Thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA cho ngành giáo dục ở Việt Nam trong thời gian tới

LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Toàn thể nhân loại đã bước vào những năm đầu tiên của thế kỷ XXI- thế kỷ văn minh, trong đó tri thức và công nghệ là hai đặc trưng chủ yếu nhất. Việt Nam tuy còn nghèo về kinh tế nhưng những thành tựu đạt được trong hơn 15 năm đổi mới vừa qua cũng đã tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần để chuẩn bị cải cách, bước vào thế giới văn minh, hoà nhập với cộng đồng. Nhưng cần có chiến lược phát triển như thế nào để có thể khẳng định mình trên trường quố

doc109 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1698 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA cho ngành giáo dục ở Việt Nam trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c tế, đó là một câu hỏi lớn đặt ra cho Việt Nam cũng như cho các quốc gia khác trên thế giới. Chính trong Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã khẳng định mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001- 2010 là “đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá”. Để đạt mục tiêu đó thì “ con người và nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng nhất, quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá nên cần tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện về giáo dục” (Văn kiện Đại hội Đảng IX). Vì vậy có thể nói phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo là cơ sở đảm bảo cho sự phát triển kinh tế ổn định, lâu dài và đầu tư cho sự nghiệp giáo dục đào tạo là đầu tư cho con người - động lực trực tiếp của sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội. Song việc đầu tư cho sự nghiệp giáo dục đào tạo là rất tốn kém mà hiệu quả của nó lại không thấy ngay được, hơn nữa nguồn kinh phí dành cho phát triển sự nghiệp giáo dục còn hạn hẹp nên việc mở rộng khai thác nguồn tài chính cho sự nghiệp giáo dục đào tạo có ý nghĩa rất quan trọng nhằm phát triển nền kinh tế – xã hội ở nước ta. Trong những năm qua, do ảnh hưởng của công cuộc “đổi mới” nên công tác quan hệ quốc tế của nước ta, đặc biệt là trong ngành giáo dục và đào tạo có nhiều chuyển biến thuận lợi. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance - ODA) do các tổ chức song phương, đa phương tài trợ cho ngành giáo dục trở nên vô cùng quan trọng. Việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục đã góp phần cải thiện môi trường giáo dục ở Việt Nam song đồng thời cũng vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc và trở ngại. Do đó, việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA như thế nào để có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế- xã hội nói chung và phát triển ngành giáo dục nói riêng là những vấn đề cấp thiết của đất nước, nên cần được nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn. 2. Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận: Khóa luận tập trung vào nghiên cứu những vấn đề sau: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về ODA. Nghiên cứu tổng quát về vai trò của nguồn vốn ODA đối với ngànhgiáo dục ở Việt Nam. Phân tích tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993- 2002. Từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường khả năng thu hút và hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Khoá luận nghiên cứu về vấn đề thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993-2002 - Thực trạng và giải pháp. Đây là một vấn đề có liên quan đến nhiều nhà tài trợ thuộc nhiều tổ chức, nhiều quốc gia với các điều kiện tài trợ và quy trình thủ tục khác nhau, mà lại chưa có một bộ ngành nào tổng hợp được đầy đủ số liệu nguồn vốn ODA đầu tư cho ngành giáo dục. Vì vậy, khoá luận chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề chung nhất của các dự án đầu tư cho giáo dục bằng nguồn vốn ODA và đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam trong thời gian tới. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn đã vận dụng kết hợp phương pháp thống kê, phân tích hệ thống và các phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp so sánh, tổng hợp ... để giải quyết các nội dung nghiên cứu của khóa luận. Các phương pháp đó được kết hợp chặt chẽ với nhau dựa trên cơ sở các quan điểm, chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách sử dụng nguồn vốn ODA của Đảng và Nhà nước. 5. Bố cục của khóa luận Tương ứng với nội dung nghiên cứu, ngoài phần lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục, các từ viết tắt, khoá luận được kết cấu như sau: Chương I: Vai trò của nguồn vốn ODA đối với ngành giáo dục ở Việt Nam. Chương II: Thực trạng tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993- 2002. Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng thu hút và hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam trong thời gian tới. Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế , thời gian chuẩn bị không nhiều, hơn nữa việc quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam còn khá mới mẻ, chưa được tổng kết, rút kinh nghiệm thường xuyên nên khoá luận không tránh khỏi thiếu sót, kính mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để em có thể học hỏi, rút kinh nghiệm, hoàn thiện khoá luận cũng như trau dồi kiến thức cho bản thân. CHƯƠNG 1 VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ODA ĐỐI VỚI NGÀNH GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM I. TỔNG QUAN VỀ ODA 1. Quá trình hình thành và phát triển của ODA. 1.1. Khái niệm về ODA Hiện nay, trên thế giới có nhiều cách hiểu khác nhau về ODA. Theo định nghĩa của Cơ chế quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA (ban hành kèm theo Nghị định 17/2001/NĐ- CP ngày 04/05/2001 của Chính phủ) thì hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là sự hợp tác phát triển giữa nước CHXHCN Việt Nam với một hoặc nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, bao gồm các hình thức chủ yếu sau: Hỗ trợ cán cân thanh toán. Hỗ trợ theo chương trình. Hỗ trợ kỹ thuật. Hỗ trợ theo dự án. ODA có thể ở dạng viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi (lãi suất thấp, thời gian vay dài ). ODA cho vay ưu đãi có yếu tố không hoàn lại ít nhất đạt 25% giá trị khoản vay. 1.2. Nguồn gốc lịch sử của ODA: ODA là một bộ phận có tầm quan trọng đặc biệt của nguồn vốn vay và tài trợ quốc tế. ODA hình thành và ra đời từ những năm sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, các nước công nghiệp phát triển đã thoả thuận về sự giúp đỡ dưới dạng viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi cho các nước đang phát triển. Ngày 14-2-1960,tại Pari đã ký thoả thuận thành lập tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (Organisation for Economic Cooperation Development_OECD).Tổ chức này bao gồm 20 nước thành viên, ban đầu đã đóng góp phần quan trọng nhất trong việc cung cấp ODA song phương và đa phương.Trong khuôn khổ hợp tác và phát triển,các nước OECD đã lập ra các Uỷ ban chuyên môn, trong đó có ủy ban Hỗ trợ phát triển (Development Assistance Committee-DAC), nhằm giúp các nước đang phát triển phát triển kinh tế và nâng cao hiệu quả đầu tư. Tham gia ủy ban này hiện nay có 20 nước gồm: Ailen, Thuỵ Điển, Thụy Sĩ, Nhật, Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Tây Đức, Italia, Hà Lan, Tây Ban Nha, Lucxembua, Newzealand, Anh, Mỹ …và ngoài ra còn có thêm ủy ban cộng đồng Châu Âu EU. Các nước thành viên của nhóm DAC thông báo cho ủy ban khoản đóng góp cho các chươmg trình phát triển và trao đổi với nhau về những vấn đề liên quan đến chính sách viện trợ phát triển. Năm 1996, DAC cho ra đời bản báo cáo: “Kiến tạo thế kỷ XXI-Vai trò của hợp tác và phát triển’’. Báo cáo này đã nói tới một vai trò khác của viện trợ ngoài vai trò cung cấp vốn. Viện trợ phát triển phải chú trọng vào việc hỗ trợ cho các nước tiếp nhận có được thể chế và những chính sách phù hợp chứ không phải chỉ cung cấp vốn . 1.3. Các điều kiện cơ bản để được nhận tài trợ nguồn vốn ODA: Các quốc gia thoả mãn hai điều kiện cơ bản sau thì sẽ được nhận tài trợ nguồn vốn ODA: Điều kiện thứ nhất: GDP bình quân trên đầu người thấp, đặc biệt là các nước có mức GDP bình quân trên đầu người dưới 220 USD/ người/ năm. Điều kiện thứ hai: Mục tiêu sử dụng vốn của nước tiếp nhận phù hợp với chính sách bên cấp ODA về phương hướng ưu tiên sử dụng. 1.4. Mục tiêu của ODA: Kể từ khi ra đời cho đến nay, viện trợ ODA luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn tại song song. - Mục tiêu thứ nhất: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở những nước đang phát triển. Động cơ đã thúc đẩy các nhà tài trợ đề ra mục tiêu này là do bản thân các nước phát triển nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước đang phát triển để mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Viện trợ thường gắn với các điều kiện kinh tế. Mỹ cũng như nhiều nhà tài trợ khác qui định phải dùng khoản tiền viện trợ của họ để mua hàng hoá của Mỹ, hoặc trực tiếp lấy hàng hoá dư thừa của Mỹ thay cho khoản viện trợ.Mỹ còn đòi nước nhận viện trợ cung cấp vật tư chiến lược trọng yếu, dành cho Mỹ những điều kiện đầu tư thuận lợi. Xét về lâu dài, các nhà tài trợ sẽ có lợi về mọi mặt: an ninh, kinh tế, chính trị khi các nước nghèo tăng trưởng. Mối quan tâm mang tính cá nhân này được kết hợp với tinh thần nhân đạo, tính cộng đồng. Vì một số vấn đề mang tính toàn cầu như sự bùng nổ dân số thế giới, bảo vệ môi trường, bình đẳng giới, phòng chống dịch bệnh, giải quyết các xung đột sắc tộc, tôn giáo... đòi hỏi sự hợp tác, nỗ lực của cảc cộng đồng quốc tế, không phân biệt nước giàu nước nghèo. Mục tiêu thứ hai: Tăng cường lợi ích chính trị của các nước tài trợ. Các nước phát triển sử dụng nguồn vốn ODA như một công cụ chính trị, xác định vị trí và ảnh hưởng của mình tại các nước và khu vực tiếp nhận nguồn vốn ODA. Mỹ là một trong những nước dùng nguồn vốn ODA làm công cụ để thực hiện ý đồ gây “ảnh hưởng chính trị trong thời gian ngắn”. Chính sách viện trợ của Mỹ nhằm một mặt dùng viện trợ kinh tế để bày tỏ sự thân thiện, tiến đến gần gũi thân thiết về chính trị, mặt khác, tiếp cận với quan chức cao cấp của các nước phát triển để mở đường cho hoạt động ngoại giao trong tương lai. Mỹ “lái” các nước nhận viện trợ chấp nhận một lập trường nào đó của Mỹ trong ngoại giao và tác động, can thiệp vào sự phát triển chính trị của các nước đang phát triển. Viện trợ kinh tế là thủ đoạn chính trong việc tiến hành thâm nhập văn hoá tư tưởng đối với các nước nhận viện trợ. Chẳng hạn, đòi các nước nhận viện trợ đề cao vai trò của kinh tế cá nhân, tiếp nhận tư tưởng, lối sống của các nước tài trợ. Viện trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là việc trợ giúp hữu nghị, mà còn là một công cụ lợi hại để kiếm lời cả về kinh tế lẫn chính trị cho nước tài trợ. Những nước cấp viện trợ gò ép các nước nhận phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của bên tài trợ. Vì vậy, khi nhận viện trợ các nước nhận viện trợ cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của các nhà tài trợ, không vì lợi trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài . Quan hệ hỗ trợ phát triển chính thức phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, chung sống hoà bình. 1.5. Ưu đãi và trục lợi của ODA : Cũng như nhiều nguồn vốn khác, ODA cũng có ưu đãi và trục lợi riêng : 1.5.1. Ưu đãi của ODA : Vốn ODA có thời hạn cho vay (hoàn trả vốn) dài, có thời gian ân hạn dài (chỉ trả nợ lãi, chưa trả nợ gốc). Vốn ODA của Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) có thời gian hoàn lại là 40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm. Thông thường, trong nguồn vốn ODA, có một phần là viện trợ không hoàn lại (tức là cho không). Yếu tố cho không dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn và so sánh mức lãi suất viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại. Sự ưu đãi ở đây là so sánh với tín dụng thương mại trong tập quán quốc tế. Cho vay ưu đãi hay còn gọi là cho vay “mềm”. Các nhà tài trợ thường áp dụng nhiều hình thức khác nhau để làm “mềm” khoản vay, chẳng hạn kết hợp một phần ODA không hoàn lại và một phần tín dụng gắn với điều kiện thương mại thành tín dụng hỗn hợp. Tính ưu đãi của ODA còn được thể hiện ở chỗ nó chỉ dành cho những nước đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Thông thường, mỗi nước cung cấp viện trợ đều có những chính sách riêng của mình, họ tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng (về công nghệ, kinh nghiệm quản lý …). Đồng thời, mục tiêu ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy, nắm được hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết. 1.5.2. Trục lợi của ODA : Các nước viện trợ đều không quên mưu cầu lợi ích cho mình, vừa gây ảnh hưởng chính trị, vừa đem lại lợi nhuận cho hàng hoá, dịch vụ, và tư vấn trong nước. Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hoá và dịch vụ của nước mình. Canada yêu cầu cao nhất (tới 65%); Thụy Sĩ chỉ yêu cầu 1,7%, Hà Lan 2,2%, hai nước này được coi là những nước có tỷ lệ ODA yêu cầu phải mua hàng hoá và dịch vụ của nhà tài trợ thấp và thấp hơn cả là New – Zealand 0%. Nhìn chung, 22% viện trợ của DAC phải được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ của các quốc gia viện trợ. 1.6. Phân loại ODA: Tuỳ theo từng tiêu chí phân loại mà người ta có thể phân loại ODA như sau: 1.6.1. Theo tính chất: -Viện trợ không hoàn lại: các khoản cho không, không phải trả lại. -Viện trợ có hoàn lại: các khoản cho vay ưu đãi (vay tín dụng với điều kiện “mềm”) -Viện trợ hỗn hợp: Gồm một phần cho không, phần còn lại thực hiện theo hình thức vay tín dụng. 1.6.2. Theo mục đích: -Hỗ trợ cơ bản: là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội và môi trường. Đây thường là những khoản cho vay ưu đãi. -Hỗ trợ kỹ thuật: là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cưú cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu tư phát triển thể chế và nguồn nhân lực v.v... loại hỗ trợ này chủ yếu là viện trợ không hoàn lại. 1.6.3. Theo điều kiện : -ODA không ràng buộc: việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng. -ODA có ràng buộc: +Bởi nguồn sử dụng: có nghĩa là việc mua sắm hàng hoá, trang thiết bị hay dịch vụ bằng nguồn vốn ODA chỉ giới hạn cho một số công ty do nước ngoài tài trợ sở hữu hoặc kiểm soát (đối với viện trợ song phương), hoặc các công ty của các nước thành viên (đối với viện trợ đa phương). +Bởi mục đích sử dụng: chỉ được sử dụng cho một số lĩnh vực nhất định hoặc một số dự án cụ thể. -ODA có thể ràng buộc một phần: một phần chi ở nước viện trợ, phần còn lại chi ở bất kỳ nơi nào. 1.6.4. Theo hình thức: -Hỗ trợ dự án: là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án cụ thể, có thể là hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không hoặc cho vay ưu đãi. -Hỗ trợ phi dự án gồm các loại hình như sau: +Hỗ trợ cán cân thanh toán: thường là hỗ trợ trực tiếp (chuyển giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hoá, hỗ trợ nhập khẩu. Ngoại tệ hoặc hàng hoá được chuyển vào qua hình thức này có thể được sử dụng để hỗ trợ cho ngân sách. +Hỗ trợ trả nợ. +Viện trợ chương trình: là khoản ODA dành cho một mục đích tổng quát với thời gian nhất định mà không phải xác định một cách chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào. 1.7. Các nhà tài trợ ODA: Hiện nay có nhiều nước và tổ chức quốc tế cho vay, cung cấp tài trợ ODA. Nhìn chung các nước đều có chiến lược tài trợ riêng, đồng thời cũng có những điều kiện về thủ tục, quy chế cung cấp tài trợ khác nhau. Tiềm lực kinh tế là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến lượng vốn cho vay. Tuy nhiên, nguồn vốn vay và cung cấp tài trợ còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố: Quan điểm chính trị, quan điểm cộng đồng rộng rãi dựa trên vấn đề nhân đạo và mối quan tâm dến việc ổn định tình hình kinh tế xã hội quốc tế. Mối quan hệ truyền thống đối với các nước khác. Tầm quan trọng của các nước đang phát triển với tư cách bạn hàng (thị trường, nơi cung cấp nguyên vật liệu, lao động). Chính sách đối ngoại, an ninh, lợi ích kinh tế xã hội. Các nhà tài trợ ODA gồm các nước viện trợ song phương và các tổ chức viện trợ đa phương 1.7.1. Các nước tài trợ song phương: a. Các nước thành viên Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV, CMEA): Trong hai thập kỷ qua, Liên Xô (cũ) là nước viện trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam: 12,6 tỷ Rup chuyển nhượng. Nhưng đến năm 1990. Liên Xô (cũ ) tan rã, kéo theo các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, CMEA giải thể khiến cho nguồn tài trợ này bị chấm dứt. b. Các nước thuộc tổ chức OECD: Nguồn vốn ODA có nguồn gốc chủ yếu từ các nước OECD. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD gồm 24 nước thành viên, là những nước công nghiệp phát triển, những nước xuất khẩu tư bản và cung cấp ODA cho các nước đang phát triển, gồm: Anh, áo, Bỉ, Bồ Đào Nha, Canada, Đan Mạch, Đức, Hà Lan, Mỹ, Nhật Bản, Newzealand, Na Uy, Pháp, Phần Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, ... Các nước thuộc tổ chức OECD có tiềm lực kinh tế lớn, đồng thời cũng là những nước cung cấp ODA chủ yếu trên thế giới. Tuy giá trị tuyệt đối còn thấp song Thụy Điển và Hà Lan lại là những nước có tỷ lệ đóng góp vào nguồn vốn này cao nhất so với GDP của nước mình (0,89% và 0,98% so với mức trung bình 0,36% của toàn bộ OECD). Đối với việc tài trợ nguồn vốn ODA, vai trò quan trọng hàng đầu vẫn là Hoa Kỳ và Nhật Bản (10.141 tỷ USD và 9.134 tỷ USD vào năm 1988). Những năm gần đây, vai trò của Hoa Kỳ giảm tương đối; còn vai trò của Nhật Bản tăng lên và trở thành nguồn đóng góp quan trọng nhất. c. Các nước đang phát triển: Hiện nay, một số nước đang phát triển cũng cung cấp ODA như ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, ... Việc tài trợ ODA của các nước này còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau như: quan điểm chính trị, quan điểm cộng đồng, nhân đạo, ổn định kinh tế- xã hội quốc tế. Nhưng nhìn chung lượng tài trợ của những nước này nhỏ, không đáng kể. 1.7.2. Các tổ chức viện trợ đa phương: Các tổ chức viện trợ đa phương đang hoạt động gồm có các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc, Liên minh Châu Âu, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức tài chính quốc tế. a. Các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc: Hầu hết viện trợ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc (UNDP, UNESCO, UNICEF, WEP, ...) đều được thực hiện dưới hình thức viện trợ không hoàn lại, ưu tiên cho cho các nước đang phát triển có thu nhập thấp và không ràng buộc về các điều kiện chính trị nặng nề. Viện trợ thường tập trung cho các nhu cầu có tính chất xã hội như xoá đói giảm nghèo, y tế, giáo dục, văn hoá- xã hội, sức khoẻ- dân số, bảo vệ môi trường... b. Liên minh Châu Âu (EU): Liên minh Châu Âu là tổ chức có tính chất kinh tế xã hội của 15 nước công nghiệp phát triển ở châu Âu, EU có quỹ lớn, song chủ yếu ưu tiên viện trợ cho các thuộc địa cũ ở châu Phi, Nam Thái Bình Dương. Những lĩnh vực mà EU coi trọng là dân số, bảo vệ môi trường, phát triển dịch vụ, phát triển nguồn nhân lực, xoá đói giảm nghèo. c. Các tổ chứcphi chính phủ (NGOs- Non Governmental Organization): Trên thế giới hiện có hàng trăm tổ chức NGOs hoạt động theo các tôn chỉ, mục đích khác nhau: nhân đạo, tri thức, y tế, tôn giáo. Các tổ chức phi chính phủ thường có số vốn nhỏ, chủ yếu dựa vào nguồn quyên góp hoặc nhờ sự tài trợ của các chính phủ, thường muốn hoạt động giữa các cá nhân với cá nhân của nước viện trợ và các nước nhận viện trợ. Quy mô viện trợ thường nhỏ, khả năng cung cấp viện trợ và thực hiện viện trợ thay đổi tuỳ từng thời kỳ nhưng thủ tục viện trợ thường đơn giản, thực hiện lại nhanh. d.Các tổ chức tài chính quốc tế: Ngân hàng thế giới (WB- World Bank): Ngân hàng phát triển châu á (ADB- Asian Development Bank) Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF- International Monetary Fund) Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) 2. Các khâu chủ yếu trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA. Từ tình hình tiếp cận và sử dụng nguồn vốn ODA trong thời gian qua có thể nhận xét rằng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA là một quá trình với nhiều công việc khác nhau, có thể biểu đạt thành 3 khâu chủ yếu: - Thu hút ODA - Giải ngân ODA - Sử dụng ODA 2.1. Thu hút ODA Đây chính là quá trình vận động các nhà tài trợ để có thể có được nguồn tài trợ ODA. Quá trình vận động ODA này có thể được tiến hành ở nhiều cấp khác nhau. Đó là thông qua các diễn đàn như Hội nghị nhóm tư vấn vì hỗ trợ phát triển dành cho Việt Nam, các hội nghị điều phối viện trợ ngành, các cuộc tiếp xúc giữa các địa phương, cán bộ, các dự án với các nhà tài trợ trên cơ sở quy hoạch ODA, chương trình đầu tư công cộng, quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của các địa phương, quy hoạch phát triển ngành… Ngoài ra cần tìm hiểu và nắm vững các chính sách và những lĩnh vực ưu tiên cung cấp ODA của từng nhà tài trợ, nắm được xu hướng và theo dõi sự vận động của tỷ giá hối đoái. Đặc biệt trong xu thế tổng nguồn vốn ODA của thế giới ít có xu hướng gia tăng đáng kể, điều kiện cung cấp giảm bớt tính ưu đãi, có sự cạnh tranh giữa các nước đang phát triển trong việc tiếp nhận ODA thì việc làm thế nào để thu hút được nhiều nguồn vốn ODA là vô cùng quan trọng, đòi hỏi sự phối hợp của tất cả các bộ, ngành, và các địa phương. 2.2. Giải ngân ODA Sau khi đã thu hút được nguồn vốn ODA thì vấn đề giải ngân ODA cũng là vấn đề rất đáng lưu tâm. Số vốn ODA giải ngân cho từng ngành, lĩnh vực, dự án sẽ phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn đó và yêu cầu cần đầu tư của ngành. Căn cứ vào hướng dẫn của BKH & ĐT, bộ, ngành, cơ quan nào có nhu cầu về ODA thì lập công văn đề nghị và kèm theo đề cương dự án, tham khảo ý kiến của các cơ quan tổng hợp và các bộ có liên quan trình lên để Chính phủ quyết định. Sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục dự án ODA, BKH & ĐT thông báo cho bên nước ngoài. Trường hợp bổ sung, điều chỉnh danh mục dự án sử dụng ODA đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, BKH & ĐT phải trình lại trên cơ sở tổng hợp ý kiến bằng văn bản của các cơ quan có nhu cầu ODA và thoả thuận của bên nước ngoài. Trường hợp ngoại lệ, bên nước ngoài chủ động đề xuất dự án với cơ quan có nhu cầu ODA, BKH & ĐT trình Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở ý kiến bằng văn bản của cơ quan có nhu cầu về vốn ODA và đề cương dự án kèm theo. Từ đó số tiền giải ngân sẽ được bên nước ngoài quyết định. 2.3 Sử dụng ODA Sau khi đã thu hút được nguồn vốn ODA, công việc giải ngân cũng đã bắt đầu tiến hành thì việc sử dụng nguồn vốn ODA như thế nào là rất quan trọng, quyết định hiệu quả của toàn bộ công việc. Số vốn ODA đã được giải ngân sẽ được Chính phủ lên kế hoạch phân bố sử dụng cho các ngành, lĩnh vực, dựa trên yêu cầu phát triển của ngành cũng như của đất nước. Từ đó, các bộ ngành lại lên những kế hoạch cụ thể theo định hướng ưu tiên cho các vấn đề cần giải quyết trước. Đồng thời, từ trung ương đến địa phương phải lập ra bộ máy quản lý hệ thống các vấn đề, các chương trình, dự án có liên quan đến nguồn vốn ODA. Hệ thống quản lý này sẽ thường xuyên theo dõi, giám sát xem nguồn vốn ODA đã được phân bổ cho các ngành, các lĩnh vực được sử dụng như thế nào, từ đó rút ra những kết quả đã đạt được và những vấn đề cần khắc phục. Tất cả những công việc trên luôn được tiến hành phối hợp giữa hai phía là Việt Nam và phía nhà tài trợ nước ngoài. 3. Vai trò của nguồn vốn ODA đối với sự phát triển đất nước. Thời gian qua, nguồn vốn ODA đã có ý nghĩa quan trọng và có tác dụng tích cực đối với sự phát triển kinh tế xã hội nước ta. Thứ nhất, nhờ sự tiếp nhận nguồn vốn ODA mà chúng ta đã có điều kiện tạo lập một môi trường thuận lợi cho sự phát triển đất nước nói chung. Do những đặc điểm mang tính chất ưu đãi, nguồn vốn ODA được Chính phủ sử dụng vào các mục đích: Thực hiện các chương trình đầu tư quốc gia, đặc biệt là các dự án cải tạo, nâng cấp, hiện đại hoá kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội để làm nền tảng vững chắc cho ổn định và tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy đầu tư của tư nhân trong và ngoài nước. - Cải thiện chất lượng giáo dục, y tế, môi trường sinh thái dinh dưỡng. Bù đắp thâm hụt trong cán cân thanh toán quốc tế (do nhập siêu) để Chính phủ có đủ thời gian để quản lý tốt hơn ngân sách trong giai đoạn cải cách hệ thống tài chính hay chuyển đổi hệ thống kinh tế (viện trợ để điều chỉnh cơ cấu). Thực hiện các chương trình nghiên cứu tổng hợp nhằm hỗ trợ cho Chính phủ Việt Nam hoạch định chính sách hay cung cấp thông tin cho đầu tư tư nhân bằng các hoạt động điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên, hiện trạng kinh tế- kỹ thuật- xã hội các ngành, các vùng lãnh thổ. Nhờ thế mà nước ta cải thiện được điều kiện về cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục, môi trường; khung thể chế và pháp lý cho các ngành cụ thể cũng được xây dựng và tăng cường hơn, tạo thuận lợi cho sự phát triển đất nước. Thứ hai, nhờ có nguồn vốn ODA mà đã khuyến khích thu hút đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI. Một trong các khó khăn lớn của các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước khi có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam là điều kiện cơ sở hạ tầng còn quá yếu kém khiến cho chi phí sản xuất và chi phí bán hàng cao hơn dự tính, giảm tính sinh lãi và tính khả thi của việc đầu tư. Thậm chí, nhiều nhà đầu tư còn phải tự xây dựng nguồn cung cấp điện cho mình, đặc biệt là ở các khu công nghiệp. Các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng luôn lo lắng tới tính ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường pháp lý, v.v ... Các tổ chức tài chính quốc tế, Chính phủ nhiều nước cung cấp ODA cho Việt Nam với khối lượng cam kết cho vay lớn thể hiện sự tin tưởng của các bên cung cấp ODA vào sự phát triển của Việt Nam, kéo theo lòng tin của một loạt các nhà đầu tư tư nhân. Đồng thời nguồn vốn ODA góp phần xây dựng các cơ sở hạ tầng quan trọng cho nền kinh tế và giải quyết các khó khăn tài chính của Chính phủ Việt Nam, góp phần giảm nhẹ và xua tan những mối lo lắng của các nhà đầu tư, làm họ quan tâm hơn khi đầu tư vào Việt Nam. Hơn nữa, việc hình thành và thực hiện các chương trình, các dự án có vốn ODA đã tạo ra những cơ hội lớn lao cho các công ty, các nhà sản xuất trong và ngoài nước, đó là tạo ra nhu cầu lớn về các loại dịch vụ và hàng hoá đủ loại. Các nhu cầu này được đảm bảo tương đối chắc chắn về khả năng thanh toán như các chương trình có vốn ODA đã từng được thực hiện trên thế giới và các nước xung quanh Việt Nam. Vì vậy, có thể nói Việt Nam là mảnh đất vàng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đối với nước ta, nhu cầu về vốn để thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá rất lớn. Vì vậy, chúng ta cần phải tranh thủ mọi nguồn vốn, trong đó có cả nguồn vốn ODA và các nguồn viện trợ khác. Trong những năm trước đây, nguồn viện trợ chủ yếu là từ NGOs và nguồn ODA từ các nước thuộc Hội đồng tương trợ kinh tế (lớn nhất là Liên Xô cũ) và các nước DAC, OPEC (3 tỷ USD thời kỳ 1980- 1981 và 3,9 triệu USD thời kỳ 1995- 1996). Gần đây, chỉ riêng việc Nhật Bản tăng vốn ODA đã thúc đẩy các nhà đầu tư Nhật Bản tăng nhanh vốn FDI. Với việc Mỹ xoá bỏ cấm vận và với những thành tựu đạt được trong việc thực hiện chiến lược kinh tế- xã hội và hoạt động đối ngoại vừa qua, chúng ta có cơ hội dự đoán rằng nguồn vốn ODA sẽ tiếp tục tăng lên cùng với nguồn FDI. Thứ ba, nguồn vốn ODA đã góp phần nâng cao điều kiện sống cho người dân. Mục tiêu chủ yếu của các dự án hay chương trình sử dụng nguồn vốn ODA đều nhằm cải thiện sống cho người dân, tăng phúc lợi công cộng và cải thiện điều kiện môi trường. Nhờ có nguồn vốn ODA, điều kiện về cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục và môi trường đã được nâng lên, nên đời sống của người dân Việt Nam cũng dần được cải thiện. Theo một cuộc điều tra của UNDP, SIDA, WB cùng phối hợp với Chính phủ Việt Nam thực hiện cho thấy vào năm 1992- 1993, 58,1% dân số Việt Nam sống dưới mức nghèo đói, nhưng đến năm 1998 thì thu nhập thực tế bình quân của các hộ gia đình đã tăng lên 39 % và tỷ lệ hộ nghèo đã giảm gần một nửa xuống còn 37,4% và năm 2002 tỷ lệ này chỉ còn là 28,9%. Thêm vào đó, nguồn vốn ODA cũng đã làm cho một số chỉ tiêu kinh tế- xã hội trở nên tốt hơn như: số trẻ sơ sinh tử vong giảm xuống, số người chết do các bệnh có thể phòng ngừa cũng thấp hơn rất nhiều.. do hệ thống chăm sóc y tế cho người dân được cải thiện, người dân được hưởng một cuộc sống đầy đủ hơn. Nhờ những thành tựu của giáo dục và các lĩnh vực xã hội khác mà chỉ số phát triển con người HDI của nước ta theo bảng xếp loại của UNDP 10 năm gần đây cũng đã có những tiến bộ đáng kể: từ 0,456 xếp thứ 121 tăng lên 0,682 xếp thứ 101/174, có nghĩa là vượt lên 19 bậc. Đó là nhờ một phần không nhỏ vào vai trò của nguồn vốn ODA đầu tư cho các ngành, các lĩnh vực của nước ta trong thời gian qua. II. VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ODA ĐỐI VỚI NGÀNH GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM 1. Vị trí ngành giáo dục đối với sự phát triển đất nước. Từ xưa, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã có truyền thống hiếu học và luôn đề cao giá trị của giáo dục đối với sự nghiệp phát triển của đất nước nên giáo dục vốn luôn được coi là trọng tâm của quá trình phát triển. Vì giáo dục giúp con người phát triển, sử dụng và tăng cường được năng lực của mình, giúp họ có khả năng quyết định và tham gia vào quá trình biến đổi của bản thân và của cả xã hội. Hơn nữa, giáo dục cũng là trọng tâm của quá trình nỗ lực vì một xã hội công bằng hơn, tốt đẹp hơn. Vì thế, đầu tư vào giáo dục không những mang lại lợi ích cho công dân, mà còn có ý nghĩa tích cực đối với toàn thể nền kinh tế nước ta. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn cần đẩy mạnh xây dựng sự nghiệp xây dựng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì vị trí ngành giáo dục lại càng trở nên quan trọng hơn. Chính trong Văn kiện đại biểu toàn quốc lần thứ VIII cũng đã khẳng định “để đảm bảo thành công của sự nghiệp này, cần phải lấy việc phát huy nguồn nội lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Như vậy, thông qua giáo dục và đào tạo dân trí thành nguồn lực con người, trong đó có cả người tài, là sức mạnh nội sinh của từng người, của cả cộng đồng, của cả dân tộc và cả đất nước Việt Nam. Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), các đại biểu cũng đã nhất trí quyết định đưa nước ta vào một thời kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Và việc thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá bằng giáo dục, đào tạo bằng khoa học công nghệ là tư tưởng của thời đại ngày nay. Vì thế, dựa trên tình hình thực tế của đất nước cũng như những yêu cầu của thời đại, Đảng ta cũng đã chọn giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ làm “khâu đột phá” của thời kỳ mới. Hơn nữa, thực tế phát triển của các nước trong khu vực đã chứng minh một điều rằng phát triển giáo dục phải luôn đi trước một bước so với phát triển kinh tế. Vì vậy, việc đầu tư phát triển giáo dục là rất quan trọng. Nghị quyết của Đảng còn khẳng định: “đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản quan trọng nhất, không chỉ về tài chính mà là đầu tư về mọi mặt”. Do đó,sự ưu tiên cho giáo dục phải thể hiện bằng sự ưu tiên về chính sách, ưu tiên về đội ngũ cán bộ và ưu tiên về quản lý. Nếu thực hiện được những ưu tiên đó thì giáo dục mới đúng là quốc sá._.ch hàng đầu và quốc sách đó mới được thực hiện. 2. Các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục Với định hướng phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước là thực hiện xã hội hoá trong giáo dục đào tạo, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là những tiền đề khẳng định nguồn tài chính đầu tư cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo không chỉ bằng nguồn ngân sách Nhà nước như trước đây mà là đa nguồn. 2.1. Các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục 2.1.1.Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước Trong các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục - đào tạo thì nguồn ngân sách là quan trọng nhất và chiếm tỉ trọng chủ yếu. Đó là do quan điểm của Nhà nước coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, đầu tư cơ bản quan trọng nhất được mọi thành phần trong xã hội nhất trí cao. Như trong khoản 1 điều 89 Luật giáo dục đã ghi rõ: “Nhà nước dành ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, đảm bảo tỉ lệ ngân sách nhà nước chi cho giáo dục tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục”. Nguồn đầu tư này chủ yếu lấy từ nguồn chi thường xuyên, nguồn chi phát triển, xu hướng chung là chi cho giáo dục năm sau tăng hơn năm trước. Biểu đồ 1: Xu thế tăng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993-2002 Đơn vị tính: % Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư Khoảng 85% chi công cộng cho giáo dục - đào tạo là từ ngân sách nhà nước. Nhà nước đang cố gắng để nâng tỷ lệ chi cho giáo dục trong ngân sách nhà nước lên ít nhất 18% vào năm 2005 và 20% vào năm 2010. Những khoản chi ngân sách nhà nước này được phân bổ rộng rãi theo sự phân bố trách nhiệm hành chính của hai cấp Chính phủ: Trung ương và địa phương. 2.1.2. Nguồn vốn đóng góp của các doanh nghiệp Thực tiễn của Việt Nam trước đây cũng như nhiều nước cho thấy đào tạo tại nhà máy, công ty là một hình thức tổ chức đào tạo rất có hiệu quả về ngành nghề và chất lượng đào tạo gắn với thực tiễn. Qua đó, huy động được nguồn vốn đáng kể cho công việc này. Tuy nhiên, ở Việt Nam sự huy động vốn cho phát triển giáo dục bằng phương pháp này còn rất hạn chế. Mới chỉ có những công ty lớn như FPT, các công ty kiểm toán ... là thực hiện phương pháp này. Nhờ thế mà một số sinh viên đã nắm được công việc trước khi ra làm việc, góp phần tăng hiệu quả công việc, giảm thời gian đào tạo. 2.1.3 Nguồn vốn đóng góp của nhân dân Đóng góp của nhân dân trong giáo dục đào tạo cũng là rất lớn, đó chính là khoản học phí thu được từ các cấp và các loại hình đào tạo. Trong điều kiện GDP bình quân đầu người còn thấp và phần lớn dân cư Việt Nam còn nghèo, ngân sách phân bổ cho giáo dục còn hạn hẹp, thì nguồn đóng góp này cũng rất quan trọng cho giáo dục đào tạo. Đặc biệt mô hình trường bán công, dân lập, và tư thục với mức học phí cao hơn các trường công đang ngày càng mở rộng tạo điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục hơn. 2.1.4 Nguồn vốn đóng góp của tổ chức xã hội Ở Việt Nam có rất nhiều tổ chức xã hội đang hoạt động rất tích cực và có hiệu qủa trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Nhiều tổ chức xã hội như Liên đoàn lao động, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên ... có những cơ sở đào tạo riêng như trường học, trung tâm đào tạo. Ngoài ra, những hoạt động của các tổ chức xã hội cho sự phát triển giáo dục đào tạo thường được thực hiện bởi những hình thức như lập các quỹ khuyến học và cấp học bổng cho các đối tượng đặc biệt, tổ chức các khoá huấn luyện cho hội viên, cung cấp các dịch vụ giáo dục đào tạo cho các nhóm dân cư bị thiệt thòi như quỹ hỗ trợ tài năng trẻ, quỹ học bổng Nguyễn Thái Bình, quỹ học bổng của hội sinh viên ... 2.2 Nguồn vốn đầu tư từ ngoài nước 2.2.1. Nguồn vốn ODA Trong tất cả các nguồn vốn từ ngoàI nước đầu tư cho giáo dục, thì nguồn vốn ODA là nguồn vốn quan trọng nhất và cũng chiếm tỉ lệ đáng kể nhất (thường chiếm 10-15% kinh phí đầu tư cho giáo dục). Những nước, những tổ chức quốc tế như WB, ADB, UNDP, UNESCO, UNICEF, Hiệp hội các trường đại học và viện nghiên cứu các nước nói tiếng Pháp (AUPELF_ UREF), Viện công nghệ Châu á (AIT), Tổ chức Bộ trưởng giáo dục các nước Đông Nam á (SEAMEO) ... là những nhà tài trợ ODA chủ yếu cho ngành giáo dục. Nguồn vốn ODA này được phân bổ cho các cấp và các lĩnh vực đào tạo theo tỉ lệ thay đổi tuỳ theo từng năm. Nguồn vốn ODA đầu tư cho giáo dục này tăng nhanh vào những năm 1990, với những dự án đầu tư có mục tiêu rất đa dạng, phong phú và kích cỡ dự án cũng rất khác nhau. Có dự án có tổng vốn đầu từ hơn 100 triệu USD (dự án giáo dục Đại học vay vốn của WB) kéo dài hơn 5 năm, cũng có cả những dự án chỉ vài chục ngàn USD (dự án cấp trang thiết bị học tiếng cho trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội) nhưng lại giải quyết được những vấn đề thiết thực và cụ thể cho ngành giáo dục. Nhờ những dự án quốc tế này mà BGD & ĐT đã thực hiện được các mục tiêu quan trọng, góp phần nghiên cứu tổng thể và hoạch định chiến lược giáo dục - đào tạo Việt Nam, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài liệu thông tin khoa học cho các cơ sở, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. 2.2.2 Nguồn vốn FDI Cho đến nay, vẫn còn rất ít dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục đào tạo ở Việt Nam. Vì thế chúng ta cần tìm ra những biện pháp để có thể thu hút phần nào nguồn tài chính này cho giáo dục. 2.2.3 Nguồn vốn huy động từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường đóng góp vào quỹ đào tạo, hợp đồng đào tạo với các cơ sở để tăng nguồn tài chính cho giáo dục. Ví dụ như công ty tin học NITT, công ty sữa Cô gái Hà Lan... là những công ty đã tài trợ học bổng cho sinh viên các trường đại học và cho học sinh nghèo trong cả nước. 2.2.4 Đóng góp của những người Việt Nam ở nước ngoài Những người Việt Nam ở nước ngoài cũng có một phần đóng góp cho giáo dục đào tạo ở Việt Nam. Họ thường xuyên đóng góp tài chính cho việc xây dựng mới trường lớp cũng như nâng cấp những phòng học cũ nát. Công ty thương mại Bến Thành ( Matxcơva - Nga) đã đầu tư 500 triệu đồng xây dựng trường cấp III Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Họ cũng có thành lập một số quỹ học bổng dành cho học sinh nghèo hiếu học hoặc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn để tạo điều kiện học tập tốt hơn cho trẻ em, góp phần giúp đỡ tài chính cho ngành giáo dục. 3. Vai trò của nguồn vốn ODA đối với ngành giáo dục ở Việt Nam. Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục - đào tạo với sự phát triển đất nước, ngay trong những năm chiến tranh, bằng nhiều nguồn tài chính, Nhà nước vẫn đảm bảo chi ngân sách tối thiểu để phát triển giáo dục, chủ động duy trì, củng cố ổn định và phát triển giáo dục. Tuy nhiên, do đất nước còn nghèo, kinh tế chưa phát triển, tổng ngân sách Nhà nước còn nhỏ nên chi ngân sách của Nhà nược cho giáo dục còn thấp so với yêu cầu của ngành giáo dục (hiện mới đáp ứng khoảng 50% - 60% nhu cầu cần thiết). So với ngân sách giáo dục của một số nước, ngân sách của giáo dục Việt Nam vào loại thấp nhất trong khu vực (chỉ chiếm 15% tổng chi ngân sách). Trong khi đó tỉ lệ này hiện nay ở Trung Quốc là 16,6%; ở Nhật Bản là 16,7%; Singapore 18,1%; Hàn Quốc 19,6%; Thái Lan và Malaysia đều trên 20%. Vì thế trong tình hình muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước như hiện nay thì Việt Nam cần đẩy mạnh các chương trình hợp tác quốc tế trong giáo dục - đào tạo, tranh thủ mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn vốn ODA, qua đó có thể thấy rõ rằng nguồn vốn ODA đóng một vai trò rất quan trọng trong phát triển giáo dục ở Việt Nam. Ngay sau khi thống nhất đất nước, trong các nhà tài trợ ODA thì UNICEF là một trong những tổ chức quốc tế đầu tiên đến giúp đỡ ngành giáo dục. Sự hỗ trợ của giai đoạn viện trợ khẩn cấp sau năm 1975 tập trung vào sự giúp đỡ về cơ sở vật chất cho trường học như: giúp xây dựng 12 xưởng đóng bàn ghế, 78 trung tâm giáo dục lao động hướng nghiệp, xây dựng 3074 phòng học, trang thiết bị cho 38 trường cao đẳng sư phạm, 40 trường mẫu giáo, 41 trường trung học sư phạm, 41 trường thực hành. Nhờ có sự giúp đỡ trong giai đoạn đầu này mà cơ sở vật chất ngành giáo dục được cải thiện đáng kể, làm tiền đề cho những sự phát triển của giáo dục sau này. Kể từ năm 1993 đến nay, nguồn vốn ODA tài trợ cho giáo dục tăng lên nhờ sự tài trợ của các tổ chức viện trợ đa phương cũng như các nước viện trợ song phương. Nhờ có nguồn vốn ODA mà không những quy mô giáo dục không ngừng tăng lên mà chất lượng giáo dục giáo dục cũng đã có nhiều chuyển biến tích cực, giúp thực hiện vấn đề xã hội hoá giáo dục cũng như công bằng xã hội trong giáo dục. Nhờ thế mà vị thế của giáo dục Việt Nam dần được nâng cao trên thế giới. Như vậy, có thể nói nguồn vốn ODA đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết các khó khăn về vốn đầu tư cho giáo dục trong giai đoạn vừa qua cũng như trong giai đoạn sắp tới. Vì thế chúng ta phải biết sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này để nó phát huy tác dụng tốt hơn nữa những vai trò tích cực của nó đối với ngành giáo dục cũng như đối với toàn thể nền kinh tế nước ta. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA TRONG NGÀNH GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1993- 2002 I. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1993- 2002 1. Tình hình thu hút nguồn vốn ODA ở Việt Nam giai đoạn 1993- 2002 Những thành tựu đạt được trong cuộc đổi mới đã tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan hệ với các quốc gia, cũng như các tổ chức trên thế giới, khiến cho việc thu hút nguồn vốn ODA vào đất nước ngày càng tăng. Chúng ta đều biết rằng cho đến năm 1989, Việt Nam tiếp nhận nguồn vốn ODA chủ yếu từ Liên Xô cũ, các nước XHCN Đông Âu, Trung Quốc và một số nước tư bản phát triển (như Thụy Điển), một số tổ chức quốc tế (như UNDP), và một số tổ chức NGOs... Nhưng từ năm 1991, nguồn vốn ODA từ các nước XHCN chấm dứt, khiến cho Việt Nam hầu như không còn nguồn ODA lớn. Nhưng bắt đầu từ năm 1993 trở đi, quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và cộng đồng tài trợ quốc tế được nối lại trên cơ sở tinh thần Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VII. Tiếp theo đó, các Đại Hội Đảng lần thứ VIII và lần thứ IX tiếp tục khẳng định chủ trương đường lối đối ngoại của Đảng ta, đó là Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Cho đến nay Việt Nam có quan hệ hợp tác phát triển song phương với 25 quốc gia (Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Pháp, Canada, Đan Mạch...) và 15 tổ chức quốc tế đa phương ( ADB, UNDP, WB, EC, UNFPA...) Ngoài ra các đối tác trong quan hệ hợp tác phát triển của Việt Nam còn phải kể đến các NGOs đang hoạt động tại Việt Nam với trên 350 tổ chức, giá trị viện trợ bình quân một năm hơn 80 triệu USD viện trợ không hoàn lại. Trong số các nhà tài trợ, có 3 nhà tài trợ có quy mô cung cấp ODA lớn nhất là Nhật Bản, WB và ADB, chiếm khoảng 70% tổng giá trị ODA đã cam kết, (trong đó Nhật Bản chiếm tới 40%) Để thu hút, vận động ODA, từ năm 1993 đến năm 2002 chúng ta đã tổ chức 10 Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam, trongđó có 3 lần họp tại Pháp, 1 lần họp tại Nhật Bản, còn lại đều họp tại Việt Nam. Thông qua 10 hội nghị này, các nhà tài trợ đã cam kết cung cấp ODA cho nước ta với tổng lượng cam kết đạt 22,31 tỷ USD (trong đó viện trợ không hoàn lại chiếm 19%, đạt 4,24 tỷ USD và phần còn lại là vốn vay ưu đãi). Về cơ bản, lượng ODA cam kết trong giai đoạn 1993-2002 có xu hướng ngày càng tăng, trung bình mỗi năm đạt trên 2,2 tỷ USD, là mức cam kết cao hơn so với các nước đang phát triển khác. Đặc biệt, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á năm 1997 chỉ làm giảm mức cam kết xuống một lượng không đáng kể trong 3 năm 1998, 1999, 2000 (giảm hơn 10%) rồi sau đó lại phục hồi nhanh chóng và đạt đỉnh cao vào năm 2002 là 2,5 tỷ USD. Điều đó gây bất ngờ cho các nhà phân tích kinh tế cũng như Chính phủ Việt Nam vì cùng thời gian này khối lượng FDI có xu hướng giảm. Như vậy, quy mô ODA cam kết khá cao, thể hiện sự quan tâm của các nhà tài trợ tới Việt Nam, một phần đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc tạo ra một yếu tố quan trọng là vốn phục vụ cho quá trình CNH-HĐH đất nước, mặt khác cũng đặt Việt Nam trước đòi hỏi phải thực hiện tốt công tác giải ngân và sử dụng vốn có hiệu quả. Bảng 1: Cam kết ODA cho Việt Nam giai đoạn 1993-2002 Đơn vị: Tỷ USD Năm Cam kết ODA Lượng tăng giảm 1993 1,819 1994 1,941 0,122 1995 2,264 0,323 1996 2,430 0,166 1997 2,420 -0,10 1998 2,186 -0,234 1999 2,100 -0,86 2000 2,250 0,150 2001 2,400 0,150 2002 2,500 0,100 Tổng 22,310 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2. Tình hình giải ngân nguồn vốn ODA giai đoạn 1993- 2002. Để sử dụng nguồn vốn đã cam kết, Chính phủ Việt Nam đã ký kết với các nhà tài trợ các điều ước quốc tế về ODA. Từ năm 1993 đến hết năm 2002, tổng giá trị các điều ước quốc tế về ODA đã ký kết đạt khoảng 19,5 tỷ USD, trong đó 15,5 tỷ USD vốn vay (đạt 85,78% tổng vốn vay ODA đã được cam kết) và khoảng 4 tỷ USD viện trợ không hoàn lại (đạt 94,34% so với số vốn ODA đã được cam kết). Nguồn vốn ODA đã giải ngân trong giai đoạn 1993 - 2002 đạt khoảng 10,38 tỷ USD (bằng 52,23% tổng giá trị các điều ước quốc tế về ODA đã ký kết và bằng khoảng 47,53% tổng lượng ODA đã cam kết trong thời gian này) trong đó tổng số vốn ưu đãi của Chính phủ đã được giải ngân là 7,02 tỷ USD (đạt 45,3% số vốn vay đã được ký kết) Bảng 2: Giải ngân ODA cho Việt Nam giai đoạn 1993 - 2002 Đơn vị: Triệu USD Năm Tỷ lệ giải ngân (%) Giải ngân ODA Lượng tăng giảm Tuyệt đối Tương đối(%) 1993 26,00 413 1994 37,35 725 312 75,54 1995 32,55 737 12 1,66 1996 37,03 900 163 22,12 1997 41,32 1000 100 11,11 1998 54,89 1200 200 20,00 1999 56,66 1190 -10 -0,83 2000 62,00 1400 210 17,65 2001 50,86 1220 -180 -12,86 2002 63,6 1590 370 30,33 1993 - 2002 47,53 10375 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nhìn chung, lượng ODA giải ngân tăng lên khá nhanh và ổn định (trung bình mỗi năm trên 1 tỷ USD đã được giải ngân để hỗ trợ nguồn vốn cho Nhà nước). Lượng vốn giải ngân năm 2002 đạt mức cao nhất 1,59 tỷ USD gần gấp 4 lần so với lượng giải ngân 413 triệu USD của năm 1993. Tỷ lệ giải ngân cũng có xu hướng tăng nhanh, năm 2002 đạt 63% gấp gần 2,5 lần so với tỷ lệ 26% của năm 1993. Có thể nói sự giảm sút mức ODA trong năm 2001 là lần suy giảm mạnh đầu tiên kể từ năm 1993: mức giải ngân giảm khoảng 11,14% sau 8 năm tiếp nhận nguồn vốn ODA (chỉ đạt 1,22 tỷ USD). Nguyên nhân chủ yếu là do một số dự án và chương trình do Nhật Bản tài trợ đã được hoàn thành, trong đó bao gồm các nhà máy điện Phú Mỹ, Phả Lại và Hàm Thuận - Đa Mi cũng như sáng kiến Miyazawa hỗ trợ phát triển khu vực tư nhân, cải cách doanh nghiệp nhà nước và thương mại. Thế nhưng ngay sau đó, mức giải ngân năm ODA năm 2002 đã tăng 13,6% so với mức giải ngân năm 2001, đạt 1,59 tỷ USD. Đó là do một số nhà tài trợ lớn chuyển sang áp dụng cơ chế giải ngân nhanh các khoản vay ODA. Điều này đã bù lại cho mức giải ngân thấp trong lĩnh vức cơ sở hạ tầng sau khi đã hoàn thành một số dự án lớn về năng lượng trong giai đoạn 2000- 2001. Mặc dù tỉ lệ giải ngân ODA năm 2001 có phần chậm lại nhưng chêch lệch giữa cam kết và giải ngân dường như đã được thu hẹp một cách đáng kể trong những năm gần đây. Tổng cộng các cam kết của các nhà tài trợ trong giai đoạn 1993- 2002 đã đạt 22,31 tỷ USD và theo số liệu của Việt Nam thì những khoản cam kết này đã được chuyển thành hiệp định ký kết với giá trị lên tới khoảng 19,5 tỷ USD, với mức giải ngân trong giai đoạn này lên tới 10,38 tỷ USD. Điều này có nghĩa là còn khoảng 6,1 tỷ USD, chiếm khoảng 1/3 tổng số cam kết, vẫn còn chưa được giải ngân và thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ gần 50% vào giữa những năm 1990. Mặc dù mức giải ngân có xu hướng tăng nhanh nhưng vẫn còn thấp so với kế hoạch và xu hướng này đang dần được cải thiện. Mức giải ngân thời kỳ 1996-2000 chỉ đạt 70% kế hoạch đặt ra nhưng sang đến năm 2002 thì mức giải ngân này đã đạt 91,2% kế hoạch. Tình hình giải ngân không đồng đều giữa các nhà tài trợ phụ thuộc vào tính chất và qui mô của các dự án đầu tư. Các nhà tài trợ chủ yếu cung cấp ODA không hoàn lại với các dự án kỹ thuật thường đạt hay vượt mức kế hoạch giải ngân năm như Anh, Na Uy...Tuy nhiên, những dự án hỗ trợ này thường có chi phí chuyên gia cao (60-70% giá trị dự án). Những nhà tài trợ đầu tư cho cả dự án xây dựng cơ bản lẫn dự giải ngân nhanh thì có mức độ thực hiện tương đối khá (như WB, ADB...). Trong khi đó các nhà tài trợ chủ yếu chỉ cung cấp dự án xây dựng cơ bản tập trung (nhất là điện, giao thông, thủy lợi), như Nhật Bản thì mức ODA giải ngân rất thấp. Theo điều tra của UNDP thì tỷ trọng ký kết trung bình của các nhà tài trợ song phương và đa phương đều tương đương nhau, xu hướng chung vẫn tập trung vào 3 nhà tài trợ lớn nhất là Nhật Bản, WB và ADB (chiếm trên 70% tổng lượng giải ngân). Triển vọng giải ngân ODA cho năm 2003 là sẽ tiếp tục tăng mặc dù có thể không cao. Vì thế, Chính phủ Việt Nam cần có đủ thời gian để xác định những dự án đầu tư tiếp theo nhằm đảm bảo đem lại hiệu quả cao nhất cho toàn bộ nền kinh tế. 3. Tình hình sử dụng nguồn vốn ODA giai đoạn 1993- 2002 Căn cứ vào chính sách ưu tiên sử dụng ODA của Chính phủ, nguồn vốn ODA đã được định hướng ưu tiên sử dụng cho các lĩnh vực như sau: giao thông vận tải (25,39%), phát triển hệ thống nguồn điện, mạng lưới chuyển tải và phân phối điện (22,62%), y tế, xã hội, giáo dục, đào tạo, khoa học (20,45%) phát triển nông nghiệp và nông thôn bao gồm cả thuỷ lợi, thuỷ sản, lâm nghiệp (16,74%) cấp thoát nước và bảo vệ môi trường (8,71%), các ngành khác (6,09%). Trước hết, trong giao thông vận tải, nguồn vốn ODA đã được dùng để khôi phục, nâng cấp và xây dựng mới 3.676 km đường quốc lộ, khôi phục và cải tạo khoảng 1.000 km đường tỉnh lộ, làm mới và khôi phục 188 cầu, chủ yếu trên các đường quốc lộ số 1, quốc lộ số 10, quốc lộ số 18 với tổng chiều dài 33,7 km, cải tạo và nâng cấp 10.000 km đường nông thôn và khoảng 31 km cầu nông thôn quy mô nhỏ, xây dựng mới 111 cầu nông thôn với tổng chiều dài 7,62 km. Vốn ODA đã được dùng để nâng cấp cảng Hải Phòng, nâng cấp cảng Sài Gòn, xây dựng mới cảng nước sâu Cái Lân, cải tạo cảng Tiên Sa, Đà Nẵng ... Nguồn vốn ODA đã được dùng để đầu tư cho 7 nhà máy điện lớn là: Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2, Hàm Thuận - Đa Mi, Sông Hinh, Đa Nhim, Phả Lại 2, Trà Nóc. Các nhà máy này có công suất thiết kế chiếm 40% tổng công suất của các nhà máy điện Việt Nam xây dựng trong kế hoạch 5 năm 1996- 2000.Trong ngành năng lượng điện, vốn ODA còn được đầu tư để phát triển hệ thống đường dây và mạng lưới phân phối điện, bao gồm các dự án đường dây 500 KV Tao Đàn - Nhà Bè, gần 50 trạm biến áp của cả nước, cải tạo nâng cấp mạng lưới điện thành thị và nông thôn ở trên 30 tỉnh và thành phố. Vốn ODA đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo. 156 dự án với tổng vốn ODA hơn 1,4 tỷ USD dầu tư cho phát triển nông nghiệp đã góp phần cung cấp nguồn tín dụng ưu đãi cho nông dân, tạo ra các ngành nghề phụ, phát triển công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển giao thông nông thôn, cung cấp nước sạch, phát triển lưới điện sinh hoạt, trạm y tế, trường học ... Vốn ODA đã góp phần cho sự thành công của một số chương trình xã hội có ý nghĩa sâu rộng như Chương trình dân số và phát triển, Chương trình tiêm chủng mở rộng, Chương trình dinh dưỡng trẻ em, Chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu, góp phần thay đổi nhận thức và hành vi của người dân trong việc phòng chống HIV/AIDS, phòng chống ma tuý ... Vốn ODA dành cho giáo dục đào tạo khoảng 771 triệu USD (chiếm 8,5 - 10% tổng kinh phí giáo dục đào tạo) đã góp phần cải thiện chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục và đào tạo, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Vốn ODA được huy động cho vay lại đã có hiệu quả thiết thức đối với sự phát triển của một số doanh nghiệp, góp phần hỗ trợ ngân sách của nhiều tỉnh trong việc khôi phục và phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là với những tỉnh nghèo, gặp nhiều khó khăn. Được đề cập cuối cùng, nhưng lại đóng một vai trò hết sức quan trọng là vốn ODA đã tạo điều kiện cho việc đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực, xây dựng pháp luật, cải cách hành chính, cải cách kinh tế ... Đánh giá một cách tổng thể, việc thu hút và sử dụng ODA của ta trong 10 năm qua đã được thực hiện theo đúng chủ trương đường lối của Đảng và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước là ưu tiên sử dụng nguồn lực này để cải thiện cơ bản và phát triển một bước quan trọng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, trước hết là giao thông vận tải và năng lượng điện, góp phần khơi dậy nguồn vốn đầu tư trong nước và thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và từng bước cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân lao động, góp phần thực hiện xoá đói giảm nghèo. II. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA TRONG NGÀNH GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1993 - 2002. 1. Tình hình thu hút nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993 – 2002. Hoà với xu thế phát triển của đất nước, ngành giáo dục và đào tạo cũng đã không ngừng phát triển và mở rộng công tác quan hệ quốc tế của ngành. Nhiều hội nghị, hội thảo đã được mở ra để thu hút sự quan tâm của quốc tế, cũng như tăng cường quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và đối tác như: Hội nghị bộ trưởng Đại hoc và nghiên cứu khoa học (22 - 26/ 10/ 1997), Hội nghị thượng đỉnh các nước sử dụng tiếng Pháp (14 - 16/11/1997), Hội nghị hiệu trưởng các trường Đại học thành viên cơ quan đại học Pháp ngữ AUF (1/2001), Hội thảo hợp tác đào tạo cán bộ quản lý giáo dục (20/3/2001), Hội thảo giáo dục Nga đầu thiên niên kỷ thứ 3 (27/4/2001), Hội thảo hợp tác đại học Việt Nam - Hà Lan (16/5/2001), Hội thảo giáo dục đại học Thái Lan (12 - 16/5/2001), Hội thảo các cơ hội học tập tại Alberta, Canada (11/2001) và hội thảo với nhiều nước khác như Anh, Australia, Mỹ ... Các hội thảo này đều đã được tổ chức thành công ở Việt Nam, giúp nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam, đồng thời cũng tạo điều kiện thu hút nguồn vốn ODA cho phát triển ngành giáo dục. Tính đến nay, BGD & ĐT Việt Nam đã có quan hệ và hợp tác chính thức với 69 nước, 15 tổ chức quốc tế và 70 tổ chức NGOs. Thông qua các hội nghị, hội thảo đó, BGD & ĐT đã thu hút được một số lượng vốn đáng kể cho ngành giáo dục. Biểu đồ 2: cam kết ODA cho ngành giáo dục Việt Nam so với tổng cam kết ODA giai đoạn 1993 - 2002 Triệu USD Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Qua đồ thị trên có thể thấy cũng như nguồn vốn ODA cam kết cho Việt Nam, nguồn vốn ODA cam kết cho ngành giáo dục cũng có xu hướng chung là tăng lên trong giai đoạn 1993-2002. Tổng lượng vốn ngành giáo dục thu hút được trong giai đoạn 1993-2002 là 1243 triệu USD chiếm 5,57% tổng lượng vốn ODA thu hút được cho Việt Nam. So với các ngành khác thì số lượng vốn ODA thu hút được cho ngành giáo dục không nhiều (chỉ chiếm 7,57% lượng vốn ODA thu hút được cho Việt Nam giai đoạn 1993 - 2002 ) do quy mô của các dự án giáo dục nhỏ hơn, thậm chí có dự án chỉ có số vốn vài ngàn USD nhưng công tác thu hút nguồn vốn ODA của ngành giáo dục được đánh giá là thuận lợi và khá thành công do giáo dục luôn được các nhà tài trợ quan tâm. Có thể kể đến các nhà tài trợ chủ yếu là Nhật Bản, WB ... với số lượng dự án, lượng vốn đầu tư lớn cho nhiều cấp học. Ngành giáo dục đã thu hút được 104 dự án cho các cấp học. Giai đoạn 1998-2002 thu hút được 687 triệu USD, tăng 23, 56% so với mức 556 triệu USD của giai đoạn 1993-1997 (trong đó lượng vốn vay chiếm 45,4%, còn lại là vốn viện trợ không hoàn lại). Đạt được những thành công trong thu hút nguồn vốn ODA cho ngành giáo dục là do chế độ mở cửa được thực hiện, công tác quan hệ quốc tế phát triển và Nhà nước luôn coi giáo dục là quốc sách. Các tổ chức phi chính phủ muốn hội nhập, đầu tư vào Việt Nam thông qua việc phát triển giáo dục ở Việt Nam. Hơn nữa, việc đầu tư vào giáo dục được coi là mang tính chất nhân đạo, đi đúng với mục tiêu của các nước hỗ trợ về xoá đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường, nên có lẽ lượng vốn ODA thu hút được cho ngành giáo dục sẽ còn tiếp tục tăng trong tương lai. 2. Tình hình giải ngân nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993 – 2002. Từ năm 1993 trở lại đây, việc giải ngân nguồn vốn ODA được cải thiện. Có thể nói giải ngân nguồn vốn ODA được coi là thước đo năng lực tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA. Trong giai đoạn 1993 – 2002 cùng với sự gia tăng lượng ODA thu hút, tỷ lệ giải ngân ODA trong ngành giáo dục cũng đã gia tăng đáng kể : Biểu đồ 3: Tỷ lệ giải ngân ODA trong ngành giáo dục so với tỷ lệ giải ngân chung giai đoạn 1993 - 2002 % Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Tỷ lệ giải ngân chung cho toàn ngành giáo dục trong giai đoạn 1993-2002 đạt 62% cao hơn so với tỷ lệ chung của Việt Nam là 47,53%. Xu hướng giải ngân của ngành giáo dục trong giai đoạn 1998-2002 là 66,23% tăng lên hơn 11% so với tỷ lệ giải ngân của giai đoạn 1993-1997. Trong vòng 10 năm, lượng ODA giải ngân cho ngành giáo dục có xu hướng tăng dần, đạt đỉnh cao vào năm 2000 (124 triệu USD), tăng gần gấp 1,5 lần so với năm 1999 và gấp 3 lần so với năm 1993 do có một dự án đầu tư quy mô rất lớn của WB nhằm nâng cao chất lượng và một dự án hỗ trợ của Nhật Bản cho các tỉnh miền núi phía bắc được giải ngân một số lượng vốn lớn. Các dự án giáo dục nhìn chung đều đạt tốc độ giải ngân trên 90% (dự án giáo dục tiểu học vay vốn của WB đạt 95%, dự án phát triển cơ sở vay vốn của ADB cũng đạt 96% so với kế hoạch đề ra). Với những dự án có tổng thời gian đầu tư dài thì giai đoạn đầu giải ngân chậm do gặp nhiều khó khăn trong thủ tục giải ngân và do phải điều chỉnh lại kế hoạch giải ngân cho phù hợp với tình hình thực tế ở Việt Nam. Bảng 3: Lượng vốn ODA giải ngân cho ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993 - 2002 Đơn vị: Triệu USD Năm Lượng ODA giải ngân cho ngành giáo dục Lượng tăng giảm Tuyệt đối Tương đối % 1993 46 1994 52 6 13,04 1995 58 6 11,54 1996 68 10 17,24 1997 82 14 20,59 1998 80 -2 -2,44 1999 85 5 6,25 2000 124 39 45,88 2001 86 -38 -30,65 2002 90 4 4,65 1993-2002 771 Nguồn: Điều tra ODA, UDDP Có tổng số 25 nước tài trợ song phương, khoảng 19 tổ chức quốc tế và 70 tổ chức phi chính phủ đầu tư ODA cho ngành giáo dục với những thủ tục giải ngân tương đối khác nhau. Vì thế tình hình giải ngân không đồng đều giữa các nhà tài trợ. Có thể kể đến hai nhà tài trợ giải ngân nhiều nhất cho ngành giáo dục là Nhật Bản (đạt 202,23 triệu USD chiếm 26,23%), và WB (đạt 128,83 triệu USD chiếm 16,11%). Nguồn vốn ODA được giải ngân cho tất cả các cấp học và cho cả công tác nâng cao năng lực cho BGD & ĐT. Tổng lượng vốn vay là 350 triệu USD, chiếm 45,4%, tổng lượng vốn viện trợ là 421 triệu USD, chiếm 51,4% trong tổng lượng vốn ODA được giải ngân. Toàn bộ lượng vốn giải ngân cho cấp trung học phổ thông (THPT), giáo dục phi chính quy (GDPCQ) và công tác nâng cao năng lực quản lý ngành đều là vốn viện trợ (trong khi các cấp học khác vừa nhận được cả vốn vay và vốn viện trợ ) nên thuận lợi hơn trong quá trình sử dụng do không phải giải quyết vấn đề vốn đối ứng. Lượng vốn đối ứng toàn ngành đạt 94 triệu USD chiếm tỷ lệ 12,19% so với tổng lượng vốn ODA, trong đó tỷ lệ vốn đối ứng của cấp trung học cơ sở (THCS) là cao nhất (29,41%) do lượng vốn vay lớn. Tình hình giải ngân ODA trong ngành giáo dục đã đạt nhiều chuyển biến thuận lợi do nỗ lực của cả phía Việt Nam và nhà tài trợ. Hơn nữa, do số lượng dự án hỗ trợ kỹ thuật trong ngành giáo dục cao nên việc giải ngân số vốn này cũng dễ dàng hơn (áp dụng cơ chế giải ngân nhanh). Điều đó đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cho toàn ngành là làm sao đảm bảo những khoản giải ngân nhanh đó được đầu tư vào những lĩnh vực cần thiết nhất và sử dụng hiệu quả nhất. 3. Tình hình sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993 – 2002. 3.1 Khái quát tình hình sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 1993-2002. Nguồn vốn ODA đã được sử dụng một cách tương đối hiệu quả trong ngành giáo dục. Theo thống kê của BGD & ĐT, ngành đã tiếp nhận 104 dự án ODA với tổng số vốn ODA sử dụng là 771 triệu USD. Nếu như 80-90% ngân sách nhà nước dành cho giáo dục dùng để chi trả lương, học bổng và xây dựng cơ bản thì phần lớn tiền từ các dự án ODA lại có thể dùng để mua sắm trang thiết bị hiện đại, cải tiến chương trình, giáo trình, đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật... Tính đa dạng của các dự án quốc tế ODA mà chúng ta tiếp nhận dược thể hiện ở nhiều khía cạnh: các nhà tài trợ có thể là các quốc gia, các tổ chức quốc tế, tổ chức NGOs; mục tiêu tài trợ rất đa dạng , phong phú và kích cỡ dự án cũng rất khác nhau nhưng đều giải quyết những vấn đề thiết thực và cụ thể cho ngành . Mục tiêu đầu tư của các dự án cũng rất đa dạng. Biểu đồ 4: Mục tiêu đầu tư cho giáo dục giai đoạn 1993-2002 Nguồn: Trung tâm Thông tin quản lý giáo dục, văn phòng Bộ Giáo dục và Đào tạo Theo bảng trên, lượng vốn ODA hỗ trợ cho các cấp học chiếm tỷ lệ cao nhất trong các mục tiêu đầu tư, chứng tỏ sự quan tâm rất lớn của các nhà tài trợ tới việc nâng cao chất lượng của các cấp học (40%). Sử dụng các nguồn vốn ODA theo các mục tiêu đầu tư như trên đã góp phần nghiên cứu tổng thể và phát triển nguồn nhân lực nhằm hoạch định chiến lược giáo dục và đào tạo Việt Nam góp phần tăng cường cơ sở vật, chất trang thiết bị cho các cơ sở cũng như góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo bằng nhiều hình thức như nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ giáo dục và nghiên cứu khoa học, cán bộ quản lý, nâng cao chất lượng đào tạo ở các cấp học khác nhau từ mầm non, tiểu học (TH), THCS, THPT, trung học dạy nghề (THDN), đại học và sau đại học (ĐH & SĐH), và cả lĩnh vực giáo dục phi chính quy (GDPCQ). Các dự án này được dàn trải trên hầu hết đất nước, với từng vùng có từng loại dự án riêng biệt : 7 tỉnh miền Trung (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định) và một số tỉnh thuộc miền núi phía Bắc và đồng bằng sông Cửu Long (Bắc Giang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Sơn La, Kon Tum, Bạc Liêu, Cần Thơ, Cà Mau) được dự án phát triển giáo dục THCS của ADB hỗ trợ, đã xây dựng xong và đưa vào sử._.át triển đất nước. III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG THU HÚT VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA TRONG NGÀNH GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI. 1. Nhóm giải pháp nhằm tăng cường khả năng thu hút nguồn vốn ODA cho ngành giáo dục ở Việt Nam thời gian tới. Việc thu hút vốn ODA phụ thuộc rất lớn vào quan hệ của nhà tài trợ với các nước nhận nguồn vốn ODA. Xuất phát từ đặc điểm của ODA là nguồn hỗ trợ phát triển nên các nhà tài trợ luôn đánh giá cao những nước sử dụng ODA có hiệu quả. Trong những năm qua, Việt Nam đã được các nhà tài trợ đánh giá cao về việc sử dụng nguồn vốn ODA đối với phát triển kinh tế- xã hội, trong đó có ODA dành cho phát triển giáo dục. Tuy nhiên, để thu hút được nhiều dự án ODA với mục đích phát triển giáo dục có hiệu quả hơn, có thể xem xét một số giải pháp sau: 1.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý. Môi trường pháp lý là một yếu tố hết sức quan trọng trong việc thu hút đầu tư cuả các nhà đầu tư trong và ngoài nước đặc biệt là trong vấn đề thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA. Môi trường pháp lý không chỉ bao gồm các quy định pháp luật về ODA mà còn bao gồm các văn bản pháp luật ở các lĩnh vực khác như xuất nhập khẩu, thuế … liên quan đến hoạt động ODA. Do vậy, môi trường pháp lý tác động rất lớn đến lòng tin của các nhà tài trợ và Chính phủ Việt Nam. Thông qua các quy định về quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA, các nhà tài trợ có thể biết nước nhận viện trợ quản lý và sử dụng nguồn viện trợ như thế nào, có hiệu quả hay không. Trong thời gian qua, mặc dù Chính phủ và các cơ quan chức năng đã có nhiều cố gắng trong việc cải thiện môi trường pháp lý về ODA ban hành nhiều văn bản điều chỉnh một số lĩnh vực liên quan đến ODA nhưng hệ thống văn bản pháp lý về ODA vẫn còn nhiều yếu điểm. Vì vậy, Chính phủ phải phối hợp với các bộ ngành nghiên cứu để soạn thảo ra các quy chế, thông tư liên quan đến vấn đề ODA sao cho tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam. - Ngoài việc cần phải có một chiến lược sử dụng vốn rõ ràng theo mục tiêu phát triển giáo dục từng thời kỳ, từng cấp và loại hình giáo dục thì cũng cần phải có hệ thống pháp luật và chính sách hoàn chỉnh nhằm tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi. - Nghiên cứu xây dựng Luật hay Pháp lệnh về quản lý vay nợ và viện trợ nước ngoài đối với phát triển giáo dục: Văn bản pháp lý này phải điều chỉnh tất cả các quan hệ liên quan đến vốn ODA cho phát triển giáo dục như quá trình quyết định và phê duyệt dự án, quản lý dự án... theo hướng giảm bớt thủ tục hành chính, quy định rõ tránh nhiệm của từng cấp tham gia. Phân loại các dự án ODA nhằm thống nhất các quy trình lập kế hoạch, phân bổ vốn, kiểm soát chi, thống nhất định mức chi tiêu cho các hoạt động phát triển giáo dục có nội dung giống nhau, thống nhất các thủ tục quyết toán làm cho việc quản lý đơn giản hơn cũng như làm giảm đầu mối quản lý dự án, từ đó giảm chi phí phát sinh trong quá trình đầu tư. - Định hướng phân cấp quản lý các dự án ODA cho phát triển giáo dục: Phân cấp nhiều hơn và phù hợp với năng lực thực tế của từng cấp, đặc biệt là trao quyền rộng rãi cho các tổ chức và cá nhân có liên quan trực tiếp tới dự án, kèm theo chề độ trách nhiệm. Phân cấp mạnh hơn cho cấp dưới, đồng thời với việc hoàn thiện cơ chế quản lý và giám sát của các cơ quan quản lý cấp trên. - Đơn giản hóa thủ tục hành chính và hoàn thiện, thống nhất cơ chế tài chính cho giáo dục: Cần rà soát lại và loại bỏ ngay những quy định về thủ tục xét duyệt không cần thiết, các thủ tục rườm rà và tốn phí thời gian. Cơ chế tài chính phải được xem xét và quy định cụ thể trong khi duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi và nêu trong quy định đầu tư dự án. Cải tiến quy trình lập kế hoạch ngân sách và giải ngân của dự án ODA cho phát triển giáo dục phù hợp với các nhà tài trợ. 1.2. Xác định hướng huy động và sử dụng nguồn vốn ODA Trên cơ sở các Nghị quyết các Đại hội Đảng đã đề ra và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, cần đưa ra một chiến lược thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA. Chiến lược này cần tập trung vào việc sử dụng ODA với những mục tiêu phát triển rõ ràng, xác định các ưu tiên, các chiến lược cho ngành giáo dục cũng như đối với từng cấp học. Chiến lược này còn đề ra những định hướng vận động và những hành động cụ thể để thu hút các nhà tài trợ quan tâm, đồng thời cũng cần sắp xếp các lĩnh vực có những đặc điểm mà nhà tài trợ có thể phát huy được những thế mạnh vốn có của mình. Dựa vào bài học kinh nghiệm thành công hay thất bại của các dự án giáo dục, chiến lược cần xây dựng một quan điểm rõ ràng về những gì có thể và không thể làm được, để từ đó đưa ra những hướng dẫn trong việc thiết kế dự án trong tương lai. Cùng với nhà tài trợ, chiến lược cần xác lập một số nguyên lý cho việc thiết kế dự án giáo dục: Khi nào cần sử dụng cố vấn dài hạn, cần lồng ghép chuyên gia tư vấn trong nước vào các dự án như thế nào, cần xử lý các khó khăn ra sao để có thể bảo đảm hiệu quả hoạt động các dự án. Cần có sự chỉ đạo rõ ràng hơn cho các nhà tài trợ về những thay đổi ưu tiên của ngành đối với việc sử dụng hỗ trợ kỹ thuật nhằm hướng họ đến những lĩnh vực đang bị lãng quên, xác định các lĩnh vực mới cần có dự án hỗ trợ kỹ thuật và ngăn chặn tình trạng tập trung quá nhiều nguồn lực vào một số lĩnh vực. Chiến lược cần xác định càng cụ thể càng tốt các mục tiêu dài hạn của việc đầu tư bằng nguồn vốn ODA và vạch ra điểm xuất phát đúng đắn để thực hiện những mục tiêu đó. 1.3. Chủ động đưa ra những danh mục, chương trình, dự án ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục. Các bộ, các ngành có liên quan như BKH & ĐT, BGD & ĐT và Bộ Tài chính phải cùng phối hợp để lựa chọn ra những mục tiêu đáng ưu tiên được đầu tư nhất. Danh sách các dự án này phải được sự nhất trí cao của các cơ quan chính phủ trung ương cũng như các địa phương và đồng thời phải được đưa ra công khai trong các văn bản để thông báo cho mọi người biết. Sự lựa chọn các dự án này phải xuất phát từ lợi ích kinh tế – xã hội chung của đất nước, cũng như phải gắn với quy hoạch tổng thể phát triển ngành, vùng lãnh thổ. Một số tỉnh cần được trợ giúp nhiều hơn các tỉnh khác (tỷ lệ nhập học TH ở độ tuổi trung bình tại 12 tỉnh kém nhất thấp hơn trên 20% so với 12 tỉnh tốt nhất, vì vậy cần phải có sự trợ giúp đặc biệt nhằm vào các tỉnh này, đặc biệt là Bình Phước, Lai Châu, Hà Giang, Kontum, Sơn La). Đồng thời cũng phải chú ý tới hiệu quả đầu tư phát triển giáo dục do các chương trình, các dự án này mang lại cho các cấp, các loại hình giáo dục cụ thể. 1.4. Cải thiện chất lượng dự án ODA Chất lượng dự án ODA luôn là một yếu tố rất quan trọng để các nhà tài trợ quyết dịnh có nên đầu tư vào Việt Nam hay không. Vì vậy ,nếu chất lượng dự án càng cao, phù hợp với điều kiện của các nhà tài trợ cũng như các mục tiêu phát triển và tình hình thực tế của Việt Nam thì khả năng thu hút được nguồn vốn ODA từ dự án đó càng lớn. Đặc biệt, đối với các dự án đầu tư cho ngành giáo dục thì chất lượng dự án càng đáng quan tâm hơn vì mục tiêu của các dự án này là phục vụ cuộc sống của con người. Nếu như công tác lập dự án thiếu cẩn thận, thiếu nghiêm túc, chỉ nhằm mục đích xin được nguồn vốn ODA đầu tư rồi sau đó thực hiện không đúng mục tiêu, thì sẽ gây những phản ứng không tốt từ phía nhân dân, làm mất lòng tin của nhân dân với Chính phủ. Qua thực tế lập các dự án đầu tư cho ngành giáo dục trong thời gian qua, để nâng cao chất lượng dự án thì Chính phủ cũng như BKH&ĐT, BGD&ĐT cần phải chú ý một số vấn đề sau: Mục tiêu đầu tư của các dự án giáo dục phải rõ ràng xác định trên nhu cầu thực tế của nơi được tiếp nhận dự án. Đảm bảo tính khoa học của dự án, có nghĩa là dự án phải được lập trên cơ sở nghiên cứu công phu tỉ mỉ, nghiêm túc từ các khía cạnh. Đảm bảo tính hệ thống của dự án: các nội dung của dự án phải được xây dựng trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, và trong mối quan hệ với các dự án khác trong khu vực được đầu tư, đồng thời tổng dự án phải đặt trong tổng thể quá trình phát triển kinh tế- xã hội chung của tỉnh, thành phố, hay của ngành, lĩnh vực cụ thể. Đảm bảo tính cụ thể của dự án: các tính toán, phân tích phải dựa trên các dữ liệu cụ thể, đảm bảo tính khả thi cao, phù hợp tình hình thực tế, đặc biệt phải chú ý vấn đề này hơn với những dự án do nước ngoài lập. Đảm bảo tính chuẩn mực của dự án, tức là các dự án phải được lập trên cơ sở các chuẩn mực chung, để sao cho dự án có thể đáp ứng được những quy định chặt chẽ không chỉ của phía Việt Nam, mà còn của các nhà tài trợ nước ngoài. Đối với những dự án mà phía Việt Nam cùng chuẩn bị với phía tư vấn nước ngoài, thì ngay từ khâu lập dự án cần xác định rõ các quy trình, quy phạm kỹ thuật được áp dụng, tránh tình trạng áp dụng quy trình nước ngoài nhưng lại không phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của khu vực được đầu tư, ảnh hưởng đến công tác trình, duyệt dự án sau này. 2. Nhóm giải pháp nhằm tăng tốc độ giải ngân cho ngành giáo dục ở Việt Nam trong thời gian tới. Việc nâng cao tốc độ giải ngân là rất quan trọng vì nó giúp đảm bảo thực hiện đúng tiến độ dự án, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay và duy trì lòng tin của các nhà tài trợ. Để nâng cao tốc độ giải ngân của các dự án sử dụng nguồn vốn ODA, có thể xem xét một số các biện pháp sau: 2.1. Hài hoà thủ tục giữa phía Việt Nam và các nhà tài trợ. Hài hoà thủ tục trong quá trình thẩm định, phê duyệt dự án cũng như hài hoà trong quy chế đấu thầu dự án từ cả hai phía Chính phủ và nhà tài trợ là biện pháp quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA. Hàng trăm nhà tài trợ song phương, đa phương, cũng như các tổ chức, thì mỗi nhà tài trợ đều có những quy chế, thủ tục riêng. Vì thế, Chính phủ Việt Nam cũng như các bộ ngành phải nghiên cứu kỹ các quy chế, thủ tục riêng của từng nhà tài trợ để hiểu rõ và từ đó có thể áp dụng một cách có hiệu quả. Hơn nữa, cả phía Việt Nam cũng như các nhà tài trợ một khi đã bắt tay cùng hợp tác thì phải cùng đứng ra chia sẻ, giải quyết những khó khăn. Vừa qua tại Hội nghị cấp cao Rome về thủ tục tổ chức vào ngày 24-25/2/2003, Việt Nam đã được xem là một trong những lá cờ đầu về hài hòa thủ tục dự án. Đồng thời, Hội nghị cũng đưa ra một số hướng để Việt Nam có thể phối hợp với các nhà tài trợ tốt hơn: - Với nhóm các nhà tài trợ đồng tư tưởng (LMDG). + Hoàn thành cuốn từ điển thuật ngữ về hợp tác phát triển để đào tạo thí điểm cho các dự án nhóm LMDG tài trợ. + Thực hiện chương trình nâng cao năng lực để đưa ra các thủ tục về hài hòa và nâng cao năng lực quản lý dự án thông qua các hoạt động đào tạo với việc thành lập quỹ ủy thác. + Hài hòa thủ tục về theo dõi và báo cáo (cùng với WB, ADB, JBIC). - Với WB, ADB và JBIC: Triển khai ma trận hài hòa thủ tục với các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn. + Đấu thầu: Ban hành Pháp lệnh đấu thầu phù hợp tiêu chuẩn quốc tế và ban hành các quy định chung về đấu thầu cạnh tranh trong nước. + Quản lý dự án: Tổ chức Hội nghị chung, kiểm điểm tình hình thực hiện dự án. - Với các nhà tài trợ song phương khác: Tiếp tục chuẩn bị sổ tay hướng dẫn chung. 2.2. Tăng cường hiệu quả công tác xây dựng kế hoạch giải ngân Đây là một khâu rất quan trọng trong tiến trình thực hiện các dự án ODA vì nó quyết định đến hiệu quả của việc thực hiện dự án đầu tư. Vì vậy, khi lập kế hoạch cho dự án, Chính phủ và BKH&ĐT, BGD&ĐT phải xác định rõ mức vốn đối ứng, hình thức đóng góp và nguồn đóng góp (từ ngân sách trung ương, ngân sách địa phương hay ngân sách bộ, ngành thực hiện dự án). Khi xây dựng các kế hoạch năm về giải ngân, thì phải căn cứ vào các điều ước quốc tế về ODA đối với chương trình dự án, và phải chấp hành sự chỉ đạo của các cơ quan có thẩm quyền về xây dựng kế hoạch. Đồng thời cũng phải chú ý đến khả năng thực thi của dự án và dự báo các tác động khách quan có thể ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án: điều kiện nhân lực, thời gian, vật chất tối thiểu cho các hoạt động như thủ tục xét thầu, trình duyệt, rút vốn... Việc bố trí danh mục, chương trình dự án ODA trong năm cần phải tuân thủ các nguyên tắc bố trí như: chỉ đưa vào danh mục chương trình, dự án đã được ký kết hiệp định hay chắc chắn có khả năng rút vốn trong năm kế hoạch, giá trị rút vốn được tính trên cơ sở khả năng thanh toán cho các hoạt động của dự án trong năm kế hoạch. Đồng thời, trong khi tiến hành phải bồi dưỡng đào tạo cán bộ trong công tác lập kế hoạch, để cán bộ có thể tích luỹ thêm kinh nghiệm, lập kế hoạch tốt hơn, phù hợp với yêu cầu của phía Việt Nam và phía nhà tài trợ cũng như phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 2.3. Giải quyết tốt vấn đề vốn đối ứng Vốn đối ứng cho các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn ODA là phần vốn trong nước tham gia trong từng chương trình dự án ODA được cam kết giữa phía Việt Nam và phía nước ngoài trong các hiệp định, văn kiện dự án, quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền. Các dự án vay vốn của Chính phủ Nhật Bản hoặc của WB, ADB thường yêu cầu vốn trong nước chiếm từ 15% - 30% tổng giá trị dự án, các dự án viện trợ của các tổ chức thuộc Liên hợp quốc thường cũng đòi hỏi trong nước khoảng 20% giá trị dự án. Vì vậy, đối với các dự án vốn vay, cơ quan tiếp nhận dự án phải chú trọng đến việc lập kế hoạch vốn đối ứng sớm, có như vậy mới có thể giải ngân được nguồn vốn vay và không làm ảnh hưởng đến tiến độ của dự án. Phải chăng Nhà nước cũng như các lãnh đạo các ngành, các địa phương mới hầu như chỉ dựa vào nguồn vốn đối ứng rút từ ngân sách nhà nước mà còn thiếu những biện pháp hữu hiệu nhằm phát huy nội lực tiềm tàng trong dân. Bởi chính nguồn vốn trong dân là biện pháp bổ sung vốn đối ứng mà Nhà nước cũng như các ngành, các địa phương cần xem xét và cân nhắc, nhất là trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp. Mặt khác, Bộ tài chính cũng cần có những quy định cụ thể hơn về cơ chế vốn đối ứng để đảm bảo vốn đối ứng được cấp đầy đủ và kịp thời theo tiến độ thực hiện dự án, thống nhất cơ chế vốn đối ứng đối với những dự án cùng loại. Đồng thời cũng cần tăng cường quản lý và sử dụng vốn đối ứng cho các dự án ODA phù hợp với quy định của Chính phủ và không được sử dụng vốn đối ứng ngoài các mục đích, nội dung của dự án. 3. Nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA trong ngành giáo dục ở Việt Nam thời gian tới. 3.1. Xác định rõ trách nhiệm từng đối tượng tham gia dự án ODA Trong việc tham gia dự án ODA dành cho phát triển giáo dục, các bộ, ngành cùng các cơ quan liên quan thực hiện các chức năng khác nhau trong việc khuyến khích các nhà tài trợ đưa ra các dự án khả thi về phát triển giáo dục, cũng như vận động các nhà tài trợ thực hiện các dự án đó và sử dụng nguồn vốn ODA trong giáo dục sao cho có hiệu quả. Chẳng hạn như BGD & ĐT cần nghiên cứu, quy hoạch các dự án ODA dành cho giáo dục khả thi; Bộ Tài chính mở rộng quan hệ với các đối tác, thúc đẩy tiến độ giải ngân của các dự án; các đơn vị, địa phương có trách nhiệm theo dõi tình hình thực hiện dự án, hiệu quả sử dụng vốn; Ban quản lý dự án cần có các biện pháp thực thi để vốn ODA dành cho giáo dục không bị thất thoát mà được sử dụng sao cho có hiệu quả, đặc biệt là đối tượng được trực tiếp thụ hưởng những kết quả do dự án mang lại. Vì vậy, tất cả các đối tượng tham gia dự án phải nỗ lực trong khả năng của mình để hoàn thành trách nhiệm của mình giúp cho từng khâu, từng công việc của dự án, được hoàn thành đúng thời hạn, sao cho dự án đạt hiệu quả cao nhất. 3.2. Cải thiện và chia sẻ thông tin: Trong thời đại cách mạng về khoa học công nghệ thông tin bùng nổ như hiện nay, thì việc cải thiện và chia sẻ thông tin là một trong những giải pháp quan trọng giúp giải quyết được nhanh, và hiệu quả hơn công việc cần làm. Vì vậy, cần tăng cường trao đổi thông tin giữa phía Việt Nam và các nhà tài trợ cũng như giữa các nhà tài trợ đã thực hiện viện trợ cho Việt Nam để giúp các bên hiểu biết lẫn nhau hơn, sự phối hợp nhờ đó có hiệu quả hơn, thiết thực hơn. Có nghĩa là hai bên cùng phân tích, đánh giá tình hình phát triển của Việt Nam nói chung cũng như đặc điểm, thực trạng và tình hình nền giáo dục ở Việt Nam nói riêng, dựa trên một số nội dung cụ thể như: cơ sở vật chất, thiết bị dạy học ở các trường phổ thông, đại học, trường dạy nghề; nội dung chương trình đào tạo, quy mô, chất lượng hiệu quả giáo dục ở từng cấp, từng loại hình, địa phương…. Nhà tài trợ cũng cần cải thiện quá trình chia sẻ thông tin và số liệu về kế hoạch và hoạt động hiện tại của họ ở Việt Nam. Đồng thời, nên tổ chức nhiều hơn nữa các hội nghị, các cuộc thảo luận để tăng thêm nhiều cơ hội đối thoại giữa Chính phủ và các tổ chức tài trợ. Vì chính thông qua đối thoại mà hai bên sẽ hiểu nhau hơn và thúc đẩy quá trình phát triển mối quan hệ đối tác, góp phần nâng cao hiệu quả công việc. Ngoài ra, cũng cần có hệ thống dữ liệu quản lý cập nhật và nối mạng giữa các cơ quan quản lý vĩ mô như: Bộ Tài chính, BKH & ĐT, BGD & ĐT để cùng khai thác và chia sẻ thông tin quản lý. Trong bộ ngành quản lý ODA chi cho phát triển giáo dục cũng cần thiết lưu ý hệ thống thông tin nội ngành. Đặc biệt, nên thành lập một thư viện hay một ngân hàng dữ liệu điện tử để lưu trữ được số lượng lớn các kết quả nghiên cứu đã thu được để các nhà nghiên cứu, chuyên gia tư vấn, các cơ quan và các cán bộ quan tâm đến vấn đề này có thể tiếp cận được dễ dàng. Có như vậy thì hiệu quả công tác thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA mới được nâng cao. 3.3. Phát huy vai trò chủ động và tham gia tích cực của phía Việt Nam. Trong quá trình chuẩn bị cũng như thực hiện các chương trình, dự án ODA, tính chủ động của bên nhận hỗ trợ có vai trò quyết định đảm bảo thực hiện thành công dự án và sự phát triển bền vững sau dự án. Các nhà tài trợ thường nhấn mạnh vai trò làm chủ của nước tiếp nhận viện trợ, coi đó như là “người cầm lái con thuyền phát triển”. Vai trò chủ động của bên nhận viện trợ cần phải được đề cao ngay cả từ khâu đề xuất nhu cầu viện trợ, hình thành và thiết kế dự án, tổ chức thực hiện và theo dõi đánh giá kết quả. Nhìn chung, các nhà tài trợ phải căn cứ vào các nghiên cứu đánh giá ngành của chuyên gia tư vấn để xác định các lĩnh vực tài trợ. Vì vậy, các nghiên cứu ngành của các chuyên gia tư vấn trong lĩnh vực giáo dục hay các cơ quan nghiên cứu độc lập thực hiện vai trò quan trọng trong việc định hướng các khoản đầu tư tương lai của các nhà tài trợ. Xuất phát từ nhận định này, các cơ quan chủ quan phải có quan điểm chủ động trong điều hành và định hướng chuyên gia để họ tập trung vào những dự án cần được ưu tiên đầu tư thực sự. 3.4. Nâng cao năng lực quản lý dự án ODA. Năng lực của các ban quản lý dự án phụ thuộc phần lớn vào năng lực cá nhân của những cán bộ phụ trách dự án, từ cán bộ quản lý cấp địa phương đến các cán bộ quản lý cấp trung ương. Chất lượng của đội ngũ cán bộ quản lý này là yếu tố sống còn quyết định sự thành công của dự án. Nhưng theo đánh giá của các cơ quan quản lý và một số nhà tài trợ nước ngoài thì năng lực chuyên môn và trình độ ngoại ngữ của những cán bộ tham gia quản lý, thực hiện các dự án ODA còn hạn chế, nên ảnh hưởng đến tiến độ cũng như hiệu quả thực hiện dự án. Vì vậy, để tăng cường hiệu quả sử dụng của các dự án ODA trong ngành giáo dục thì việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý bằng các nguồn vốn này là rất quan trọng. Trong thời gian tới, Chính phủ cũng như các bộ ngành cần tập trung nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ bằng các biện pháp sau: - Xây dựng chiến lược cán bộ chuyên trách quản lý, kết hợp đào tạo tại chỗ cán bộ hiện có với đào tạo lâu dài đội ngũ cán bộ kế cận. - Khuyến khích các cán bộ quản lý tự nghiên cứu nâng cao năng lực về chuyên môn và ngoại ngữ trong việc mình phụ trách. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý dự án ODA, các chương trình đào tạo cần được thiết kế cho từng chức danh khác nhau của ban quản lý dự án, và cần có đánh giá sau đào tạo và cấp chứng chỉ. áp dụng những biện pháp nhằm thu hút các cán bộ có năng lực và trình độ từ các nơi khác tham gia vào việc thực hiện các dự án vay vốn và tài trợ. Tổ chức các khoá đào tạo mời các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm, kể cả chuyên gia nước ngoài đến giảng dạy; cử cán bộ tham gia các khoá đào tạo do các cơ quan trung ương, viện nghiên cứu trường đại học tổ chức và các khoá đào tạo về quản lý ở nước ngoài. Vận động các nhà tài trợ nước ngoài tài trợ cho các khoá học nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý. 3.5. Đẩy mạnh công tác theo dõi và đánh giá dự án. Công tác theo dõi và đánh giá dự án ODA là một công việc rất quan trọng và cũng rất khó khăn, nhất là việc đánh giá các dự án về giáo dục và đào tạo. Thông thường công tác theo dõi và đánh giá tình hình thực hiện các dự án ODA bao gồm những bước sau : - Xác định và cập nhật các thông tin về tiến độ thực hiện như là việc giải ngân thực tế vốn ODA, khối lượng công việc đã đạt được. - Xem xét mức độ thực hiện các mục tiêu của dự án. - Phát hiện những vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án và kiến nghị với các cơ quan liên quan biện pháp để giải quyết. - Lập báo cáo tổng hợp đánh giá tình hình thực hiện các dự án sử dụng nguồn vốn ODA. - Kiểm tra đôn đốc việc thực hiện và việc giải quyết các vướng mắc trong quá trình thực hiện các dự án ODA. Công tác theo dõi và đánh giá các dự án ODA thực hiện trong ngành giáo dục càng quan trọng và đòi hỏi nhiều phức tạp hơn vì mục tiêu của các dự án ODA thực hiện trong ngành giáo dục là hướng về con người, nhằm nâng cao trình độ nhận thức, cải thiện chất lượng cuộc sống. Vì vậy cần chú trọng đến việc theo dõi hiệu quả lâu dài cũng như tính bền vững, các tác động của việc thực hiện dự án tới toàn xã hội, chứ không thể chỉ đánh giá trên bề mặt những con số thu được. Có thể áp dụng các biện pháp sau để đẩy mạnh công tác theo dõi và đánh giá dự án ODA trong ngành giáo dục : - Thiết lập một bộ phận chuyên trách theo dõi và quản lý các dự án ODA với nhiệm vụ chính : + Xây dựng kế hoạch đầu tư hàng năm cho các dự án ODA + Cung cấp các thông tin liên quan cho các bên liên quan để kịp thời bố trí vốn đối ứng. + Thu thập các báo cáo theo dõi định kỳ từ các cơ quan thực hiện, phân tích tìm ra những vướng mắc để thành phố và cấp cao hơn giải quyết. - Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu thống kê đánh giá tình hình thực hiện dự án ODA. Các ban quản lý dự án cần coi trọng trong công tác báo cáo tình hình thực hiện dự án, tránh tình trạng sơ sài, nặng về số liệu, ít phần kiến nghị và giải pháp. Các ban quản lý cũng cần phải chủ động trong việc gửi báo cáo thường xuyên theo đúng thời gian đã được quy định. -Tổ chức các cuộc giao ban định kỳ, hội nghị kiểm điểm để kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án. Ngoài ra cũng cần phải có thêm những dẫn chứng thuyết phục về thành công hay thất bại của các dự án đã thực hiện. Chính phủ cần đánh giá sâu sắc hơn một số dự án có chọn lọc, để có thể đóng vai trò mạnh mẽ hơn trong việc lựa chọn dự án mới, kể cả việc khước từ một số đề nghị dự án có ít khả năng đem lại lợi ích. Công cuộc đánh giá đó cũng cung cấp cơ sở cho việc thiết kế tốt hơn các dự án trong tương lai. KẾT LUẬN Với nhận thức ODA là một trong những nguồn lực có ý nghĩa quan trọng, Chính phủ Việt Nam luôn quan tâm tới công tác thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn này. Ngay từ Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam lần đầu tiên (tháng 11/ 1993), Chính phủ đã tuyên bố quan điểm của mình về vấn đề quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA “ điều quan trọng là nguồn vốn bên ngoài phải được sử dụng có hiệu quả. Chính phủ chịu trách nhiệm điều phối và sử dụng viện trợ nước ngoài, với nhận thức sâu sắc rằng nhân dân Việt Nam sẽ là người gánh chịu cái giá phải trả cho sự thất bại nếu nguồn vốn này sử dụng không có hiệu quả.” Vì vậy, có thể nói, trong thời gian qua nguồn vốn ODA đã góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam cũng như cho ngành giáo dục nói riêng. Được sự quan tâm của Đảng, Chính phủ cũng như các bộ ngành, rất nhiều dự án ODA đã được thu hút để phục vụ cho sự phát triển đất nước.Các dự án không chỉ phục vụ riêng mục đích của lĩnh vực đầu tư, mà còn có tác động sâu rộng về mặt xã hội, hướng tới các đích cuối cùng là sự phục vụ cuộc sống con người, vì chất lượng cuộc sống con người. Nhờ thế mà hệ thống giáo dục đã bước đầu đa dạng hoá cả về loại hình, phương thức và nguồn lực … từng bước hoà nhập với xu thế chung của giáo dục thế giới. Sự công bằng trong giáo dục nhờ đó cũng được tăng cường, tạo điều kiện để con em gia đình thuộc diện chính sách, con em dân tộc thiểu số, con em các gia đình nghèo có điều kiện học tập lên cao, phát huy năng lực của mình. Công tác thu hút, quản lý và sử dụng ODA đã có nhiều cải tiến nhưng nhìn chung vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần được xem xét, nghiên cứu hoàn thiện để tăng cường hiệu quả của nguồn vốn này. Trong tương lai, để đạt được những mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội cũng như của riêng ngành giáo dục thì phải đầu tư nhiều hơn nữa vào ngành giáo dục vì giáo dục trong thế kỷ XXI là chìa khoá để tiến tới một thế giới tốt đẹp hơn. Bối cảnh quốc tế và trong nước vừa tạo thời cơ lớn, vừa đặt ra những thách thức không nhỏ cho giáo dục nước ta và việc thu hút các nguồn lực bên ngoài. Nguồn cung cấp ODA trên thế giới đang ngày một suy giảm trong khi số lượng các nước xin tài trợ thì lại tăng lên. Vì vậy đòi hỏi Việt Nam nói chung cũng như ngành giáo dục phải nỗ lực hơn nữa nhằm tăng khả năng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả hơn, để từ đó có thể xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại, nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực,nâng cao phẩm chất toàn diện của con người Việt Nam trong thời đại mới, thúc đẩy tiến bộ xã hội, giúp Việt Nam hội nhập và khẳng định tốt hơn vị trí của mình trên trường quốc tế. Thay cho lời kết, em xin được trích lời phát biểu của thủ tướng Phan Văn Khải tại Hội nghị triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới ngày 17/ 04/ 2002: “Than có thể khai thác mãi rồi sẽ hết, dầu khí khai thác mãi rồi sẽ hết, nhưng con người Việt Nam thì hết thế hệ này qua thế hệ khác mãi mãi là nguồn lực vô tận, là sức mạnh của chúng ta. Thời cơ chỉ trong vòng 10 – 15 năm tới. Từ đây cho đến năm 2010 nhất thiết chúng ta phải tập trung cho giáo dục, khắc phục nhược điểm, đầu tư cho giáo dục một cách đồng bộ, toàn diện. Trong thời kỳ này, nếu giáo dục của chúng ta không phát triển toàn diện, đạt tới chất lượng và trình độ cao để đảm bảo cho sự nghiệp có ý nghĩa lịch sử là hoàn thành việc xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thì chúng ta sẽ bỏ lỡ thời cơ đưa đất nước ta phát triển sánh vai với các nước trong khu vực và thế giới.” DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Hỗ trợ phát triển chính thức ODA- Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 1999. Hỗ trợ phát triển chính thức ODA- Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2000. Hỗ trợ phát triển chính thức ODA- Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2001. Hỗ trợ phát triển chính thức ODA- Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm2002. Tình hình tổng quan về ODA tại Việt Nam (chương trình phát triển Liên Hợp Quốc, UNDP- tháng 12/1998). Tình hình tổng quan về ODA tại Việt Nam (chương trình phát triển Liên Hợp Quốc, UNDP- tháng 12/1999). Tình hình tổng quan về ODA tại Việt Nam (chương trình phát triển Liên Hợp Quốc, UNDP- tháng 12/2000). Tình hình tổng quan về ODA tại Việt Nam (chương trình phát triển Liên Hợp Quốc, UNDP- tháng 12/2001). Tình hình tổng quan về ODA tại Việt Nam (chương trình phát triển Liên Hợp Quốc, UNDP- tháng 12/2002). Nhìn lại 5 năm thu hút và sử dụng ODA ở Việt Nam – Bộ Kế hoạch và Đầu tư - tháng 12/1997. Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài – Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng – NXB Chính trị Quốc gia 2002. Các đối tác phát triển của Việt Nam 1999- UNDP. Các đối tác phát triển của Việt Nam 2000- UNDP. Các đối tác phát triển của Việt Nam 2001- UNDP. Các đối tác phát triển của Việt Nam 2002- UNDP. Liên minh Châu Âu, các hoạt động hợp tác phát triển tại Việt Nam – tháng 9/2003. Đánh giá tác động của các dự án phát triển tới đói nghèo (sổ tay dành cho cán bộ thực hành) – Judy L.Baker – NXB Văn hoá Thông tin 2002. Hướng dẫn về quan hệ quốc tế trong giáo dục – Bộ Giáo dục và Đào tạo – NXB Giáo dục 2002. Viet Nam – secondary education sector master plan. (Main report volume II) – Illawarra/technology cooporation 2/2002 – ADB). On the road to education for all lessons learnt from inclusive education in Viet Nam ( project activities during 1991-2002 supported by save the children, Sweden) – National Political Publisher Ha Noi 2002. Giáo dục cho ai (Báo cáo đầu tư tài chính cho giáo dục cơ bản tại Việt Nam tập trung tại 3 tỉnh Lào Cai, Trà Vinh, Hà Tĩnh) – nhóm nghiên cứu: Bridget Crumpton, Nguyễn Công Giáp – báo cáo oxfam Anh tháng 4/2002. Báo cáo bổ sung về công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA 21/08/2003 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Basic design study report on the project for improvement of the facilities of primary schools (phase IV) in the Socialist Republic of Viet Nam – Bộ Giáo dục và Đào tạo tháng 9/1997. Danh tập các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam 2001- 2002. Báo Nhân dân số 44 ngày 2/11/2003. Các văn bản hướng dẫn giải ngân ODA – Bộ Tài chính 2000. Tạp chí Đầu tư & Phát triển số 9/1998. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 1(45)/ 1997, số 7(87)/2003. Economic Review N° 1, 15 (1998); 5, 8 (1999); 10 (2002). Thời báo Kinh tế Sài Gòn 20/04/2000. Tạp chí Kinh tế và Dự báo tháng 2/2000, tháng 9/2002. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế tháng 11/1998, tháng 9/2000, tháng 5/2001, tháng 8/2002. Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ tháng 8/2002. Tạp chí Con số và Sự kiện tháng 3/1997. Tạp chí Tài chính tháng 5/1997. Tạp chí Kinh tế – Kế hoạch tháng 6/1996, tháng 2/1998. Tạp chí Thông tin Tài chính tháng 8/1997. Viet Nam Economic Times , 9/2003. Ngành Giáo dục-Đào tạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 2( khoá VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX – Bộ Giáo dục và Đào tạo – NXB Giáo dục. Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI – Phạm Minh Hạc,NXB Chính trị Quốc gia 2002. Tạp chí thông tin kinh tế-xã hội số 1, 3, 12/2003. Tạp chí Giáo dục số 22, 23, 25 tháng 2/2002. Tạp chí Thông tin khoa học Giáo dục số 83, 84 tháng 1/2002. Tạp chí Thương mại số 28/2002. Đánh giá viện trợ : khi nào có tác dụng, khi nào không và tại sao – Báo cáo nghiên cứu chính sách của WB – NXB Chính trị Quốc gia 1999. Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0040.doc