Lời mở đầu
Hoạt động đầu tư từ lâu vẫn đựoc coi là nhân tố quyết định sự tăng trưởng và là chìa khoá cho sự phát triển của mỗi quốc gia, của nền kinh tế thế giới. Đối với Hải Dương, là một tỉnh chủ yếu phát triển nông nghiệp và tồn tại nhiều tiềm năng về mọi mặt cho phát triển kinh tế xã hôi thì đầu tư lại càng có vai trò quan trọng. Trong những năm qua, có thể nói bộ mặt kinh tế của tỉnh đã có những bước thay đổi đáng kể, có tính chất nhảy vọt, đó là sự tăng trưởng GDP, sự chuyển dịch cơ cấu k
99 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1425 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thu hút vốn đầu tư vào Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh tế và phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao các phúc lợi cho người dân. Song, nhìn nhận lại và đặt trong sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới thì sự phát triển ấy chưa phải là lớn, đặc biệt khi mà tỉ lệ nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế cũng như tỉ lệ ở nông thôn trong cơ cấu lao động còn cao, trình độ của lao động còn thấp và cơ cấu đào tạo chưa hợp lí. Nói tóm lại, mọi hoạt động vẫn cần phải có sự phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu hơn nữa.
Để xác định được một hướng đi đúng đắn cho phát triển kinh tế xã hội địa phương và những việc cần làm để thực hiện những bước đi ấy không phải là vấn đề mà một cá nhân hay tổ chức nào một mình có thể đảm nhận, nó đòi hỏi sự cố gắng và phối hợp trong hoạt động của tất cả các cấp các ngành trong tỉnh. Và ở đây, vẫn luôn khẳng định được vai trò quyết định và hết sức quan trọng của hoạt động đầu tư , đó là càn thiết phải tăng cường đầu tư phát triển mọi mặt nền kinh tế xã hội. Song, vấn đề đặt ra là mọi nguồn lực đều có hạn, đúng theo lý thuyết kinh tế của các nhà kinh tế cổ điển thì nó cần sự tác động mạnh mẽ từ bên ngoài, mà ở đây chính là thu hút ngày càng nhiều, tranh thủ mọi nguồn vốn có thể để phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy, sau quá trình học tập và được thâm nhập thực tế tại tỉnh, em xin được đưa ra những hiểu biết và kiến nghị của mình thông qua đề tài: " Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư vào Hải Dương", gồm 3 phần:
Chương I: Một số vấn đề lí luận chung.
Chương II: Thực trạng hoạt động đầu tư tại địa bàn Hải Dương giai đoạn từ 1996 đến nay.
Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn vào Hải Dương thời gian tới.
Đề tài này được hoàn thành dưới sự giúp đỡ tận tình của phòng thẩm định và đầu tư phát triển- Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương và cô Trần Mai Hương. Em xin chân thành cảm ơn.
Chương I
mộT Số VấN Đề Lý LUậN CHUNG
I. Những vấn đề lý luận về đầu tư phát triển
Khái niệm và đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển
Thuật ngữ “đầu tư” (Investment) có thể được hiểu đồng nghĩa với “sự bỏ ra”, “sự hy sinh” .Từ đó, có thể coi “đầu tư” là sự bỏ ra, sự hy sinh những cái gì đó ở hiện tại (Tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ…) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai
Tất cả những hành động bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm mục đích chung là thu được lợi ích nào đó (về tài chính ,về cơ sở vật chất,về năng cao trình độ, bổ sung kiến thức…) trong tương lai lớn hơn những chi phí đã bỏ ra. Và vì vậy ,nếu xem xét trên giác độ từng cá nhân hoặc đơn vị đã bỏ tiền ra thì các hoạt động này đều được gọi là đầu tư.
Tuy nhiên nếu xét trên giác độ toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả các hoạt động đều đem lại lợi ích cho nền kinh tế và được coi là đầu tư của nền kinh tế.
Những kết quả của đầu tư có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (Tiền vốn), tài sản vật chất (Nhà máy, đường xá... ), tài sản trí tuệ ( Trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật... ) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội.
Trong những kết quả đã đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự hy sinh các nguồn lực là các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng mọi lúc mọi nơi không chỉ với người bỏ vốn mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội được thụ hưởng.
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Đối với mỗi quốc gia hay một nền kinh tế thì hoạt động đầu tư phát triển luôn đóng một vai trò quyết định trong sự đi lên phát triển hay hưng thịnh của chính quốc gia đó.
Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm cơ bản khác biệt với các loại hình đầu tư khác đó là:
Đầu tư phát triển đòi hỏi một lượng vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện hoạt động đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển.
Hoạt động đầu tư mang tính chất lâu dài. Thời gian tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra và thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra cũng đòi hỏi nhiều năm tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế...
Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài trong nhiều năm, có khi hàng trăm năm, thậm chí tồn tại vĩnh viễn. Mặt khác các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó các điều kiện về địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư.
2. Vai trò của đầu tư phát triển
Từ việc xem xét các khái niệm của đầu tư phát triển, chúng ta có thể khẳng định đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò của đầu tư được thể hiện ở các mặt sau đây:
2. 1. Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu
Cung cầu là hai nhân tố cơ bản trong nền kinh tế thị trường, là động lực của tăng trưởng kinh tế. Tổng cầu là tổng khối lượng hàng hoá và dịch vụ (Tổng sản phẩm quốc dân) mà các tác nhân trong nền kinh tế sẽ sử dụng tương ứng với mức giá cả, thu nhập và một số biến khác đã biết. Còn tổng cung là một bộ phận khối lượng sản phẩm quốc dân mà các hãng sẽ sản xuất và bán ra trong một thời kỳ tương ứng với giá cả, khả năng sản xuất và chi phí sản xuất đã cho.
Có hai phương thức tác động của đầu tư đến tổng cung và tổng cầu: Tác động trực tiếp và tác động gián tiếp. Nếu sử dụng vốn đầu tư là một yếu tố đầu vào của quá trình trực tiếp tạo ra sản phẩm, tác động đó là trực tiếp. Còn nếu đem vốn đầu tư là các yếu tố đầu vào khác như: khoa học công nghệ, lao động... từ đó tác động đến tổng cung và tổng cầu trong nền kinh tế, tác động đó là gián tiếp.
Cơ chế tác động của đầu tư đến tổng cung và tổng cầu ra sao?
Về mặt tổng cầu: Đầu tư là một bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Đầu tư thường chiếm khoảng 24- 28 % trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đầu tư tác động đến đường tổng cầu làm đường tổng cầu dịch chuyển và sự tác động của đầu tư là tác động ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên về nhu cầu các yếu tố sản xuất tức tổng cầu tăng, dẫn tới sản lượng cân bằng và giá cả các yếu tố đầu vào tăng lên.
Về mặt tổng cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng lên trong khi đó giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội. Tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Đây là tác động có tính chất dài hạn của đầu tư.
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cung và đối với tổng cầu của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư dù tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Chẳng hạn, khi tăng đầu tư cầu của các yếu tố đầu tư tăng làm cho giá của các hàng hoá liên quan tăng (Giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật tư )đến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình lạm phát làm cho sản xuất trì trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy các tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế
2. 2. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế
Để đánh giá mức gia tăng trong tổng sản lượng quốc gia(Y) các nhà kinh tế thường bắt đầu với việc ước tính tỷ lệ tích luỹ và khối lượng sản phẩm đầu ra thuần tuý được tạo ra từ đầu tư thuần. Nhiều nghiên cứu đã cố gắng lượng hoá lượng vốn cần thiết để tăng sản lượng đầu ra thêm một đơn vị mỗi năm trong một khu vực hay của cả nền kinh tế. Giá trị tính được này gọi là tỷ số vốn- sản lượng hay hệ số vốn. Tỷ lệ gia tăng giữa vốn so với sản lượng viết tắt là ICOR được xác định bằng tỷ số giữa khối lượng vốn tăng thêm(D k) Với phần gia tăng của GDP (DY) hay suất đầu tư cần thiết để tăng sản lượng đầu ra thêm một đơn vị. Mô hình Harrod- Domar đã làm rõ ý nghĩa này. Theo tác giả tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc vào tỷ số vốn đầu tư- sản lượng và năng suất của vốn đầu tư
g
=
DY
=
DY
X
DK
=
DY
X
DK
=
1
X
I
Y
Y
X
DK
DK
Y
ICOR
Y
Công thức trên có thể viết lại là:
Tốc độ tăng GDP
=
Tỷ lệ vốn ĐT/GDP
ICOR
Nếu gọi I/Y là tỷ lệ vốn đầu tư trong GDP
g là tốc độ tăng trưởng
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15- 25 % so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước. ở các nước phát triển ICOR thường lớn từ 5- 7 do thừa vốn thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước đang phát triển ICOR thấp từ 2- 3 do thiếu vốn thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn
Chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Do đó, ở các nước đang phát triển tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp. ở các nước phát triển có tỷ lệ đầu tư trên GDP lớn nên tốc độ tăng trưởng cao. Các nước NIC, đầu tư đóng vai trò như một ‘Cái hích ban đầu” tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế.
2. 3. Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn ( từ 9- 10 %) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5- 6% là rất khó khăn. Như vậy, chính đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia nhằm đạt được một tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển
2. 4. Đầu tư ảnh hưởng đến sự phát triển của khoa học và công nghệ
Công nghệ theo nghĩa chung nhất là một công cụ nhằm biến đổi nguồn lực tự nhiên thành sản phẩm hàng hoá. Công nghệ làm tăng khả năng cơ bắp và trí tuệ của con người nhằm mục tiêu vì lợi ích cộng đồng
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của mỗi nước bởi vì để có công nghệ cần phải có một nguồn vốn đầu tư lớn. Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phả có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. Do vậy đầu tư có vai trò rất quan trọng ảnh hưởng đến việc tạo ra công nghệ cả nội sinh lẫn ngoại sinh.
Một vài điều cần lưu ý, đối với các nước đang phát triển do lợi thế về qui mô lao động nên có thể xem xét đầu tư và những kỹ thuật mà dùng nhiều lao động thay thế cho vốn. Tuy nhiên, không thể lấy tiêu chuẩn cực đại hoá việc thu hút lao động làm thu hút đầu tư. Cần phải có bước đi phù hợp để lựa chọn công nghệ thích hợp, trên cơ sở đó để phát huy lợi thế so sánh của đơn vị và toàn nền kinh tế quốc dân.
2. 5. Đầu tư với sự phát triển cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ
Đầu tư quyết định sự ra đời tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất-kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại. Sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư
Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận cho bản thân mình )đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửu chữa lớn định kì các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là hoạt động đầu tư.
II. Nguồn vốn đầu tư.
1. Bản chất của nguồn vốn đầu tư.
Bản chất nguồn vốn đầu tư là gì ?. Kinh tế học hiện đại giải thích bản chất của nguồn vốn như sau:
Trước hết, nếu xét trong điều kiện nền kinh tế đóng ta có:
GDP=C+I
GDP: tổng sản phẩm quốc nội
C: tiêu dùng ( của cá nhân và Chính phủ)
I: tiêu dùng của doanh nghiệp
GDP= C+S
S: tiết kiệm
Từ đó suy ra I=S, do đó đối với nền kinh tế đóng nguồn vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm trong nước
Nếu xét trong điều kiện nền kinh tế mở
GDP= C+I+X-M
X: giá trị hàng hoá xuất khẩu
M: giá trị hàng hoá nhập khẩu
GDP= C + S
Vậy S= I+X-M
I = S + (M- X)
Hay I = S + F
F: vốn đầu tư từ nước ngoài
Như vậy trong điều kiện nền kinh tế mở, nguồn vốn để đầu tư ngoài tiết kiệm trong nước còn có thể huy động vốn từ nước ngoài.
Tóm lại, vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội.
1.1. Nguồn vốn huy động trong nước
Nguồn vốn trong nước được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ các nguồn lực được đưa vào vòng chu chuyển của nền kinh tế. Nó không chỉ bao gồm tiền vốn biểu hiện bằng tài sản hiện vật như máy móc, vật tư, lao động, đất đai, tài nguyên... mà nó còn bao gồm giá trị của những tài sản vô hình như vị trí địa lý, thành tựu khoa học công nghệ, bản quyền phát minh sáng chế. Các bộ phận cấu thành nguồn vốn trong nước đó là vốn tích luỹ từ ngân sách, vốn tích luỹ của các doanh nghiệp và vốn tiết kiệm dân cư.
Vốn tích luỹ từ ngân sách là nguồn vốn được hình thành từ thu thuế, phí và lệ phí, các khoản viện trợ hoặc các khoản thu khác. Về nguyên tắc vốn tích luỹ từ ngân sách được xác định bằng cách lấy tổng thu nhập trừ đi các khoản chi tiêu. Đối với Chính phủ đặc biệt là Chính phủ các nước đang phát triển chi cho đầu tư phát triển là một nhiệm vụ chi quan trọng. Các khoản chi của Chính phủ qua ngân sách Nhà nước bao gồm: Chi mua hàng hoá và dịch vụ, các khoản trợ cấp và chi trả lãi suất các khoản tiền vay. Các khoản thu của Chính phủ chủ yếu thu từ thuế, một phần là các khoản phí, lệ phí và các khoản thu khác.
Vốn tích luỹ các doanh nghiệp bao gồm vốn tích luỹ của các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Đối với doanh nghiệp nhà nước vốn đầu tư được hình thành từ nguồn ngân sách đã cấp, các khoản trích khấu hao cùng lợi nhuận tích luỹ được
Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh nguồn vốn đầu tư bao gồm: Vốn tự có, vốn vay, vốn cổ phần, vốn liên doanh liên kết với cá nhân tổ chức trong và ngoài nước.
Nguồn vốn tiết kiệm của dân cư: Đây là nguồn vốn nhỏ lẻ nằm phân tán trong dân chúng nhưng cũng chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong tổng vốn toàn xã hội. Mức tiết kiệm của dân cư một mặt phụ thuộc vào mức thu nhập của họ mặt khác tuỳ thuộc vào mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm và chính sách ổn định tiền tệ của Nhà nước
1. 2. Nguồn vốn huy động từ nước ngoài
Bao gồm vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp
Vốn đầu tư gián tiếp: là vốn của Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức khác nhau là viện trợ hoàn lại, viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi suất thấp, kể cả vay theo hình thức thông thường. Một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn tại dưới loại hình ODA -viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển. Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn nên có tác dụng mạnh và nhanh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp thường gắn với sự trả giá về mặt chính trị và tình trạng nợ chồng chất nếu không sử dụng có hiệu quả vốn vay và thực hiện nghiêm ngặt chế độ trả nợ vay
Vốn đầu tư trực tiếp( FDI) là vốn của các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi vốn bỏ ra. Vốn này thường không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên với vốn đầu tư trực tiếp nước nhận đầu tư không phải lo trả nợ, lại có thể dễ dàng có được công nghệ, học tập được kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc theo lối công nghiệp của nước ngoài, gián tiếp có chỗ đứng trên thị trường thế giới.
Đối với các nước đang phát triển một vấn đề nan giải là thiếu vốn và từ đó dẫn tới thiếu nhiều thứ khác cần thiết cho sự phát triển như công nghệ, cơ sở hạ tầng... do đó trong những bước đi ban đầu, để tạo ra được “ cái hích” đầu tiên cho sự phát triển, để có được tích luỹ ban đầu từ trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế không thể không huy động vốn từ nước ngoài.
Để thu hút nhanh nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đòi hỏi các nước cần phải tạo lập môi trường thuận lợi, thông thoáng, hấp dẫn cho nhà đầu tư như cung cấp cơ sở hạ tầng, dịch vụ, tạo lập đồng bộ cơ chế chính sách, luật pháp, lập các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao hướng thu hút vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào
1. 3. Mối quan hệ giữa vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài.
Trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, nguồn vốn trong nước có vai trò rất quan trọng, nó quyết định trực tiếp tới sự phát triển kinh tế xã hội của từng nước, là nguồn vốn đảm bảo tăng trưởng một cách bền vững, ổn định đưa đất nước đến sự phồn vinh một cách chắc chắn mà không phụ thuộc vào nước ngoài. Điều đó được thể hiện ở việc chúng ta có thể nắm giữ tập trung được nguồn vốn này, chủ động bố trí được cơ cấu đầu tư theo mục tiêu phát triển của từng thời kỳ phù hợp với trình độ phát triển của đất nước.
Nguồn vốn đầu tư trong nước có vai trò quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia bởi vì:
Thứ nhất, nó có vai trò quan trọng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội bởi lẽ đây là lĩnh vực đầu tư đem lại tỷ suất lợi nhuận thấp thậm chí nhiều trường hợp không thể thu hồi vốn, chịu nhiều yếu tố bất định của tự nhiên, kinh tế xã hội và thời gian thu hồi vốn đầu tư kéo dài- đó là lý do các nhà đầu tư nước ngoài không muốn hoặc không giám đầu tư vào. Song cơ sở hạ tầng lại có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Thứ hai, vốn trong nước có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế ở các vùng cao, vùng sâu, vùng xa, từ đó nâng cao đời sống dân cư ở các khu vực này, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo giữa các khu vực thành thị và nông thôn. Đồng thời còn tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tạo ra sự phát triển cân đối. Mặt khác vốn trong nước quyết định thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế xã hội những mục tiêu liên quan đến giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh.
Thứ ba, vốn trong nước lại có vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, vì cơ sở vất chất kỹ thuật để có thể tiếp thu và phát huy tác dụng của vốn đầu tư nước ngoài đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế lại là khối lượng vốn đầu tư trong nươc. Đồng thời vốn đầu tư trong nước là bộ phận vốn đối ứng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Trong khi, vốn đầu tư trong nước có vai trò quyết định đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng đặc biệt đối với những nước đang phát triển như Việt Nam. Điều đó được thể hiện ở chỗ nó tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng cho nền kinh tế, do nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn thấp nên vốn đầu tư nước ngoài là sự bù đắp rất lớn sự thiếu hụt về vốn Mặt khác nguồn vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là vốn FDI đóng góp một phần quan trọng vào việc tăng kim nghạch xuất nhập khẩu, mở rộng thị trường, góp phần nâng cao trình độ khoa học công nghệ, học hỏi kinh nghiệm quản lý. Đồng thời nó là nguồn vốn hỗ trợ hoàn thiện cơ cấu kinh tế.
Tóm lại : Vốn đầu tư đóng vai trò quan trọng trong mọi hoạt động đầu tư. Theo CáC MáC thì vốn đầu tư được ví như thứ dầu nhờn bôi trơn các cỗ máy làm cho chúng hoạt động nhanh hơn dễ dàng hơn. Từ vai trò và mối quan hệ giũa các nguồn vốn một lần nữa cho phép chúng ta khẳng định để phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia nguồn vốn đầu tư trong nước quyết định và vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút các nguồn vốn đầu tư.
Việc vốn đầu tư đưa vào một nền kinh tế nhiều hay ít cũng như hiệu quả của việc sử dụng các nguồn vốn ấy phụ thuộc vào một số yếu tố như: Sự tăng trưởng và phát triển bền vững của nền kinh tế, các nguồn lực và tiềm năng phát triển của địa phương, sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô và các chính sách khuyến khích đầu tư.
2.1 Sự phát triển của nền kinh tế.
Để đánh giá một nền kinh tế được coi là có phát triển hay không người ta dựa vào một số chỉ tiêu chính như: GDP hàng năm, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu kinh tế, các chỉ tiêu về phúc lợi công cộng và chăm sóc con người. Để có thể tạo ra sự phát triển, trước hết, phải có mức tăng trưởng hàng năm thông qua giá rị tổng sản phẩm. Sự tăng trưởng này ảnh hưởng đến việc thu hút các nguồn vốn đầu tư ở hai góc độ: Một là, khi GDP tăng, có nghĩa hiệu quả của vốn đầu tư được nhìn nhận theo chiều hướng tốt, từ đó, các nhà đầu tư có sự tin tưởng đối với các hoạt động kinh tế và tăng cường đầu tư vào. Bất kì một nhà đầu tư nào khi bỏ vốn vào một nền kinh tế, dù với mục đích tìm kiếm lợi nhuận hay là các nguồn viện trợ đều mong muốn những đồng vốn ấy được sử dụng với hiệu quả cao nhất, chính vì vậy, nơi họ muốn tìm kiếm và sẵn sàng đầu tư phải là nơi cho họn thấy được nguồn vốn sẵn có được sử dụng như thế nào. Hai là, khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh sẽ có mức tiết kiệm cao hơn và từ đó tăng cường vốn đầu tư.ở đây không xét đến việc thu hút thêm các nguồn vốn từ bên ngoài mà là vốn từ bản thân nền kinh tế thông qua tiết kiệm. Vì xét theo lý thuyết kinh tế cổ điển cho một nền kinh tế đóng thì: GDP= C+S
Trong đó: C là mức tiêu dùng.
S là mức tiết kiệm.
Và xét theo lý thuyết thì: S = I (trong đó I là mức đầu tư của nền kinh tế). Như vậy: GDP = C+ I, hay I = GDP- C.
Mức tiêu dùng C của người dân cũng tăng lên khi họ có thu nhập cao hơn, nhưng nó cũng bị giới hạn bởi các quy luật sinh học, và xét theo góc độ nào đó, khi mức tiêu dùng C tăng lên, tức là các sản phẩm trên thị trường bán được nhiều hơn, từ đó khuuyến khích các doanh nghiệp và các hoạt động dịch vụ phát triển. Vấn đề đặt ra ở đây là phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tiết kiệm và tiêu dùng. Làm sao để thu hút được nguồn vốn từ tiết kiệm của người dân, biến nó thành vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội.
Cơ cấu kinh tế cũng ảnh hưởng đến thu hút các nguồn vốn đầu tư. Thường thì nhà đầu tư nào cũng muốn đầu tư vào những ngành nghề, lĩnh vực đem lại lợi nhuận cao, có khả năng thu hồi vốn nhanh và đảm bảo. Nếu chia nền kinh tế thành 3 ngành chủ yếu: Nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp và thuỷ sản), công nghiệp- xây dựng và dịch vụ thì những nơi thu hút nhiều vốn vẫn là công nghiệp và dịch vụ. Chính vì vậy, những nền kinh tế có cơ cấu trong đó tỉ lệ công nghiệp và dịch vụ chiếm tỉ lệ cao thì sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn vì ở đây đã tồn tại sẵn những điều kiện cho các ngành này phát triển như: Cơ sở hạ tầng, vùng nguyên liệu, thị trường truyền thống, nguồn lao động... Điều này giải thích tại sao phần lớn vốn đầu tư nước ngoài là vốn lưu chuyển giữa các nước phát triển.
Trong sự phát triển của nền kinh tế bao gồm cả sự phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng. Đơn giản bởi vì muốn phát triển phải có cơ sở hạ tầng vững chắc, và chính sự phát triển kinh tế sẽ tạo điều kiện phát triển cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng giống như một nền móng vững chắc cho mọi công cuộc đầu tư, vì muốn sản xuất kinh doanh phải có điện nước đảm bảo, giao thông thuận tiện, các dịch vụ công cộng phát triển. Vì vậy, bất cứ nhà đầu tư nào cũng muốn bỏ vốn vào địa bàn có lợi nhất cho hoạt động của họ.
2.2. Các nguồn lực và tiềm năng phát triển.
Nguồn lực ở đây bao gồm: Nguồn lực về con người, thể hiện qua số lượng và chất lượng lao động, tiềm lực về khoa học công nghệ thể hiện qua việc sở hữu và áp dụng những công nghệ tiên tiến vào quản lý và sản xuất. Tiềm năng phát triển bao gồm: điều kiện tự nhiên (vị trí, địa hình, khí hậu), tiềm năng về tài nguyên (khoáng sản, tài nguyên đất, nước, rừng) và tiềm năng phát triển kinh tế chưa được khai thác hết ở các ngành.
Xét về ảnh hưởng của nguồn lực cho phát triển đến việc thu hút các nguồn vốn đầu tư. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh muốn thực hiện được phải cần nhân tố con người. Khi các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài đem vốn đến một quốc gia, họ không thể di chuyển toàn bộ các nguồn lực và phương tiện sản xuất đến quốc gia đó, vì vậy họ sử dụng nguồn lực tại chỗ là chủ yếu. Khi một nền kinh tế có nguồn lao động dồi dào và đáp ứng được nhu cầu sẽ tạo điều kiện thụân lợi cho các nhà đầu tư nhanh chóng đưa dự án vào hoạt động. ở đây xét đến cả số lượng và chất lượng lao động. Số lượng lao động phụ thuộc vào quy mô dân số và tỉ lệ dân số ở trong độ tuổi lao động, một nguồn lao động có số lượng lớn sẽ đáp ứng được nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất và vận hành những sự án có quy mô lớn. Tuy nhiên, như vậy chưa đủ, trong khi sản xuất đòi hỏi yêu cầu về chất lượng cao thì chất lượng lao động là vấn đề quan trọng hơn hết, nếu như có hàng triệu lao động mà trình độ và kĩ năng của họ chỉ có thể sản xuất thủ công, là các lao động cơ bắp thì cũng chẳng có ý nghĩa gì. Chất lượng lao động thể hiện ở: truyền thống lao động, khả năng sáng tạo và trình độ qua đào tạo, nó phụ thuộc vào những truyền thống của quốc gia, địa phương và công tác giáo dục đào tạo. Khi lao động có chất lượng cao, thứ nhất họ sẽ tham gia vào sản xuất tốt hơn vì những kiến thức họ có không phải là nhỏ, bao gồm cả những kiến thức cơ bản và kinh nghịêm qua thời gian. Hơn nữa, họ sẽ tiếp thu nhanh hơn khoa học kỹ thụât, giảm bớt chi phí đào tạo cho nhà đầu tư. Vấn đề về cơ cấu lao động cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến các nguồn vốn đầu tư. Cơ cấu ở đây bao gồm cơ cấu về lao động đã qua đào tạo và lao động chưa qua đào tạo, cơ cấu về các bậc, chuyên ngành giữa các lao động đã qua đào tạo. Xu thế hiện nay có nhu cầu cao về công nhân kỹ thuật lành nghề hơn là các cán bộ quản lý, vì vậy, việc điều chỉnh cơ cấu cũng là vấn đề không nhỏ đối với các quốc gia.
Tiềm năng phát triển của một nền kinh tế ảnh hưởng đến việc thu hút các nguồn vốn đầu tư thông qua việc các nhà đầu tư nhìn nhận được những điểm có khả năng phát triển nhưng vì lí do nào đó chưa được khai thác hết từ đó, họ bỏ vốn vào những nơi còn trống đó. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng rất lớn ở đây, thể hiện ở chỗ, một điều kiện tự nhiên thuận lợi về địa hình khí hậu và vị trí trong giao lưu giữa các nền kinh tế sẽ thu hút được các nhà đầu tư vì ở đó sẽ đảm bảo cho sự ổn định sản xuất và thuận lợi cho xuất khẩu hàng hóa.
2.3. ổn định môi trường kinh tế vĩ mô.
Sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô ở đây được nhìn nhận thông qua: sự ổn định về kinh tế xã hội, ổn định về chính trị, môi trường kinh doanh và ổn định trong các chính sách tiền tệ. Một quốc gia muốn thu hút vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hôị, trước hết, đó phải là nơi không xảy ra các cuộc chiến tranh, các cuộc nội chiến và khủng bố. Đó phải là một quốc gia có các chính sách kinh tế ổn định, không có sự thay đổi liên tục về chính sách pháp luật vì khi đó sẽ ảnh hưởng rất lớn và theo xu hướng tiêu cực đối với các nhà đầu tư. Các chính sách tiền tệ phải làm sao hạn chế được lạm phát và chống giảm phát, ổn định tỉ giá và lãi suất. Kinh tế không thể phát triển mà không có lạm phát, song vấn đề là ở chỗ làm sao để kiểm soát được lạm phát ấy, giữ nó ở một tỉ lệ có lợi cho phát triển, tránh mất gía đồng tiền quá lớn. Các nhà đầu tư không thể yên tâm và ổn định sản xuất tại một nước mà giá trị đồng tiền của nước đó liên tục thay đổi, nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Hơn nữa, giá trị c._.ủa đồng nội tệ còn ảnh hưởng đến lợi nhụân thực tế mà các nhà đầu tư thu được tại một thị trường xác định. Lãi suất sẽ có ảnh hưởng lớn đến dòng chảy của vốn vào trong nước hay ra ngoài, ở đây cần có một sự tương xứng giữa lãi suất trong nước và trên thị trường thế giới. Vì vậy, lãi suất phải có xu hướng cao hơn thế giới để các nhà đầu tư dồn nhiều vốn vào trong nước hơn. Mặt khác, một mức lãi suất cao còn là điều kiện để bảo toàn nguồn vốn trong nước, tránh thất thoát ra ngoài.
2.4. Các chính sách khuyến khích đầu tư.
Một môi trường đầu tư thông thoáng và thuận tiện luôn là nơi mà các nhà đầu tư muốn tìm đến. Vì vậy mà các quốc gia đều đã và đang thực hiện các biện pháp nhằm cải tạo môi trường đầu tư của mình, trong đó vai trò của các chính sách khuyến khích đầu tư rất quan trọng, bao gồm trong đó những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục đầu tư, các biện pháp ưu đãi đối với từng ngành, lĩnh vực và từng vùng cụ thể. Các nhà đầu tư mong muốn các thủ tục nhanh chóng và đơn giản, đồng thời có những ưu đãi về thuế, giá thuê đất, về tạo điều kiện cho sử dụng cơ sở hạ tầng...
Trên đây là những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến việc thu hút các nguồn vốn đầu tư vào một nền kinh tế, những ảnh hưởng này được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau song nhìn chung nó sẽ có những tác động tích cực tới việc thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội khi các nhân tố này được cân bằng và giữ ở mức độ thích hợp. Còn như thế nào là thích hợp thì lại phụ thuộc vào điều kiện và mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia cũng như tình hình chung của nền kinh tế thế giới.
3. Sự cần thiết phải tăng cường thu hút vốn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội.
Để giải thích được tại sao luôn phải đặt ra vấn đề cần tăng cường thu hút vốn cho đầu tư phát triển, trước hết phải xét đến vai trò của đầu tư phát triển. Như đã đưa ra ở phần trên, vai trò của đầu tư phát triển hết sức quan trọng và có tính chất quyết định đối với sự phát triển của mọi nền kinh tế, chính vì vậy luôn cần phải tăng cường cho hoạt động đầu tư phát triển, mà muốn thực hiện được điều đó yêu cầu phải có vốn.
Trong điều kiện và xu thế phát triển như hiện nay, nhu cầu về vốn đầu tư cho phát triển ngày càng cao, thứ nhất là do phải mở rộng quy mô của các hoạt động đầu tư, đầu tư không thể chỉ tiến hành các hoạt động nhỏ lẻ mà yêu cầu trên một quy mô lớn. Thứ hai, chất lượng của các công trình đòi hỏi ngày càng cao, các máy móc, thiết bị đưa vào phải hiện đại và tất nhiên kèm theo đó là một khoản chi phí đầu tư không nhỏ. Hơn nữa, các nguồn lực hiện nay ngày càng trở lên hạn hẹp so với nhu cầu phát triển đó. Nguồn vốn của các nhà đầu tư thì có hạn, vì vậy, họ sẽ có nhiều cơ hội để lựa chọn cho hoạt động của mình hơn. Điều này dẫn đến sự cạnh tranh lẫn nhau trong việc thu hút vốn đầu tư. Chính vì những lí do đó, ngày càng phải có những biện pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội.
Chương II: Thực trạng hoạt động đầu tư trên địa bàn Hải dương giai đoạn 1996 đến nay
I. Khái quát tình hình kinh tế xã hội của tỉnh
1. Các điều kiện và nguồn lực cho phát triển
1.1. Điều kiện tự nhiên
`Với 12 huyện, thành phố, Hải Dương là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, giáp với Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng và Quảng Ninh. Được tách ra từ tỉnh Hải Hưng từ năm 1997, Hải Dương được coi là tỉnh nằm ở vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, có vị trí thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội. Khi tam giác kinh tế Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh đi vào hoạt động, tỉnh là cầu nối liền không thể thiếu đối với mọi hoạt động kinh tế. Nằm cách Hà Nội 60 km, tuyến đường 5 là cầu nối liền , đảm bảo cho sự phát triển kinh tế của Hải Dương gắn với sự phát triển của cả nước. Hơn nữa, tỉnh còn có đủ điều kiện để phát triển giao thông cả về đường sắt và đường thuỷ, gần các cảng biển, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế. Trong khi đó, trung tâm kinh tế xã hội của cả tỉnh là Thành phố Hải Dương lại nằm ngay trên tuyến dường Hà Nội- Hải Phòng, tuy đây chỉ là một thành phố mới và nhỏ song cũng là điểm quan trọng thu hút đầu tư vào tỉnh noí chung. Với vị trí như vậy, khí hậu Hải Dương cũng nằm trong vùng khí hậu chung của các tỉnh Đồng bằng Sông Hồng, nóng ẩm và có mùa đông lạnh và đặc biệt nằm sâu trong đất liền nên ít phải chịu những trận thiên tai lớn, có điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.
Về đất đai, Hải Dương có diện tích đất tự nhiên là 164.837,37 ha (theo số liệu 1/7/2000), trong đó đất nông nghiệp là 105.668,79ha, đất lâm nghiệp 9.147,4 ha, đất nông nghiệp bình quân đầu người là 625m2, đất lúa bình quân một khẩu nông nghiệp là 570m2. Hải Dương chủ yếu bao gồm các huyện đồng bằng, chỉ có hai huyện miền núi là Chí Linh và Kinh Môn. Hầu hết các huyện trong tỉnh đều có điều kiện thuận lợi sản xuất lúa gạo, đảm bảo an ninh về lương thực, hình thành các vùng trồng rau quy mô lớn ở một số huyện.
Về tài nguyên thiên nhiên, ngoài diện tích đất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, Hải Dương còn có hệ thống núi đá phục vụ một số nhâ máy xi măng lớn của tỉnh như: Hoàng Thạch, Duyên Linh... Tuy không có các khoảng sản và tài nguyên trong lòng đất như khu vực lân cận Quảng Ninh nhưng với điều kiện địa hình, khí hậu, Hải Dương đã hình thành một số khu du lich nhiều tiềm năng, mang ý nghĩa cả về tự nhiên và lịch sử- văn hoá như: Khu Côn Sơn- Kiếp Bạc, cụm di tích Kính Chủ- An Phụ, tượng đài Trần Hưng Đạo...
Nói chung điều kiện tự nhiên của Hải Dương được đánh giá là thuận lợi cho phát triển. Những điểm thuận lợi đó chủ yếu tồn tại ở dạng tiềm năng, đòi hỏi có các lực lượng để khai thác những tiềm năng ấy thành động lực cho phát triển, đó là nguồn lao động, khoa học công nghệ...
1.2. Nguồn lực cho phát triển
Dân số của Hải Dương tính đến cuối năm 2000 là 1.672.000 người (đứng thứ 13/61 tỉnh, thành phố và ước tính đến năm 2005 là 1.732.268 người, tốc độ tăng trưởng dân số trung bình 1,007%/năm. Trong đó số người trong độ tuổi lao động là 892.560 người (chiếm 54% dân số), hàng năm thường xuyên được bổ sung lực lượng học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông học lên. Trong cơ cấu nguồn nhân lực, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật trên địa bàn tỉnh có 22.178 người với trình độ đào tạo đa dạng, phân bổ ở hầu hết các ngành và tuổi đời trung bình là 42,8. Trong tổng số lao động đã qua đào tạo, tỉ lệ công nhân kỹ thuật- trung học chuyên nghiệp- Đại học, cao đẳng là 4,4-1-1,1. Tỉ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp của tỉnh chiếm 82,8% tổng số lao động.
Về chất lượng nguồn nhân lực, phần lớn lao động của Hải Dương xuất phát từ nông thôn, chính vì vậy, họ mang tư chất cần cù của người nông dân, cùng với việc được đào tạo thông qua hệ thống trường lớp, các cấp học, ngành học ổn định đã tạo nên một thế mạnh cho lao động Hải Dương. Hơn nữa, là một tỉnh giáp với 2 thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng nên người dân cũng được tiếp xúc sớm với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, đời sống văn hoá. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan hơn thì tỉ lệ lao động từ nông thôn cao cũng là một hạn chế đối với phát triển trong thời đại khoa học- công nghệ như hiện nay. Để khắc phục điểm này, đòi hỏi có sự quan tâm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển cơ sở hạ tầng cho ngành giáo dục , đồng thời với nó là các chính sách thu hút nhân tài về tỉnh làm việc.
Về phát triển khoa học công nghệ, tỉnh luôn xác định đây là yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động của mọi lĩnh vực. Công nghệ thông tin đã được áp dụng vào quản lý. Đến nay đã có cơ sở dữ liệu về quản lý doanh nghiệp, kinh tế- xã hội, thông tin địa lý, môi trường (GSI). Một số cơ quan, đơn vị bước đầu đã xây dựng trang Web với quy mô, dung lượng khác nhau, phục vụ cho trao đổi thông tin, giới thiệu tiềm năng, thế mạnh đầu tư và văn hoá, du lịch Hải Dương. Mạng lưới viễn thông trên địa bàn tỉnh đã có bước phát triển mạnh mẽ. Trong 5 năm 1996-2000, tỉnh đã thực hiện 190 đề tài nghiên cứu khoa học áp dụng vào các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Trong tương lai, với sự quan tâm đầu tư của Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh và các ban ngành, trình độ khoa học công nghệ của Hải Dương sẽ có những bước phát triển mới, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội.
Khái quát tình hình kinh tế xã hội chung của Hải Dương.
Trong thời gian qua, bằng việc thực hiện kế hoạch 5 năm 1996-2000 và bước đầu thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005, kinh tế Hải Dương đạt mức tăng trưởng khá, văn hoá xã hội phát triển, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Một số chỉ tiêu đạt được như sau:
Bảng 1:
Tăng trưởng kinh tế và cơ cấu các ngành trong GDP của Hải Dương giai đoạn 1996-2001
Năm
Tổng sản phẩm
Sản phẩm (triệu đồng)/ cơ cấu từng ngành (%)
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
1996
4.511
1.884
41,8
1.531
33,9
1.096
24,3
1997
4.830
1.712
35,4
1.766
36,6
1.352
28,0
1998
5.694
2.036
35,8
2.034
35,7
1.624
28,5
1999
5.979
2.200
36,8
2.093
35,0
1.686
28,2
2000
6.175
2.148
34,8
2.297
37,2
1.730
28,0
2001
6.666
2.220
33,3
2.533
38,0
1.913
28,7
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2001, Cục thống kê Hải Dương
Nhịp độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân giai đoạn 1996-2000 là 8,6%/năm, GDP năm 2001 đạt 6.666 tỉ đồng (theo niên giám thống kê năm 2001), công nghiệp- xây dựng tăng 8,7%/năm, dịch vụ tăng 12,6%/năm. Cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp- công nghiệp, xây dựng- dịch vụ đã có những bước chuyển biến đáng kể. Cụ thể: Năm 1995 là 40,6%- 34,9%- 24,5%, năm 2000 là 35,3%- 37,3%- 24,7%, năm 2001 là 33,3%- 38%- 28,7%.
Giá trị nông- lâm ngư nghiệp tăng bình quân 5%/năm, sản lượng lương thực quy thóc tăng bình quân 2,6%/năm. Giá trị công nghiệp trên địa bàn tăng 11,4%/năm, trong đó công nghiệp trung ương tăng 7,5%/năm, công nghiệp đia phương tăng 10%/năm .
Kim ngạch xuất khẩu của tỉnh tăng 7,8%/năm, thu ngân sách hàng năm vượt chỉ tiêu trung ương giao, huy động vốn tăng 9%/năm. Mỗi năm tỉnh tạo việc làm mới cho trên 2 vạn lao động.
Về văn hoá xã hội, công tác giáo dục được chăm lo nhiều hơn, tỉ lệ phổ cạp giáo dục trung học cơ sở ở các xã phường là 89,3%, dân trí từng bước được nâng cao.
Tuy nhiên, năng lực sản xuất của các ngành kinh tế còn hạn chế, hiệu quả kinh tế còn thấp, cơ cấu kinh tế có chuyển đổi nhưng còn chậm. Nông nghiệp phát triển nhưng không cao, công nghiệp chưa có tốc độ tăng trưởng nhảy vọt và còn nhiều phiền hà trong công tác quản lý.
Trong giai đoạn từ nay đến 2005, toàn tỉnh tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vượt qua khó khăn thử thách, phấn đấu đạt mức tăng trưởng cao hơn mức bình quân chung của cả nước. Từng bước tăng cường cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, đảm bảo các yếu tố phát triển bền vững, tạo tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế cao hơn. Tập trung giải quyết các vấn đề xã hội, cải thiên đời sống nhân dân, nâng cao chất lượng đào tạo bảo vệ sức khoẻ và các hoạt động văn hoá, thông tin thể dục thể thao. Đảm bảo quốc phòng vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội
II. Tình hình thu hút vốn đầu tư của Hải Dương giai đoạn 1996-2002.
Kể từ khi tái lập tỉnh đến nay, Hải Dương luôn xác định không ngừng tăng cương thu hút và tận dụng triệt để các nguồn vốn cho phát triển kinh tế xã hội bằng các biện pháp nhằm tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng và thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng từng đồng vốn. Để thấy rõ thực trạng của quá trình thu hút và sử dụng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, có thể xem xét trên một số khía cạnh sau:
1. Môi trường đầu tư của Hải Dương
Môi trường đầu tư là một yếu tố quan trọng và đầu tiên mà các nhà đầu tư xem xét khi quyết định đầu tư vào một địa bàn. Một môi trường đầu tư được coi là hấp dẫn khi nó tỏ ra thuận tiện cho các nhà đầu tư kể cả đối với khi chuẩn bi đầu tư cũng như trong quá trình thực hiện đầu tư, đồng thời địa bàn tiếp nhận đầu tư cũng phải tỏ ra mình có đủ năng lực tiếp nhận cũng như sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đó. Trong đó bao gồm các chính sách ưu đãi, sự phát triển cơ sở vật chất hạ tầng và tiềm lực phát triển kinh tế xã hôi địa phương, bao gồm cả tiềm lực con người và điều kiện tự nhiên. Có thể đánh giá thực tế từng yếu tố này trên địa bàn tỉnh Hải Dương thời gian qua như sau:
1.1. Về cơ chế chính sách
Ngoài việc thực hiện Luật khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài theo đúng quy định của Chính phủ, Hải Dương đã đưa vào áp dụng một số chính sách khuyến khích đầu tư dẫn và đang được các nhà đầu tư ghi nhận, như cải tiến quy trình tiếp nhận dự án, bố trí nguồn ngân sách cho công tác xúc tiến, vận đông đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua mức thuế và các quy định nhằm đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng. Cụ thể, đối với đầu tư nước ngoài, tỉnh đã và đang thực hiên cơ chế đầu tư "một cửa", theo đó các nhà đầu tư nước ngoài đến tiếp xúc, tìm hiểu cơ hội đầu tư tại Hải Dương thông qua Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương. Mọi quan hệ, giao dịch của nhà đầu tư với các ngành và địa phương có liên quan do Sở Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các ngành, địa phương giải quyết. Tỉnh cũng đã trích từ nguồn ngân sách để thưởng cho cá nhân, tổ chức có công giới thiệu dự án đầu tư vào Hải Dương.
Về công tác cấp phép đầu tư và đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, tỉnh đã quy định rút ngắn thời gian cấp phép xuống còn một nửa so với quy định của Chính phủ (đối với các dự án đầu tư nước ngoài), rút ngắn thời gian đăng kí kinh doanh xuống còn 2-6 ngày và thời gian chấp thuận dự án đầu tư trong nước là 12 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Tỉnh cũng đã công bố mức tiền bồi thường giải phóng mặt bằng áp dụng trên địa bàn các huyện là 17.000-18.000USD/ha và tại thành phố Hải Dương là 19.000-20.000 USD/ha (chưa kể các công trình xây dựng và tài sản khác trên mặt đất). Với việc công khai mức đền bù, các hộ có đất trong diện giải phóng mặt bằng sẽ yên tâm và nhanh chóng trao trả đất, từ đó đẩy nhanh quá trình chuẩn bị đầu tư nói riêng và tiến độ thực hiện dự án nói riêng.
Tỉnh đã thực hiện các chính sách nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, như: hỗ trợ về thông tin quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương, đảm bảo ưu tiên cấp điện 24/24 giờ cho các doanh nghiệp sản xuất, riêng đối với các dự án ở vị trí quá xa mà ngành điện nước chưa đáp ứng dịch vụ được thì căn cứ vào hiệu quả kinh tế- xã hội của dự án, tỉnh xem xét hỗ trợ bằng nguồn vốn ngân sách. Về các chính sách thuế, tỉnh áp dụng giá thuê đất ở mức thấp nhất trong khung nhà nước quy định, không tính đến các hệ số: vị trí, kết cấu hạ tầng, ngành nghề nêu tại quyết định 189/2000/QĐ-BTC ngày 24/11/2000 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc ban hành quy định về tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển áp dụng đối với các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tỉnh cũng áp dụng việc miễn tiền thuê đất đối với một số dự án (kể từ ngày xây dựng cơ bản hoàn thành dưa dự án đi vào hoạt động), cụ thể: 15 năm đối với dự án đầu tư vào địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, dự án thuộc Danh mục đặc biệt khuyến khích đầu tư theo Nghi định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ; 11 năm đối với dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, dự án thuộc danh mục khuyến khích đầu tư theo Nghị định 24. Ngoài ra tỉnh còn hỗ trợ100% chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng, rà phá bom mìn, vật nổ cho các dự án đầu tư nước ngoài bằng cách trừ dần vào số tiền thuê đất hàng năm của doanh nghiệp.
Để đảm bảo cho sản xuất ổn định, tỉnh có chủ trương dần hình thành các vùng nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm.
Nhìn chung, cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư của tỉnh Hải Dương đã có những chuyển biến tích cực theo hướng tạo ra môi trường ngày càng thuận lợi hơn, đồng thời cũng có những biện pháp chủ động nhằm điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho phục vụ tốt nhất cho việc thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển.
1.2. Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng Hải Dương trong những năm qua không ngừng được tu bổ, nâng cấp, đóng góp tích cực cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh, tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Tỉnh đã quan tâm đầu tư cho cơ sở hạ tầng của tất cả các ngành, bao gồm của ngành nông nghiệp, giao thông, dịch vụ, văn hoá, y tế... Đối với ngành nông- lâm nghiệp, hệ thống cơ sở vật chất của hệ thống giống cây trồng, vật nuôi đã được nâng cấp, từ đó nâng cao chất lượng đàn gia súc, gia cầm, hệ thống các trạm thú y, trạm bảo vệ thực vật cũng được hoàn thiện. Hệ thống thuỷ lợi, đê điều được cải tạo đảm bảo phòng chống lụt bão, ổn định sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân. Bên cạnh đó, tỉnh có những vùng quy hoạch phát triển khu sản xuất nông nghiệp chuyên canh như vùng trồng rau, cây ăn quả..., từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông sản.
Về hệ thống giao thông, tỉnh luôn xác định giao thông là nhiệm vụ quan trọng trong cơ sở hạ tầng. Cụ thể, hiện tỉnh có 3 tuyến đường sắt (tuyến Hà Nội- Hải Dương- Hải Phòng, tuyến Kép- Bãi Cháy, tuyến chuyên dùng của nhà máy nhiệt điện Phả Lại từ Bắc Nội đến Phả Lại) với tổng chiều dài trên 70km, 13 tuyến đường tỉnh với tổng chiều dài 258km (trong đó có 214,8km là đường nhựa, còn lại là đá dăm và cấp phối). Trên các tuyến đường tỉnh hiện có 98 cầu vĩnh cửu và bán vĩnh cửu, trong đó có 62 cầu bê tông cốt thép với tổng chiều dài 1165,9 km, bảo đảm xe có trọng tải H8- H10, xe khách đảm bảo lưu lượng lưu thông 100xe/ngày đêm và 10 bến quy mô nhỏ ở các huyện lị. Hiện tỉnh có 65 tuyến đường huyện với tổng chiều dài 352,4km. Ngoài ra, hệ thống giao thông nông thôn còn đảm bảo ô tô vào được trung tâm 100% số xã trong tỉnh và đến được phần lớn trung tâm các thôn xóm với tổng chiều dài 1.148km. Về hệ thống đường thuỷ, trên địa bàn tỉnh có 10 tuyến sông do trung ương quản lý dài 281,5km, đảm bảo thông thuyền trọng tải 200-500 tấn, 6 tuyến sông do địa phương quản lý dài 119km, thông thuyền trọng tải 20-50 tấn. Trong đó có 7 bến phà, 1 cảng chung chuyển là cảng Cống Câu với quy mô bốc dỡ 350.000tấn/năm và 29 bến bốc xếp dỗ thủ công đang khai thác dọc các sông. Như vậy, có thể nói rằng hệ thống giao thông trong tỉnh đã phát triển rộng khắp, từ đường bộ, đường thuỷ, các tuyến đường tỉnh, huyện đến các xã và thôn xóm, đáp ứng được trước hết là nhu cầu đi lại của nhân dân và hơn nữa là hoạt động vận chuyển, giao lưu hanàg hoá phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
Mạng lưới điện trong toàn tỉnh đã được nâng cấp, đảm bảo cung cấp điện tới 100% số xã. Hiện nay Hải Dương có 52,3km đường dây 110KV, 607,3km đường dây 35KV, 414,7km đường dây 6-10KV và 1000 km đường hạ thế. Với hệ thống lưới điện như vậy, tỉnh đảm bảo cung cấp điện cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm và dịch vụ. Bên cạnh đó, hệ thống cấp thoát nước cũng đã được tỉnh quan tâm đầu tư để không ngừng nâng cao tỉ lệ hộ dân đựơc sử dụng nước sạch và giải quyết tình trạng ngập úng, đặc biệt là ở khu vực thành phố Hải Dương.
Cơ sở hạ tầng các ngành dịch vụ phát triển toàn diện bao gồm vận tải, bưu chính viễn thông và hệ thống ngân hàng, tài chính kho bạc. Đặc biệt là sự phát triển của hệ thống bưu chính viễn thông, 100% số xã, phường được trang bị điện thoại, đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin. Hệ thống tài chính, kho bạc đảm bảo thực hiện các hình thức thanh toán và cho vay vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội, đồng thời đây cũng là điểm thu hút nguồn vốn còn trong dân, tận dụng chúng cho phát triển.
Trình độ dân trí cũng là một yếu tố khi xem xét đến môi trường đầu tư, nó thể hiện ở hai mặt, đó là: khả năng tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư và chi phí để đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư khi dự án đi vào hoạt động. Xem xét mặt bằng dân trí nói chung, có thể xem xét tới hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho công tác giáo dục. Hiện toàn tỉnh có 271 trường trung học cơ sở với 3570 lớp học, trong đó đã xây dựng kiên cố, cao tầng được 1053 phòng (45,8%) và 33 trường trung học phổ thông, 13 trường chuyên nghiêp và dạy nghề. Từ các trường đào tạo này, trình độ dân trí và xét riêng chất lượng nguồn nhân lực sẽ không ngừng được nâng cao, có thể tiếp nhận khoa học công nghệ tiên tiến.
1.3 Sự phát triển kinh tế- xã hội địa phương.
Trong môi trường đầu tư, sự tăng trưởng kinh tế và xu thế ổn định có vai trò quan trọng đối với việc thu hút các nguồn vốn đầu tư. Trong giai đoạn 1996-2000, Hải Dương luôn đạt mức tăng trưởng dương , điều đó cũng có nghĩa là mặt bằng kinh tế chung của cả tỉnh đã được cải thiện. Theo niên giám thống kê năm 2001, tổng sản phẩm trong tỉnh năm 2001 đạt 6.666 tỉ đồng, so với năm 1996 là 4511 tỉ đồng. Cơ cấu kinh tế cũng đã có những chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ. Năm 1996, cơ cấu nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ là 41,8%-33,9%- 24,3% thì đến 2001 tỉ lệ này là 33,3%- 38%- 28,7%. Là một tỉnh nông nghiệp với hơn 80% lao động sống ở vùng nông thôn, giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế không đồng nghĩa với sự kéo lùi sự phát triển của ngành này, giá trị sản xuất nông nghiệp vẫn tăng từ 2.930.692 triệu đồng năm 1996 lên 3.465.602 triệu đồng năm 2001 (theo niên giám thống kê năm 2001). Như vậy, sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong những năm qua được đánh giá ở hai phương diện: thứ nhất, nó thể hiện việc sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư đã có, và quan trọng hơn, đó là năng lực tiếp nhận vốn đầu tư. Trong xu thế hiện nay, đầu tư là yếu tố phá vỡ sự ổn định kinh tế, nhưng chính sự ổn định kinh tế lại là bằng chứng đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư.
Nói tóm lại, môi trường đầu tư của tỉnh Hải Dương đã có những bước phát triển mạnh mẽ kể từ khi được tái lập, nó đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế trong xu thế ổn định, cơ sở hạ tầng được nâng cấp cải thịên, luôn có những chính sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư. Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là nó đã trở nên hoàn hảo, bởi cũng vẫn còn tồn tại bên cạnh những mặt đạt được là những vấn đề cần phải đưa ra xem xét, tìm hướng giải quyết nhằm tạo ra một môi trường hấp dẫn hơn.
2. Thực trạng thu hút các nguồn vốn đầu tư vào tỉnh Hải Dương thời gian qua.
Trong thời gian qua, bằng việc thực hiện kế hoạch 5 năm 1996-2000 và các chương trình đầu tư phát triển trong hai năm 2001, 2002, kinh tế Hải Dương đã có những bước tăng trưởng đáng kể, mức tăng GDP cao hơn mức bình quân của cả nước, cơ cấu kinh tế đang dần chuyển dịch theo hướng tăng dần tỉ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Cùng với nó, cơ sở hạ tầng và mặt bằng kinh tế chung cũng có những bước đổi mới. Để đạt được kết quả đó là sự nỗ lực của các cấp các ngành, sự quản lý của các cơ quan trong tỉnh trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng cũng như phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ. Đánh gía về tình hình thực tế các nguồn vốn này trong giai đoạn 1996-2000, có thể xem xét một số vấn đề cụ thể như sau:
2.1. Về quy mô vốn đầu tư trong toàn tỉnh.
Bảng 2:
Tổng vốn đầu tư trên địa bàn Hải dương giai đoạn 1996-2002
đơn vị : triệu đồng
Năm
96
97
98
99
2000
2001
Vốn
1315510
1826530
1783940
4036980
4690550
4395434
Năm 2002, đạt 3.404.805 triệu đồng
Nguồn: kế hoạch 5 năm 2001-2005- UBND tỉnh Hải Dương
Có thể thấy rõ qua biểu đồ sau:
Tổng vốn đầu tư phát triển trong kế hoạch 5 năm 1996-2000 là 13.647.780 triệu đồng, tăng gấp 6,8 lần so với thời kì 1991-1995, đạt bình quân 2734 tỉ đồng/năm. Có thể nói đây là một bước phát triển đáng ghi nhận khi mà toàn tỉnh bước vào thực hiện kế hoạch trong điều kiện tỉnh và các huyện mới được tái lập, các đơn vị quản lý hành chính còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc trong việc tái thiết trên địa bàn mới. Nhìn chung, vốn đầu tư vào tỉnh Hải Dương hàng năm đều có mức tăng trưởng, tuy không đều và chưa cao nhưng nó cũng thể hiện được kết quả của toàn tỉnh trong việc huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Riêng từ năm 98-99 có sự tăng trưởng vốn nhảy vọt từ 1.783.940 triệu đồng lên 4.036.980 triệu đồng chủ yếu là do nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nó nằm trong sự tăng trưởng chung khi mà từ tháng 12 năm 1997, những chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được áp dụng rộng rãi. Hơn nữa, Hải Dương cũng là một tỉnh có khả năng thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài với những thuận lợi về vị trí địa lí, giao thông, điều kiện tự nhiên và dân cư.
Tuy nhiên, hoạt động đầu tư có vẻ chững lại suốt năm 2000, 2001 và còn có xu hướng giảm trong năm 2002. Nguyên nhân ngoài việc suy giảm kinh tế chung toàn cầu còn do ảnh hưởng của kinh tế trong nước, bởi trong những năm này, mức tăng trưởng kinh tế chung của cả nước cũng chỉ dừng lại ở mức trên dưới 7%.
Trong kế hoạch đến năm 2005, để đạt mức tăng trưởng bình quân 9%/năm, tỉnh ước tính tổng nhu cầu vốn đầu tư khoảng 14.500 tỉ đồng, đòi hỏi huy động từ mọi nguồn trong và ngoài nước, bằng các biện pháp nhằm cải tạo môi trường đầu tư ngày càng thông thoáng hơn.
2.2. Về cơ cấu vốn đầu tư
2.2.1 Cơ cấu theo nguồn vốn đầu tư
Vốn đầu tư vào Hải Dương bao gồm cả trong và ngoài nước. Vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu thông qua đầu tư trực tiếp, có một số ít dự án từ nguồn ODA, JBIC...nhưng không nhiều. Trong nước bao gồm từ các nguồn như; nguồn vốn ngân sách tập trung, vốn tín dụng đầu tư, vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước, vốn huy động trong dân...Cơ cấu đầu tư trên địa bàn tỉnh Hải Dương theo nguồn vốn trong những năm qua như sau:
Bảng 3:
Cơ cấu vốn đầu tư vào Hải Dương phân theo nguồn vốn đầu tư
đơn vị: triệu đồng
Năm
Tổng vốn đầu tư
Vốn đầu tư
Cơ cấu (%)
Trong nước
Nước ngoài
Trong nước
Nước ngoài
1996
1.315.510
675.516
440.000
67,5
33,5
1997
1.826.530
1.064.350
780.000
57,3
42,7
1998
1.783.940
1.113.940
670.000
62,4
37,6
1999
4.036.980
1.924.280
2.112.000
47,7
52,3
2000
4.696.550
2.131.550
2.554.000
45,6
54,4,
2001
4.395.434
2.100.125
2.295.309
47,8
52,2
2002
3.404.805
1.446.449
1.958.356
42,5
57,5
Nguồn: Kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm 1996-2000, UBND tỉnh Hải Dương.
Nhìn chung về cơ cấu đầu tư, nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm tỉ trọng cao trong tổng vốn đầu tư phát triển của toàn tỉnh, từ chỗ chỉ chiếm 33,5% vào năm 1996 đã tăng lên 57,5% năm 2002. Tính chung cho cả thời kì, đầu tư nước ngoài chiếm 49,5% tổng vốn đầu tư xã hội của tỉnh- một tỉ lệ cao so với mức bình quân của cả nước. Xem xét cụ thể từng nguồn vốn như sau:
2.2.1.1 đầu tư trong nước.
Đầu tư trong nước trên địa bàn tỉnh Hải Dương chủ yếu từ nguồn ngân sách và đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước, sự tham gia của các nhà đầu tư riêng lẻ chủ yếu vẫn bị giới hạn ở các nhà đầu tư trên địa bàn tỉnh. Thông qua bảng cơ cấu đầu tư trên, có thể thấy rằng tổng mức đầu tư luôn có mức tăng trưởng dương kể từ 1996 đến 2000. Đầu tư trong nước, đặc biệt là đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước tập trung chủ yếu vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Chỉ tính riêng 5 năm 1996-2000, toàn tỉnh đã giành gần 5000 tỉ đồng cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và một số công trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Hiện nay ở Hải Dương cũng đã có một số doanh nghiệp nhà nước lớn và làm ăn có hiệu quả như: Công ti vật tư chất đốt Hải Dương, công ti may II, nhà máy sản xuất và chế tạo bơm..., các doanh nghiệp này cũng đã đóng góp một phần đáng kể vào ngân sách hàng năm của tỉnh trong thơì gian qua. Xét về cơ cấu vốn đầu tư trong nước theo phân cấp quản lý có thể thấy được như sau:
Bảng 4:
Vốn đầu tư trong nước vào Hải Dương phân theo cấp quản lý
Đơn vị: tỉ đồng
Chỉ tiêu
Vốn đầu tư
Cơ cấu (%)
Năm
96-97
98-00
2001
2002
96-97
98-00
2001
2002
ĐP quản lý
894
2046
680
771
33,86
22,44
18,3
29,2
TWquản lý
1748
7072
3039
1959
66,14
77,56
81,7
71,8
Tổng số
2462
9118
3720
2730
100
100
100
100
Nguồn: Báo cáo tình hình đầu tư theo Nghị quyết TW4 Khoá 8
Nhìn chung, tổng nguồn vốn đầu tư trong nước trên địa bàn giai đoạn 1998 – 2000, 2001,2002 có mức tăng cao, so với năm 1997, tăng bình quân 39,4%/năm. Song lại có sự mất cân đối lớn về cơ cấu vốn đầu tư theo cấp quản lý, phụ thuộc nhiều từ nguồn vốn trung ương (66,14% giai đoạn 1996 – 1997; 77,56% giai đoạn 1998 – 2000, 81,7% năm 2001 và 71,8% năm 2002), trong khi nguồn vốn địa phương hạn hẹp, huy động khó khăn, dẫn đến tình trạng bị động trong việc đầu tư xây dựng, cân đối vốn đầu tư, nhất là các công trình trọng điểm, thiết yếu; nhân dân không có khả năng để bỏ vốn đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng, nhất là các vùng sâu, xa, kinh tế khó khăn.
Với chủ trương khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, trong thời gian qua, các doanh nghiệp của cả nhà nước và tư nhân đã tích cực đầu tư vào địa bàn Hải Dương. Các dự án chủ yếu tập trung vào lĩnh vực đòi hỏi vốn và công nghệ thấp, sử dụng nhiều lao động, như: Công nghiệp may mặc,, sản xuất vật liệu xây dựng, gia công cơ khí, chế biến hàng nông sản xuất khẩu... Chỉ tính riêng năm 2001, tổng số dự án của các doanh nghiệp trong nước đầu tư trên địa bàn tỉnh được chấp thuận đầu tư là 42 dự án với tổng số vốn đầu tư khoảng 169.981 triệu đồng, các doanh nghiệp tư nhân là 130.040 triệu đồng.
Tuy với số vốn gần 40 tỉ đồng, song số dự án của các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh chỉ là 3 dự án: Công ti vật tư chất đốt Hải Dương, công ti may II, viện nuôi trồng thuỷ sản I với số vốn lần lượt là 3.200, 12.741, 21.000 triệu đồng.
Các dự án của các doanh nghiệp tư nhân hầu hết là các dự án nhỏ, có số vốn từ 1-3 tỉ đồng, chỉ có một số dự án có số vốn lớn như: Công ti trách nhiệm Sơn Hà sản xuất hàng may thêu xuất khẩu với số vốn 21.390 triệu đồng, công ti trách nhiệm hữu hạn Thành Long, hoạt động trong lĩnh vực lắp ráp máy cơ khí nông nghiệp với số vốn 8.300 triệu đồng... Các doanh nghiệp này hoạt động trong tất cả các lĩnh vực như: May mặc, chế biến nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng... Ngành công nghiệp may mặc luôn là nơi thu hút nhiều lao động, giải quyết được một phần lớn lao động dôi dư tại các vùng nông thôn. Trong năm 2001, đã có 2 dự án thuộc ngành may mặc được chấp thuận đầu tư với số vốn 22.490 triệu đồng. Hoạt động của các doanh nghiệp này chủ yếu hướng ra thị trường xuất khẩu, cùng với một số doanh nghiệp đã được hình thành từ trước trên địa._.nh tế xã hội của tỉnh.
Tỉnh cần đa dạng hoá các hình thức đầu tư như: BOT, BT, đổi đất lấy công trình, đầu tư và chuyển giao công nghệ... BOT, BT trong thời gian qua chủ yếu đầu tư vào cơ sở hạ tầng, chính vì vậy, cần tăng cường các hình thức này nhằm khai thác trước hết là phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng của tỉnh, hơn nữa còn tạo điều kiện cho các nhà đầu tư đầu tư vốn cho các cơ sở sản xuất kinh doanh khác, vì hầu hết mục đích cần đạt tới của họ không phải là các công trình này, mà là ưu đãi cho các dự án đầu tư tiếp theo.
Tranh thủ tối đa các nguồn viện trợ, ODA, nguồn từ NGO, và từ các quỹ phát triển khác của các tổ chức và liên hợp quốc. Hàng năm, các tổ chức này thường xuyên đưa nguồn vốn viện trợ, bao gồm viện trợ không hoàn lại và cho vay phát triển ưu đãi vào Việt Nam. Vì vậy, Hải Dương cũng cần tăng cường thu hút tối đa các nguồn này cho phát triển kinh tế xã hội của tỉnh thông qua một số biện pháp như: Có các dự án phát triển khả thi, thường các nguồn này thường đầu tư cho đường giao thông, hệ thống cơ sở phúc lợi công cộng, các dự án phát triển nguồn nhân lực, cho nên cần lập các dự án khả thi thuộc các lĩnh vực này, làm sao để có thể thu hút được các nhà đầu tư vào tỉnh. Nói như vậy không có nghĩa là cứ phải trông chờ vào viện trợ mà có nghĩa là khi có thể tranh thủ thì cần tranh thủ một cách tối đa. Bên cạnh đó, nâng cao công tác giám sát đầu tư và đưa dự án vào hoạt động hiệu quả, nhất là các dự án thuộc nguồn vốn này đã đầu tư vào tỉnh từ trước để các nhà đầu tư thấy rằng, đưa vốn đầu tư vào Hải Dương sẽ phát huy được nhiều nhất những hiệu quả của nguồn vốn ấy, đạt được mục tiêu là thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Đẩy mạnh chủ trương xã hội hoá ngành giáo dục, y tế, văn hoá thông tin, thể dục thể thao... Khuyến khích các cá nhân, đơn vị đầu tư vào các lĩnh vực này để khuyến khích nhân dân tham gia đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
1.2. Tạo ra một quy trình tiếp nhận dự án đơn giản cho các nhà đầu tư, thông qua một số biện pháp:
Cải tiến thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian cấp giấy phép đầu tư, cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, thẩm định dự án, ra quyết định đầu tư. Thực tế hiện nay, việc chấp nhận đăng kí kinh doanh (đối với các dự án đầu tư trong nước) và cấp phép đầu tư hoặc thẩm định ra quyết định đầu tư (đối với các dự án có vốn đầu tư nước ngoài) diễn ra rất chậm chạp, mực dù Chính phủ đã có những quy định cụ thể về thời gian tối đa cho các công tác trên. Điều này hạn chế rất nhiều, trước hết là tiến trình đưa vốn vào đầu tư, thứ hai là làm cho các nhà đầu tư e ngại khi phải chờ đợi quá lâu, có thể sẽ làm mất cơ hội đầu tư. Vì vậy, cần thiết phải giảm bớt các thủ tục rườm rà, phấn đấu rút ngắn thời gian cấp phép đầu tư, cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, thẩm định dự án, ra quyết định đầu tư thấp hơn so với mức quy định của Chính phủ. Hiện nay ở Hải Dương, cơ quan quản lý trực tiếp vấn đề này là Sở Kế hoạch và đầu tư, vậy cần nâng cao tiến độ thực hiện công việc ở đây như phòng thẩm định đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, trình UBND tỉnh quyết định, phòng kinh tế đối ngoại xem xét các dự án đầu tư nước ngoài và thực hiện thẩm định cùng phòng đầu tư phát triển một cách cụ thể, khách quan, song phải làm sao giải quyết được nhanh chóng, tránh tình trạng "ùn tắc" các hồ sơ xin cấp phép và dự án chờ thẩm định.
Rút ngắn quá trình thẩm tra phương án tài chính, phương án vay trả để triển khai nhanh quá trình chi vay. Trong quá trình thực hiện thẩm tra các phương án tài chính, cần tính toán các chỉ tiêu cụ thể như NPV, NFV, IRR... để cụ thể hoá các chỉ tiêu đáng gía dự án, đối với các phương án vay trả, dựa trên các chỉ tiêu cụ thể như thời gian thu hồi vốn, phương án khấu hao... Như vậy sẽ đảm bảo chất lượng thẩm tra các phương án, vừa nâng cao tiến độ thực hiện thẩm tra, giúp các nhà đầu tư nhanh chóng được vay vốn.
Về các thủ tục chuẩn bị đầu tư, tỉnh tiếp tục thực hiện cơ chế "một cửa" và có những bước cải tiến quy trình này. Hiện nay, Hải Dương vẫn đang áp dụng cơ chế này cho hoạt động đầu tư nước ngoài và đến ngày 15/4/2003 áp dụng cho một số lĩnh vực đầu tư trong nước. Tuy vậy, cơ chế này vẫn bộc lộ một số thiếu sót trong việc phối hợp giữa Sở Kế hoạch Đầu tư và một số ban ngành trong tỉnh, đôi khi các công việc này còn tiến hành chậm trễ. Vì vậy, trong thời gian tới cần xây dựng một quy trình mới về cơ chế một cửa, theo đó, cần quy định ró ràng sự phối hợp và quyền hạn trách nhiệm của mỗi cơ quan trong tỉnh trong việc thực hiện cơ chế này.
1.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xúc tiến, vận động đầu tư.
Cần có những giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xúc tiến, vận động đầu tư. Đây là việc làm hết sức quan trọng trong việc giới thiệu cho các nhà đầu tư về cơ hội đầu tư vào tỉnh, xây dựng được sự tin tưởng đối với các nhà đầu tư. Nó bao gồm những công việc như: Giới thiệu về tiềm năng của tỉnh thông qua các phương tiện thông tin, gặp gỡ với các nhà đầu tư, vận động đầu tư nhằm thu hút các nguồn vổn trong nước và nước ngoài. Trong thời gian qua, công việc này ở Hải Dương chưa được coi trọng đúng mức với vai trò của nó trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư, để đẩy mạnh công tác này cần thực hiện một số giải pháp cụ thể:
Có kế hoạch tuyên truyền toàn diện, sâu rộng về đầu tư trong nước và ngoài nước tại tỉnh thông qua các phương tiện thông tin đại chúng địa phương, mục đích nhằm nâng cao sự hiểu biết và nhận thức của người dân về Đường lối, chính sách của Đảng đối với các thành phần kinh tế. Trong thời gian của những thập kỉ trước, người dân thường trực trong tiềm thức của họ một cái nhìn phiến diện về phát triển kinh tế và vai trò của các thành phần kinh tế trong sự phát triển ấy. Theo đó, họ chỉ công nhận vai trò của kinh tế Nhà nước và mọi chính sách chỉ nhằm hỗ trợ cho thành phần kinh tế này. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và nhà nước đã chính thức công nhận sự tồn tại và phát triển bình đẳng của các thành phần kinh tế khác nhau, dù công việc này đã được thực hiện từ lâu song cũng vẫn phải duy trì và tiếp tục thực hiện. Chính vì vậy, cần tuyên truyền sâu rộng cho ọi người thấy rằng mọi người và mọi thành phần kinh tế đều được tạo điều kiện phát triển và bình đẳng trong các chính sách, để từ đó họ mạnh dạn đưa vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh mà không còn lo lắng về chính sách có bất lợi cho họ. Việc thực hiện tuyên truyền có thể thực hiện thông qua báo Hải Dương, đài phát thanh và truyền hình tỉnh, không chỉ bằng các bài báo, phóng sự mà còn thông qua các hình thức sinh động khác như: Nêu gương làm ăn giỏi, các cuộc thi làm giàu...
Đưa trang Web của tỉnh đi vào hoạt động. Trong xu thế phát triển công nghệ thông tin như hiện nay, hầu hết các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài đều tiếp xúc với tài nguyên thông tin thông qua Internet. Vì vậy, để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xúc tiến và vận động đầu tư, tỉnh cần nhanh chóng hoàn thiện hơn nữa và thường xuyên cập nhật các thông tin mới về kinh tế xã hội của tỉnh trong trang Web. Để làm được như vậy tỉnh cần có cơ quan chịu trách nhiệm trực tiếp về hoạt động này, bao gồm những cán bộ có năng lực chuyên môn, được đào tạo một cách toàn diện và có hệ thống.
Tỉnh cử người tham gia cùng các Đoàn xúc tiến, vận động đầu tư của Chính phủ, của Bộ Kế hoạch và Đầu tư để thu hút vận động đầu tư tại các tỉnh khác và tại nước ngoài. Để tăng cường thu hút vốn đầu tư vào Việt Nam nói chung, Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư thường xuyên có các đoàn ra nước ngoài và các nhà đầu tư nước ngoài về đầu tư trong nước. Trong những cơ hội như vậy, Hải Dương cần có mặt trước hết là nắm bắt thông tin về các nhà đầu tư, sau đó là tìm cơ hội giới thiệu về môi trường đầu tư riêng của Hải Dương. Khi có các đoàn làm việc, tỉnh có kế hoạch bố trí và có kế hoạch xúc tiến đầu tư cụ thể. Bên cạnh đó, tỉnh cũng cần thành lập đoàn vận động, xúc tiến đầu tư riêng của tỉnh, tiếp xúc với các nhà đầu tư nước ngoài thông qua thông qua việc đoàn trực tiếp đến các nước hoặc gián tiếp thông qua Đại diện ngoại và thương mại của họ. Mục đích của việc này ngoài việc giới thiệu về môi trường đầu tư, còn nhằm thiết lập những mối quan hệ về đàu tư giữa các nước, để một khi có vốn, họ sẽ ưu tiên cho tỉnh trước tiên cũng như nhằm tranh thủ các nguồn viện trợ của nước ngoài và của các tổ chức quốc tế.
Định kì tổ chức các cuộc gặp gỡ với các doanh nghiệp trong và ngoài nước trên dịa bàn tỉnh. Một mặt nhằm xem xét lại tình hình đầu tư trong tỉnh của một thời gian nhất định, mặt khác có những biên pháp khuyến khích các doanh nghiệp gắn bó hơn với tỉnh thông qua tuyên dương, khen thưởng đối với các doanh nghiệp hoạt động tốt và có đóng góp lớn cho tỉnh, đồng thời có hình thức xử lý đối với các doanh nghiệp không tuân thủ các quy định của pháp luật nói chung và của Hải Dương nói riêng. Các cuộc gặp gỡ có thể tiến hành hàng năm và có mhữmg cuộc đánh giá quy mô sau khi thực hiện các kế hoạch lớn như: Các kế hoạch 5 năm, một số chương trình phát triển.
Có nguồn ngân sách ổn định cho công tâc xúc tiến, vận động đầu tư. Vấn đề mấu chốt để thực hiện những biện pháp trên là phải có nguồn kinh phí, mà nguồn này không thể có ở đâu ngoài ngân sách của tỉnh. Vì vậy, trong các kế hoạch ngân sách hàng năm, tỉnh cần có một tỉ lệ nhật định cho công tác này, để nó có thể được thực hiện thường xuyên và có hiệu quả, nhằm thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư đến Hải Dương.
1.4. Lập và công bố các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Quy hoạch của tỉnh bao gồm các quy hoạch tổng thể và chi tiết, quy hoạch đất đai. Đối với các quy hoạch tổng thể, tỉnh cần nâng cao chất lượng công tác lập quy hoạch, làm sao để quy hoạch đó phù hợp với tình hình phát triển chung và mục tiêu của tỉnh. Để làm được như vậy, trước hết, thực hiện việc lập quy hoạch theo hướng từ dưới lên, có nghĩa là, hàng năm, các địa phương tổng hợp tình hình kinh tế xã hội của mình, trình lên các sở , ban ngành quản lý trực tiếp thuộc UBND tỉnh, đến lượt các sở quản lý ngành lại lập yêu cầu phát triển của ngành mình, trình UBND tỉnh. Như vậy, vừa đảm bảo tính tập trung dân chủ trong quản lý, vừa làm cho các quy hoạch phù hợp với tình hình chung. Khi thực hiện các quy hoạch này, cần phải "chia nhỏ" nó ra, có nghĩa là tránh tình trạng đưa ra các mục tiêu mang tính chung chung, cần phải cụ thể hoá thông qua các kế hoạch, chương trình, dự án.
Việc đưa ra các quy hoạch phát triển từng ngành cần công khai và phổ biến rộng rãi tới các nhà đâù tư. Mặt khác, các quy hoạch này cần phải đưa ra một khoảng thời gian để đảm bảo tính ổn định của nó, tức là việc lập quy hoạch phải tạo cho các nhà đầu tư tâm lý ổn định khi đầu tư vào tỉnh, tránh sự thay đổi quy hoạch. Để làm được như vậy, cần thực hiện nghiên cứu kĩ tình hình phát triển ngành trong khoảng thời gian ít nhất là 5 năm trở lại, dùng kĩ thuật thống kê để phân tích các điều kiện trong và ngoài nước , phương hướng phát triển của tỉnh để đưa ra các mục tiêu phát triển cho giai đoạn sau. Đặc biệt, cần xác định rõ cơ cấu từng ngành, vùng ưu tiên phát triển của từng ngành nhỏ trong ngành đó. Ví dụ như để xác định quy hoạch phát triển công nghiệp Hải Dương từ nay đến năm 2010, thì trước hết cần xác định phương hướng phát triển các ngành công nghiệp chủ yếu, các ngành được ưu tiên phát triển, tiếp đó là xác định cơ cấu từng lĩnh vực và đẩy mạnh lĩnh vực nào. Khi đã có được cái nhìn tổng thể về định hướng phát triển chung cũng như từng ngành trong tỉnh, các nhà đầu tư sẽ chủ động đầu tư vào từng ngành nghề cụ thể.
Xây dựng quy hoạch các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đề các nhà đầu tư vào. Sự hình thành các khu công nghiệp xuất phát từ nhu cầu tích tụ, tập trung hóa sản xuất và sử dụng có hiệu quả cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, đất đai... Thực tế ở Hải Dương hiện nay việc quy hoạch các khu, cụm công nghiệp chưa được hình thành rõ nét nên chưa tập trung được các nhà đầu tư, vì vậy cần nhanh chóng hoàn chỉnh một số khu, cum công nghiệp của tỉnh (thành phố Hải Dương, Nam Sách, Phú Thái...), tạo điều kiện tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng của các khu công nghiệp nhằm thu hút các nhà đâù tư.
Công bố quy hoạch đất đai trong toàn tỉnh, tránh tình trạng các cơ sở đẫ xây dựng lên lại phá bỏ đi do nằm trong diện giải toả. Mặt khác, việc cho các nhà đầu tư toàn cảnh quy hoạch sử dụng đất của tỉnh sẽ giúp họ trong việc xác định tiềm năng, từ đó xác định ngành nghề và vùng đầu tư.
Bên cạnh đó, cần thường xuyên rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch tổng thể và chi tiết cho phù hợp với tình hình thực tế. Rõ ràng là một quy hoạch phát triển phải đảm bảo tính nhất quán và ổn định của nó, song thực tế luôn luôn thay đổi đòi hỏi cần phải điều chỉnh các quy hoạch này cho phù hơp. Song, chú ý rằng, sự điều chỉnh, bổ sung ấy chỉ nằm trong giơí hạn không làm thay đổi các điểm cơ bản của quy hoạch, tức là vẫn đảm bảo tính thống nhất của nó.
Công bố các chương trình đầu tư đến năm 2005 để kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia. Trong kế hoạch 5 năm 2001-2005, Hải Dương có 7 chương trình đầu tư phát triển lớn, được thực hiện thông qua một số đề án cụ thể. Việc đưa ra và cụ thể hoá các chương trình là bước quan trọng trong việc tiến hành từng bước để đạt được mục tiêu chung trong kế hoạch. Việc công bố các chương trình đầu tư có thể thông qua các cuộc gặp mặt, hội thảo giữa nhà quản lý với các nhà đầu tư hoạc công bố trong các văn bản của tỉnh.
1.5. Có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp.
Tạo điều kiện để các doanh nghiệp có thể vay vốn trong thời gian nhanh nhất để nhanh chóng đi vào sản xuất. Hiện nay, không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng tự bỏ vốn của mình ra để sản xuất kinh doanh mà hầu hết là sử dụng nguồn vốn đi vay từ hệ thống ngân hàng. Trên địa bàn Hải Dương hiện nay có một số ngân hàng chủ yếu như: Ngân hàng Công thương, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, để có thể thực hiện cho vay vốn đối với các doanh nghiệp được nhanh chóng,cần triển khai một số biện pháp như: Rút gọn các thủ tục vay vốn, công tác thẩm định dự án để cấp vốn vay cần được tiến hành nhanh chóng nhưng vẫn phải đảm bảo hiệu quả, muốn vật cần cải tiến quy trình thẩm định, nâng cao năng lực của các cán bộ thẩm định thông qua việc đào tạo và đào tạo lại, khi thẩm định cần dựa trên các chỉ tiêu cụ thể và có thể lượng hoá được, nhất là các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án.
Cần có những chính sách hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh, ngoài các chính sách ưu đãi cho các nhà đầu tư, cần có những biện pháp hỗ trợ trực tiếp đối với các doanh nghiệp, cụ thể như: Hỗ trợ về hoạt động quảng cáo cho các doanh nghiệp. Hiện nay thì quảng cáo là một hoạt động có vai trò rất quan trọng trong việc giới thiệu về doanh nghiệp và định hình sản phẩm của doanh nghiệp đối với khách hàng. Hoạt động này vẫn thường xuyên được thực hiện thông qua báo Hải Dương, Đài phát thanh và truyền hình tỉnh. Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, tỉnh cần hỗ trợ trước hết thông qua việc giảm chi phí cho các hoạt động thông tinh quảng cáo cho các sản phẩm, có thể có một số sản phẩm được miễn phí trong giai đoạn đầu, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia các hội chợ triển lãm hàng Việt Nam hoặc tổ chức các cuộc trưng bày giới thiệu sản phẩm cho các doanh nghiệp trong tỉnh.
Đảm bảo cấp điện 24/24 giờ cho các doanh nghiệp. Hiện tỉnh vẫn cố gắng thực hiện biện pháp này nhằm đảm bảo ổn định sản xuất và giảm thiểu những thất thoát mà doanh nghiệp có thể gánh chịu khi xảy ra sự cố mất điện. Tuy nhiên, cũng cần phải không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của công ti điện lực, nếu cắt điện trong trường hợp bất khả kháng thì cần phải thông báo trước cho các doanh nghiệp để họ chủ động trong sản xuất.
Hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tại những vùng có điều kiện kinh kinh tế xã hội khó khăn, cơ sở hạ tầng yếu kém. Một mặt để khuyến khích các nhà đầu tư vào các vùng này để phát triển kinh tế, mặt khác nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp đang hoạt động. Các chính sách hỗ trợ có thể gồm: Giảm tiền điện nước cho các doanh nghiệp, giảm tiền thuê đất trong một khoảng thời gian khi doanh nghiệp mới đi vào hoạt động, hỗ trợ về chi phí đào tạo lao động...
Đối với các khu công nghiệp, có chính sách ưu đãi riêng về giá thuê đất, về thuế và hỗ trợ về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tâng nhằm khuyến khích các nhà đầu tư vào triển khai dự án vào các khu công nghiệp.
Là một tỉnh nông nghiệp, chủ trương phát triển ngành công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm là hoàn toàn đúng đắn, tuy nhiên, hiện nay ngành này tại Hải Dương vẫn phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của nó do có ít các nhà đầu tư chú trọng vào lĩnh vực này. Để thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư, trước hết cần xác định mấu chốt của vấn đề, đó là sự ổn định của sản xuất và thị trường đầu ra. Vì vậy, tỉnh cần có chủ trương hình thành một số vùng nguyên liệu tập trung, như vùng sản xuất rau, vùng trồng cây ăn qủa... và cũng có một số biện pháp nhằm tạo ra thị trường ổn định cho sản xuất.
1.6. Giải phóng mặt bằng thích hợp và nhanh nhất.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc đưa dự án vào thực hiện. Hiện nay, hầu hết các dự án đều bị chậm tiến độ ở khâu giải phóng mặt bằng, nguyên nhân của vấn đề này chủ yếu là do các hộ dân trong diện giải toả không muốn trao trả đất vì cho rằng mình được đền bù chưa xứng đáng, cố gắng trông chờ một số tiền đền bù cao hơn. Để giải quyết vấn đề này, cần có những biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện giải phóng mặt bằng, cụ thể: Công khai và ấn định mức giá đền bù cho từng loại đất ở từng khu vực cụ thể một cách hợp lý, kiên quyết không tăng giá đền bù đối với những hộ cố tình không trao trả đất, gắn trách nhiệm của địa phương với công tác giải phóng mặt bằng, đồng thời tạo điều kiện để các hộ trong diện di dời nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất. Đối với những dự án lớn cần thiết phải xây dựng khu định cư mới cho các hộ này.
2. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Khi đã có vốn đầu tư thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng những đồng vốn đó là biện pháp nhằm phát huy những hiệu quả sử dụng vốn, đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, có thể thông qua một số biện pháp như:
2.1. Tăng cường công tác quản lý đầu tư , thông qua công tác quản lý các quy hoạch, kế hoạch phát triển.
Tăng cường công tác quản lý quy hoạch, nhất là quản lý các quy hoạch phát triển đô thị, quản lý đất đai để các dự án đầu tư đi đúng hướng, coi trọng công tác bảo vệ môi trường và đảm bảo phát triển bền vững. Việc lập nên các quy hoạch chỉ giải quyết được một mặt của vấn đề, mặt còn lại là làm sao thực hiện được các quy hoạch đó, trong khi nhà đầu tư mới là người quyết định đầu tư vào đâu và đầu tư bao nhiêu. Chính vì vậy, công tác quản lý quy hoạch cần phải được tăng cường. Trong quản lý quy hoạch đô thị và đất đai, cần phải kiên quyết không chấp nhận các dự án không nămg trong quy hoạch và có biện pháp khuyến khích các dự án đầu tư theo đúng chủ trương. Thực tế ở Hải Dương hiện nay đang diễn ra tình trạng các doanh nghiệp tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất, lấn chiếm đất, xây dựng các công trình, kinh doanh ngành nghề không nằm trong quy hoạch phát triển. Vì vậy, trong thời gian tới việc quản lý cần sát sao hơn, có những biện pháp xử lý mạnh và kiên quyết đối với những trường hợp vi phạm.
Phát triển bên vững là một khái niệm được sử dụng khá phổ biến, hiểu đơn giản nhất thì đó là sự phát triển kinh tế mà không xâm phạm tài nguyên của các thế hệ sau. Công tác lập và quản lý các quy hoạch phát triển cũng cần chú ý đến vấn đề này, thể hiện thông qua việc chú ý tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Công tác xây dựng kế hoạch cần đi trước một bước, đây là một vấn đề rất quan trọng giúp chủ động trong việc thu hút vốn đầu tư. Điều đó thể hiện ở hai mặt, trước hết là đối với nhà quản lý của địa bàn tiếp nhận đầu tư, việc xác định trước các kế hoạch sẽ giúp cho họ chủ động hơn trong công tác quản lý cũng như việc đề ra các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư, nói một cách đơn giản hơn thì kế hoạch đầu tư giúp họ nhìn thấy được họ sẽ phải làm gì và mục tiêu đề ra là như thế nào. Mặt khác, kế hoạch đầu tư cũng giúp cho nhà đầu tư chủ động trong việc quyết định đầu tư khi mà họ đã có được cái nhìn tổng thể về đầu tư của cả tỉnh. Vì vậy, việc xây dựng các quy hoạch phải được thực hiện trước khi đưa ra mọi biện pháp, chính sách thu hút đầu tư, kế hoạch của năm sau phải được chuẩn bị từ quý II năm trước dựa trên cơ sở là các quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội và phương hướng đầu tư của tỉnh.
Tăng cường công tác giám sát từ khâu lập dự án, để đảm bảo dự án nhanh chóng đi vào hoạt động, tránh thất thoát vốn đầu tư. Lập dự án là bước đầu của quá trình đầu tư, tăng cường giám sát ở khâu này giúp nhanh chóng loại bỏ những dự án không khả thi mà không gây lãng phí nguồn lực vì ở khâu này, chi phí mà các nhà đầu tư bỏ ra không cao. Khi các nguồn lực luôn nằm trong sự hạn hẹp thì đây là một biện pháp tốt để ưu tiên cho các dự án có hiệu quả, phù hợp với quy hoạch được duyệt. Vì vậy, tỉnh cần có công tác tư vấn cho các nhà đầu tư khi họ muốn đầu tư vào địa bàn tỉnh, đồng thời, phải xem xét yếu tố đảm bảo tính khả thi ngay từ khi dự án mới hình thành.
Chủ động triển khai công tác quy hoạch mặt bằng các khu, cụm công nghiệp, tăng cường vốn đầu tư từ nguồn xây dựng cơ sở hạ tầng cho công tác này, để các nhà đầu tư khi có dự án thì có thể dưa vào hoạt động ngay, giúp đẩy nhanh tiến độ đầu tư. Khi đưa ra quy hoạch các khu, cụm công nghiệp cần tiến hành giải phóng mặt bằng và thực hiện quy hoạch đất đai nay, phân chia rõ ràng các vùng đất với mục đích sử dụng cụ thể cho từng loại hình đầu tư vào từng lĩnh vực.
2.2. Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan quản lý đầu tư và xây dựng.
Không ngừng kiện toàn bộ máy quản lý đầu tư và xây dựng. Bộ máy quản lý này bao gồm đội ngũ cán bộ và công tác tổ chức, sắp xếp cơ cấu tổ chức của bộ máy. Không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý đầu tư một mặt nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn, mặt khác, tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu tư khi họ được đặt dưới sự quản lý của một bộ máy bao gồm những người am hiểu về pháp luật cũng như có trình độ chuyên môn. Để thực hiện được điều này, trước hết cần nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ quản lý thông qua việc đào tạo cho đội ngũ cán bộ đang làm việc, gíup họ tiếp cận với những vấn đề mới thuộc chuyên môn của mình, đồng thời tổ chức thi sát hạch thường xuyên để khuyến khích các cán bộ tự nâng cao trình độ chuyên môn của mình và phát hiện những vấn đề khó khăn chung để đào tạo kịp thời. Hàng năm tổ chức thi tuyển đội ngũ sinh viên mới ra trường về các cơ quan này làm việc vì đây là lực lượng trẻ, nhạy bén trong tiếp thu các kiến thức mới. Cùng với nó là thực hiện việc tổ chức cho các cán bộ học các chính sách pháp luật mới của nhà nước, các văn bản này hàng năm rất nhiều, vì vậy nên tổ chức học theo đợt hoặc phát tài liệu tới từng phòng ban, để các phòng tự tổ chức cho nhân viên của mình nắm bắt các quy định mới.
Nâng cao hoạt động của ban quản lý các khu công nghiệp của tỉnh. Như đã nói ở trên, cần thiết phải hình thành các cụm, khu công nghiệp, theo quy hoạch phát triển kinh tế xã hội Hải Dương đến năm 2010, tỉnh dự kiến xây dựng một số khu, cụm công nghiệp như :Khu công nghiệp Nam Sách, Khu công nghiệp Phả Lại- Hoàng Tiến, Khu công nghiệp Phú Thái, cụm công nghiệp phía nam thành phố Hải Dương ..., vì vậy, ban quản lý các khu công nghiệp càng trở lên quan trọng . Cho nên cần phải sớm ban hành các quy định và hướng dẫn thực hiện cụ thể về quy trình cấp đất, cho thuê đất, các chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, để các nhà đầu tư hiểu rõ quy trình đầu tư và rút ngắn quy trình thực hiện các thủ tục chuẩn bị đầu tư để sớm tổ chức triển khai dự án.
3. Tranh thủ mọi nguồn vốn từ nội lực của tỉnh.
Mở rộng các hình thức huy động vốn như phát hành trái phiếu, tín phiếu, các doanh nghiệp cổ phần phát hành cổ phiếu nhằm huy động mọi nguồn vốn còn nằm phân tán trong dân. Thường thì các hình thức phát hành traí phiếu kho bạc và cổ phiếu công ti là phổ biến nhất vì nó đảm bảo tính ổn định trong sản xuất, tín phiếu kho bạc chỉ phát hành trong trường huy cần huy động nhanh một lượng vốn vì thời hạn của nó rất ngắn, thường chỉ là một năm. Hàng năm hoặc định kì, kho bạc nhà nước tỉnh tổ chức phát hành rộng rãi trái phiếu với thời hạn từ 1-10 năm với các mức lãi suất và hình thức hoàn vốn hợp lý khi đáo hạn để thu hút vốn đầu tư cho phát triển từ các nguồn đầu tư nhỏ lẻ trong dân. Để tăng tính hấp dẫn của hình thức này có thể có một số chính sách như: trả lãi trước, có thể hoàn vốn trước thời hạn để tăng tính thanh khoản của trái phiếu. Đối với cổ phiếu công ti, hiện nay trong tỉnh có 7 doanh nghiệp cổ phần, trên thực tế thì cổ phiếu công ti chủ yếu do các thành viên trong công ti nắm giữ, chưa phát hành rộng rãi ra công chúng và những hiểu biết của người dân về hình thức huy động vốn này còn hạn chế. Vì vậy,cần phải: Tuyên truyền rộng rãi thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về cổ phiếu và các hình thức ưu đãi, để người dân trong tỉnh hiểu và tham gia thị trường này. Mở các lớp về thị trường chứng khoán tại tỉnh, mục đích tạo ra một hình thức đầu tư mới cho các nhà đầu tư, thường là các cá nhân. Các công ti cổ phần đăng kí niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán để có thể phát hành rộng rãi các loại chứng khoán ra công chúng, huy động vốn phục vụ đầu tư phát triển sản xuất.
Khuyến khích các ngân hàng đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Một trong những nghiệp vụ của các ngân hàng là sử dụng nguồn vốn huy động được đem đầu tư vào một số dự án thông qua góp vốn cổ phần hoặc liên doanh. đây là biện pháp nhằm đẩy nhanh vòng quay vốn của các ngân hàng. Các ngân hàng này là nơi tập trung và tích tụ nhiều nhất nguồn vốn trong dân thông qua tiết kiệm tiền gửi, vì vậy cần có những biện pháp khuyến khích họ tham gia đầu tư vì tăng số vòng quay của vốn cũng là một biện pháp tăng lượng vốn trong lưu thông phục vụ phát triển kinh tế. ở đây ngân hàng được coi là một nhà đầu tư độc lập nên các chính sách khuyến khích đàu tư cũng như các nhà đầu tư khác, ngoài ra, cần thực hiện giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc (tới mức có thể đảm bảo an toàn) để các ngân hàng này có nhiều điều kiện đem vốn đi đầu tư hơn.
Trên đây là một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn cho đầu tư phát triển của Hải Dương, các giải pháp này cần thực hịên một cách đồng bộ và áp dụng tuỳ theo từng điều kiện của tỉnh cũng như tình hình kinh tế cả nước và kinh tế thế giới nói chung.
5. Giải pháp về tổ chức thực hiện.
Xây dựng các chương trình đề án trên từng lĩnh vực. Để cụ thể hoá các quy hoạch đã đề ra, cũng như việc đảm bảo thực hiện từng bước vững chắc tới các mục tiêu kinh tế xã hội, tỉnh cần chỉ đạo xây dựng các chương trình đầu tư cụ thể như: Chương trình phát triển nguồn nhân lực, chương trình cải thiện môi trường đầu tư..., từ các chương trình này, tỉnh chỉ đạo cho các cấp, các ngành lập các đề án và triển khai việc thực hiện.
Thực hiện việc giao kế hoạch cụ thể tới các cấp các ngành trên cơ sở sự phân cấp đã đươc quy định rõ rầng, từ đó khuyến khích các cơ sở này chủ động lập các kế hoạch và phương án đầu tư cụ thể cho phù hơpj với điều kiện của mình, trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh phê duyệt. Như vậy, vừa giảm được sự tập trung ở tỉnh, vừa đảm bảo sự phù hợp của các phương án đầu tư cho từng đơn vị trong tỉnh.
Thành lập ban xúc tiến và kêu gọi đầu tư nước ngoài, thành lập các đoàn công tác và có kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn để làm việc với các cơ quan ngoại giao, cơ quan thương mại một số nước để kêu gọi đầu tư vào tỉnh.
Trên đây là một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn để đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Các biện pháp này yêu cầu phải được thực hiện một cách đồng bộ và lâu dài, tuy nhiên cùng với sự thay đổi của điều kiện kinh tế xã hôi, việc tổ chức thực hiện cần phải linh hoạt cho phù hợp, nhằm tới mục tiêu cuối cùng là thực hiện các nhiệm vụ, các chỉ tiêu đã đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Kết luận
Trên đây là một số vấn đề trong thực tế phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Hải Dương trong thời gian qua cũng như vai trò của đầu tư trong sự phát triển ấy. Có thể thấy rằng, mục tiêu phát triển không phải là của riêng một nền kinh tế mà nó là xu thế chung trong mọi giai đoạn của nền kinh tế thế giới. Đối với Hải Dương, các quy hoạch, chương trình phát triển và các chính sách nhằm thực hiện các mục tiêu đã đề ra nhìn chung là phù hợp với điều kiện và khả năng của tỉnh.
Trong khi các nguồn lực trong tỉnh còn hạn hẹp thì việc tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài rất quan trọng, cũng như cần phải nâng cao hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực ấy. Chính vì vậy, cần phải có những biện pháp thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư vào tỉnh, đây là vấn đề mang tính quản lý vĩ mô, nếu chỉ riêng một đề tài này thì không thể nói hết và đầy đủ mọi khia cạnh của vần đề đã được đặt ra, mà đây chỉ là những kiến nghị mang tính chủ quan và được đưa ra thông qua nhìn nhận của cá nhân. Còn rất nhiều công việc mà tỉnh cần thực hiện để đạt được mục tiêu đã đề ra.
Chỉ trong đề tài này, em không có tham vọng thay đổi những chính sách cũng như các biện pháp mà tĩnh đã và đang thực hiện, em chỉ mong muốn qua những hiểu biết của mình có thể nhìn nhận vấn đề theo đúng hướng để có một số ý kiến nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh tế đầu tư, TS Nguyễn Ngọc Mai, Nhà Xuất bản Giáo Dục, 1997.
Giáo trình quản lý dự án đầu tư, TS Nguyễn Bạch Nguyệt, Bộ môn Kinh tế đầu tư, Nhà xuất bản Giáo Dục, 2000.
Các Chương trình, Đề án thực hiện nghị quyết Đại Hội Đảng Bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XIII, Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Hải Dương, 2000.
Niên Giám Thống Kê 2000, 2001, Cục Thống Kê Hải Dương.
Báo cáo tình hình đầu tư theo Nghị Quyết Trung Ương IV, Khoá 8, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương, 2001.
Báo cáo về tình hình đầu tư trong nước, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương,2001.
Dự kiến đầu tư trên địa bàn Hải Dương 2003, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương, 2002.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0068.doc