghiệp định hướng xuất khẩu đầu tư tại Việt Nam buộc phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu đầu vào vì thiếu nguồn cung cấp ngay tại Việt Nam. - Công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về xu hướng bảo hộ sả n xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế. -Nước ta có xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp để khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế. - Sự phối hợp trong quản lý hoạt động ĐTNN giữa các Bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Đánh giá tình hình ĐTNN vẫn nặng về số lượng, chưa coi trọng về chất lượng, còn bệnh thành tích trong cơ quan quản lý các cấp. - Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác kinh tế đối ngoại còn hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, không loại trừ một số yếu kém về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho doanh nghiệp, làm  ảnh hưởng xấu đến môI trường đầu tư-kinh doanh. PHẦN III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ PHÁT TRIỂN CÁC KHU VỰC KINH TẾ Ở VIỆT NAM I.Khái quát về thực trạng thu hút FDI vào nền kinh tế VIệt Nam nói chung. 1. Vị trí và tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài với nền kinh tế Việt Nam. Có thể nói đầu tư nước ngoài trong thời gian vừa qua đã tác động rất lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế Viêt Nam. Điều đó được thể hiện rất rõ qua những số liệu cho thấy sự chuyển biến rất lớn của nền kinh tế. Đóng góp của ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn, từ tỷ trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ lệ này đã giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực (năm 2000 chiếm 18,6%) và trong 5 năm 2001-2005 chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng 16% (Theo Niên giám Thống kê cơ cấu vốn đầu tư thực hiện của khu vực ĐTNN năm 2003 là 16%, năm 2004 là 14,2%, năm 2005 là 14,9% và năm 2006 là 15,9%, ước năm 2007 đạt trên 16%). Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm 1991-2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi năm 7,56%, trong đó: (i) 5 năm 1991-1995: tăng 8,18% (nông lâm ngư tăng 2,4%; công nghiệp xây dựng tăng 11,3%, dịch vụ tăng 7,2%); (ii) 5 năm 1996-2000: tăng 6,94% (nông lâm ngư tăng 4,3%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 5,75%). Nhờ vậy, đến năm 2000 tổng sản phẩm trong nước tăng gấp hơn 2 lần năm 1990: (iii) 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt 7,5% (nông lâm ngư tăng 3,8%; công nghiệp xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%; (iv) Năm 2006 đạt 8,17% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,37%, dịch vụ tăng 8,29% và (iv) Năm 2007 đạt 8,48% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 8,6%. 2. Khái quát chung thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài a. Mặt tích cực: Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất. a.1 Về mặt kinh tế: - ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế: Đóng góp của ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn, từ tỷ trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ lệ này đã giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực (năm 2000 chiếm 18,6%) và trong 5 năm 2001-2005 chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng 16% (Theo Niên giám Thống kê cơ cấu vốn đầu tư thực hiện của khu vực ĐTNN năm 2003 là 16%, năm 2004 là 14,2%, năm 2005 là 14,9% và năm 2006 là 15,9%, ước năm 2007 đạt trên 16%). Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm 1991-2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi năm 7,56%, trong đó: (i) 5 năm 1991-1995: tăng 8,18% (nông lâm ngư tăng 2,4%; công nghiệp xây dựng tăng 11,3%, dịch vụ tăng 7,2%); (ii) 5 năm 1996-2000: tăng 6,94% (nông lâm ngư tăng 4,3%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 5,75%). Nhờ vậy, đến năm 2000 tổng sản phẩm trong nước tăng gấp hơn 2 lần năm 1990: (iii) 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt 7,5% (nông lâm ngư tăng 3,8%; công nghiệp xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%; (iv) Năm 2006 đạt 8,17% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,37%, dịch vụ tăng 8,29% và (iv) Năm 2007 đạt 8,48% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 8,6%. - ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp: Trong 20 năm qua ĐTNN đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng của nền kinh tế nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng, trong đó từng bước trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia, góp phần phát triển các ngành công nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhiều công trình lớn đã hoàn thành đưa vào sản xuất, phát huy hiệu quả đầu tư, nhiều công trình trọng điểm làm cơ sở cho tăng trưởng giai đoạn sau đó được khởi công và đẩy nhanh tiến độ, nhất là các công trình điện, dầu khí, công nghiệp nặng, công nghiệp phục vụ xuất khẩu... Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành công nghiệp qua các năm (từ 23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41% năm 2005 và năm 2006). Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong 5 năm qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Cụ thể tỷ trọng trên tăng từ 41,3% vào năm 2000 lên 43,7% vào 2 năm 2004 và 2005. Đặc biệt, một số địa phương (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc..) tỷ lệ này đạt đến 65-70% giá trị sản xuất công nghiệp của địa bàn. ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy, thép, điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da giày, dệt may… Hiện ĐTNN đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công nghiệp (dầu khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều hòa), 60% cán thép, 33% hàng điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác, 49% sản phẩm da giày, 55% sản lượng sợi, 25% hàng may mặc. ĐTNN đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện đại, đem lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một số địa phương đất đai kém màu mỡ. - ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ: ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy... Nhất là sau khi Tập đoàn Intel đầu tư 1 tỷ đô la Mỹ vào Việt Nam trong dự án sản xuất linh kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao của các tập đoàn đa quốc gia (Canon, Panasonic, Ritech.v.v) Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực ĐTNN cao hơn hoặc bằng các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu vực. Hầu hết các doanh nghiệp có vốn ĐTTNN áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được kết nối và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của công ty mẹ. Trong nông-lâm-ngư nghiệp, ĐTNN đã tạo ra một số sản phẩm mới có hàm lượng kỹ thuật cao và các cây, con giống mới. - Tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế: Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số lượng các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời, có tác động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Sự lan tỏa này có thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo hàng ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa. - ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô: Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng. Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm. Riêng 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã nộp ngân sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-2005. ĐTNN tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu... - ĐTNN góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế: Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh, cao hơn mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%; tính cả dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55% trong các năm 2005, 2006 và 2007. ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu khí, 84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng may mặc… Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế giới. Trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, ĐTNN đã tạo ra nhiều khách sạn cao cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5 sao cũng như các khu du lịch, nghỉ dưỡng đáp ứng nhu cầu khách du lịch quốc tế, góp phần gia tăng nhanh chóng xuất khẩu tại chỗ. Bên cạnh đó, ĐTNN còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. a.2 Về mặt xã hội: - ĐTNN góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao động, cải thiện nguồn nhân lực: Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều tra của WB cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ trong khu vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP đầu người tăng lên hàng năm. Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam cũng đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài trong đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy trình công nghệ hiện đại. - ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới: ĐTNN đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Đến nay, Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Nước ta cũng đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định tự do hoá, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản. Thông qua tiếng nói và sự ủng hộ của các nhà đầu tư nước ngoài, hình ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được cải thiện. a.3 Về mặt môi trường: Theo kết quả điều tra năm 2007 (của Viện Quản lý kinh tế trung ương), đa số các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường Việt Nam và có kết quả môi trường tốt hơn so với số đông các doanh nghiệp trong nước (có 77% doanh nghiệp có kết quả về các thông số gây ô nhiễm môi trường thấp hơn tiêu chuẩn cho phép của Việt Nam). Đáng chú ý là 60% doanh nghiệp ĐTNN trong lĩnh vực chế biến thực phẩm đã lắp đặt thiết bị xử lý nước thải đúng tiêu chuẩn (so sánh với tỷ lệ 10% của các doanh nghiệp trong nước). Không có doanh nghiệp ĐTNN nào được điều tra vi phạm tiêu chuẩn môi trường Việt Nam. b. Mặt hạn chế: Tuy đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, nhưng hoạt động ĐTNN tại Việt Nam còn những mặt hạn chế như sau: - Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ: Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực, ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm, còn những dự án, lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng thì không thu hút được đầu tư nước ngoài. Các nhà ĐTNN trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó các thành phố lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng bằng là nơi tập trung nhiều dự án ĐTNN nhất. Trong khi đó, các tỉnh miềm núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn nhưng không được các nhà đầu tư quan tâm. Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát triển cao thì thu hút được ĐTNN nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ kém phát triển thì có ít dự án ĐTNN, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp. Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN chỉ đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà ĐTNN. - Tranh chấp lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chưa được giải quyết kịp thời. Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời điểm doanh nghiệp mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi doanh nghiệp gặp khó khăn về sản xuất kinh doanh. Nhìn chung người chủ thường trả công cho người lao động thấp hơn cái mà họ đáng được hưởng, không thỏa đánh với nhu cầu của người lao động. Điều đó dẫn đến mâu thuẫn giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, dẫn đến tình trạng đình công bãi công làm thiệt hại cho doanh nghiệp. ĐTNN ở nước ta đã thu hút được hàng nghìn doanh nghiệp của các nước và vũng lãnh thổ khắp thế giới. Điều đó cho thấy tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện tính đa dạng của các nền văn hóa trong quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp ĐTNN. - Sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp ĐTNN thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta. Tuy vậy, một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm chí là những phế thải của các nước khác. Tính phổ biến của việc nhập máy móc thiết bị là giá cả đươc ghi trong hóa đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường thế giới. Nhờ vậy một số nhà ĐTNN có thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh với Việt Nam. Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện thông qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học công nghệ chuẩn y. Tuy vậy, đây là một hoạt đông cực kỳ khó khăn đối với các nước tiếp nhận đầu tư nói chung, kể cả Việt Nam, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ. II. Phương hướng tăng cường thu hút vốn FDI vào phát triển các khu vực kinh tế ở Việt Nam Trong thời gian tới, dự báo vốn ĐTNN vẫn sẽ tập trung chủ yếu vào những địa phương có điều kiện thuận lợi về địa lý-tự nhiên, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm. Để tăng cường thu hút ĐTNN tại những vùng có điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, bên cạnh những ưu đãi của đối với ĐTNN tại các vùng đó đòi hỏi phải tăng cường đầu tư xây dựng nhanh cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đường giao thông, điện, nước ở các vùng kinh tế khó khăn bằng nguồn vốn nhà nước, vốn ODA và nguồn vốn tư nhân. Tập trung thu hút đầu tư, lấp đầy các KCN-KCX-KCNC, khu kinh tế đã được Chính phủ phê duyệt góp phần đẩy nhanh việc thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Tận dụng những khu vực đất trống, đồi trọc, ít giá trị nông nghiệp để phát triển KCN, xây dựng nhà máy, hạn chế xây dựng KCN-KCX-KCNC trên đất canh tác nông nghiệp truyền thống. III. Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn FDI vào phát triển các khu vực kinh tế ở Việt Nam. Để để tiếp tục thu hút, thúc đẩy giải ngân và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI năm 2009 và năm 2010, Bộ Kế hoạch và Đầu đề xuất 9 Nhóm giải pháp cần ưu tiên triển khai như sau: Thứ nhất, Khuyến khích và ưu đi hơn nữa các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp và vùng sâu, vùng núi, vùng xa. Thời gian qua, mặc dù Nhà nước đ liên tục điều chỉnh tăng mức ưu đi đối với các dự án đầu tư vào nông - lâm - ngư nghiệp và những dự án vào vùng núi, vùng sâu, vùng xa như miễn giảm thuế lợi tức, hỗ trợ cân đối ngoại tệ, miễn giảm tiền thuê đất... nhưng thực tế, các ưu đi nói trên vẫn không hấp dẫn các nhà đầu tư, đồng thời, nhiều dự án trong lĩnh vực này gặp khó khăn, trở ngại trong thực hiện đầu tư, không đạt được hiệu quả mong muốn. Vì vậy, để tăng cường thu hút đầu tư vào các lĩnh vực và địa bàn nói trên cần điều chỉnh một số chính sách ưu đi theo hướng sau: - Nhà nước đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trên địa bàn, tạo vùng nguyên liệu, đào tạo nhân lực, hỗ trợ chủ đầu tư trong việc giảm chi phí dự án nhằm tạo mọi thuận lợi cho dự án triển khai có hiệu quả, đảm bảo đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư. nên xem xét cho phép các dự án thuộc diện này được vay ưu đi từ Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia như ddối với dự án khuyến khích đầu tư trong nước. - Chỉ thu tượng trưng tiền thuế đất đối với các dự án đầu tư vào nông lâm ngư nghiệp ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa (ví dụ: 1USD/ha/năm). - Miễn thuế nhập khẩu toàn bộ vật tư, nguyên vật liệu sản xuất (kể cả loại nguyên vật liệu vật tư trong nước đ được sản xuất) đối với các dự án đầu tư vào miền núi, vùng sâu, vùng xa trong 5 năm đầu. - Cho phép tăng tỷ lệ tiêu thụ tại thị trường nội địa đối với những sản phẩm buộc đảm bảo tỷ lệ xuất khẩu. Thứ hai, giải pháp về luật pháp, chính sách Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đổi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn thiếu và loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO. Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân; không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu; dự án tác động xấu đến môi trường;  thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất, giao đất có điều kiện theo tiến độ dự án, tránh lập dự án lớn để giữ đất, không triển khai; cân nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất, kể cả đất KCN. Thứ ba, giải pháp về quy hoạch Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án. Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư; rà soát, kiểm tra, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hiệu quả, nhất là đối với các địa phương ven biển nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và môi trường bền vững. Thứ tư, giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt; sản xuất và sử dụng điện từ các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời; các dự án lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin. Thứ năm, giải pháp về nguồn nhân lực Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động. Thứ sáu, giải pháp về giải phóng mặt bằng Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành ngay các thủ tục thu hồi đất và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án FDI không có khả năng triển khai hoặc chưa có kế hoạch sử dụng hết diện tích đất đã được giao để chuyển cho các dự án đầu tư mới có hiệu quả hơn. Đồng thời, trong phạm vi thẩm quyền của mình, chủ động tổ chức việc đền bù giải tỏa và giao đất cho chủ đầu tư theo đúng cam kết, đặc biệt là các dự án quy mô lớn mà chủ đầu tư sẵn sàng giải ngân thực hiện dự án. Thứ bảy, giải pháp về phân cấp Qua thực tế thực hiện việc phân cấp trong hơn 2 năm vừa qua đã bộc lộ một số vấn đề bất cập, không phù hợp, ảnh hưởng đến quy hoạch phát triển kinh tế xã hội chung. Cần nghiên cứu để xem xét lại chủ trương phân cấp toàn diện như quy định hiện nay, có các biện pháp để tăng cường sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương trong việc cấp phép và quản lý các dự án đầu tư nước ngoài. Thứ tám, giải pháp về xúc tiến đầu tư Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm như các quốc gia thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản... Nhanh chóng hoàn thành việc xây dựng thông tin chi tiết về dự án (project profile) đối với danh mục đầu tư quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006-2010 để làm cơ sở cho việc kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án này. Thực hiện tốt Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn 2007-2010. Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm. Thứ chín, một số giải pháp khác Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước. Thực hiện chương trình Sáng kiến chung Việt Nam -Nhật Bản giai đoạn III hiệu quả; điều chỉnh Cơ chế hợp tác giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Việt Nam) và Cơ quan Phát triển kinh tế - EDB (Singapore) phù hợp với tình hình mới. Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các Bộ, ngành với các nhà đầu tư, đặc biệt là Diễn đàn doanh nghiệp hàng năm để xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án trong quá trình thực hiện chính sách và phát luật hiện hành, đảm bảo các dự án hoạt động đúng tiến độ và hiệu quả, nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới. KẾT LUẬN Đầu tư trực tiếp nước ngoài đang và sẽ là nguồn vốn đầu tư quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Xu hướng di chuyển luồng vốn FDI đang gia tăng trở lại các nước đang phát triển. Nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (khu vực kinh tế năng động nhất trên thế giới), Việt Nam có lợi thế khách quan do có các nguồn lực tự nhiên, vị trí địa lý thuận lợi, là thành viên của ASEAN, và gần đây là thành viên của tổ chức thương mại quốc tế WTO. Mặc dù vậy điều đó cũng đòi hỏi Việt Nam phải thể hiện bản lãnh, khả năng của mình trên đấu trường quốc tế. Với lợi thế và cũng có những bất lợi của người đi sau, Việt Nam cần phải tăng cường hợp tác, cạnh tranh trên cơ sở bình đẳng để hai bên cùng có lợi, giữ vững độc lập chủ quyển và phù hợp với thông lệ quốc tế. Hiện nay, chiến lược thu hút và huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nằm trong chiến lược tổng thể tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam , là một trong những vấn đề quan trọng. FDI góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh...và giải quyết nhiều vấn đề về mặt xã hội như giải quyết tình trạng thất nghiệp, nâng cao trình độ cho người lao động... Tiến tới hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đáp ứng kịp thời cho sự nghiệp CNH - HĐH. Chính sách thu hút FDI ngày càng được nới lỏng và hoàn thiện, góp phần nâng cao hoạt động của việc huy động FDI. Tuy vậy, đây mới chỉ là điều kiện cần còn thiếu điều kiện đủ là phải sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI đã thu hút được.Nhất là trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang khủng hoảng. Do vậy, chúng ta cần phải thu hút đồng bộ các giải pháp về cơ chế, chính sách,luật pháp...và đáp ứng được các mục tiêu mà Đảng và nhà nước đặt ra. Hơn nữa, luồng vốn đầu tư quốc tế có hai dòng chảy tự nhiên: đó là thu hút ĐTNN và tích cực đầu tư ra nước ngoài. Do vậy, để nắm bắt cơ hội, để công tác thu hút vốn FDI có hiệu quả trên các khu vực kinh tế, các cấp uỷ đảng, các cấp, ngành có liên quan cần chỉ đạo chặt chẽ, sáng tạo và học hỏi kinh nghiệm, áp dụng đồng bộ các biện pháp góp phần đưa Việt Nam phát triển, hiện đại đậm đà bản sắc dân tộc, sánh ngang với các nước trong khu vực và thế giới, đóng góp vào công cuộc đổi mới đất nước, thúc đẩy Việt Nam hoàn thành mục tiêu chiến lược năm 2020. Môc lôc Tµi liÖu tham kh¶o I. S¸ch: 1. LuËt ®Çu t­ n­íc ngoµi t¹i ViÖt Nam (2005) 2. Gi¸o tr×nh kinh tÕ ph¸t triÓn - §HKTQD - NXB Thèng kª 2004 3. Gi¸o tr×nh kinh tÕ ®Çu t­ - §HKTQD - Chñ biªn PGS-PTS NguyÔn Ngäc Mai 4. Niªn gi¸m th«ng kª n¨m 2005 - 2008 5. Tài liệu thuộc cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư. II. T¹p chÝ: 1. T¹p chÝ Kinh tÕ thÕ giíi - Sè 6/2008, sè 9/2008 2. T¹p chÝ Th­¬ng m¹i - Sè 15/2008, sè 20/2008 3. Thêi b¸o kinh tÕ ViÖt Nam 2005 - 2008 III. C¸c tµi liÖu b¸o c¸o cña Bé kÕ ho¹ch vµ ®Çu t­ – Tổng hợp Kinh tế quốc dân – Bộ Kế hoạch và Đầu tư. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21618.doc
Tài liệu liên quan