Lời nói đầu
Trong quá trình mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn trên tất cả các mặt như kinh tế chính trị, ngoại giao vv… Đặc biệt về mặt hợp tác kinh tế, nhờ vào quá trình hội nhập kinh tế đã tạo ra những cơ hội hợp tác kinh tế, liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước với các nước trong khu vực và trên thế giới.Trong quá trình hội nhập kinh tế thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức đầu tư phổ biến và thu hút đượ
25 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1280 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c nhiều sự quan tâm của các nhà hoạch định cũng như của các doanh nghiệp.
Ngày nay đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày càng trở nên quan trọng với chúng ta bởi FDI không chỉ là nguồn cung cấp vốn quan trọng mà còn là con đường cung cấp công nghệ hiện đại,những bí quyết kĩ thuật đặc biệt là những kinh nghiệm trong quản lý và là cơ hội tốt cho Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế thế giới. Vì thế thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một nhiệm vụ hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay đồng thời chúng ta phải có những giải pháp phù hợp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này.
Sau thời gian học môn Luật Kinh tế, tôi xin chọn đề tài: "Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam" để viết bài tiểu luận môn học.
Nội dung
I. Lý luận chung về vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Khái niệm vốn đầu tư trực tư trực tiếp nước ngoài (FDI foreign direct investment)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình thức di chuyển vốn quốc tế. Trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện dưới ba hình thức chủ yếu:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên (gọi là bên hợp danh) quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả cho mỗi bên, để tiến hành đầu tư vào Việt Nam mà không lập thành một pháp nhân.
2.2. Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là loại hình doanh nghiệp do hai hay nhiền bên nước ngoài hợp tác với nước chủ nhà cùng góp vón, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn góp. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật nước nhận đầu tư. Đây là hình thức đầu tư được các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng nhiều nhất trong thời gian qua chiếm 65% trong tổng ba hình thức đầu tư (trong đó hình thức hợp tác kinh doanh chiếm 17%, Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài chiếm 18%).
2.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) do các nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam. Tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh.Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức của công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân.
II. Vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với Việt Nam
Như đã nêu ở trên vốn đầu tư có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội đặc biệt trong giai đoạn chúng ta đang trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới và càng cần thiết hơn khi chúng ta đang cần một lượng vốn lớn và công nghệ tiên tiến của các nước phát triển trên thế giới để phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước, vươn lên cùng các nước trong khu vực cũng như thế giới.
Vốn đầu tư không chỉ quan trọng với chúng ta mà còn hết sức quan trọng với các nước có vốn đầu tư và các tổ chức doanh nghiệp có vốn đầu tư. Nó giúp các chủ đầu tư nước ngoài chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ do đặt dự án đầu tư tại nơi đó và tận dụng được nguồn nguyên liệu tại chỗ.
Cũng chính nhờ vào đầu tư nước ngoài mà các nhà đầu tư được tự điều chỉnh công việc kinh doanh của mình cho phù hợp với điều kiện kinh tế phong tục tập quán địa phương để từ đó bằng kinh nghiệm và khả năng của mình mà có cách tiếp cận tốt nhất, đồng thời giúp các chủ đầu tư có thể tiết kiệm chi phí nhân công do thuê lao động với giá rẻ ngoài ra còn giúp tránh khỏi hàng rào thuế quan.
Đối với chúng ta nước tiếp nhận đầu tư thì các dự án đầu tư trực tiếp có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi nó giúp chúng ta có nhiều cơ hội hơn trong việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
1. Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam
1.1. Về kinh tế
Nước ta hiện nay đang là nước có điều kiện ổn định cả về chính trị và kinh tế đồng thời hội đủ cấc yếu tố về mọi mặt giúp cho dự án có thể thực hiện một cách dễ dàng như cơ sở hạ tầng trình độ phát triển kinh tế, trình độ phát triển khoa học công nghệ, trình độ tay nghề của người lao động, có đủ điều kiện để dự án có thể triển khai như kế hoạch của các nhà đầu tư, phát huy tốt nhất những đóng góp của mình vào phát triển kinh tế xã hội của chúng ta. Kết quả chúng ta đã đạt được số lượng dự án không ngừng tăng lên. Năm 1996 là 325 dự án với tổng số vốn đăng ký là 8.497,3 triệu $. Đến năm 1997 số lượng dự án đã tănglên là 345 dự án nhưng vốn đầu tư lạị giảm so với năm 1996 và chỉ còn vào khoảng 57,8 % tương đương với 4.691,1 triệu $. Tình trạng này tiếp tục diễn ra vào những năm tiếp theo, đến năm 2000 thì số lượng dự án đạt vào khoảng 371 dự án và số vốn đầu tư chỉ còn 2.012,4 triệu $ đến năm 2002 gần đây nhất, số lượng dự án đã đật được mức kỷ lục tới 697 dự án nhưng số vốn chỉ đạt 16,1% so với năm 1996 là 1.376 triệu $. Mặc dù lượng vốn không ngừng giảm xuống vào các năm gần đây nhưng những đóng góp của hoạt động đầu tư trực tiếp lại không ngừng tăng lên năm 1996 các dự án đầu tư trực tiếp đóng góp vào ngân sách 263 triệu$ và vào GDP là 1.750 triệu$, năm 1997 là 315 triệu $ và 2.250 triệu $ tới năm 2000 mức đóng góp này đã đạt được mức rất lớn, đóng góp vào ngân sách đã đạt được 280 triệu$ và vào GDP là 4.105 triệu $ và sang năm2001 là 373 triệu$ và vào GDP là 4.199 triệu $ và đong góp vào ngân sách nhà nước năm 2001 của các dự án đâu tư trực tiếp nước ngoài là 373 triệu $ đến năm 2002 hoạt động này đóng góp 25% tổng thu nhân sách nhà nước.
Mặc dù tổng vốn đầu tư đưa vào Việt Nam trong những năm gần đây có xu hướng giảm song hiệu quả của các dự án thì không ngừng tăng lên thể hiện ở đóng góp của hoạt động này vào tổng thu ngân sách nhà nước trong những năm qua không ngừng tăng lên và lượng hàng xuất nhập khẩu thông qua hoạt động này năm 1996 tổng giá trị xuất khẩu của hoạt động này là 920 triệu $ và nhập khẩu là 2.042 triệu $ thì tới năm 2002 giá trị xuất khẩu của hoạt động này đã đạt mức 3.600 triệu $ và nhập khẩu là 4.700 triệu $. Không những đóng góp rất lớn vào ngân sách nhà nước mà đẩy mạnh các hoạt động xuất nhập khẩu của cả nước đồng thời thu hút thêm người lao động vào làm việc trong các công trình các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.2 Về mặt xã hội
Các dự án đầu tư trực tiếp còn giúp cho chúng ta thu hút được đội ngũ người lao động tham gia đông đảo vào làm việc góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập. Nhìn chung chúng ta có một đội ngũ lao động tương đối lớn về số lượng còn về chất lượng tuy chưa so kịp với các nước có trình độ phát triển kinh tế cao nhưng trình độ cũng tương cao có nhiều khẳ năng tiếp thu những kiến thức và tiếp cận với trình độ khoa học hiên đại. Số lượng công nhân viên được thu hút vào làm việc tại các dự án có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng đông năm 1996 thì số người tham gia lao động tại các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 220.000 người thì tới năm 2001 là 439.000 người. Đội ngũ lao động này được hoàn thiện từng ngày và ngày một nâng cao do được tham gia lao động trong các doanh nghiệp có đầu tư từ nước ngoài .
2. Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
2.1. Số lượng và quy mô dự án
Số lượng dự án đầu tư trong nhưng năm gần đây có sự tăng lên rất lớn kể từ năm 1988 tới nay tốc độ tăng trưỏng đầu tư trực tiếp nước ngoài hàng năm đạt mức 109% một năm. Năm 1988 số lượng dự án tham gia đầu tư vào Việt Nam chỉ có 37 dự án với tổng số vốn đăng ký 371.8 triệu USD thì đến năm 1995 đã là 370 dự án và năm 1995 số lượng dự án là 370 dự án và lượng vốn đã tăng lên 57,6 % so với năm 1994 với số vốn tương đươnglà vào khoảng 6.530 triệu $, tới năm1996 số lượng dự án đã đạt là 325 dự án và lượng vốn là 8.497 triệu $, đây là năm thu hút được số lượng dự án lớn nhất từ trước tới nay.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ 1988 đến 2002
( Đơn vị Triệu USD)
Nguồn: Báo ngoại thương 11-20 /12/2001 và Thời báo kinh tế Việt nam 4/2003
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong một vài năm gần đây có xu hướng gia tăng cả về số dự án cũng như về vốn đầu tư và các ngành đầu tư cũng có những biến đổi. Như đã nói ở trên năm 2002 tổng số dự án đầu tư vào Việt Nam nên tới 697 dự án được cấp giấy phép đây là năm thu hút được nhiều dự án nhất từ trước tới nay, với tổng số vốn đăng ký là 1376 triệu $. Số dự án trong năm 2002 đã tăng lên so với năm 2001 là 51,1 %, nhưng về lượng vốn tham gia đầu tư lại giảm rất lớn chỉ bằng 62,7 % của năm 2001. Qua đây ta thấy tình hình đầu tư tại Việt Nam có nhiều khả quan về số lượng các nhà đầu tư tham gia song có một điều đáng quan tâm là tuy số lượng dự án tăng lên nhưng về quy mô lại giảm rất lớn. Chứng tỏ số lượng các nhà đầu tư tham gia tăng lên rõ rệt nhưng các dự án tham gia lại rất nhỏ, các dự án có quy mô lớn và trung bình lại chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Các nhà đầu tư, tập đoàn đầu tư lớn vẫn chưa coi Việt Nam là một địa chỉ tin cậy để thực hiện các dự án của mình. Qua phân tích số liệu ta thấy Việt Nam chưa đủ điều kiện để thu hút các nhà đầu tư lớn, đòi hỏi các nhà xây dựng chiến lược đầu tư ở Việt Nam phải có một chiến lược hợp lý để thu hút hơn nữa số dự án đầu tư mặt khác phải tạo được uy tín đối với các tập đoàn đầu tư lớn trên thế giới, một mặt thu hút được thêm số dự án mặt khác có thể tăng lượng vốn đầu tư của dự án và tăng số lượng dự án lớn cũng như tăng về tổng vốn đầu tư đưa vào Việt Nam.
Trong năm 2002 khối lượng dự án đầu tư vào ngành công nghiệp tăng lên rõ rệt so với giai đoạn trước chứng tỏ đã có sự chuyển dịch trong cơ cấu các ngành đầu tư các dự án giảm xuống chủ yếu ở các ngành dịch vụ là nhiều nhất.
Trong tháng đầu năm năm 2003 tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta cũng mang nhiều khả quan mở ra một năm rất tốt cho chiến lược thu hút FDI trong năm nay.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam theo
ngành từ 01/10 tới 01/02/2003
(Đơn vị triệu $)
Ngành
01/01-18/03/2003
Tổng tới 18/03/2003
Số dự án
Vốn
Dự án
Vốn
CN và XD
68
135
2.555
21.475
Dầu khí
1
16
30
1.939
Xây dựng
7
35
251
3.383
Nông Lâm nghiệp
3
4
404
2.199
Thuỷ sản
2
6
82
234
Dịch vụ
13
45
777
14.564
Tài Chính-Ngân Hàng
0
0
47
602
Y tế – GD
4
21
133
633
Văn phòng dịch vụ
0
0
104
3.424
XD Khu đô thị mới
0
0
3
2.467
Xây dựng KCN- CX
0
0
17
878
GTVT- Bưu điện
1
3
109
2.575
Du lịch và khách sạn
4
15
136
3.250
Ngành khác
4
15
136
3.250
Tổng
86
190
3.818
38.472
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam 04/2003
2.2. Về vùng đầu tư
Các dự án đầu tư chủ yếu nằm ở các tỉnh phía nam, theo số liệu thống kê thì các tỉnh phía Nam có tới 502 dự án tương đương chiếm khoảng 72% số dự án trong cả nước, với tổng số vốn 935,6 triệu USD tương đương 68% tổng số vốn. Đây là vùng có số lượng dự án cũng như số vốn đưa vào rất lớn, hầu nhưcác dự án đều có mặt tại khu vực này đặcbiệt là khu công nghiệp tỉnh Bình Dương. Sở dĩ vùng này thu hút đượcnhiều dự án đầu tư nhất bởi nới đây từ trước tới nay đã là vùng có truyền thống trong hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài, hơn nữa nơi đây có một lợi thế hết sức quan trọng về điều kiện kinh tế phát triển hơn hẳn các vùng khác trong cả nước, chính vì thế nên các nhà đầu tư luôn tìm tới vùng này như một địa chỉ rất tin cậy để thực hiện các dự án đầu tư của mình. Hơn nữa nơi đây có cơ chế được coi là thoáng hơn các vùng khác trong cả nước và hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho các dự án thực hiện là rất tốt, đặc biệt là hệ thống các khu công nghiệp các khu chế xuất được xây dựng rất nhiều đáp ứng đủ nhu cầu của các nhà đầu tư đặt ra chính vì thế vùng này được coi là vùng có nhiều điều kiện nhất trong việc thu hút nguồn vốn này. Các dự án chủ yếu tập chung vào các tỉnh thành phố như: Thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2002 là 206 dự án chiếm với tổng số vốn đăng kí là 252 triệu $. Đây là địa bàn thu hút nhiều nhất vốn đầu tư nước ngoài nhất chỉ sau tỉnh Bình Dương và tỉnh Đồng Nai, thành phố này có truyền thống trong hoạt động thu hút vốn đầu tư tính đến ngày 18/3 /2003 số lượng dự án tham gia đầu tư vào khu vực này là 1.246 dự án và tổng số vốn đăng ký đạt mức lớn nhất trong các tỉnh thành phố thực hiện thu hút vốn đầu tư, với tổng số vốn thực hiện là 10.394 triệu $, tính ra trong hơn 3 tháng đầu năm năm 2003 thành phố đã thu hút được 17 dự án với tổng số vốn đầu tư là 10 triệu $.
Địa bàn tỉnh Đồng Nai: Trong năm 2002 tỉnh này là tỉnh thu hút được nhiều vốn đầu tư nhất trong cả nước lớn hơncả thành phố Hồ Chí Minh với tổng dự án tham gia vào khu vực này là 135 dự án đứng sau thành phố Hồ Chí minh nhưng lại đứng đầu về số lượng vốn đem đầu tư vào, với tổng vốn đầu tư năm 2002 là 255 triệu $. Tính đến ngày 18/3/2003 tỉnh đã thu hút được409 dự án tham gia và tổng số vốn đăng ký tính cho tới thời điểm này là 5.488 triệu $ chỉ đứng sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Cũng như các tỉnh khác, tỉnh Bình Dương cũng có một số lượng lớn các dự án đầu tư vào đây.Trong năm 2002 tỉnh đã có 135 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia đầu tư vào trong tỉnh, với tổng số vốn lên tới 253 triệu USD. Tính tới ngày 18 /3 /2003 tỉnh đã thu hút được 618 dự án và tổng số vốn đăng ký là 2.952 triệu $.
Số lượng dự án tham gia vào các tỉnh phía Bắc trong năm 2002 cũng tăng lên khá lớn, số lượng dự án là 173 dự án với tổng số vốn đăng ký là 356.3 triêu $, chiếm tương đương 25,1 % về số dự án và 25,9% về tổng số vốn trong cả nước. Các dự án tập chung vào các tỉnh như:
Hà Nội là địa bàn chiếm nhiều dự án nhất với tổng dự án tham gia là 54 dự án, tổng số vốn đầu tư là 437 triệu $. Tính tới ngày 18/ 03/ 2003 Hà Nội đã thu hút được 437 dự án với tổng số vốn đăng ký là 7.551 triệu $ chỉ đứng sau thành phố Hồ Chí minh về tổng số vốn.
Ngoài ra các tỉnh như Quảng ninh cũng có số lượng dự án tham gia khá lớn với 10 dự án và tổng số vốn là 39 triệu $ Hải Phòng có 25 dự án với tổng vốn đầu tư là 43 triệu $, Vĩnh Phúc, Lạng Sơn .....cũng có một số lượng vốn khá lớn đầu tư vào khu vực này.
2.3. Đầu tư trực tiếp của các nước trên thế giới vào Việt Nam
Mãi tới những năm giữa của thập kỷ niên 80 thì quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với mốt số nước Asean mới được thiết lập trở lại .Tuy vậy theo qui luật hoạt động của chuỗi biến động cơ cấu liên tục kiểu làn sóng ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương từ Mỹ và Nhật Bản sau đó là các nước NIC, Việt Nam đã thiết lập quan hệ với hầu hết các nước trong khu vực cũng như trên toàn thế giới .
Tình hình đầu tư trực tiềp nước ngoài ở Việt Nam cũng ngày một tăng lên theo các mối quan hệ đầu tiên là các nước trong khu vực Đông Nam á sau đó là tất cả các nước trên thế giới đều có dự án đầu tư ở nước ta , qua thời gian thì nước ta đã vươn lên trở thành nước tiếp nhận đầu tư trực tiếp lớn trong khu vực .
Trong năm 2002 nước có số dự án đầu tư lớn nhất vào Việt Nam là Đài Loan, nước này có tổng số dự án đầu tư vào Việt Nam là 185 dự án với tổng số vốn đầu tư là 260 triệu $, đây là nước đạt số lượng dự án đầu tư trực tiếp lớn nhất vào Việt Nam trong thời gian gần đây, tới ngày 18/03/2003 thì Đài Loan đã có 927 dự án tham gia vào đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 5.136 triệu $. Đây là nhưng nước có nhiều vốn tham gia đầu tư vào nước ta. Theo số liệu mới nhất thì Đài Loan hiện nay là nước có số vốn đầu tư lớn thứ hai sau Singapo với tổng số vốn đăng ký là tính hết ngày 18/03/2003 thì nước này có số vốn tham gia vào đầu tư tại Việt Nam đã là 5.136 triệu $. Nước có số vốn đầu tư lớn thứ hai vào Việt Nam trong năm qua lại là Hàn Quốc với tổng số vốn đăng ký là 261triệu USD và số dự án đăng ký là 142 dự án tính tới ngày 18/03/2003 thì Hàn Quốc là nước lớn thứ tư trên thế giới có số vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam có số vốn nhiều nhất chỉ sau một số nước là Singapo, Đài Loan, Nhật Bản tiếp theo là một số nước có số dự án tương đối lớn đầu tư vào Việt Nam trong thời gian năm vừa qua như TrungQuốc cũng có 62 dự án với tổng số vốn 74 triệu $, đặc biệt là Mỹ trong năm vừa qua có 29 dự án tham gia đầu tư vào nước ta với tổng số vốn đầu tư nên tới 137 triệu $, qua đây ta thấy số lượng dự án tham gia đầu t ư vào Việt Nam đều là những dự án lớn bình quân 4,72 triệu $ một dự án theo tỷ lệ bình quân này thì đây là nước có nhiều số dự án lớn nhất vào nước ta.
Ngoài ra còn một số nước khác cũng có số lượng dự án đầu tư tương đối lớn vào Việt Nam như nước có truyền thống đầu tư vào nước ta như Singapo năm vừa qua tuy không có nhiều dự án tham gia vào chỉ có 24 dự án tương đương với số vốn tham gia là 34 triệu $ nhưng trong thời gian trước đây là nước có số vốn tham gia đầu tư lớn nhất vào nước ta vơi tổng số dự án tham gia tính hết ngày 18/03 /2003 là 263 dự án và số vốn tham gia là 7.242 triệu $, Pháp cũng có 126 dự án, Anh có 44 dự án , Liên bang Nga là 40 dự án.
Số lượng các dự án không ngừng tăng lên theo thời gian, năm1988 số dự án tham gia vào Việt Nam mới chỉ đạt là 37 dự án và các năm tiếp theo số lượng dự án không ngừng tăng lên năm 1990 đã là 108 dự án và tiếp tục tăng tới năm 2000 thì số lượng dự án đã đạt là 371 dự án và tăng mạnh vào năm 2001, riêng trong năm này số lượng dự án đã tăng lên là 461 dự án với tổng số vốn đăng ký là 2.194 triệu $ và năm 2002 số dự án đã tăng lên là 697 dự án.
Qua phân tích số liệu trên ta thấy số lượng dự án đã tăng lên gần 20 lần từ năm 1988, điều này cho thấy Việt Nam hoàn toàn có khả năng trong việc thu hút các nhà đầù tư tham gia đầu tư vào trong thời gian tới nhất là về số lượng các nhà đầu tư. Theo số lượng các dự án đầu tư tăng lên chứng tỏ điều kiện cho các dự án phát triển cũng tăng lên. Điều này mở ra một tương lai hoàn toàn rất tốt cho chúng ta thực hiện chiến lược thu hút vốn đầu tư trong tương lai.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ 1998 đến 2002
Nguồn Báo ngoại thương số 12/2001 và Thời báo kinh tế Việt Nam 04/2003
Qua phân tích số liệu ở trên cho ta thấy các nước có số vốn đầu tư lớn phần lớn là các nước nước nằm trong khu vực Châu á như Đài Loan, Hông Kông, Singapo…. đặc biệt là Mỹ quốc gia tuy ký hiệp định thương mại với chúng ta nhưng trong năm vừa qua đã có một số lượng dự án rất lớn tham gia đầu tư.
Trong bối cảnh chung về đầu tư trưc tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đầu tư của Mỹ cũng có xu hướng giảm ngoài ra trong 118 dự án có 21 dự án bị giải thể trước thời hạn với tổng số vốn đâù tư là 324,18 triệu USD, tỷ lệ loại hình xí nghiệp 100% vốn nước ngoài đã tăng vọt lên so với cách đây 2 năm.
3. Đánh giá tình hình đầu tư ở Việt Nam
3.1. Thành tựu
Trong gần 20 năm thực hiện công tác tiếp nhận đâu tư từ các nước trên khắp thế giới Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống luật đầu tư bổ sung những thiếu sót trong hệ thống luật nói chung cũng như học hỏi được những kinh nghiệm từ phía các nhà đầu tư mang lại, do đó số lượng các dự án không ngừng tăng lên cùng cũng như tăng lên về vốn. Tính đến năm 2002 việt Nam thu hút được 697 Dự án (Dự án được cáp giấy phép) với tổng số vốn lên tới 1376 triệu USD theo số liệu trên ta thấy số lượng dự án tăng lên so với năm 2001 là 51.1% điều này chứng tỏ rằng số lượng các nhà đầu tư các tổ chức tham gia vào đầu tư vào Việt Nam đã tăng lên.nhưng có một điều là phải quan tâm trong khi số lượng các dự án tăng lên rất lớn so năm 2001 nhưng tổng số vốn các nhà đầu tư đem vào trong năm 2002 lại giảm xuống chỉ còn bằng 62,7% so với năm 2001 .
Cùng với số vốn giảm xuống mà số lượng dự án lại tăng lên điều này cho thấy quy mô các dự án ngày càng giảm các dự án lớn có xu hướng ít dần số lượng các dự án có quy mô nhỏ và vừa đã tăng lên .
Qua những phân tích trên ta thấy Việt Nam cần phải thực hiện công tác xúc tiến đầu tư đặc biệt cần quan tâm những dự án lớn có quy mô vốn lớn và tập trung vào những ngành công nghiệp, công nghiệp chế tạo công nghiệp xây dựng. Những ngành này đòi hỏi số lượng vốn lớn cũng như về kỹ thuật công nghệ cao, tạo nền tảng cho cơ sở vật chất cho chúng ta thực hiên công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đưa trình đọ phát triển kinh tế của Việt Nam lên một nấc mới .
Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư các nhà đầu tư dưới nhiều hình thức khác nhau chẳng hạn như hình thức doanh nghiệp liên doanh doanh nghiệp hợp tác liên doanh hoặc doanh nghiệp hợp tác 100% vốn nước ngoài. Tuỳ theo từng ngành từng vùng mà các nhà đàu tư có thể thực hiện dự án của mình bằng hình thức này hay hình thức khác trong năm 2001 việt nam tiếp nhận số dự án theo hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài là khoảng 402 dự án với tổn số vốn chiếm 32,8% còn lại là các hình thức khác. Qua đây ta thấy số lượng các dự án theo hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài chiếm quá nửa số dự án đầu tư, điều này cũng rất tốt bởi bên phía Việt Nam không phải bỏ thêm vốn vào các dự án này nhưng đổi lại chúng ta lại bị thệt thòi trong cách ăn chia về lợi nhuận do các dự án mang lại vì thế phía Việt Nam phải tăng cường khuyến khích các nhà đầu tư đầy tư vào những hình thức liên doanh liên kết để tạo điều kiện phát triển các đối tác sở tại giúp chúng ta tiếp cận được công nghệ hiện đại cũng như học hỏi những kinh nghiệm trong quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài đồng thời thắt chặt hạn chế hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài .
Đối tác đầu tư của Việt Nam thường là các nước nằm trong khu vực Châu á nhất là các nước ASEAN, ngoài ra còn một số nước như Mỹ các nước Đông Âu. Nhìn chung các nhà đầu tư vào Việt Nam thường là các nhà đầu tư nhỏ đầu tư những dự án không lớn lắm, so các nước trong khu vực và Trung Quốc thì phía Việt Nam còn rất hạn chế trong thu hút các nhà đầu tư tập đoàn lớn, trong khi đó nước láng giềng của chúng ta là Trung Quốc đặc biệt quan tâm tới các nhà đầu tư lớn ở Châu Âu, châu Mỹ như Hoa Kỳ, Anh, Đức, Pháp có tới 400 trong tổng số 500 các tập đoàn lớn nhất của thế giới đã có mặt ở Trung Quốc nhất là các lĩnh vực chế tác và sản xuất lắp ráp sản xuất ô tô, điều này cũng không có gì lạ bởi Trung Quốc đã gia nhập tổ chức WTO trong khi đó các đối tác đầu tư Việt Nam phần lớn là các nước trong khu vực như Singapo, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Nhật Bản ngoài ra còn Hoa Kỳ cũng là một đối tác đầu tư ngày một lớn mạnh tại Việt Nam. Tính hết 2001 tổng số dự án Hoa Kỳ đưa vào Việt Nam là 129 dự án với tổng số vốn 1 tỷ USD trong tổng số 3370 dự án với tổng số vốn là 40,067 tỷ USD, về phía các nhà đầu tư trong khu vực thì có tới 530 dự án với tổng số vốn đăng ký là hơn 8,671 tỷ USD. Điều này cho thấy đa phần các dự án lớn đều xuất phát từ các nước trong khu vực vì Việt Nam là thành viên của tổ chức ASEAN. Qua những nhận xét trên ta thấy từ Trung Quốc đến Việt Nam muốn thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài trước tiên là phải tham gia vào một tổ chức kinh tế xã hội nào đó để giúp các nhà đầu tư có cơ hội tìm hiểu hợp tác với chúng ta điều này đòi hỏi phía Việt Nam cần phải mở cửa hợp tác kinh tế đặt quan hệ ngoại giao với tất cả các nước.
Về phân bổ FDI theo lãnh thổ giống như tất cả các nước trên thế giới cơ cấu FDI thường có xu hướng chảy vào những vùng có trình độ phát triển kinh tế cao hơn, xu hướng này gây ra sự mất cân đối về nhu cầu đầu tư giữa các vùng các khu vực trong nước điều này sẽ gây ảnh hưởng tới định hướng pháp triển kinh tế của nhà nước ta. Số dự án tìm tới các tỉnh ở phía Đông nam bộ là 502 dự án trong khi cả nước chỉ có 697 dự án (riêng trong năm 2002 chiếm tỷ lệ 72% với tổng số vốn đăng ký là 935,6 triệu USD trên tổng số 1.376 triệu USD chiếm tỷ lệ 68% về vốn đặc biệt thu hút các tỉnh thành phố như Bình Dương, Đồng Nai, Vũng Tàu, Nha Trang, thành phố Hồ Chí Minh… trong khi đó các tỉnh phía Bắc chỉ có 175 dự án chiếm tỷ lệ 25,1% và tổng số vốn là 356,3 triệu USD chiếm tỷ lệ 25,9% thu hút vào các tỉnh thành phố như Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Lạng Sơn … theo số liệu phân tích số dự án đầu tư vào các tỉnh miền Đông nam bộ là nhiều nhất sau đó là các tỉnh phía bắc còn các tỉnh ở miền Trung chiếm số dự án cũng như về vốn là rất nhỏ điều này là rất bất lợi cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam bởi các tỉnh ở miền Trung và Tây Nguyên là những địa bàn rất cần vốn đầu tư để phát triển kinh tế bởi nơi đây có thừa đủ tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên cũng như về nhân lực cho các việc thức hiện các dự án. Chính phủ Việt Nam cần có những biện pháp hợp lý trong chiến lược đầu tư trong thời gian tới nhằm khuyến khích các nhà đầu tư tìm đến những địa bàn miền Trung và Tây nguyên, một mặt giúp chúng ta tận dụng được nguồn nhân lực cũng như các điều kiện của các tỉnh này mặt khác giúp chúng ta phát triển nền kinh tế một cách cân bằng và toàn diện.
Về đóng góp của FDI với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam: Để đánh giá hiệu quả của bất cứ một hoạt động nào điều trước tiên mà người ta quan tâm là hiệu quả kinh tế của vấn đề, ở đây là các dự án đầu tư chúng ta xét tới những đóng góp của nó tới sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam như đóng góp vào việc giải quyết việc làm cho người lao động, tạo nguồn thu cho ngân sách, đóng góp vào tổng sản phẩm quốc nội GDP .
Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã đóng góp vào nguồn thu ngân sách cho Việt Nam là 25% vào năm 2001 và tổng số 23% trong tổng sản phẩm xuất khẩu. Những đóng góp này quả không phải là nhỏ đối với chúng ta hiện nay bởi không chỉ những đóng góp về ngân sách mà còn hàng loạt các vấn đề có liên quan tới hoạt động đầu tư nứơc ngoài tại Việt Nam. Chúng ta cần tăng cường hơn nữa công tác thu hút vốn đầu tư nứơc ngoài tại các địa bàn trọng điểm cần thu hút vốn đầu tư như các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên nơi có rất nhiều điều kiện thuân lợi cho phát triển kinh tế cũng như cho các dự án có thể phát triển và quan trọng hơn nữa là thu hút các nhà đầu tư tham gia vào các khu vực có các khu công nghiệp, các khu chế xuất… giúp cho các địa điểm này một lớn mạnh hơn .
3.2. Tồn tại
Trước tiên là về quy mô và tốc độ thu hút FDI ở Việt Nam trong những năm gần đây tuy giảm, nhưng cũng không phải quá bi quan như nhiều người nhận xét. Nếu tính thu hút FDI bình quân theo đầu người chúng ta đang ở mức thấp hơn so với một số nước song so với các nước trong khu vực vẫn là trung bình.
Về cơ cấu đầu tư theo vùng và hình thức đầu tư tuy có sự mất cân đối và không theo mong muốn, nhưng có lẽ đó là quy luật trong sự vận động của FDI. Chúng ta không thể đưa ra những biện pháp hành chính hoặc những biện pháp ngắn hạn nhằm thu hút FDI vào những vùng có điều kiện kinh tế xá hội khó khăn, mà cần sử dụng các nguồn vốn ODA để đầu tư cải thiện môi trường đầu tư một cách toàn diện, đồng bộ, và có tính chiến lược.
Về đối tác đầu tư : Đây là vấn đề nan giải mà phía Việt Nam phải nhìn nhận lại.Thời gian qua chúng ta đã quá coi trọng vào số lượng hơn là chất lượng FDI. Để nâng cao chất lượng thu hút FDI, cần có những biện pháp nhằm xúc tiến đầu tư nước ngoài ở những quốc gia thuộc Châu Âu và Châu Mỹ, đặc biệt là Hoa Kỳ, khi Hiệp định thương mại Việt -Mỹ được ký kết, đây là đối tác có tiềm lực công nghệ cao công nghệ nguồn vốn, có trình độ quản lý... có thể đáp ứng những yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, do các nước có chiến lược và biện pháp thích hợp để thu hút FDI từ những cường quốc lớn nên tất thành công trong việc chuyển giao công nghệ tiên tiến trên thế giới .
Về phát triển nguồn nhân lực vấn đề thu hút nguồn nhân lực ở Việt Nam chỉ được quan tâm trong thời gian gần đây và những lĩnh vực rất nhỏ. Một thực tế mâu thuẫn ở Việt Nam là tình trạng vừa thừa vừa thiếu lao động, thừa nhiều lao động giản đơn chưa qua đào tạo có chất lượng, nên không đáp ứng được các yêu cầu về tuyển dụng lao động cho các dự án FDI ở Việt Nam.
Cũng giống như các nước phát triển khác nguồn FDI ở Việt Nam đóng một vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội đất nước như đóng góp đối với sự tăng trưởng kinh tế chuyển đổi cơ cấu kinh tế thu ngân sách giải quyết việc làm ..Tuy nhiên để huy động các nguồn vốn FDI đáp ứng được mục tiêu phát triển ngành vùng sao cho có hiệu quả nhằm chuyển hướng mục tiêu càng tập trung vào chất lượng của nguồn FDI ở Việt Nam trong thời gian tới.
3.3 Nguyên nhân
Các nhà đầu tư luôn tìm tới những nước có điều kiện kinh tế phát triển là chủ yếu vì tại những nước này có trình độ phát triển kinh tế hơn hẳn những vùng khác ,giúp cho các dự án đầu tư có khả năng được triển khai và tiến hành và thu lợi nhuận. Các dự án muốn thực hiện được thì cấn phải có rất nhiều yếu tố liên quan, được đặt trong điều kiện của nền kinh tế có khẳ năng đấp ứng những yêu cầu của dự án đặt ra như các yếu tố đầu ra đầu vào, khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng …
Nước ta đi lên từ nền kinh tế kém và bị kìm hãm do chính sách không hợp lý, nên cho tới giờ trình độ phát triển kinh tế của chúng ta vẫn ở mức thấp so với mặt bằng chung của thế giới. Chính vì thế mà tốc độ thu hút các dự án đầu tư từ nước ngoài là rất hạn chế, một phần do chúng ta chưa có chính sách hợp lý trong chiến lược thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và một phần chúng ta không thể phủ nhận được là nền kinh tế của chúng ta còn ở mức thấp so với các nước trên thế giới, các nhà đầu tư lớn luôn coi đó là điều kiện còn quá thiếu thốn để có thể triển khai dự án của mình và vẫn ngần ngại và nghi ngờ vào khả năng phát triển và tiềm lực của chúng ta.
Hệ thống luật pháp cũng là vấn đề đáng bàn đến mặc dù là không có nhiều sai lầm song hệ thống luật của chúng ta vẫn biểu hiện những thiếu sót và khe hở để cho nhiều kẻ lợi dụng, gây ra sự thiếu tin tưởng từ phía các nhà đầu tư nước ngoài.
- Do không có sự điều tiết của các cơ quan hữu quan nên các nhà đầu tư thực hiện công việc đầu tư của mình một cách tự do, do đó những vùng cần nhiều dự án thì chỉ thu hút được rất ít số dự án, gây ra sự mất cân bằng giữa các vùng đầu tư. Các dự chỉ tập chung vào những vùng có điều kiện thuận lợi như các thành phố và thiên về các tỉnh phía nam là nhiều hơn trong khi đó các tỉnh miền trung và Tây Nguyên rất cần các nhà đầu tư tham gia .
Trong chế độ ưu đãi đối vơi các nhà đầu tư không có sự phân biệt giữa các vùng các loại dự án một cách rõ ràn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV347.doc