Thu hút vốn đầu tưư trực tiếp (FDI) đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế Việt Nam thời kỳ 2005 - 2010

Lời mở đầu Vốn là điều kiện hàng đầu của tăng trưởng trong mọi quốc gia. Đối với Việt Nam để đạt được tốc độ tăng trương cao và ổn định cần phải có một khối lương vốn rất lớn. Vì thế trong bối cảnh nền kinh tế còn kém phát triển, Khả năng tích luỹ còn thấp thì việc tăng cường huy động các nguồn vốn nước ngoài để bổ xung cho tổng vốn đầu từ phát triển có ý nghĩa rất quan trọng, trong đó phải kể đến vốn đầu tư nước ngoài (FDI). FDI có vai trò hết sức quan trọng, nó là nguồn bổ xung vốn cho

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1429 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thu hút vốn đầu tưư trực tiếp (FDI) đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế Việt Nam thời kỳ 2005 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đầu tư, là một cách để chuyển giao công nghệ, là một giải pháp tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo nguồn thu ngân sách và thúc đẩy nhanh qua trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhận thức đúng vị trí vai trò to lớn của FDI, chính phủ Việt Nam đã cho ban hành chính sách khuyến khích đầu từ nước ngoài vào Việt Nam, đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Chúng ta thực hiện đa dạng hoá và đa phương hoá hợp tác đầu tư với nước ngoài hai bên cùng có lợi. Việt Nam coi vấn đề huy động và sử dụng có hiệu quả FDI trong tổng thể chiến lược tăng trưởng và phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay là một trong những nhiệm vụ chiến lược trọng yếu nhất. Nó đã góp phần thực hiện có hiệu quả kế hoạch 5 năm (2001- 2005), là bước mở đầu quan trong trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hôi 5 năm 2005 – 2010 chiến lược đẩy manh công nghiệp hoá hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhận thấy vai trò quan trọng của việc đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam đặc biệt là trong thời kỳ sắp gia nhập WTO, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế Việt Nam thời kỳ 2005- 2010”. Trong bài này em xin được trinh bày những vấn đề sau: Chương I: Tổng quan về đầu từ trực tiếp nước ngoài Chương II: Thực trạng của thu hút FDI đến phát triển kinh tế Việt Nam Thời kỳ 2001 – 2005 Chương III: Một số phương hướng và biện pháp để thu hút FDI cho phát triển kinh tế Việt Nam thời kỳ 2005 – 2010 Chương I Tổng quan về đầu từ trực tiếp nước ngoài i. Lý luận chung về đầu từ trực tiếp nước ngoài 1. Khái niệm chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài: Mọi quá trinh sản suất phải có hai yếu tố từ liệu sản suất và sức lao động. Thiếu hai yếu tố đó thi sẽ không tồn tại quá trinh sản xuất hàng hoá. Để có được hai yếu tố cơ bản đó vấn đề cần đặt ra là cần có vốn đầu từ và thực hiện hoạt động đầu tư. Vốn đầu tư dùng để sản xuất hàng hoá, mua nhà xưởng mua thiết bị . v.v … Vốn có khác nhau về quy mô hay cơ cấu sông là điều cần thiết đối với mọi quá trình sản xuất, mọi quốc gia nhất là đối với những cơ sở mới bắt đầu hình thành và với những quốc gia còn ở trình độ lạc hậu chưa hoàn thành quá trinh công nghiệp hóa hiện đại hoá trong đó có Việt Nam. Vốn đầu từ trong nền sản xuất hàng hoá là vốn tiền tệ được tích luỹ bằng nguồn vốn của các doanh nghiệp, tiết kiệm của dân và nguòn vốn huy động từ các nguồn vốn khác, được đưa vào sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh, trong hoạt động kinh tế xã hội nhằm đạt hiệu quả kinh tế nhất định. Vốn đầu tư có thể huy động từ trong nước cũng như có thể huy động từ nứoc ngoài. Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế được đẩy mạnh như thời đại ngày nay thì vốn nước ngoài ngày càng phổ biến và có vai trò không nhỏ. Mặc dù đứng về lâu dài vốn trong nước luôn đống vai trò quyết định. Vốn đầu tư được sử dụng để phục vụ cho một mục đích nhất định căn cứ vào những tiêu thức nhất định người ta có thể phân chia đầu từ thành nhiều loại trong đó có đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Đầu tư trực tiếp là đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia điều hành quay trình thực hiện và có thể quyết định toàn bộ hoạt động nếu là xí nghiệp 100% vốn của mình hoặc tham gia quyết định nếu là xí nghiệp liên doanh. Trong đầu tư trực tiếp người có vốn có thể bỏ vốn vào để tăng thêm năng lực sản xuất mới song cũng có thể mua lại một số cổ phầm để hi vọng được lợi từ cổ phần. Trong đầu tư trực tiếp người có vốn bỏ ra có thể là người trong nước mà cũng có thể là người nước ngoài. Trong trừờng hợp vốn và người có vốn là người nước ngoài thì hoạt động đầu tư đó là đầu tư trục tiếp nước ngoài. Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư trực tiếp do nguồn vốn từ nước ngoài mà chủ thể của nó là tư nhân hay nhà nước hoặc các tổ chức quốc tế được nước chủ nhà cho phép đầu tư vào những ngành hoạc lĩnh vực nà đó của một nước nhằm thực hiện mục tiêu nhất định. ở Việt Nam, văn bản pháp luật đầu tiên về đầu tư trực tiếp nước ngoài là điều lện về đầu tư nước ngoài kèm theo nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977. Điều lện này không nếu định nghĩa cụ thể về đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng trong tư tưởng của các quy phạm thì khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như khái niệm ghi nhận sau này trong luật đầu tư nước ngoài năm 1987: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bằng bất kì tài sàn được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sỏ hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngoài ”. 1.1 Đặc điểm của FDI Đầu từ trực tiếp nước ngoài có một số đặc điểm sau: - Hoạt động FDI không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận đầu từ mà còn có cả công nghệ kĩ thuật, bí quyết kinh doanh, sản xuất, trình độ quản lý…. - Chủ đầu tư nước ngoài phải đóng một lượng vốn tối thiểu vào vốn pháp định theo quy định của luật đầu tư nước ngoài từ ở tong nước, để họ có quyền trực tiếp tham gia điều hành, quản lý. Ví dụ luật đầu tư Việt Nam quy định: “Số vốn góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30% vốn pháp định của dự án.” - Quyền quản lý, điều hành doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoái phụ thuộc vào nguồn góp, nếu góp 100% thì xí nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành. - Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quyết định mức lợi nhuận của nhà đầu tư. Lời và lỗ được chia theo tỉ lệ góp vốn sau khi đã nộp thuế lợi tức cho nước chủ nhà. - Nguồn vốn FDI được sử dụng theo mục đích của chủ đầu tư nước ngoài theo khuân khổ luật đầu tư nước ngoài của nước sở tại. Nước tiếp nhận đầu tư chỉ có thể định hướng một cách gián tiếp, việc sử dụng vốn đó vào những mục đích mong muốn thông qua các công cụ: Thuế, giá thuế đất, chính sách để khuyến khích hay hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một ngành nào đó. - Việc góp vốn FDI không gây nên tình trạng nợ nước ngoài cho nước chủ thể, bởi nhà đầu tư nước ngoài chị trách nghiệm trực tiếp trứơc hoạt động sẩn xuất kinh doanh của họ 1.2 ưu điểm của hình thức đầu tư trục tiếp nước ngoài. * Về giá đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Cho phép chủ đầu tư nước ngoài ở một mức độ nhất định(Phụ thuộc vào tỉ lệ góp vốn) tham gia đầu tư trực tiếp nước ngoài vào điều hành quă trình kinh doanh của xí nghiệp nên họ trực tiếp kiểm soát sự hoạt động và đưa ra quyết định có lợi nhất cho vốn đầu tư mà họ bỏ ra. Nếu môi trường đầu tư ổn định các chủ đầu tư nước ngoài muốn bỏ 100% vốn đầu tư. - Giúp cho nhà đầu tư nước ngoài dễ chiếm linh thị trừờng tiêu thụ và nguồn cung cấp nguyên liệu của nước chủ nhà. - Tránh được hàng rào mậu dịnh vì thông qua đầu tư trực tiếp mà họ tạo được các xí nghiệp năm bên “trong lòng” các nước thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch. * Về phía nước tiếp nhận đầu tư. - Giúp tăng cường khai thác vốn của tong chủ đầu tư nước ngoài. Nhiều nước thiếu vốn trầm trọng nên đối với hình thức đầu tư trực tiếp không quy định mức đóng góp tối đa của mỗi chủ đầu tư, thậm chí đóng góp càng nhiều càng được hưởng những chính sách ưu đã về thuế của nước chủ nhà. - Giúp tiếp thu được công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các chủ đầu tư nứoc ngoài. - Nhờ có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phép nước chủ nhà có điều kiện khai thác tôt nhất những lợi thế của mình về tài nguyên , vị trí, mặt nước… 1.3 Một số hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài Bên cạnh những ưu điểm thì hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có những hạn chế nhất định: - Nếu đầu tư vào môi trừờng bất ổn định về kinh tế và chình trị thì chủ đầu tư dễ bị mất vốn. - Nếu nước chủ nhà không có một quy định cụ thể và khoa học dẫn tơi sự đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai trác qua mức và nạn ô nhiễm mổi trường nghiềm trọng. Vì hiện nay ở các nước tư bản phát triển thực hiện kiểm soát gắt gao những dự án gây ô nhiễm môi trường, nên xu thế nhiều nhà tư bản nước ngoài đã và đang chuyển giao những công nghệ độc hại sang các nước kém phát triển. - Mục đích của nhà đầu tư là lợi nhuận nên họ chỉ đầu tư vào nơi có lợi nhất. Vì thế nhiều khi lượng vốn nước ngoài đã làm gia tăng nên sự mất cân đối giữa các vùng nông thôn và thành thị. Sự mất cân đối này sẽ gây nên sự bất ổn định về chính trị. - Nước chủ nhà có nguy cơ tiếp nhận những công nghệ cũ, lạc hậu của nước ngoài. 2.Vị trí và tác động kinh tế của FDI. * Đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động kinh tế quốc tế, cùng với quá trinh phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài không ngừng mởi rộng và chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong quan hệ kinh tế – quốc tế. Đến nay FDI đã trở thành xu hướng của thời đạivà nhân tố quy định bản chất các quan hệ kinh tế quốc tế. Thập kỷ 80 vừa qua đã chứng kiến bước phát triển của FDI trên thế giới. Khối lượng vốn tăng với tốc độ nhanh hơn nhiều so với sự gia tăng của sản xuất và buôn bấn quốc tế. Những Năm 70 lượng vốn đầu tư trực tiếp toàn thế giới bình quân hàng năm là 25 tỷ USD, con số này đã tăng gấp đôi trong thời kỳ 1980-1985. Năm 1986 lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới là 78 tỷ USD, năm 1987 là 133 tỷ USD, 1990 là 185 tỷ USD. Tính bình quân hàng năm trong thời kỳ 1985-1990 đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng khoảng 24% tốc độ này tăng hơn 4 lần so vời tốc độ tăng kinh ngạch xuất khẩu cũng trong thời kỳ này là 6.1%. Tình hình trên đây cho phép khăng định rằng FDI đang trở thành xu hướng phát triển quan hệ kinh tế quốc tế. Đầu năm 1989 tổng vốnđầu từ trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới lên đến 200 tỷ USD, chiếm hơn 13% tổng vốn đầu tư trên thế giới là 1500 tỷ USD. Bước sang thập kỷ 90 này đầu tư nước ngoài đã tăng nhanh trở thành một nhân tố gây ảnh hưởng to lớn đến sự tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia. Hiện nay khối lượng vốn đầu tư ra nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia chiếm khoảng 80% tổng vốn đầu tư nước ngoài trên toàn thế giới. Đây là sự thay đổi trong chiến lược phát triển của công ty xuyên quốc gia. Trước xu thế hoá nền kinh tế thế giới trong những năm gần đây các công ty xuyên quốc gia đặc biệt tập trung vào chiến lược cắm rễ ở nước ngoài nhằm phát triển các mạng lưới khu vực trên qui mô lớn. Tình hình trên đây có những lý do chủ yếu sau: * Sự phát triển các phương tiện giao thông liên lạc, Kỹ thuật bá dẫn đã đạt tới trình độ cho phép các chủ đầu tư có thể nắm bắt kịp thời chính chuẩn xác các thông tin cần thiết để có thể quyết định hợp lý, hạn chế được các tổn thất và rủi do trong kinh doanh. Điều này cho phép các chủ thể đầu tư có thể điều hành hoạt động kinh doanhcủa họ ở khắp mọi nơi trên thế giới một cách nhanh chóng và chính xác. Sự phát triển cho phép của các chủ đầu tư cung cấp hàng hoá, dịch vụ đún hạn, đáp ứng kịp thời nhu cầu thi trường. * Thể chế chính trị, kinh tế , xã hội của nhiều quốc gia trong những thập kỷ qua đã có những thay đổi phù hợp với nền kinh tế thị trường mở cửa, với các thông lệ quốc tế bảo đảm lợi ích của chủ đầu tư nước ngoài. * Tình hình an ninh quốc tế ngày càng có xu thế ổn định hơn nhất là sau chiến tranh lạnh. Thế giới đã chuyển từ trạng thái đối đầu xang đối thoại hoà bình hợp tác, xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày càng phát triển. * Tác động kinh tế của FDI: - Tạo nguồn vốn bổ xung quan trọng - Tạo chuyển giao công nghệ - Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ii. lý luận về vốn FDI cho phát triển kinh tế ở ViệT Nam 1. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đống vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế ở Việt Nam Việt Nam cũng như hầu hết các nước đang phát triển, trong giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tễ, do mức thu nhập thấp nên khả năng tiêu dùng và tích luỹ vốn đều rất hạn chế dẫn tới việc thu hút vốn đầu tư trong nước không đáng kể. Trong khi đó nhu cầu của nền kinh tế phải cần những vốn lớn để đầu tư cho cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình làm nền tảng cho su phát triển kinh tế. Để bù đắp cho sự thiếu hụt nguồn vốn đầu từ phát triển đất nướcthì cần phải thu hút vốn đầu tư nước ngoài nói chung và FDI nói riêng nhằm tăng dần khả năng đáp ứng vốn cho quá trình phát triển kinh tế. Do đó việc huy động vốn đầu tư trực tiếp tạo ra những lợi ích quan trọng trrong giai đoạn hiện nay: Một là: nó góp phần quan trọng trong việc khắc thiếu hụt về vốn ở nước ta Đặc điểm của nền kinh tế nước ta ở vào thập kỷ 70 và thập kỷ 80 là nền kinh tế kế hoạch tập trung với nhiều nhược điểm. Trong đó tỉ lệ đầu tư và tiết kiệm rất thấp them chí còn âm. Từ sau đổi mới tỉ lện này được tăng lên đáng kể, tuy nhiên nó vẫn còn rất thấp so với nhu cầu đầu tư. Hơn nữa chúng ta còn phải trả khá nhiều nợ nước ngoài trong khi thâm hụt ngân sách còn ở mức cao. Vì vậy FDI trở thành một nguồn vốn cần thiết cho sự nghiệp đổi mới của nhà nước, Hai là: Thông qua việc chuyên giao công nghệ kỹ thuật, FDI đã đóng góp phần tăng năng xuất lao động, Khả năng sản xuất, Kinh nghiệm quản lý trong một ngành. Việt Nam bước vào công cuộc hồi phục và phát triển kinh tế với xuất phát điểm rất thấp về mặt công nghệ, do đó chất lượng sản phẩn thấp, kho có thể tạo ra sức mạnh trên thị trường trong và ngoài nước,mặt khác trình độ công nghệ thấp còn dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường. Sauk hi thực hiện luật đầu tư nước ngoài , việc đổi mới công nghệ ở nước ta đã thực hiện so với quy mô và tốc độ nhanh hơn nhiều so với trước đó. Nước ta đã tiếp nhận một số kỹ thuật và công nghệ tién bộ của nhiều ngành kinh tế như: Thông tin viễn thông , Thăm dò dầu khí, công nghiệp điện tử sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy, hoá chất… Phần lớn thết bị đưa vào nước ta thuộc loại trung bình thế giới nhưng vẫn tiên tiến hơn thiết bị hiện có của ta. Một số công nghệ chuyển giao trong linh vực dầu khí, viễn thông thuộc loại hiện đại thế giới. Đây là sự đóng góp khá quan trọng vủa FDI tại Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩn đa dạng hoá mẫu mã, từ đó nâng cao kinh ngạch xuất khẩu, cait thiện môi trường lao động. Ba là: Bước đầu tạo ra một số công ăn việc làm, góp phần giả quyết khó khăn về việc làm cho người lao động. Tính đến năm 1997 các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo việc làm trực tiếp việc làm cho hơn 13 vạn lao động và hơn 10 vạn lao động gián tiếp phục vụ cho hợp tác đầu tư. Đồng thời đã thu hút hơn 4000 cán bộ Việt Nam làm việc trong các xí nghiệp ngày. Nhiều cán bộ đã phát huy được năng lực, vươn lên đảm nhiệm những công việc quan trọng, có uy tín đối với các đối tác bên ngoài. Sự đóng góp này tuy còn nhỏ bé song lại đáng quý trong điều kiện thiếu việc làm ở nước ta. Bốn là: Tăng thếm nguồn thu nhập xuất khẩu, dịch vụ thu ngoại tệ và đóng góp vào thu ngân sách nhà nước. Trong suốt thời kỳ1988-1996 đã tạo hơn 2 tỷ USD giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ đóng góp hơn 2 tỷ đồng cho ngân sách, tuy nhiên con số trên còn nhỏ bởi vì trong giai đoạn này khoảng 30% các dự án đầu tư đang trong thời gian được miễn thuế. 2.Vai trò và ý nghĩ của FDI tại Việt Nam Thực hiện hoạt động đầu tư trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã cho thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò hết sức to lớn đối với nước tiếp nhận đầu tư đặc biệt là ở những nước đang phát triển. Ngày ngay do vai trò quan trọng của FDI nên các nước đang phát triển và cả những nước đang phat triển đều ra sức cạnh tranh để thu hút FDI. Trước hết FDI đóng vai trò là nguồn vốn cung cấp lớn, góp phần giả quyết tình trạng thiếu vốn đầu tư – Một căn bệnh kinh niên và phổ biến cúa bất kỳ một quốc gia chậm phát triển nào. ở indonesia sau khi ban hành luật đầu tư nước ngoài đã cung cấp một nguồn vốn bình quân trong 27 năm(1967 – 1994) là 1.15 tydr USD/năm. Những năm gần đây, Philipin đang trên đà tăng trưởng ở mức cao và họ cho rằng nên sử dụng nguồn vốn nước ngoài hợp lý có thể khuyến khích được tính hiệu quả của nền kinh tế. ở Tung Quốc, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã cung cấp cho đất nước rộng lớn này 87 tỷ USD/năm trong 15 năm(1979-1994). ở Việt Nam tính đến hết năm 1995, vốn FDI đã thu hút là 19.353 tỷ USD với mức thực hiện khoảng 30%. Tốc độ thu hút vốn FDI ở Việt Nam từ năm 1988-1995 bình quân 50% / năm. Bên cạnh vai trò cung cấp vốn, đầu tư nước ngoài còn mang lại cho nước tiếp nhận đầu tư công nghệ kỹ thuật tiên tiến góp phần phát triển lược tượng sản xuất, cơ cấu lại nền kinh tế. Thực tế cho they răng kỹ thuật và công nghệ dã đã giúp cho Malaysia từ chỗ moat nước cơ cấu lạc hậu, kỹ thuật thủ công, phân tán lực lượng sản xuất kém phát triển, đến năm 1980 đã trở thành nước xuất khẩu lớn nhất thế giới về găng tay, cao su, thứ hai trên thế giới về chất bán dẫn và tinh thể sơ đồ this phân và thứ ba trên thế giới là máy điều hoà nhiệt độ. Tõ ràng chỉ có đầu tư nước ngoài với trình độ kỹ thuật cao phương pháp sản xuất tiên tiến và khả nămg thâm nhập thị trường trên thế giới của các công ty xuyên quốc gia mới tạo ra được những thành công nói trên. Một thực tế cần đề cập là nước phát triển muốn lợi dụng đầu tư nước ngoài để chuyển giao những thiết bị, kỹ thuật lạc hậu cho các nước chậm phát triển, biến các nước này thành “ bãi rác” của minh như một số bài báo đã viết, hay như các nhà kinhtế đã phân tích đó là “kết cấu hai tầng” của người Nhật hay thuyết về “quan hệ giữa trung tâm và ngoại vi” của Bắc Mỹ và tây âu nhằm khai thác và sử dụng tối đa công nghệ của mình. Tuy nhiên quan hệ về đầu tư trực tiếp nước ngoài là “quan hệ tự nguyện” hoàn toàn theo cơ chế thị trường nên việc chấp nhận hay không chấp nhận là quyền của nước tiếp nhận đầu tư. ở Việt Nam để hạn chế các thiết bị lạc hậu nhà nước đã quy định nhiều biện pháp để kiểm tra giám sát như định giá đấu thầu chỉ định tiêu chuẩn kỹ thuật. ở Trung Quốc có luật quy định về khoảng trênh lệch giữa thời gian sản xuất và thời gian nhập máy móc đó vào Trung Quốc. Cúng phải kể đến một xu hướng nữa trong đầu tư trực tiếp nước ngoài là trong nhiều trường hợp các nước phát triển cần mang vào các nước chậm phát triển những công nghệ tiên tiến hơn cả mình. Ví dụ ở Nhật Bản do đồng yên dtăng giá nên ngày càng nhiều các công ty nhật bản mang nhiều công nghệ tiên tiến ra nước ngoài để sản xuất hàng hoá rồi nhập khẩu trở lại Nhật Bản nhắm thu lợi nhuận cao. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức đào tạo giúp các nước tiêp nhận đầu tư kiến thức sử dụng công nghệ hiện đại và học tập kinh nghiệm quản lý của nước ngoài trong sản xuất kinh doanh, nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh của đất nước, hoà nhấp vào sự phân công lao động quốc tế. Hơn thế nữa, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần đào tạo ra đội ngũ công nhân có trình độ kỹ thuật cao. Bên cạnh đó đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có vai trò rất fquan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm, hạn chế tình trạng thất nghiệp nâng cao thu nhập của người lao động. ở Việt Nam, số lao động người Việt Nam làm việc trong các xí nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng từ 65000 năm 1994 lên 90000 vào cuối năm 1995. Ngoài ra đầu tư trực tiếp nước ngoài còn dán tiếp tạo việc làm và thu nhập cho hàng chục vạn lao động làm các công ty dịch vụ có liên quan. Về cơ bản tiền lương được giả quyết phù hợp với quy định, cao hơn mức lương của các doanh nghiệp cùng loại thuộc các thành phần kinh tế khác. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế của các nước tiếp nhận đầu tư. Người Malayxia nhận xét rằng: Trong một trừng mực nhất định đầu tư trực tiếp nước ngoài từ chỗ là “ nhân tố bên ngoài ” chuyển thành “ nhân tố bên trong ” quyết định phần lớn thị trường kinh tế, cơ cấu kinh tế. Theo tạp trí Kinh Tế viễn đông thì sau khi có chính sách mở cửa và luật đầu tư nước ngoài, nền kinh tế của inđonesia được coi như “ người khổng lồ ” của Đông Nam á đang ngủ đã tỉnh dậy trở thành một quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế nhanh. ở Việt Nam hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa qua đã góp phần làm chuyển biến nền kinh tế Việt Nam theo hướng của một nền kinh tế công nghiệp hoá. Đối với Việt Nam vốn FDI đóng vai trò như lực khởi động, như một trong những điều kiện đảm bảo cho sự thành công của công cuộc CNH-HĐH. Một số dự án đầu tư nước ngoài đã góp phần làm vực dậy một số doanh nghiệp Việt Nam đang trong điều kiện khó khăn, sản xuất đình đốn có nguy cơ phá sản. Không những thế, nó còn góp phần hình thành nhiều ngành nghề sản xuất mới, Cũng như nhiều sản phẩm mới. Vì khả năng thu hồi vốn và có lãi phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả sản xuất kinh doanh nên các nhà đầu tư nước ngoài thường tính toán cân nhắc kỹ lưỡng khi đưa vào Việt Nam những thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiên hiện đại hoặc ở mức thấp nhất cũng có khả năng phát huy được hiệu quả nhất định. FDI là một trong những kênh đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập thế giới tương đối có hiệu quả. Là khu vực hấp dẫn tạo nhiều việc làm và nâng cao năng lực cho người lao động Việt Nam. Là môi trường lý tưởng để chúng ta học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm quản lý, khả năng tổ chức kinh doanh của nền kinh tế thị trường hiện đại. Là điều kiện tốt để Việt Nam mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước Tóm lại hoạt động FDI đã góp phần thức đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước, khai thác tài nguyên, tạo việc làm góp phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế, sản xuất nhiều hàng hoá và dịch vụ có hàm lượng kỹ thuật cao, đẩy mạnh vào xuất khẩu đưa nước ta vào phân công lao động quốc tế, tạo hình ảnh và vị thế mới uy tín ngày càng tăng của Việt Nam trên trường quốc tế, đặc biệt là xu thế hội nhập khu vực toàn cầu, yếu tố quyết định để Việt Nam rút ngắn con đường hội nhập khu vực và thế giới đó là mở rộng và thu hút FDI. Chương II Thực trạng thu hút FDI cho phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 1991-2005 i.Đánh giá chung về vốn FDI ở Việt Nam thời kỳ 1991-2005. 1.Thực trạng thu hút vốn FDI trong giai đoạn 1991-2005 1.1 Quy mô vốn FDI thực hiện Trong giai đoạn này, do khung hoảng kinh tế khu vực nên việc thu hút các nguồn vốn nước ngoài nói chung và vốn FDI nói riêng đều giảm sút. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á tháng 7/1997 đã tác động đến FDI vào Việt Nam. Sau thời kỳ luồng vốn FDI đạt bình quân 2 tỷ USD hàng năm, Trong giai đoạn 3 năm trước 1997, vốn FDI thực hiện năm 1998 đã giảm 40% so với năm 1997 và Năm 1999 đã giảm khoảng 23% so với năm 1998. Sự giảm sút này nhiều nhất từ các nhà đầu tư Nhật Bản và Đông á, những nước chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực. Chính vì vậy vốn FDI thực hiện chỉ chiếm 45,8% so với vốn đăng ký theo dự án. Suy thoái kinh tế cũng như tâm lý do dự của các nhà đầu tư đã tạo sự giảm sút liên tục trong giải ngân các khoản FDI. Với đà giảm sút mạnh mẽ của vốn FDI cam kết như hiện nay thì mức giải ngân trong tương lai còn có triều hướng xấu hơn nữa. So với thời kỳ 1995-1996, Thời kỳ này đã thu hút được vốn FDI nhiều hơn là 3011 triệu USD chiếm 47,9%. Tuy nhiên so với mục tiêu kế hoạch đề ra thì đến nay vẫn chưa đạt được. SO với kế hoạch (12450 tr.USD) thì thực tế mới thu hút được 9352 tr.USD, cón thiếu 3098 tr.USD. Đây là một trong những nguyên nhân làm mức độ tăng trưởng kinh tế trong năm 1998 - 2003 đã đem lại chỉ đạt 5 - 5,5%/năm. 1.2 Cơ cấu FDI theo ngành và vùng khinh tế * Cơ cấu FDI theo ngành kinh tế: trong giai đoạn này, đầu tư cho công nghiệp và xây đựng vẫn tiếp tục chiếm ưu thế, tỷ trọng đầu tư cho công nghiệp dã bước đầu được cải thiện, tỷ trọng đầu tư cho dịch vụ có sự giảm nhẹ. * Cơ cấu FDI đầu tư theo vùng kinh tế: nhìn chung cơ cấu FDI theo vùng kinh tế vẫn chưa được cải thiện, FDI lại chư yếu thu hút vào ba vùng kinh tế trọng điểm. Trong ba vùng đó, FDI lại chủ yếu tập trung vào các thành phố lớn như: Hà Nội, Đà Nẵng, T.P.HCM. Còn các tỉnh khác đặc biệt là các tỉnh miền núi và tây nguyên vẫn còn quá ít các dự án đầu tư bằng FDI. Điều này sẽ tiếp tục gây ra sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các vùng kinh tế, giải quyết việc làm và xoá đối giảm nghèo. 1.3. Về đối tác đầu tư nước ngoài * Đầu tư trực tiếp nước của cá nước ASEAN ở ViệT Nam - Số lượng dự án và vốn đầu tư Sau khi Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của hiệp hội ASEAN năm 1995, đầu tư trực tiếp của các nước này vào Việt Nam đã tăng vọt lên tới 244 dự án với 3265 tr.USD vào đầu năm 1996, Chiếm 14% tổng số sự án và 17,9% tổng vốn FDI của cả nước. Đến cuối năm 1996, các nước ASEAN đã đầu tư vào Việt Nam 292 dự án với số vốn 4666 tr.USD. Đến tháng f12/1997, FDI của các nước ASEAN đã lên tới 362 dự án với 8634 tr.USD. Tuy nhiên bước sang năm 1998 do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, FDI của các nước ASEAN vào Việt Nam không những giảm mà còn bị giảm tiến độ nhiều dự án đang thực hiện hoặc đã được cấp phép. Theo số liệu thống kê của bộ kế hoạch đầu tư cho they, trong 9 tháng đầu năm 1998, chỉ có 15 dự án của nước ASEAN được cấp phép với 803 tr.USD vốn đầu tư, trong đó 17 tr của Xingapo mặc dù đã được chứng nhận nhưng vân chưa muốn nhận giấy phép đầu tư. - Cơ cấu lĩnh vực và các hình thức đầu tư Nhằm khai thác lợi thế của mình, các nước ASEAN chủ yếu đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến và lắp ráp, khai thác đầu khí, khách sạn du lịch, dịch vụ tài chính và xây dựng cơ sở hạ tầng. Trogn đó Xingapo có nhiều dự án đầu tư với quy mô lớn, tập trung nhiều vào kĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, trong khi các nước khác lại quan tâm nhiều đến lĩnh vực công nghiệp, khách sạn và nông lâm nghiệp với quy mô vừa và nhỏ. Thật vậy theo kết quả tính toán từ số liệu thống kê của vụ dự án đầu tư (MPI) cho thấy trong tổng số 377 dự án đầu tư của các nước ASEAN đang triển khai ở Việt Nam, chỉ có 136 dự án với 3725 tr.USD đầu tư vào ngành công nghiệp, chiếm 36% tổng dự án và 39.5% tổng vốn đầu tư của ASEAN ở Việt Nam. Trong khi đó, các tỉ lệ tương tự các dự án đầu tư vào các ngành nông nghiệp là 61,6% tổng dự án và 46,5% tổng vốn FDI của các nước. Số dự án còn lại chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực khách sạn, xây dựng và dịch vụ Các dự án đầu tư của các nước ASEAN chủ yếu tập trung dưới hình thức liên doanh, sau đó dến xí nghiệp 100% sở hữu nước ngoài và vốn dự án hợp doanh rất nhỏ. Đặc điểm này các nhà đầu tư ASEAN còn sợ mạo hiểm, vì thế họ muốn chia sẻ dui do với các đối tác Việt Nam. Tuy nhiên gần đây do các nhà đầu tư ASEAN đã quen với môi trường đầu tư ở Việt Nam nên tỷ lệ dự án 100% vốn nước ngoài tăng lên và hình thức liên doanh giảm dần. Hình thức hợp doanh vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng dự án. Trong khi đó loại dự án quy mô trung bình lại chiếm tỷ lệ cao, 48,2% trong hình thức liên doanh. Đặc điểm này phản ảnh các nhà đầu tư ASEAN muốn chia rủi do với các đối tác Việt Nam. Bảng 1: Vốn thực hiện của các dự án đầu tư trực tiếp ASEAN ở Việt Nam (Tính đến tháng 6/1998) Đơn vị: 1000 USD Năm Xingapo Malaixia Thái Lan Inđonexia Philipin Tổng 1995 323.196 178.940 78.525 14.641 19.714 615.016 1996 169.674 147.687 72.288 10.921 9.291 409.861 1997 498.390 237.042 197.544 41.608 35.406 1.009.990 6/1998 68.572 56.364 30.762 0 45 155.743 Tổng 1.059.832 620.033 379.119 67.170 64.456 2.190.610 Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư Bảng 2: Cơ cấu hình thức đầu tư trực tiếp của các nớc ASEAN ở Việt Nam (Tính đến 13/9/1997) Hình thức đầu tư Xingapo Thái Lan Malaixia Philipin inđonexia Tổng 1.Xí nghiệp 100% vốn FDI 30 27 14 8 4 83 +Dự án trên 50 tr USD 1 - 2 - 1 4 +Dự án từ 5-50 tr USD 14 14 4 3 1 36 +Dự án dới 5 tr USD 15 13 8 5 2 43 2. Xí nghiệp liên doanh 122 45 37 8 8 220 +Dự án trên 50 tr USD 15 3 2 3 2 25 +Dự án từ 5-50 tr USD 63 19 20 1 3 106 +Dự án dới 5 tr USD 44 23 15 4 3 89 3. Xí nghiệp hợp doanh 11 3 4 0 1 19 +Dự án trên 50 tr USD 0 0 2 0 1 3 +Dự án từ 5-50 tr USD 2 1 1 0 0 4 +Dự án dới 5 tr USD 9 2 1 1 0 12 Tổng số dự án 163 75 55 16 13 322 Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư Qua thực trạng thu hút FDI thời kỳ 1996-2005, có thể rút ra những nhận xét như sau: - Quy mô vốn FDI được thực hiện tuy có cao hơn so với thời kỳ 1991- 1995, nhưng vẫn còn thấp so với nhu cầu của nền kinh tế trong những năm 1998-2005. Nói cách khác, mức độ đảm bảo vốn từ nguồn FDI còn thấp so với kế hoạch đề ra. - Cơ cấu đầu tư FDI tuy có cải thiện so với thời kỳ 1991-1995 nhưng vẫn mất cân đối giữa các ngành và các vùng. Những năm gần đây, ít có đầu tư vào công nghiệp chế biến, đặc biệt là chế biến nông sản, còn xu hướng đầu tư vào nhà hàng, khách sạn và kinh doanh du lịch những lĩnh vực có khả năng thu hồi vốn nhanh vẫn tỏ ra chiếm ưu thế. Thực trạng thu hút vốn FDI trong thời gian qua do những nguyên nhân chủ yếu sau: + Các nguyên nhân khách quan: Do khủng hoảng kinh tế trong khu vực bắt đầu tháng 7/1997 đã tác động rất lớn đến nguồn FDI vào nước ta. Vốn đầu tư từ các nước động á chiếm khoảng 25%, riêng Hàn Quốc chiếm khoảng 12,03%. Do khủng hoảng các nước này gặp căng thẳng về tài chính, thiếu thốn khô khan thị trường… kiến họ phải hạn chế đầu tư nước ngoài, trong đó có Việt Nam. Khủng hoảng sẽ làm cho Việt Nam khó khăn và chậm chễ hơn trong vấn đề giải ngân vốn nước ngoài. Do đó, các chủ đầu tư sẽ trì hoãn , thu hẹp thậm chí từ bỏ ý định thực hiện các cam kết đầu tư. Khủng hoảng cũng làm mất ổn định môi trường đầu tư khu vực, khiến các nhà đầu tư phương tây cũng e ngại, dè chừng. Do đó vốn FDI đổ vào khu vực này cũng ít hơn trước và Việt Nam cũng không năm ngoài ảnh hưởng đó. Do Việt Nam còn đang trong giai đoạn hội nhập vào khu vực và thế giới nên hoạt động của chúng ta chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều đó khiến Việt Nam chưa được hưởng nhiều điều kiện ưu đã như nhiều nước láng riềng khác khi xuất khẩu sang thị trường Châu Âu và Bắc Mỹ. Đây là một trở ngại lớn đối với các nhà đầu tư khi muốn bỏ vốn vào đầu tư lĩnh vực làm hàng xuất khẩu, vì khi xuất khẩu phải chịu thuế xuất cao, khó có thể cạnh tranh được với hàng hoá các nước thành viên ASEAN khác. Tình hình thế giới có nhiều biến đổi, là xuất hiện nhiều thị trường thu hút vốn FDI mới và lớn trong khi Việt Nam đang trong giai đoạn tìm kiếm các đối tác thì các nước ASEAN đã có quan hệ mật thiết, có uy tín đối với các nhà đầu tư lớn khác trên thế giới. Các nước này cũng đang tích cực thu hút FDI. Bên c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0195.doc