Lời mở đầu
Cùng với quá trình hội nhập trong xu hướng phát triển chung của thế giới Việt Nam đã và đang xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Với hệ thống kinh tế mở, Việt Nam đang cố gắng huy động và tận dụng mọi nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Trong đó nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng được quan tâm và đang chiếm vị trí đáng kể trong tổng số vốn cho phát triển kinh tế Việt Nam.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã từng bước cố gắng hoàn thiện chính sách th
39 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1503 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhờ những nỗ lực đó chúng ta đã từng bước nâng cao được hiệu quả thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn những mặt hạn chế.
Để hiểu rõ thêm về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, em xin đưa ra bài viết "Thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam". Đề án kết cấu gồm 3 phần:
Phần 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Quan niệm, bản chất, hình thức, vai trò và kinh nghiệm của một số nước.
Phần 2: Thực trạng về thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
Phần 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
Đây là một đề tài rộng, đòi hỏi nhiều kiến thức, do đó trong bài viết, với kiến thức còn hạn chế, em khó tránh khỏi những thiếu sót. Em tất mong được sự giúp đỡ của cô giáo hướng dẫn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Phần 1
Lý luận chung về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1. Đầu tư và dự án đầu tư
1.1.1. Đầu tư
Đầu tư là quá trình huy động vốn và sử dụng các nguồn lực về tài chính, lao động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, của địa phương, của ngành của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, các cơ quan quản lý Nhà nước và xã hội nói riêng.
Đối với mỗi doanh nghiệp, hoạt động đầu tư luôn là công việc khởi đầu quan trọng nhất và cũng khó khăn nhất của quá trính sản xuất kinh doanh. Tất cả những quyết định đầu tư của ngày hôm nay về lĩnh vực quy mô, hình thức, thời điểm đầu tư… đều sẽ chi phối hoạt động và phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Do đó quyết định đầu tư chính xác là bước khởi đầu cho sự thành công của một doanh nghiệp.
Đối với một nền kinh tế nói chung, toàn bộ hoạt động đầu tư được tiến hành trong một thời kỳ nhất định là nhân tố cơ bản duy trì và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ giải quyết công ăn việc làm , đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế trong thời kỳ tiếp theo. Như vậy hoạt động đầu tư tạo ra những phát triển mới cho nền kinh tế.
Trong một nền kinh tế đóng thì nguồn vốn đầu tư được huy động tư vốn tích luỹ từ ngân sách Nhà nước, vốn đầu tư của các doanh nghiệp, vốn tích luỹ tiết kiệm của dân cư. Trong nền kinh tế mở ngoài những nguồn vốn đầu tư huy động từ trong nước còn có phần đóng góp đáng kể của vốn đầu tư nước ngoài. Do đó vẫn đề đặt ra là phải biết kết hợp hiệu quả trong sử dụng các loại nguồn vốn này.
1.1.2. Dự án đầu tư
Mọi chương trình đầu tư dù lớn hay nhỏ đều được cụ thể hoá bằng các dự án đầu tư về mặt hình thức, đó là một tập hợp hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống tính vững chắc tính hiện thực của một hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội theo các khía cạnh thị trường, kỹ thuật, tài chính, tổ chức quản lý và kinh tế xã hội.
Về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau, được kế hoạch hoá nhằm đạt được các mục tiêu bằng cách tạo ra kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định.
Dự án đầu tư có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động trong xã hội, thì các dự án đầu tư được phân thành dự án đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh dự án đầu tư là cơ sở để xin giấy phép đầu tư, giấy phép hoạt động, xin phép được nhập hộ khẩu máy móc thiết bị, xin được hưởng các khoản ưu đãi hoặc xin được vay vốn của các định chế tài chính trong và ngoài nước…
1.2. Thực chất của vốn FDI và các hình thức thu hút vốn FDI
1.2.1. Thực chất của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Cho tới nay, có khá nhiều quan niệm khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên có thể khái niệm khái quát về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại đầu tư mà các nhà đầu tư ngoài bỏ vốn ra thành lập trực tiếp tham gia quản lý điều hành, tổ chức sản xuất để thu lợi ích và hoàn toàn chịu trách nhiệm về đồng vốn cũng như kết quả sản xuất kinh doanh của mình.
Hiểu theo khái niệm này thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực chất là lượng vốn của các cá nhân người nước ngoài đầu tư vào nước sở tại dưới hình thức đầu tư trực tiếp. Đó là các nhà đầu tư trực tiếp tham gia vào quá trình thành lập quản lý điều hành và tổ chức sản xuất…
Như vậy, bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự gặp gỡ về nhu cầu giữa một bên là nhà đầu tư và bên khác là nước nhận đầu tư.
- Đối với các nhà đầu tư, khi quá trình tích tụ và tập trung vốn đạt tới mức nào đó mà sản xuất kinh doanh trong nước đã trở nên chật hẹp, nếu tiếp tục đầu tư vào đó thì sẽ không thu được lợi nhuận như mong muốn. Mặt khác các nhà đầu tư lại nhìn thấy ở những nước khác, cơ hội kinh doanh mang lại lợi nhuận cao, khi đó các nhà đầu tư sẽ mang vốn ra nước ngoài để tổ chức sản xuất kinh doanh. Thông qua đó họ có thể tạo ra những kết quả sau:
+ Duy trì và nâng cao hiệu quả sản xuất về vốn, về kỹ thuật cũng như về sản phẩm.
+ Khai thác các nguồn lực và xâm nhập vào thị trường của nước nhận đầu tư.
+ Lợi dụng những chính sách ưu đãi của nước nhận đầu tư.
- Đối với nước nhận đầu tư, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài họ có thể lợi dụng vốn, công nghệ, trình độ lao động cũng như các nguồn lực khác để khai thác, tiềm lực cho phát triển kinh tế mặt khác thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, họ có thể tạo ra, duy trì và củng cố mối quan hệ hợp tác với các nước, tạo điều kiện ổn định cho sự phát triển của đất nước.
1.2.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Cho tới nay có khá nhiều cách phân loại khác nhau, trong đó có một số cách phân loại như sau:
- Theo hình thức pháp lý.
Đây là cách thức phân loại thường dùng hiện nay, trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài được chia thành:
+ Doanh nghiệp liên doanh:
Doanh nghiệp liên doanh là một tổ chức kinh doanh quốc tế của các bên tham gia có quốc tích khác nhau trên cơ sở cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng quản lý và cùng phân phối kết quả kinh doanh nhằm thực hiện các cam kết trong hợp đồng liên doanh và điều lệ doanh nghiệp liên doanh phù hợp với khuôn khổ pháp luật của nước sở tại.
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do chủ đầu tư nước ngoài bỏ ra 100% vốn tổ chức thành lập ở nước sở tại, có quyền điều hành và chịu trách nhiệm hoàn toàn về các kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Đó là hình thức đầu tư dưới dạng như các hợp đồng phân chia lợi nhuận, hợp đồng phân chia sản phẩm… mà không thành lập pháp nhân mới.
+ Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT)
Hình thức này chủ yếu tập trụng trong một số lĩnh vực nhất định.
- Theo tính chất của đầu tư thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được phân thành đầu tư mang tính tập trung và đầu tư phân tán.
- Theo lĩnh vực đầu tư thì đầu tư trực tiếp nước ngoài chia thành đầu tư vào công nghiệp; đầu tư vào các lĩnh vực nông lâm, ngư nghiệp và đầu tư vào dịch vụ.
- Theo cơ cấu tái sản xuất, có thể chia thành đầu tư theo diện rộng và đầu tư theo chiều sâu.
- Theo giai đoạn hoạt động của các dự án đầu tư có thể chia thành dự án đầu tư thương mại và dự án đầu tư sản xuất.
- Theo thời gian thực hiện đầu tư, có thể chia thành đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn.
1.3. Tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.3.1. Đối với nước tiếp nhận vốn FDI
- Nguồn vốn FDI là nguồn bổ sung quan trọng góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất và tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển nguồn vốn này càng có ý nghĩa.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo thêm nhiều việc làm mới cho các nước nhận đầu tư.
Các dự án FDI có yêu cầu cao về chất lượng nguồn lao động do đó sự phát triển của FDI ở các nước sở tại đã đặt ra yêu cầu khách quan phải nâng cao chất lượng về ngoại ngữ trình độ chuyên môn của người lao động. Mặt khác chính các chủ đầu tư nước ngoài cũng góp phần tích cực bồi dưỡng đào tạo đội ngũ lao động ở nước sở tại.
Hoạt động của các dự án FDI có tác động quan trọng tới xuất nhập khẩu của các nước chủ nhà.
- Với chính sách thu hút vốn FDI theo các ngành nghề định hướng hợp lý vốn FDI sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước theo hướng ngày càng phù hợp hơn, hợp lý hơn với yêu cầu phát triển .
- Các dự án FDI góp phần bổ sung quan trọng cho ngân sáh của các quốc gia. Các nguồn thu này từ các khoản cho thuê đất, mặt nước, mặt biển, các loại thuế như thuế lợi tức, thuế nhập khẩu…
- Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước nhận đầu tư có thể tiếp cận được với kỹ thuật mới hiện đại, những công nghệ tiên tiến luôn góp phần cải tạo thiện đáng kể cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế nói chung. Đồng thời nó cũng tạo ra các điều kiện kinh tế kĩ thuật cho thực hiện cải biến cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng phù hợp với yêu cầu phát triển.
- FDI có thể giúp tạo ra các điều kiện cần thiết cho việc tạo lập một hệ thống thị trường phù hợp với yêu cầu của nền sản xuất. Nó cũng giúp cho sự tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới.
1.3.2. Đối với nước xuất khẩu vốn FDI
- FDI giúp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng cường bành trướng sức mạnh kinh tế và vai trò ảnh hưởng trên thế giới. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp hữu hiệu để xâm nhập vào thị trường các nước này trong điều kiện còn nhiều hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
- FDI giúp các công ty nước ngoài có thể khai thác sử dụng được những nguồn lợi thế còn khá dồi dào phục vụ vho sản xuất kinh doanh từ đó rút ngắn thời gian thu hồi vốn và thu lợi nhuận cao.
- FDI giúp các công ty nước ngoài tìm kiếm được nguồn nguyên liệu vật liệu ổn định trong điều kiện nguồn nguyên vật liệu trong nước ngày càng tăng trở nên khan hiếm và đắt lên một cách tương đối.
- FDI cũng giúp các chủ đầu tư nước ngoài đổi mới sản xuất, áp dụng công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đó là thông qua đầu tư ra nước ngoài các nhà đầu tư có thể chuyển những công nghệ đã trở nên lạc hậu trong nước.
1.4. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.4.1. Môi trường đầu tư và khả năng cạnh tranh thu hút FDI của các nước tiếp nhận đầu tư
Môi trường đầu tư của mỗi quốc gia có thể coi là một nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới thu hút vốn FDI. Môi trường đầu tư của mỗi quốcgia là một tập hợp của rất nhiều yếu tố như môi trường chính trị, an ninh quốc gia, hệ thống chính trị, luật pháp, sự phát triển kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế, trình độ phát triển của đội ngũ lao động quản trị cũng như đội ngũ lao động trực tiếp…. Tất cả những yếu tố này đều có tác động lớn tới khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Chúng ta biết rằng, mục đích của các nhà đầu tư là luôn thu được lợi nhuận cao do đó họ sẽ luôn tìm kiếm đầu tư tại những nước có môi trường đầu tư thắng lợi tạo điều kiện cho phát triển sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả. Trong đó các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm tới những nước có môi trường chính trị an ninh quốc gia ổn định, có trình độ phát triển kinh tế cũng như trình độ người lao động đáp ứng được yêu cầu sản xuất.
Mặt khác sự cạnh tranh thu thút, tiếp nhận vốn đầu tư giữa các nước ngày càng mạnh mẽ do đó chỉ những nước đáp ứng tốt hơn điều kiện đầu tư mới có thể tíêp nhận được vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Điều này đòi hỏi các quốc gia phải không ngừng cải thiện của hiệu nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư của nước mình.
1.4.2. Những xu hướng vận động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới
- Thị trường vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới đang diễn ra hết sức sôi động với nhu cầu về vốn đầu tư rực tiếp nước ngoài ngày cần tăng mạnh. Quy mô về vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng ngày càng tăng nhanh trong các năm. Trong đó quy mô vốn FDI trên thế giới bình quân hàng năm trong những năm đầu thập kỷ 90 là 190 tỷ USD, đến năm 1995 đã tăng lên 315 tỷ USD. Nguồn vốn FDI luôn tập trung một phần lớn vào các nước phát triển cả về vốn đầu tư ra cũng như lượng vốn đầu tư tiếp nhận vào.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung vào một số ít các nước. Trong năm 1995 chỉ riêng 10 nước thu hút vốn FDI lớn nhất trên thế giới đã chiếm 2/3 lượng vốn đầu tư, trong khi đó 100 nước nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài ít nhất chỉ chiếm 1%.
Trong những năm gần đây Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Nhật đã trở thành những nước chi phối dòng vận động chính của vốn FDI trên thế giới. Các nước phát triển đầu tư lẫn nhau để tận dụng những nguồn lực của nhau giành cho ngành mới mang lại lợi nhuận siêu ngạch. Một mặt môi trường đầu tư của những nước này đã khá hoàn thiện nếu nó tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư. Mặt khác nhờ đầu tư lẫn nhau giữa các nước phát triển, họ có thể tránh được sự đối đầu trực tiếp với nhau. Đầu tư này cũng phù hợp với sự phát triển của thế giới trong bối cảnh toàn cầu hoá.
- Xu hướng dịch chuyển trong lĩnh vực đầu tư trên thế giới.
Lợi nhuận luôn là mục tiêu chủ yếu của các nhà đầu tư. Vì vậy nếu như trước đây, khai thác nguồn lao động rẻ mạt và tài nguyên thiên nhiên phong phú trong các ngành khai khoáng, công nghiệp chế tạo..., các các nhà đầu tư có thể thu được một tỷ suất lợi nhuận rất lớn, thì đến nay, những ưu thế này dần không còn giá trị. Cùng với sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế thế giới sang phát triển mạnh các ngành dịch vụ, các lĩnh vực về kỹ thuật công nghệ cao như công nghệ vũ trụ, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới đang hứa hẹn cơ hội mang lại một lợi nhuận siêu ngạch lớn. Do đó các nhà đầu tư dang dần bị thu hút vào những lĩnh vực này và giảm dần tỷ trọng trong các lĩnh vực khai khoáng chế tạo...
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước đang phát triển đang gia tăng đặc biệt là các nước đang phát triển ở châu á.
1.4.3. Chiến lược đầu tư phát triển của các công ty xuyên quốc gia
Như đã nói, các công ty xuyên quốc gia có vai trò rất quan trọng trong đầu tư nước ngoài và đang đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Từ những năm 80 các tập đoàn xuyên quốc gia đã trở thành lực lượng chủ yếu, nòng cốt thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế giới. Các công ty xuyên quốc gia đã đóng một vai trò quan trọng trong đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia, phân bố nguồn lực của nền kinh tế thế giới một cách hiệu quả hơn và chi phối lưu chuyển hàng hoá trong thương mại quốc tế. Các công ty xuyên quốc gia cũng là lực lượng có vai trò lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật bằng cách đưa kỹ thuật trên tiếp cận với rộng khắp các nước, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nền kinh tế các nước, góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới.
1.5. Kinh nghiệm của một số nước về thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Mỗi đất nước có một hoàn cảnh lịch sử riêng, có những đặc điểm kinh tế nhất định không giống nhau. Thực tế ở các nước trên thế giới đặc biệt là ở một số nước châu á đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Với các nước châu á trong FDI chiếm một tỷ trọng không lớn trong tổng vốn đầu tư nhưng nó lại đóng vai trò then chốt trong quá trình thực hiện CNH đưa đất nước từ một nước lạc hậu thành một nước công nghiệp phát triển. Tuy ở Việt Nam có nhiều điểm khác so với các nước nhưng vẫn có những điểm tương đồng trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do đó nghiên cứu quá trình thu hút và sử dụng FDI của nước ngoài chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho mình.
1.5.1. Kinh nghiệm của Singapore
Singapore là một nước nhỏ, ít có tài nguyên thiên nhiên, nhưng Singapore đã rất thành công trong hội nhập kinh tế và trong thu hút FDI, với trên 80% tổng vốn đầu tư vào khu vực chế tạo là vốn đầu tư từ nước ngoài.
Singapore đã có những chính sách thu hút các dự án đầu tư có quy mô lớn, mạnh dạn mở cửa và thu hút các công ty xuyên quốc gia đến đầu tư hoạt động kinh doanh tại đất nước mình. Ngay từ đầu Chính phủ Singapore đã xây dựng bản quy hoạch về cơ cấu các ngành kinh tế. Từ đó dự kiến trước và đưa ra bảng phân loại Xí nghiệp các ngành sản xuất cần kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Để đạt được điều này Chính phủ Singapore đã xây dựng những chế độ khuyến khích tạo thành những đòn bẩy kinh tế, dẫn dắt các nhà đầu tư đi theo đúng ý định. Về chế độ khuyến khích Singapore đã ban hành "luật khen thưởng về sự phát triển kinh tế", trong đó xác định ngành sản xuất mới, ngành xây dựng mới và ngành xuất khẩu là 3 lĩnh vực được ưu tiên nhất. Mức độ ưu đãi khác nhau tuỷ vào khối lượng sản xuất, đồng thời rất khuyến khích việc chuyển giao công nghệ, kỹ thuật tiên tiến.
Cùng với việc xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư, Singapore cũng rất chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực.
Bằng những biện pháp trên Singapore đã vươn lên là nước dẫn đầu trong thu hút với FDI trong khối các nước ASEAN. Singapore đã thành công không chỉ trong thu hút mà cả trong sử dụng vốn FDI một cách hiệu quả đưa nền kinh tế phát triển lên một trình độ cao của một nền kinh tế công nghiệp hoá.
1.5.2. Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan là một nước đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp. Thái Lan đã đạt được sự phát triển khá nhanh chóng so với các nước trong khu vực. Trong sự phát triển đó có vai trò đóng góp quan trọng của nguồn vốn FDI. Thái Lan đã rất khéo léo trong việc kết hợp nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với chiến lược công nghiệp hoá từng thời kỳ để triển khai các dự án đầu tư nhanh chóng thuận lợi và có hiệu quả. Thái Lan áp dụng chính sách khuyến khích các nguồn vốn trong nước tham gia đầu tư với các dự án đầu tư có vốn nước ngoài. Đồng thời Thái Lan cũng đã xây dựng một hệ thống chính sách thông thoáng cho tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tuy đã có những biện pháp tích cực như vậy, song trong những năm vừa qua, trong vấn đề thu hút có FDI của Thái Lan vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lý.
Sai lầm đầu tiên là ngay trong thời kỳ đầu khi dã tiến hành CNH, là nước CNH nhanh chóng Thái Lan đã không xây dựng được một bản quy hoạch cân đối giữa phát triển sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng.
Thứ hai là việc đào tạo cán bộ quản lý cho các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài còn yếu kém khiến cho việc tiếp nhận chức năng điều hành doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thiếu chủ động và rất chậm so với yêu cầu và bị phụ thuộc vào nước ngoài.
Thứ ba, đầu tư trực tiếp nước ngoài gây cho Thái Lan sự thiếu hụt lực lượng kỹ sư và công nhân lành nghề. Đó là từ sức hấp dẫn của các doanh nghiệp có vốn FDI đã tác động mạnh tới đội ngũ lao động có trình độ. Mặt khác Thái Lan thiếu sự quan tâm đầu tư phát triển giáo dục đào tạo gây ra sự mất cân đối giữa đào tạo với yêu cầu phát triển kinh tế.
1.5.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc là nước đã đạt được nhiều thành công trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp. Nếu như năm 1991 Trung Quốc chỉ đứng thứ 13 trên thế giới và thứ 3 trong các nước đang phát triển về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thì chỉ sau 2 năm, đến năm 1993 Trung Quốc đã vượt lên đứng thứ 2 thế giới sau Mỹ và đứng đầu các nước đang phát triển về lĩnh vực này. Tình bình quân trong 20 năm từ 1979 - 1998 mỗi năm Trung Quốc có tới 13 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện. Đạt được sự thành công trên là do Trung Quốc đã thực hiện đúng đắn chính sách mở cửa nền kinh tế Trung Quốc đã ban hành "Luật Xí nghiệp kinh doanh hợp tác đầu tư giữa Trung Quốc với nước ngoài". Trung Quốc đã rất thành công trong việc thực hiện chính sách đầu tư theo quy hoạch vùng lãnh thổ theo hướng tập trung ưu tiên mở cửa đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các vùng thuận lợi phát triển trước.
Trung Quốc đã xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài và dẫn dắt nó đi theo đúng hướng quy hoạch phát triển. Trung Quốc thực hiện miễn giảm thuế theo từng lĩnh vực đầu tư tuỳ theo mức độ ưu đãi phát triển, từ 1-1997 Trung Quốc thực hiện giá các dịch vụ không phân biệt đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Và từ 1-1-1998 Trung Quốc đã bãi bỏ thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng khi nhà đầu tư cung cấp thiết bị máy móc cho các công trình có vốn đầu tư nước ngoài. Nhìn chung, Trung Quốc đã tạo ra một hệ thống chính sách, luật pháp khà hoàn chỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút FDI.
Bên cạnh những thành công to lớn đã đạt được, Trung Quốc cũng đã gặp phải những bất lợi do FDI mang lại. Trong một số ngành tỷ lệ vốn đầu tư của nước ngoài ngày càng tăng trong các liên doanh cũng như sự tăng lên tương đối của các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Điều này đồng nghĩa với vai trò chi phối của các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng tăng. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã vươn lên khống chế một số ngành và lĩnh vực then chốt đặc biệt là những ngành có tỉ suất lợi nhuận cao. Mặt khác vấn đề chuyển giao công nghệ tiên tiến hiện đại vào trong nước được các nhà đầu tư thực hiện rất ít.
phần 2
Thực trạng về thu hút và sử dụng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
2.1. Chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam
Trong hai thập kỷ qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng để đưa ra một hệ thống chính sách luật pháp hợp lý tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Năm 1987 Quốc hội nước ta dã thông qua "Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam" Bộ luật này cho thấy chúng ta đã nhận thức rõ ràng hơn thực tế hơn về vai trò, vị trí tác dụng của đầu tư nước ngoài với nền kinh tế quốc dân. Nhận thức được vai trò quan trọng của đầu tư nước ngoài, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng Bộ luật đầu tư, lần đầu tiên mang sắc thái của một luật khuyến khích đầu tư. Mặc dầu vậy bộ luật này vẫn còn tồn tại những khiếm khuyết. Đó là có sự thiếu đồng bộ trong ban hành các văn bản luật cũng như trong nội dung của các văn bản luật. Do đó môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài còn thiếu ổn định.
Để khắc phục những hạn chế trên, Việt Nam đã kịp thời xem xét, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện "Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam" theo hướng ngày càng tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư nước ngoài.
Luật sửa đổi bổ sung năm 1990 đã sửa đổi bổ sung 15 trong số 42 điều của luật 1987. Lần này, luật không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư nước ngoài vào Việt Nam mà nó còn cho các đối tác trong nước những điều kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác với nước ngoài, luật cũng quy định mọi thành phần kinh tế đều được hợp tác kinh doanh với nước ngoài.
Sau một thời gian thực hiện những đòi hỏi mới phát sinh, Việt Nam lại tiến hành sửa đổi, bổ sung bộ luật đầu tư nước ngoài vào 1992. Luật 1992 đã cụ thể hoá hơn về vấn đề tư nhân tham gia hoạt động đầu tư với nước ngoài. Mặt khác luật cũng mở ra những hình thức đầu tư nước ngoài mới, đó là hình thức khu chế xuất và hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao.
Nhằm mục đích hoàn thiện hơn bộ luật đầu tư nước ngoài năm 1996 luật đầu tư nước ngoài lại được bổ sung sửa đổi gắn với quá trình hoàn thiện hệ thống luật pháp đồng bộ. Với đường lối nhất quán nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài , Nhà nước Việt Nam "bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi hợp pháp khác của các nhà đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi và đơn giản hoá hơn nữa thủ tục cho đầu tư nước ngoài vào Việt Nam "Luật đầu tư lần này đã thể hiện rõ thái độ của Chính phủ Việt Nam với cải cách hành chính, kiên quyết xử lý mọi vi phạm. Mọi cá nhân hay tổ chức nước ngoài đều có quyền khiếu nại tố cáo với các quyết định và hành vi trái pháp luật, gây khó khăn phiền nhiễu của các cơ quan, các viên chức Nhà nước, theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên Luật lần này đã cắt giảm một số ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài do đó gây nên một số phản ứng tiêu cực của các nhà đầu tư nước ngoài.
Cùng với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH Việt Nam lại một lần nữa sửa đổi bổ sung luật đầu tư nước ngoài nhằm huy động tốt hơn nguồn vốn này phục vụ cho CNH đất nước. Trên cơ sở đó 09/06/2000 Quốc hội nước ta đã thông qua "Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam" Bộ luật lần này thực sự ra đời trên cơ sở kế thừa, bổ sung, đổi mới hoàn thiện các luật cùng loại đã ban hành trong những thời kỳ trước. Đến đây chúng ta đã có hệ thống luật và các văn bản luật về đầu tư nước ngoài tuy chưa phải là hoàn chỉnh nhưng đã đầy đủ hơn, có tác dụng khuyến khích hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các đối tác trong nước trong việc tham gia đầu tư. nhờ đó chúng ta đã đạt được những kết quả khả trong những năm qua. Tuy nhiên thu hút và thực hiện vốn FDI ở Việt Nam vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm lực. Do đó chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa luật đầu tư nước ngoài cũng như hệ thống luật pháp nói chung.
2.2. Thực trạng về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam
2.2.1. Tình hình cấp giấy phép đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Kể từ khi luật đầu tư nước ngoài được ban hành đến hết năm 2002, Việt Nam đã cấp giấy phép đầu tư nước ngoài cho 4447 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam với tổng số vốn đăng ký là 43.194 triệu USD, trong đó tổng số vốn pháp định là 20.357,6 tr USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài, mỗi năm cụ thể như sau:
Bảng 1. Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép 1988-2002.
Số dự án
% so với năm trước
Tổng vốn đăng ký (triệu USD)
% so với năm trước
Tổng số
4.447
43.194,0
1988
37
371,8
1989
68
183,8
582,5
156,7
1990
108
158,8
839
144
1991
151
139,8
1.322,3
157,6
1992
117
130 ,5
2.165
163,7
1993
169
136, 5
2.900
133,9
1994
343
127,5
3.765,6
129,8
1995
370
107,9
6.530,8
173,4
1996
325
87,8
8.497,3
130,1
1997
345
106,2
4.649,1
54,7
1998
275
79,7
3.897
83,8
1999
311
113,7
1.568
40,2
2000
371
119,3
2.012,4
128,3
2001
523
14,1
2.535,5
126
2002
754
144,2
1.557,7
61,4
(Nguồn niêm giám thống kê 2002)
Chúng ta thấy rằng nhịp độ thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài liên tục tăng từ 1988 đến 1995 về số dự án đầu tư , nếu như năm 1988 có 37 dự án thì đến năm 1995 đã lên tới 370 dự án, với số vốn đăng ký từ 371,8 triệu USD năm 1988 lên 6530,8 triệu USD.
Trong những năm này có thể thấy số dự án tăng khá nhanh và đều đặn trong các năm, trong đó năm 1994 tăng hơn 74 dự án so với năm trước và bằng 127,5% năm trược. Trong những năm đầu tuy xét về phần trăm thì thấy dự án tăng khá nhanh tuy nhiên do số dự án ban đầu rất nhỏ nên cũng chưa đáng kể.
Về tổng số vốn đầu tư tuy có tăng đều đặn và đạt mức tăng mạnh nhất vào năm 1995 tới 173,4% so với năm trước, và số tuyệt đối tăng 2765,2 triệu USD . Đến năm 1996 số dự án đã giảm so với năm trước tới 45 dự án , tuy nhiên tổng số vốn đầu tư lại tăng mạnh và đạt mức kỷ lục là 8497,3 triệu USD. Năm 1997, 1998 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu sụt giảm cả về số dự án và số vốn đăng ký. Năm 1998 chỉ còn 275 dự án đầu tư tổng số vốn đầu tư cũng giảm nhanh, năm 1997 chỉ bằng 57,4% so với năm trước, đến 1998 chỉ còn 3897 triệu USD.
Đến năm 1999 số dự án đã có dấu hiệu tăng trở lại lên 311 dự án, nhưng tổng số vốn đầu tư vẫn giảm và giảm mạnh xuống còn 1568 triệu USD. Năm 2000 , 2001 dã có dấu hiệu khả quan hơn cả số dự án và tổng số vốn đăng ký đều tăng tuy còn kém xa so với năm 1996 cả về tổng vốn đăng ký. Năm 2002 số dự án tăng khá mạnh lên tới 754 dự án nhưng tổng số vốn đầu tư lại sụt giảm chỉ còn 1557,7 triệu USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ đầu năm đến 16/12/2003 thấp hơn so với năm 2002 cả về số dự án và vốn đăng ký. Quy mô vốn đăng ký bình quân một dự án tuy có tăng từ 2,1 triệu USD năm 2002 lên 2,5 triệu USD năm 2003, xong còn kém xa so với mức 5 triệu USD năm 2001.
Về vốn đăng ký thì quy mô bình quân mỗi dự án trong cả thời kỳ 1988 - 2002 là 9,71 triệu USD. Trong những năm đầu quy mô bình quân của một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam được xấp xỉ 10 triệu USD/1 dự án. Đây là một con số không thấp so với các nước trong khu vực. Quy mô của 1 dự án bình quân đạt mức cao nhất vào 1996 với 26,15 triệu USD một dự án. Tuy nhiên từ 1999 cùng với sự giảm sút mạnh của số dự án, tổng vốn đầu tư giảm nhanh hơn làm cho quy mô trung bình 1 dự án cũng giảm xuống mạnh. Trung bình trong các năm 1999 - 2001 là 5,1 triệu USD 1 dự án. Đến năm 2002 quy mô 1 dự án chỉ còn 2,1 triệu USD và năm 2003 là 2,5 triệu USD. Chúng ta có thể thấy rõ qua đồ thị sau :
Biểu đồ quy mô dự án tại Việt Nam
Qua diễn biến về cấp phép các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ta thấy một xu hướng rõ ràng là số các dự án có quy mô nhỏ ngày càng tăng làm cho số dự án được cấp phép tăng nhanh xong về tổng vốn đầu tư lại giảm dần.
2.2.2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo ngành kinh tế
Trong thời gian qua, cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam phân theo ngành kinh tế đã có nhiều sự thay đổi. Trong các năm đầu, đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực kinh doanh khách sạn, văn phòng cho thuê... Nhưng tới 1995, 1996 các dự án đầu tư đã tập trung nhiều hơn vào các lĩnh vực sản xuất vật chất. Chúng ta có thể thấy rõ hơn cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo ngành kinh tế ở Việt Nam qua bảng số liệu sau:
Bảng 2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép theo ngành kinh tế 1988-2002
Số dự án
% so với tổng số
Tổng vốn đăng ký (triệu USD)
% so với tổng số
Tổng số
4447
100%
43194
100%
Nông, lâm nghiệp
354
7,76
1433,3
3,32
Thuỷ sản
114
2,56
380,4
0,88
Công nghiệp
2698
60,47
19422,4
44,97
Trong đó công nghiệp dầu khí
56
1,26
4200,4
9,72
Xây dựng
330
7,42
4709,8
10,9
Khách sạn, du lịch
228
5,13
5013,5
11,61
Giao thông vận tải, bưu điện
158
3,55
3676,8
8,51
Tài chính ngân hàng
35
0,79
248,1
0,57
Văn hoá, y tế, giáo dục
140
3,15
607,6
1,41
Các ngành dịch vụ khác
390
8,77
7702,1
17,82
(Nguồn : Niêm giám thống kê 2002)
Chúng ta thấy rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài đang có xu hướng ngày càng tập trung vào một số ngành công nghiệp. Trong thời kỳ 1988 - 2002 các ngành công nghiệp chiếm tới 44,97% về vốn đăng ký với 19422,4 triệu USD trong tổng vốn đầu tư FDI cũng tập trung vào một số ngành như xây dựng với ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV181.doc