LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) thì nguồn vốn hỗ trợ chính thức (ODA) cũng là một kênh huy động vốn đầu tư phát triển quan trọng đối với tất cả các quốc gia đang phát triển trong đó không thể không kể đến Việt Nam. Có thể nói, Việt Nam đang phải đứng trước rất nhiều những thách thức lớn ở hiện tại và trong những năm tương lai, đó là vừa phải đối mặt với việc phải đảm bảo tăng trưởng bền vững, vừa tiếp tục giảm tỷ lệ đói nghèo cũng như khoảng cách giàu nghèo, duy t
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1825 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thu hút, sử dụng nguồn vốn ODA ở Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rì khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, vừa đảm bảo môi trường trong sạch cho các thế hệ tương lai,…Trước những thách thức đó thì ODA sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng việc giúp đỡ Việt Nam đối mặt với những khó khăn, thách thức đó. Cùng với sự phát triển của đất nước, nền phát triển kinh tế- xã hội ở tỉnh Thái Bình cũng đi lên và có nhiều chuyển biến mới mẻ trong nhiều lĩnh vực. Một trong những nguyên nhân của sự phát triển đó là nhờ sự đóng góp của nguồn vốn ODA của nhiều nước trên Thế Giới. Càng về những năm gần đây thì vai trò của ODA với nền kinh tế- xã hội của tỉnh Thái Bình ngày càng được thể hiện rõ nét. Xuất phát từ đó, em đã chọn đề tài: “Thu hút, sử dụng nguồn vốn ODA ở Thái Bình” để nghiên cứu làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề gồm hai chương:
Chương 1: Thực trạng thu hút và sử dụng ODA ở Thái Bình
Chương 2: Giải pháp thu hút ODA về Thái Bình giai đoạn 2010- 2015
CHƯƠNG 1:
THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA Ở THÁI BÌNH
Tính tất yếu phải thu hút ODA ở Thái Bình
Giới thiệu chung về ODA:
ODA là nguồn vốn hỗ trợ chính thức từ bên ngoài bao gồm các khoản viện trợ và cho vay với điều kiện ưu đãi. ODA được hiểu là nguồn vốn dành cho các nước đang và kém phát triển được các các cơ quan chính thức của chính phủ trung ương và điạ phương hoặc các cơ quan thừa hành của chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ tài trợ. Vốn ODA phát sinh từ nhu cầu cần thiết của một quốc gia, được tổ chức quốc tế hay nước bạn xem xét và cam kết tài trợ thông qua một hiệp định quốc tế được đại diện có thẩm quyền hai bên nhận và hổ trợ vốn ký kết.Hiệp định ký kết hổ trợ nầy được chi phối bởi công pháp quốc tế.
Theo cách thức hoàn trả ODA có 3 loại:
+ Viện trợ không hoàn lại: là loại mà nước bên nhận không phải hoàn lại, nguồn vốn này nhằm để thực hiện các dự án ở nước nhận ODA, theo sự thỏa thuận trước giữa các bên. Có thể xem viện trợ không hoàn lại như một khoản thu ngân sách của Nhà nước, được cấp phát theo nhu cầu phát triển kinh tế. Viện trợ không hoàn lại chiếm 25% tổng số vốn ODA trên Thế Giới và được ưu tiên cho những lĩnh vực như giáo dục, y tế, môi trường…
+ Tín dụng ưu đãi: Vốn ODA có một lãi suất ưu đãi và một thời gian trả nợ thích hợp, tín dụng ưu đãi chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn ODA trên Thế Giới. Nó không được sử dụng cho mục tiêu xã hội, môi trường, mà thường được sủ dụng cho các dự án về cơ sở hạ tầng thuộc các lĩnh vực giao thông vận tải, nông nghiệp, thủy lợi, năng lượng…làm nền tảng vững chắc cho ổn định và tăng trưởng kinh tế. Các ưu đãi bao gồm: lãi suất thấp, thời gian trả nợ dài, có thời gian không trả lãi hoặc trả nợ.
+ ODA cho vay hỗn hợp: là loại kết hợp cả hai loại trên, một phần không hoàn lại và tín dụng ưu đãi.
- Đặc điểm của ODA:
+ Vốn ODA mang tính ưu đãi:
Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn) dài, thời gian ân hạn dài (chỉ trả lãi, chưa trả gốc). Đây cũng là một sự ưu đãi dành cho các nước vay. Vốn ODA của WB, ADB, ngân hàng hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) có thời gian hoàn trả là 40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm.
Thông thường, trong ODA có thành tố viện trợ không hoàn lại. Thành tố cho không được xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn và so sánh mức lãi suất viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại. Sự ưu đãi ở đây là so sánh với tín dụng thương mại quốc tế với tập quán quốc tế. Cho vay ưu đãi hay còn gọi là cho vay “mềm”. Các nhà tài trợ thường áp dụng nhiều hình thức khác nhau để làm “mềm” các khoản vay, chẳng hạn kết hợp một phần ODA không hoàn lại và một phần tín dụng gần với điều kiện thương mại tạo thành tín dụng hỗn hợp. Vốn ODA còn được thể hiện ở chỗ nó chỉ dành riêng cho các nước đang phát triển và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển.
+ Vốn ODA mang tính ràng buộc:
Vốn ODA có thể ràng buộc (hay ràng buộc một phần, hoặc không ràng buộc) nước nhận viện trợ về địa điểm chi tiêu. Ngoài ra, mỗi nước cung cấp viện trợ đều có những ràng buộc khác và nhiều khi các ràng buộc này rất chặt chẽ đối với nước nhận.
ODA luôn chứa đựng cả tính ưu đãi cho nước tiếp nhận và lợi ích của nước viện trợ. Vốn ODA mang yếu tố chính trị. Viện trợ của các nước đang phát triển không đơn thuần là việc trợ giúp hữu nghị mà còn là một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính trị cho nước tài trợ. Những nước cấp viện trợ đòi hỏi các nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của bên tài trợ. Khi nhận viện trợ, các nước nhận cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của các nhà tài trợ. Không vì lợi ích trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển chính thức phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi.
+ ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ:
Khi tiếp nhận và sử dụng vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ nần thường chưa xuất hiện. Một số nước do sử dụng không hiệu quả nên có thể tạo ra sự tăng trưởng nhất thời, nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Sự phức tạp chính là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, trong việc hoạch định các chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với các loại nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.
- Ưu điểm của ODA:
+ Lãi suất thấp (dưới 2%, trung bình từ 0,25%/năm)
+ Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25- 40 năm mới phải hoàn trả và thời gian ân hạn từ 8- 10 năm)
+ Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% của tổng số vốn ODA.
Bất lợi của ODA:
Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu vì an ninh- quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị… vì vậy họ đều có những chính sách hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế. Ví dụ:
Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao
Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới).
Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên.
Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp... có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần.
- Phân loại ODA:
+ Theo hình thức cung cấp:
ODA không hoàn lại: là hình thức cung cấp vốn ODA mà nước tiếp nhậ không phải hoàn trả lại cho các Nhà tài trợ.
ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): là khoản vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ, bảo đảm “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay ràng buộc;
ODA vay hỗn hợp: là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại, nhưng tính chung lại có “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.
+ Theo phương thức cung cấp:
ODA hỗ trợ dự án: là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án cụ thể. Nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không hoặc cho vay ưu đãi.
ODA phi dự án: bao gồm hai loại là Hỗ trợ cán cân thanh toán ( thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp hoặc hỗ trợ hàng hóa, hỗ trợ nhập khẩu, ngoại tệ hoặc hàng hóa được chuyển qua hình thức này có thể được sử dụng để hỗ trợ ngân sách.
ODA hỗ trợ chương trình: là khoản vốn ODA dành cho một mục đích tổng quát với thời gian nhất định mà không phải xác định một cách chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào.
+ Theo nhà tài trợ:
ODA song phương: là nguồn vốn ODA của các tổ chức quốc tế cung cấp cho Chính phủ nước tiếp nhận. So với vốn ODA đa phương ít chịu ảnh hưởng bởi các áp lực thương mại, nhưng đôi khi lại chịu những áp lực mạnh hơn về chính trị.
ODA đa phương: nhiều nước hình thành một quỹ (hoặc tổ chức) để viện trợ, tài trợ cho một nước
Điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội ở Thái Bình:
Vị trí địa lý:
Thái Bình là một tỉnh ven biển, thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh. Cách Thủ đô Hà Nội 110 km.
Phía bắc giáp tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và Thành phố Hải Phòng. Phía tây và tây nam giáp tỉnh Nam Định và Hà Nam. Phía đông giáp Vịnh Bắc Bộ.
Diện tích đất tự nhiên: 1.647,7 Km2 chiếm 0,5% diện tích đất đai của cả nước.
Toàn tỉnh có 7 huyện, 1 thành phố, trong đó có 284 xã, phường, thị trấn.
Đặc điểm địa hình:
Là một tỉnh đông bằng có địa hình tương đối bằng phằng với độ dốc nhỏ hơn 1%, cao trình biến thiên phổ biến từ 1- 2m so với mực nước biển, thấp dần từ bắc xuống đông nam.
Thủy văn, hải triều:
Thái Bình được bao bọc bởi hệ thống sông biển khép kín, có bờ biển dài trên 50Km và có 4 sông lớn chảy qua địa phận của tỉnh: Phía bắc và đông bắc có sông Hóa dài 35,3Km, phía bắc và tây bắc có sông Luộc ( phân lưu của sông Hồng) dài 53Km, phía tây và nam đoạn hạ lưu của sông Hồng dài 67Km, sông Trà lý (phân lưu cấp 1 của sông Hồng) chảy qua giữa tỉnh và từ tây sang đông dài 65Km. Đồng thời có 5 cửa sông lớn (Văn Úc, Diêm Điền, Ba Lạt, Trà lý, Lân). Các sông này đều chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều, mùa hè mức nước dâng nhanh, lưu lượng lớn, hàm lượng phù sa cao, mùa đông lưu lượng giảm nhiều, lượng phù sa không đáng kể. Nước mặn ảnh hưởng sâu vào đất liền(15-20Km).
Khí hậu:
Thái Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa: mùa nóng, mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10, mùa lạnh từ tháng 11 đến trước tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình trong năm là 23- 24 độ C,thấp nhất là 4 độ C, cao nhất là 38độ C. Lượng mưa trung bình là 1.400mm- 1.800mm. Số giờ nắng trong nắng trong năm 1.600-1800mm. Số giờ nắng trong năm 1.600- 1800 giờ, lượng bốc hơi là 728mm/năm. Độ ẩm trung bình vào khoảng 85- 90%.
Tiềm năng tài nguyên khoáng sản và nguồn nhân lực:
Tài nguyên đất:
Đất đai Thái Bình phì nhiêu, màu mỡ, nổi tiếng “bờ xôi, rượng mật” được bồi tụ bởi hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Hệ thống công trình thủy lợi tưới tiêu thuận lợi, góp phần làm nên cánh đồng 14-15 tấn/ha và đang thực hiện chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp để xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/ha trở lên.
Tổng diện tích tự nhiên 153,596 ha. Trong đó: Diện tích cây trồng hàng năm là 94,187 ha; Ao hồ đã đưa vào sử dụng: 6.018 ha. Hầu hết đất đai đã được cải tạo hàng năm có thể trồng được 3-4 vụ, diện tích có khả năng làm vụ đông khoảng 40.000 ha.
Nước mặn chiếm khoảng 17 Km2 chủ yếu giành cho hoạt động khai thác hải sản. Tổng trữ lượng hải sản vùng ven biển Thái Bình khoảng 26.000 tấn. Trong đó trữ lượng cá 24.000- 25.000 tấn, tôm 600- 1.000 tấn, mực 700-800 tấn…Khả năng khai thác tối đa cho phép 12.000- 13.000 tấn: Các loại khai thác chính là cá Trích, cá Đé, cá Khoai, cá Đối, cá Vược…các loài tôm: tôm Vầng, tôm Bộp, tôm He..Hiện tại mới duy trì các hoạt động đánh bắt nhỏ, khai thác tự nhiên, phần lớn là nguồn cung cấp nguyên liệu để chế biến các mặt hàng truyền thống như nước mắm, mắm tôm và chế biến thức ăn thủy sản.
Vùng nước lợ : Chủ yếu ở các khu vực cửa sông Hồng, sông Thái Bình và sông Trà lý có các nguồn phù du sinh vật, các loại tảo thực vật, thủy sinh phong phú làm thức ăn thức ăn tự nhiên cho nuôi trồng thủy sản. Vùng này có khoảng 20.705 ha( Tiền hải 9.949 ha, Thái thụy 10.756 ha), trong đó diện tích có khả năng phát huy nuôi trồng thủy sản nước lợ là 15.839 ha (Tiền Hải 7.179 ha, Thái Thụy 8.660 ha). Hiện đã đưa vào khai thác 3.629 ha để nuôi trồng thủy sản: tôm, cua, sò, hến, trồng rau câu.
Bên cạnh đó Thái Bình còn có các cồn cát ven biển như: Cồn Vành, Cồn Thủ, Cồn Đen và vùng đất ngập mặn rất thích hợp trồng tập trung cây sú vẹt, bần. Hiện tại có gần 5.000 ha rừng vừa giữ đất, vừa chắn song, vừa tạo môi trường sinh thái và cảnh quan thiên nhiên du lịch ven biển.
Vùng nước ngọt: tổng diện tích có khả năng nuôi thủy sản là 9.256 ha, hiện mới đưa vào nuôi khoảng 6.020 ha. Ngoài ra còn có trên 3.000 ha vùng lúa ruộng trũng cấy 1 vụ năng suất thấp có thể chuyển sang nuôi thủy sản.
Thái Bình có triền cỏ ven đê, ven sông và hệ thốnng kênh mương ao hồ rộng khắp là điều kiện phát triển chăn nuôi tray bò, bò sữa, lợn, gà, vịt, cá…
Nguồn nước ngọt cho nhu cầu dân sinh và công nghiệp tương đối dồi dào, chủ yếu là nguồn nước mặt của các sông lớn.
Tài nguyên khoáng sản:
Nguồn khí mỏ, nước khoáng: Thái Bình có mỏ khí đốt Tiền Hải ( C) đã được khai thác từ năm 1986 với sản lượng khai thác bình quân mỗi năm hàng chục triệu m3 khí thiên nhiên phục vụ cho sản xuất đồ sứ, thủy tinh, gạch ốp lát, xi măng trắng…thuộc KCN Tiền Hải. Tháng 5-6 năm 2003, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã tiến hành khai thác khí ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ đưa vào phục vụ phát triển công nghiệp của tỉnh ( trữ lượng ước tính ban đầu khoảng 7 tỷ m3)
Mỏ nước khoáng Tiền Hải ở độ sâu 450 m có trữ lượng tĩnh khoảng 12 triêụ m3, đã khai thác từ năm 1992, sản lượng 9,5 triệu lít được trong và ngoài nước biết đến với các nhãn hiệu nước khoáng Vital và nước khoáng Tiền Hải.
Gần đây vùng đất xã Duyên Hải huyện Hưng Hà đã thăm dò và phát hiện mỏ nước nóng 57 độ C ở độ sâu 50m và nước nóng 72 độ ở độ sâu 178m đang đầu tư khai thác phục vụ phát triển du lịch và chữa bệnh cho nhân dân.
Trong lòng đất Thái Bình còn có than nâu thuộc bể than nâu vùng đồng bằng sông Hồng, được đánh giá có trữ lượng rất lớn (hơn 30 tỷ tấn), nhưng phân bổ ở độ sâu 600- 1.000 m, hiện chưa đủ điều kiện cho phép khai thác.
Tiềm năng du lịch:
Thái Bình có cảnh quan thiên nhiên tương đối thuần khiết của miền đồng bằng ven biển. Khách du lịch có thể thăm các cồn đảo ven biển- nơi dừng chân của các loài chim quý, cảnh thiên hoang dã của rừng ngập mặn , cồn đảo có bãi tắm thoải cát trắng hoặc đi thăm các vùng quê- nơi có cá lễ hội truyền thống và những công trình văn hóa được xếp hạng như chù Keo nổi tiếng được xây dựng từ thế kỷ thứ XI triều Lý, đền Tiên La, đền Đồng Bằng, từ đường Lê Quý Đôn, đền thờ, lăng mộ- nơi phát tích của nhà Trần tại huyện Hưng Hà, nhà lưu niệm Bác Hồ tại xã Tân Hòa, Vũ Thư,… và có gần 82 lễ hội đặc sắc của quê hương, 16 loại hát múa, trò chơi như: chiếu chèo “làng Khuốc”, trò múa rối nước “làng Nguyễn”(Đông Hưng) và làng vườn Bách Thuận ( Vũ Thư)…
Bộ Quốc Phòng đã phối hợp với UBND tỉnh xây dựng đường ra cồn vành, biến nơi đây thành khu du lịch kết hợp an ninh quốc phòng. Và dự án đã được triển khai và đang trong giai đoạn hoàn thành.
Khách sạn du lịch Thái Bình đang được đầu tư nâng cấp thành khách sạn 3-4 sao và một số khách sạn, nhà nghỉ mát tại khu du lịch Đồng Châu đang được cải tạo…
Tiềm năng về nhân tố con người:
Thái Bình có cảnh quan thiên nhiên tương đối thuần khiết của miền đồng bằng ven biển. Khách du lịch có thể thăm các cồn đảo ven biển- nơi dừng chân của các loài chim quý, cảnh thiên hoang dã của rừng ngập mặn , cồn đảo có bãi tắm thoải cát trắng hoặc đi thăm các vùng quê- nơi có cá lễ hội truyền thống và những công trình văn hóa được xếp hạng như chù Keo nổi tiếng được xây dựng từ thế kỷ thứ XI triều Lý, đền Tiên La, đền Đồng Bằng, từ đường Lê Quý Đôn, đền thờ, lăng mộ- nơi phát tích của nhà Trần tại huyện Hưng Hà, nhà lưu niệm Bác Hồ tại xã Tân Hòa, Vũ Thư,… và có gần 82 lễ hội đặc sắc của quê hương, 16 loại hát múa, trò chơi như: chiếu chèo “làng Khuốc”, trò múa rối nước “làng Nguyễn”(Đông Hưng) và làng vườn Bách Thuận ( Vũ Thư)…
Bộ Quốc Phòng đã phối hợp với UBND tỉnh xây dựng đường ra cồn vành, biến nơi đây thành khu du lịch kết hợp an ninh quốc phòng. Và dự án đã được triển khai và đang trong giai đoạn hoàn thành.
Khách sạn du lịch Thái Bình đang được đầu tư nâng cấp thành khách sạn 3-4 sao và một số khách sạn, nhà nghỉ mát tại khu du lịch Đồng Châu đang được cải tạo…
Cơ sở hạ tầng- Giao thông vận tải:
Thái Bình là tỉnh có mạng lưới giao thông đường bộ, đường thủy phát triển sớm và rất nhanh so với cả nước. Bình quân mật độ lưới đường là 3,72Km/Km2 và 3,12 Km/1.000 người. Toàn tỉnh cso 5.614 Km đường ô tô, trong đó quốc lộ là 98 km, đường tỉnh là 312 km, còn lại là đường giao thông nông thôn.
Hệ thống đường bộ của tỉnh được phân bố hợp lý và từng bước được nâng cấp. Tỷ lệ rải đá, láng nhựa đường tỉnh, huyện, liên xã chiếm 100%. Tuyến quốc lộ 10 đã được nâng cấp và mở rộng thành đường cấp III Đồng Bằng, cầu Tân Đệ, Triều Dương, Quý Cao đã nối liền đường bộ với Nam Định vùng tam giác tăng trưởng kinh tế Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Nội.
Quốc lộ 39 đầu tuyến nối liền đường bộ với HƯng Hà và thông thương thuận tiện theo quốc lộ 5, cuối tuyến ra cảng biển Diêm Điền, qua trung tâm khu kinh tế Diêm Điền sang Hải Phòng ( cầu Hồng Quỳnh sang sông Hóa).
Tuyến sang Hải Dương qua đường 217 đang được nâng cấp thành cấp IV đồng bằng.
Cảng Diêm Điền là cảng Quốc gia đã được đầu tư xây dựng giai đoạn I cho tàu 600 tấn ra vào làm hàng. Cảng sông còn có cảng Tân Đệ, cách Thành phố 11km đã có dự án đầu tư để đón tầu trọng tải 1.000 tấn cập cảng.
Các tuyến đường giao thông thủy bộ của tỉnh đã và đang được đầu tư xây dựng và cùng các cảng biển, cảng sông rộng khắp đã phá thế “ốc đảo” của Thái Bình mở ra khả năng giao thông thuận tiện tới các vùng miền trong cả nước, tạo điều kiện đẩy mạnh phát triển kinh tế và thu hút đầu tư vào tỉnh Thái Bình.
Hệ thống điện:
Thái Bình là một trong những tỉnh đứng đầu cả nước về quy mô phát triển mạng lưới điện phục vụ sản xuất và đời sống. Toàn tỉnh đã có 100% số xã và 99,9% hộ nông dân nông thôn có điện phục vụ sinh hoạt. Hệ thống lưới điện của tỉnh đã được nâng cấp thành. Đã xây dựng trạm biến áp 125 MVA cấp điện áp 220 KV cho các trạm 110 KV của các huyện. Hầu hết các tuyến đường điện của huyện đều là 100KV, 35 KV và mạng lưới điện rộng khắp đủ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và phát triển sản xuất kinh doanh của tỉnh trong những năm tới.
Hệ thống cấp thoát nước:
Các công trình cấp nước sạch đnag từng bước được đầu tư và xây dựng. Nhà máy nước TP đã được cải tạo và nâng cấp từ 2 vạn m3/ngày đêm lên đến 4 vạn m3/ ngày đêm (thiết bị mua từ nguồn vốn vay của Phần Lan).
Bưu chính viễn thông:
Các tổng đài kỹ thuật số đã được trang bị ở tất cả các trung tâm Thành phố, huyện, tiểu vùng kinh tế, 100% xã có điện thoại. Các tuyến truyền dẫn liên tỉnh, nội tỉnh, vi ba và cáp quang có tiêu chuẩn công nghệ vào loại bậc nhất hiện nay. Các loại dịch vụ như 1080, chuyển phát nhanh, điện hoa, nhắn tin, tiết kiệm bưu điện, di động, internet, điện thoại thẻ… Mạng lưới bưu chính viễn thông của Thái Bình có trình độ công nghệ cao hòa nhập với trong nước, khu vực và Thế Giới.
Tài chính ngân hàng:
Ngoài Ngân Hàng Nhà Nước tỉnh thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, còn có các tổ chức tín dụng Nhà nước chi nhánh tại địa phương: Ngân hàng công thương, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư và phát triển, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Chính sách XH…76 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và 1 quỹ tín dụng khu vực tỉnh; thuộc hệ thống ngân hàng. Các đơn vị trên đã và đang đổi mới phương thức hoạt động góp phần nâng cao chất lượng phục vụ.
Các cơ sở đào tạo:
Trên địa bàn Thái Bình có trường Đại học Y TB, Đại học công nghiệp TP HCM, trường Cao đẳng Sư phạm, trường Cao đẳng Y, Cao đẳng Kỹ thuật, trường Công nhân xây dựng và các trung tâm dạy nghề ở các huyện và một số trung tâm khác…Các cơ sở đào tạo dạy nghề trong tỉnh đang được đầu tư nâng cấp để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trong tỉnh.
ODA và sự phát triển của Việt Nam:
15 năm kể từ ngày các nhà tài trợ dành cho Việt Nam họp tại Paris diễn ra vào tháng 11.1993, đánh dấu mốc Việt Nam bắt đầu nhận viện trợ ODA, nguồn vốn này đã trở thành một phần không thể thiếu được trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhờ có sự hỗ trợ bởi các khoản vốn và những kinh nghiệm phát triển quý báu từ nguồn vốn ODA, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của Việt Nam đã được cải thiện và Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong các lĩnh vực như xã hội, y tế, giáo dục, tăng cường thể chế, bảo vệ môi trường, phát triển nông thôn, đặc biệt là trong công tác xóa đói giảm nghèo…
Cũng năm đó, sau khi nối lại quan hệ với các định chế tài chính quốc tế, đến nay đã có gần 50 nhà tài trợ đa phương và song phương cùng 350 tổ chức chính phủ với 1.500 chương trình, dự án dành cho Việt Nam. Đứng đầu trong các quốc gia và tổ chức trên là Nhật Bản, Ngân Hàng Thế Giới, Ngân Hàng Phát triển châu Á với tổng số vốn cam kết chiếm 70- 80% tổng nguồn vốn ODA hằng năm mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam. Kể từ đó đến nay, đã có tới 22 tỉ USD được giải ngân tròng tổng số 42,5 tỷ USD vốn ODA cam kết. Cho đến gần đây, Việt Nam luôn được coi là một trong những quốc gia sử dụng hiệu quả vốn ODA nhất trên Thế Giới, đưa tỷ lệ xóa đói giảm nghèo giảm từ khoảng 58% năm 1992 xuống khoảng 15% năm 2007.
Trong giai đoạn năm 2000 đến nay, khi điều kiện nguồn vốn của các nước phát triển dành cho các nước đang phát triển ngày càng giảm sút thì nguồn vốn cam kết ODA dành cho Việt Nam năm sau luôn cao hơn năm trước.
Nhìn lại 15 năm tiếp nhận nguồn vốn ODA, bức tranh thu hút và sử dụng ODA không phải hoàn toàn là màu hồng. Nguyên nhân là do vẫn còn tồn tại một số vấn đề. Trước tiên là do quy trình và thủ tục nội bộ của Việt Nam đối với việc quản lý và sử dụng ODA còn một số điểm gây trở ngại cho quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án.
Các quy trình thủ tục quản lý ODA của Việt Nam và nhà tài trợ chưa hài hòa, gây chậm trễ trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án, làm giảm hiệu quả đầu tư và tăng chi phí giao dịch. Giám đốc Ngân hàng phát triển châu Á, Ayumi Konishi đã nhận định: Để đảm bảo phát triển, thu hồi vốn và hoàn trả vốn, VN cần đảm bảo dự án không bị chậm. Nếu không, khi hết thời gian ân hạn, VN sẽ không thể hoàn vốn. Nếu giữ nhịp độ giải ngân hiện nay, VN có nguy cơ nợ nước ngoài lớn hơn khi trở thành nước có thu nhập trung bình.
Người đứng đầu Chính phủ VN đã khẳng định Việt Nam “ luôn trân trọng từng đồng vốn ODA”. Trong khi đó Bộ trưởng Bộ kế hoạch – Đầu tư Võ Hồng Phúc sau khi có được cam kết tài trợ ODA năm nay nói rằng ông “rất cảm động” với cam kết của các nhà tài trợ trong bối cảnh như hiện nay. Hi vọng chính phủ sẽ biến điều đó thành hành động cụ thể quyết liệt thông qua việc đẩy nhanh tốc độ giải ngân và nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng đồng vốn quý báu này.
Sự cần thiết phải thu hút ODA ở Thái Bình:
Trong thời gian qua, ODA đã hỗ trợ thực hiện thắng lợi nhiều nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đất nước thông qua việc cung cấp vốn, bao gồm cả vốn ODA không hoàn lại và ODA vốn vay ưu đãi để xây dựng các công trình và cung cấp dịch vụ tư vấn về tăng cường năng lực thể chế (Hỗ trợ xây dựng chính sách, luật pháp, năng lực quản lý và điều hành kinh tế...) và đào tạo con người.
Những thành tựu đã đạt được trên các lĩnh vực phát triển kinh tế và xã hội, thu hút các nguồn vốn đầu tư, xoá đói, giảm nghèo, tăng cường năng lực thể chế và năng lực con người... đều có sự đóng góp không nhỏ của ODA.
Cũng như các tỉnh khác trên đất nước, Thái Bình cũng là một trong những tỉnh mà những năm gần đây nhờ có nguồn vốn ODA mà nền kinh tế- xã hội của Thái Bình đã và đang phát triển trên nhiều lĩnh vực và phương diện.
Trước tình hình nguồn vốn đầu tư và phát triển trong nước gặp nhiều khó khăn, khả năng đầu tư cho các dự án không đáp ứng đủ nhu cầu. Sau nhiều năm được Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương Mại, Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Y tế... gợi mở và tạo điều kiện, Các Ban, ngành, doanh nghiệp địa phương đã tiến hành lập các dự án khả thi để trình các cán bộ UBND, Sở Kế hoạch và đầu tư thẩm định, phê duyệt và kêu gọi các nguồn đầu tư, trong đó ODA là một nguồn không thể thiếu trong nguồn vốn đầu tư của tỉnh.
Tuy là một tỉnh nông nghiệp nhưng Thái Bình vẫn đang cố gắng hòa cùng công cuộc công nghiệp hóa của cả nước và nguồn vốn ODA đã trở thành một trong những nguồn vốn không thể thiếu trong công cuộc phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh nói chung và công nghiệp hóa nói riêng.
Thực trạng thu hút, sử dụng và quản lý ODA ở Thái Bình:
Tổng quan thu hút, sử dụng và quản lý ODA Việt Nam:
Tình hình thu hút, sử dụng và quản lý ODA ở Việt Nam giai đoạn 2001-2005:
Trong thời kỳ 2001-2005 công tác vận động ODA tiếp tục được tiến hành theo chủ trương đối ngoại của Đảng và Nhà nước: “Việt Nam sẵn sàng là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Trong 5 năm qua Việt Nam liên tục duy trì tổ chức Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam (Hội nghị CG). Đây là diễn đàn quan trọng được tổ chức hàng năm để trao đổi ý kiến giữa Chính phủ và Cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế tại Việt Nam về quá trình phát triển của Việt Nam và hoạt động điều phối ODA để hỗ trợ quá trình này. Ngoài Hội nghị CG thường niên, còn có các Hội nghị CG giữa kỳ không chính thức được tổ chức tại các địa phương, tạo điều kiện cho các nhà tài trợ nắm bắt nhu cầu phát triển ưu tiên, cũng như tiếp xúc với những người thụ hưởng viện trợ. Nhờ vậy, công tác vận động ODA của Việt Nam sống động và thiết thực. Công tác vận động ODA cũng còn được thực hiện thông qua các hoạt động đối ngoại của các lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ, lãnh đạo các Bộ, ngành và địa phương, các đoàn thể chính trị, xã hội, các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài và đã đạt được những kết quả rõ rệt với mức cam kết ODA hàng năm đều tăng, năm sau cao hơn năm trước, đạt tổng lượng 14.597 triệu USD trong giai đoạn 2001-2005.
Biểu 1: Tổng cam kết ký và giải ngân ODA của Việt Nam giai đoạn 2001-2005
So sánh tỷ lệ ODA ký trên GDP với các nước có trình độ phát triển kinh tế tương đương, tỷ lệ này của Việt Nam khá thấp trong giai đoạn 2001 - 2005 đạt trung bình 3,5-4,5% (tỷ lệ này trung bình của các nước tiếp nhận ODA trên thế giới là 9%).
Trong thời kỳ 2001-2005, tổng vốn ODA giải ngân đạt 7.840 triệu USD, tương đương 53,73% tổng lượng ODA cam kết cùng kỳ.
Tuy giải ngân ODA hàng năm có tăng, song mới chỉ đạt 70-80% mức kế hoạch giải ngân đề ra. Tỷ lệ giải ngân ODA của một số nhà tài trợ tại Việt Nam vẫn thấp hơn so với tỷ lệ giải ngân của những nhà tài trợ đó trong khu vực và trên thế giới.
Hiện nay ở Việt Nam có 51 nhà tài trợ song phương và đa phương, trong đó 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương có các chương trình ODA thường xuyên. Tuy tập quán tài trợ phát triển quốc tế không coi tài trợ của các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài (NGO) là ODA, song với một số lượng lớn của các tổ chức này hoạt động tại Việt Nam (gần 600 tổ chức) và quy mô tài trợ hàng năm khoảng 100 triệu USD trong nhiều lĩnh vực khác nhau, nhất là ở cấp cơ sở, do vậy cũng cần được tính đến trong việc thu hút, quản lý và sử dụng viện trợ nước ngoài.
Hầu hết các nhà tài trợ đều có chiến lược hoặc chương trình hợp tác trung hạn về hợp tác phát triển với Việt Nam. Các mô hình cung cấp ODA và các quy trình, thủ tục ODA của các nhà tài trợ không giống nhau. Để giảm chi phí giao dịch ODA và nâng cao hiệu quả nguồn lực này, Việt Nam và các nhà tài trợ đang hợp tác để hài hoà quy trình và thủ tục ODA, tuân thủ hệ thống quốc gia và nâng cao hiệu quả viện trợ trong khuôn khổ Tuyên bố của Hội nghị thượng đỉnh Pa-ri về hiệu quả viện trợ (tháng 3/2005), Cam kết Hà Nội và Kế hoạch hành động về hài hoà quy trình và thủ tục ODA đã được thoả thuận giữa Việt Nam và các nhà tài trợ hoạt động tại Việt Nam.
Việc thu hút và sử dụng ODA trong giai đoạn vừa qua đã được Đảng và Nhà nước đánh giá cao và về cơ bản có hiệu quả. “... Việc thu hút và sử dụng ODA trong 10 năm qua đã được thực hiện theo các quan điểm, chủ trương và đường lối chỉ đạo của Đảng tại các văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước: ưu tiên sử dụng nguồn lực này để hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, góp phần tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân”. Các nhà tài trợ cũng thống nhất nhận định ODA ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua đã đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và xoá đói, giảm nghèo.
* Các thành quả đạt được ở giai đoạn này:
Thứ nhất, việc thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua góp phần quan trọng trong việc thực hiện thành công chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá, giữ vững độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia.
Việc nối lại quan hệ hợp tác phát triển với Việt Nam của Cộng đồng tài trợ quốc tế vào năm 1993 thể hiện sự đúng đắn của chính sách đối ngoại của Đảng v._.à Nhà Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh lúc đó Việt Nam còn bị bao vây và cấm vận.
Cam kết tài trợ với quy mô khá lớn, hơn 29 tỷ USD, trong suốt giai đoạn 1993-2004 là một minh chứng về sự đồng tình và ủng hộ chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn, hợp lòng dân của Đảng và Nhà Việt Nam.
Các khoản vay và viện trợ không hoàn lại có gắn với các điều kiện cam kết chính sách để hỗ trợ cải cách như Khoản vay tín dụng dự phòng (SBA) và Chuyển đổi cơ cấu (STF) của IMF, Tín dụng điều chỉnh cơ cấu (SAS) của WB, Khoản vay theo sáng kiến Myazawa của Nhật Bản hỗ trợ khu vực tư nhân đã hỗ trợ cho ngân sách hơn 1,5 tỷ USD. Song đây không phải là “sự mặc cả”, là “sự trả giá” để đổi lấy viện trợ. Trái lại, cải cách của Việt Nam đã tiến hành theo lộ trình đã đặt ra, phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam, đồng thời đáp ứng nguyện vọng của các nhà tài trợ nên các khoản vay chính sách này đã đóng góp tích cực cho việc chuyển đổi sang kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước.
ODA đã là cầu nối trong quan hệ của Việt Nam với các nước và tổ chức quốc tế, góp phần củng cố và nâng cao vị thế của Việt Nam ở trong khu vực và trên thế giới, đồng thời quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới. Một khi nhà tài trợ đã tin tưởng vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đã cam kết mạnh mẽ ủng hộ công cuộc Đổi mới thì đó là một nhân tố tích cực tác động tới giới đầu tư nước ngoài an tâm và mạnh dạn đầu tư vào Việt Nam.
Thứ hai, ODA đã bổ sung một nguồn vốn quan trọng cho đầu tư từ ngân sách để phát triển kinh tế-xã hội.
Trong thời kỳ 2001-2005 nguồn vốn ODA đã bổ sung khoảng 11% cho tổng vốn đầu tư toàn xã hội và nguồn vốn ODA cấp phát qua ngân sách nhà nước chiếm trung bình khoảng 17% tổng đầu tư từ ngân sách. ODA đã thực sự trở thành kênh vốn bổ sung quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Mặc dù phải huy động nguồn vốn ODA khá lớn, trong đó khoảng 80% là vốn vay ưu đãi, tính đến ngày 31/12/2004 nợ ODA của Việt Nam khoảng 9 tỷ USD. Theo chiến lược vay trả nợ nước ngoài đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hiện nay nợ nước ngoài của Việt Nam nằm trong ranh giới an toàn. Tổng số nợ nước ngoài của toàn bộ nền kinh tế năm 2001 (số trong ngoặc là giới hạn tối đa theo kinh nghiệm quốc tế) bằng 39% GDP (50-60%), bằng 83,7% kim ngạch xuất khẩu (150%), dịch vụ trả nợ (số tiền trả nợ gốc và lãi) bằng 9,9% kim ngạch xuất khẩu (15%), dịch vụ trả nợ Chính phủ bằng 6,0% tổng thu ngân sách Nhà nước (10%). WB cũng đánh giá nợ nước ngoài của Việt Nam nằm trong ranh giới an toàn.
Thứ ba, ODA trong giai đoạn vừa qua đã hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, cải thiện các dịch vụ xã hội, xoá đói, giảm nghèo.
Trong thời kỳ 2001-2005, nguồn vốn ODA đã được sử dụng tập trung cao cho phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội. Trên đại thể cơ cấu nguồn vốn ODA chia theo các lĩnh vực như sau:
Bảng 1: Cơ cấu ODA ký kết theo ngành, lĩnh vực thời kỳ 2001- 2002:
CƠ CẤU ODA KÝ KẾT THEO NGÀNH, LĨNH VỰC THỜI KỲ 2001-2005
Đơn vị: triệu USD
Ngành lớn
Tổng ODA
ODA vay
(ký kết)
ODA viện trợ
(ký kết)
% tổng ODA
NNPTNT và xóa đói giảm nghèo
1607,43
1299,63
307,80
16,05
Công nghiệp - năng lượng
1582,49
1536,40
46,09
15,80
Giao thông vận tải - Bưu chính viễn thông
2540,76
2444,61
96,15
25,36
Khoa học công nghệ - Môi trường
1005,30
725,78
279,52
10,03
Y tế - Giáo dục – Xã hội
1062,67
483,70
578,97
10,61
Ngành khác
2218,85
1804,94
413,91
22,15
Tổng
10017,50
8295,06
1722,44
100,00
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Riêng 2005, tính hết 6 tháng đầu năm
Trong cơ sở hạ tầng kinh tế, ngành Giao thông vận tải - Bưu chính viễn thông được ưu tiên cao nhất với số vốn ODA hơn 2,54 tỷ USD, trong đó chủ yếu là ODA vốn vay ưu đãi, vốn ODA không hoàn lại chỉ chiếm gần 3,78%. Nhờ tập trung vốn ODA quy mô lớn nên hầu hết các lĩnh vực của ngành này đều có bước phát triển khá, nhất là lĩnh vực đường bộ. Nhiều công trình giao thông được cải tạo và xây dựng mới góp phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo như hệ thống đường bộ ở phía Bắc (Quốc lộ 5, 10, 18), Quốc lộ 1A, đường xuyên Á Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài, hầm đường bộ đèo Hải Vân, cảng biển nước sâu Cái Lân, cải tạo và nâng cấp cảng Hải Phòng, cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), cảng Sài Gòn, nhà ga quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất, các cầu lớn như cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ, cầu Thanh Trì (Hà Nội), cầu Bãi Cháy... Ngoài ra, các lĩnh vực khác như đường sắt, đường thuỷ nội địa cũng có các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA góp phần cải tạo, nâng cấp và phát triển.
Lĩnh vực Bưu chính, viễn thông cũng có các dự án hỗ trợ tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật như dự án cáp quang ven biển, dự án điện thoại nông thôn…
Trong thời kỳ 2001-2005, ngành Công nghiệp - Năng lượng được đầu tư 1,58 tỷ USD vốn ODA để cải tạo, nâng cấp và phát triển mới nhiều nhà máy điện với công suất lớn (nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 2.1 công suất 288 MW; nhà máy nhiệt điện Phả Lại II công suất 600 MW; nhà máy thuỷ điện Hàm Thuận - Đa Mi công suất 475 MW; nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ I công suất 1.090 MW; nhà máy nhiệt điện Ô Môn công suất 600 MW; nhà máy thuỷ điện Đại Ninh công suất 360 MW...), cải tạo và phát triển lưới điện quốc gia, mạng phân phối truyền tải điện cho các thành phố, khu công nghiệp lớn, đáp ứng nhu cầu phụ tải, xây dựng các trạm biến áp, đường dây tải điện 500 KV và thực hiện các chương trình điện khí hoá nông thôn.
Ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo được khoảng 1,60 tỷ USD vốn ODA, trong đó khoảng hơn 19% là vốn ODA không hoàn lại. Nguồn vốn này đã được sử dụng cho: phát triển nông nghiệp (17,59%), phát triển lâm nghiệp (6,57%), xây dựng thuỷ lợi (26,39%), thuỷ sản (0,58%) và phát triển nông thôn xoá đói giảm nghèo (48,87%). Nhờ sự hỗ trợ của ODA, cơ sở hạ tầng ở nông thôn đã được cải thiện đáng kể (thuỷ lợi, lưới điện nông thôn, trường học, trạm y tế, giao thông nông thôn, cấp nước sinh hoạt, tín dụng nông thôn quy mô nhỏ...) góp phần phát triển nông thôn tổng hợp, xóa đói, giảm nghèo.
Về cơ sở hạ tầng xã hội, ODA đã được ưu tiên sử dụng hỗ trợ phát triển giáo dục, y tế, xã hội với tổng số vốn là 1,062 tỷ USD trong thời kỳ 2001-2005.
Trong lĩnh vực giáo dục, trong giai đoạn 2001-2005 Việt Nam đã tranh thủ được nguồn vốn ODA để đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác dạy và học của tất cả các cấp học (dự án giáo dục tiểu học, dự án trung học cơ sở, dự án trung học phổ thông, dự án giáo dục đại học, dự án dạy nghề...), đào tạo giáo viên, tăng cường năng lực công tác kế hoạch và quản lý giáo dục, gửi sinh viên ra nước ngoài đào tạo đại học và sau đại học, cử hàng nghìn cán bộ, viên chức đi nước ngoài đào tạo và đào tạo lại về các lĩnh vực kinh tế, khoa học, công nghệ và quản lý. Nhìn chung lại, ODA đã đóng góp cho ngân sách ngành giáo dục đáng kể từ 8-10% ngân sách hàng năm của ngành, đã góp phần tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho việc học và dạy của các trường, tăng cường năng lực con người và thể chế cho ngành giáo dục.
Trong lĩnh vực y tế, vốn ODA không hoàn lại chiếm tỷ trọng cao, 63,41% trong tổng vốn ODA trên 0,5 tỷ USD thời kỳ 2001-2005 đã được sử dụng để tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật cho công tác khám và chữa bệnh (xây dựng và tăng cường trang thiết bị y tế cho một số bệnh viện tuyến tỉnh và thành phố, các bệnh viện huyện và các trạm y tế xã), xây dựng cơ sở sản xuất kháng sinh, trung tâm truyền máu quốc gia... tăng cường công tác dân số và sức khoẻ sinh sản, phòng chống HIV/AIDS và bệnh truyền nhiễm như lao, sốt rét...; đào tạo cán bộ y tế, hỗ trợ xây dựng chính sách và nâng cao năng lực quản lý ngành.
Ngoài ra, trong giai đoạn 2001-2005, ODA đã được sử dụng để xây dựng hệ thống cấp nước sinh hoạt, thoát nước và xử lý rác thải ở hầu hết các thành phố lớn và ở nhiều thị xã của các tỉnh, góp phần cải thiện môi trường hiện đang là nhu cầu bức bách hiện nay của các đô thị và khu dân cư tập trung.
Thứ tư, ODA đã có đóng góp đáng kể để tiếp nhận khoa học công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tăng cường nguồn lực con người và phát triển thể chế.
Ngoài các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA trực tiếp tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác nghiên cứu khoa học, công nghệ (các phòng thí nghiệm ở các trường đại học, các viện nghiên cứu khoa học; xây dựng trạm viễn thám...), thông qua nhiều dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA các công nghệ mới, kỹ năng và kinh nghiệm quản lý tiên tiến được chuyển giao (công nghệ làm đường, làm cầu hiện đại, bảo vệ môi trường, chọn giống cây trồng, vật nuôi...).
ODA đã góp phần phát triển thể chế, nhất là hỗ trợ hoàn thiện và xây dựng mới nhiều bộ luật như Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Cạnh tranh, Luật Chống tham nhũng... cũng như công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật.
Các dự án ODA đã giúp nâng cao năng lực quản lý của các Bộ, ngành và các địa phương, trình độ chuyên môn và tiếng Anh của đội ngũ cán bộ cũng có bước tiến bộ đáng kể.
Thứ năm, nguồn vốn ODA góp phần phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói, giảm nghèo của nhiều địa phương nhất là các tỉnh nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
Bảng 2: Cơ cấu vốn ODA theo vùng do địa phương trực tiếp hưởng thụ
thời kỳ 2001- 2005:
CƠ CẤU VỐN ODA KÝ THEO VÙNG DO ĐỊA PHƯƠNG
TRỰC TIẾP THỤ HƯỞNG THỜI KỲ 2001- 2005
Đơn vị: triệu USD
Vùng
ODA ký
Trung du miền núi Bắc Bộ
358,57
Đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
328,47
Bắc Trung Bộ, duyên hải miền Trung và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
800,96
Tây Nguyên
95,04
Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
791,87
Đồng bằng sông Cửu Long
191,01
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Riêng 2005, tính hết 6 tháng đầu năm
Trong thời gian qua thành tích xoá đói, giảm nghèo của Việt Nam giảm tỷ lệ nghèo từ trên 58% năm 1993 xuống còn khoảng 24% năm 2004 (theo tiêu chuẩn quốc tế) đã vượt mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc trước 10 năm và gây ấn tượng mạnh mẽ đối với các nhà tài trợ. Nhiều dự án ODA đã trực tiếp hỗ trợ nhiều tỉnh và thành phố xây dựng hệ thống cấp nước sinh hoạt, phát triển lưới điện nông thôn, giao thông nông thôn, xây dựng hệ thống thuỷ lợi, trường học, trạm xá, bệnh viện, thực hiện các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và cung cấp tín dụng quy mô nhỏ,...
* Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế:
Thứ nhất, thiếu một định hướng tổng thể về thu hút và sử dụng ODA để làm căn cứ cụ thể hoá các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc huy động nguồn lực này hỗ trợ thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói, giảm nghèo của cả nước, của các Bộ, ngành và địa phương.
Yếu kém này đồng thời là nguyên nhân hạn chế Việt Nam phát huy vai trò làm chủ và tính chủ động trong việc định hướng thu hút và sử dụng ODA cũng như trong quá trình tổ chức thực hiện, do vậy làm giảm hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn lực này.
Thứ hai, hệ thống các văn bản pháp quy liên quan tới quản lý và sử dụng ODA chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, chưa rõ ràng và có nhiều khác biệt so với các quy định của bên tài trợ, đồng thời việc thực hiện các văn bản pháp luật chưa nghiêm.
Trong thời kỳ 2001-2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định mới về quản lý và sử dụng ODA. Tuy Nghị định này có nhiều điểm tiến bộ hơn các Nghị định cùng loại đã được ban hành trước đó, song ODA lại chịu sự chi phối của nhiều văn bản pháp quy khác (Quản lý đầu tư xây dựng công trình; Đấu thầu; Đền bù, di dân, giải phóng mặt bằng...) với những nội dung không nhất quán với Nghị định về quản lý và sử dụng ODA. Hơn thế nữa ODA còn có những đặc thù về mặt pháp lý mà nước tiếp nhận phải tuân thủ những quy định của nhà tài trợ và các tập quán, thông lệ quốc tế.
Thứ ba, năng lực con người tham gia quản lý Nhà nước về ODA ở các cấp, nhất là ở cấp địa phương, cán bộ tham gia quản lý trực tiếp dự án ở cơ sở còn yếu về trình độ chuyên môn, kỹ năng quản lý, tiếng Anh và kinh nghiệm hợp tác quốc tế...
Thứ tư, cơ cấu tổ chức đầu mối về quản lý, điều phối và sử dụng ODA ở các cấp chưa được xây dựng thống nhất cả ở Trung ương, địa phương và cơ sở.
Tổ chức đầu mối về ODA ở một số bộ và địa phương còn phân tán, chồng chéo, gây khó khăn cho công tác điều phối, quản lý cũng như phối hợp với nhà tài trợ. Hiện chưa có mô hình chuẩn về các Ban quản lý chương trình, dự án ODA với chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn được xác định cụ thể, lương và phụ cấp chậm được cải thiện hiện đang cản trở việc thu hút những cán bộ có năng lực làm việc cho các chương trình, dự án ODA, trong đó có nhiều dự án vốn vay hàng trăm triệu USD.
Thứ năm, công tác theo dõi và đánh giá chương trình, dự án ODA chưa được quan tâm đúng mức. Chế độ báo cáo, thanh quyết toán tài chính chưa được thực hiện nghiêm túc và thiếu các chế tài cần thiết.
Những khó khăn, yếu kém và bất cập chủ yếu nói trên đồng thời cũng là những nguyên nhân chủ quan hạn chế hiệu quả thu hút và sử dụng ODA trong giai đoạn vừa qua. Bên cạnh đó, cũng có những nguyên nhân khách quan là:
(1) Thời gian tiếp nhận và sử dụng ODA ở Việt Nam mới được hơn 10 năm (các nước trong khu vực đã tiếp nhận ODA khoảng 30-40 năm), do vậy Việt Nam còn thiếu quá nhiều kiến thức và kinh nghiệm.
(2) Trong tiếp nhận và sử dụng ODA cũng có những nhà tài trợ vì những lý do khác nhau chưa tạo điều kiện cho Việt Nam phát huy vai trò làm chủ, có những biểu hiện áp đặt nội dung, phương thức quản lý và điều kiện tài trợ.
(3) Quy trình và thủ tục ODA của một số nhà tài trợ khá phức tạp, nhiều khi thiếu rõ ràng. Cung cách quản lý thiếu linh hoạt, chưa phân cấp mạnh cho cơ quan quản lý viện trợ của mình tại nước tiếp nhận, do vậy gây khó khăn và chậm trễ cho việc thực hiện các chương trình, dự án ODA.
Tình hình thu hút, sử dụng và quản lý ODA ở Việt Nam giai đoạn 2006- 2008:
Nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 đạt tăng trưởng GDP bình quân 7,5-8%/năm, đồng thời nỗ lực phấn đấu để đạt 8%/năm, tổng đầu tư toàn xã hội phục vụ phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2006-2010 ước tính khoảng 2.200 nghìn tỷ đồng (theo giá 2005), tương đương 139,4 tỷ USD, bằng khoảng 40% GDP. Nguồn vốn đầu tư này được huy động từ nhiều nguồn khác nhau: từ ngân sách Nhà nước, từ khu vực tư nhân trong và ngoài nước, từ nguồn vốn ODA và nhiều nguồn khác. Cơ cấu vốn cho thời kỳ này dự kiến vốn trong nước khoảng 65%, vốn ngoài nước khoảng 35%.
Về vốn ngoài nước, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) dự kiến thực hiện đạt 17,5-19,5 tỷ USD, các nguồn vốn bên ngoài khác (vay tín dụng ngắn hạn, trung hạn, chứng khoán,...) dự kiến khoảng 9 tỷ USD và vốn đầu tư từ nguồn kiều hối là 12 tỷ USD.
Với những ước tính về các nguồn vốn ngoài nước khác như trên, nguồn vốn ODA trong thời kỳ 2006-2010, kể cả nguồn vốn ODA đã ký nhưng chưa giải ngân của thời kỳ 2001-2005 chuyển tiếp, được xác định cần bảo đảm thực hiện khoảng 10,9 tỷ USD, bình quân 2,18 tỷ USD/năm so với 1,7 tỷ năm 2005.
Bước vào thời kỳ 2006-2010 và giai đoạn tới năm 2015, việc thu hút nguồn vốn ODA của Việt Nam có những thuận lợi rất cơ bản, đồng thời đứng trước những khó khăn và thách thức không nhỏ.
Trước hết, tình hình chính trị, xã hội của Việt Nam ổn định, an ninh bảo đảm trong bối cảnh ở nhiều nước đang phát triển khác hệ thống chính trị bất ổn, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, chủ nghĩa ly khai dẫn tới những cuộc xung đột vũ trang đã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh đó hỗ trợ phát triển quốc tế rất khó triển khai, ngoại trừ viện trợ nhân đạo.
Tiếp tục duy trì ổn định chính trị, xã hội, bảo đảm an ninh là lợi thế so sánh của Việt Nam để tranh thủ nguồn ODA trong giai đoạn tới.
Thứ hai, chính sách phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn, được sự đồng tình và ủng hộ của toàn xã hội, công cuộc đổi mới tiếp tục được tăng cường và đẩy mạnh cả chiều rộng lẫn bề sâu là cơ sở vững chắc để nhà tài trợ cam kết cung cấp ODA cho Việt Nam.
Thứ ba, nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và duy trì liên tục trong một thời gian dài tạo ra những đầu vào cần thiết để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả ODA cũng như làm cho nhà tài trợ an tâm về khả năng trả nợ ODA vốn vay của ta.
Thứ tư, công cuộc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của Việt Nam đang diễn ra sôi động, Việt Nam sẽ sớm trở thành thành viên WTO và được công nhận là nền kinh tế thị trường, hệ thống thể chế và văn bản pháp quy sẽ được hoàn thiện và đồng bộ hơn, góp phần tạo ra một môi trường thông thoáng và hài hoà hơn với thông lệ và tập quán quốc tế, nhờ vậy các hoạt động thu hút và sử dụng ODA sẽ thuận lợi hơn.
Thứ năm, năng lực cán bộ ở các cấp sẽ được nâng cao, góp phần thúc đẩy quá trình thực hiện các chương trình, dự án ODA, nâng cao chất lượng và hiệu quả nguồn lực này.
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, việc thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam trong giai đoạn mới cũng có những khó khăn và thách thức, đó là:
Về nguồn ODA của thế giới, như đã dự báo ở trên sẽ tăng lên đáng kể trong giai đoạn tới. Tổng nguồn ODA từ các nước thành viên DAC sẽ tăng trên 1,6 lần vào năm 2010 so với năm 2003. Tuy nhiên, để hỗ trợ thực hiện mục tiêu phát triển thiên niên kỷ còn phải cần thêm ít nhất 35 tỷ USD ODA nữa vào năm 2010.
Một thách thức khác là trong nhiều thập kỷ qua một nguồn vốn ODA lớn đổ vào châu Phi. Năm 2001 viện trợ chiếm 4,6% GNI của châu Phi và Sahara, trong khi đó Đông Á và Thái Bình Dương chỉ có 0,5%. Tại Hội nghị G8 các nước thuộc Tổ chức OECD đã cam kết tăng thêm mỗi năm 50 tỷ USD viện trợ đến năm 2010 cho tất cả các nước nghèo, trong đó ít nhất 25 tỷ USD dành cho châu Phi. Nhu cầu viện trợ cho châu Phi vẫn tiếp tục tăng sẽ vẫn là khởi đầu cho cuộc cạnh tranh viện trợ giữa các nước đang phát triển trong giai đoạn tới.
Năng lực thể chế (Quy định pháp luật và cơ cấu tổ chức quản lý ODA) và năng lực con người còn nhiều bất cập trước khối lượng nguồn vốn ODA gia tăng nhanh, tính chất phức tạp của các điều kiện tài trợ và sự đa dạng của các mô hình viện trợ.
Mặc dù có những khó khăn và thách thức như trình bày ở trên, song những thuận lợi cho việc thu hút ODA của Việt Nam trong 5 năm tới vẫn là cơ bản và do vậy có thể nhận định rằng nguồn vốn ODA cam kết dành cho Việt Nam trong thời kỳ 2006-2010 sẽ tăng so với thời kỳ 2001-2005.
Dựa trên thực trạng, những dự tính, đánh giá như trên thì dự báo nguồn vốn ODA cam kết thời kỳ 2006- 2010 là 4,3 tỷ USD bao gồm cam kết trung hạn của một số nhà tài trợ như Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan... Tuy nhiên, những cam kết này còn tuỳ thuộc vào tình hình chính trị ở các nước này sau mỗi lần bầu cử Quốc hội. Chính phủ mới lên cầm quyền thường có những chính sách đối ngoại mới, nhất là chính sách viện trợ cho nước ngoài.
Ngoài nguồn vốn ODA, có thể được một số nhà tài trợ tái cam kết nêu trên, cam kết ODA thời kỳ 2006-2010 còn bao gồm cam kết hàng năm của nhiều nhà tài trợ như Nhật Bản, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (WB)...
Khả năng cam kết của một số nhà tài trợ trong giai đoạn tới cụ thể là:
(1) Châu Âu
Châu Âu có hai nguồn hỗ trợ phát triển chính thức dành cho Việt Nam, từ một số nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) và Uỷ ban châu Âu (EC).
Châu Âu dành ODA cho Việt Nam khá sớm, nhiều nước đã nối lại nguồn tài trợ này trước năm 1993, thậm chí có nước tiếp tục cung cấp ODA ngay cả trong những năm còn bị bao vây và cấm vận.
Cộng hoà Pháp: Trong chính sách hợp tác phát triển của mình, Pháp coi Việt Nam là nước ưu tiên “quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện, lâu dài, tin cậy trong thế kỷ XXI”. Những phương thức tài trợ chủ yếu của Pháp đã được sử dụng tại Việt Nam đó là tín dụng ưu đãi thông qua Nghị định thư tài chính, Quỹ phát triển Pháp (AFD), và các hình thức viện trợ không hoàn lại thông qua Quỹ đoàn kết ưu tiên (FSP), Quỹ môi trường toàn cầu của Pháp, các sáng kiến như Diễn đàn đối thoại và giao lưu kinh tế tài chính Việt - Pháp, Nhà pháp luật Việt - Pháp, phát triển hợp tác cấp địa phương.
Cộng hoà Liên bang Đức: Đức nối lại viện trợ phát triển dành cho Việt Nam từ năm 1990 và đến nay tổng cam kết ODA đạt 597 triệu USD, trong đó khoảng 150 triệu Euro hợp tác kỹ thuật (TA, không hoàn lại) và 300 triệu Euro hợp tác tài chính (FC vốn vay ưu đãi chiếm khoảng 60% và viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 40%). Tính chung lại trong giai đoạn vừa qua ODA không hoàn lại chiếm khoảng 54% còn lại là ODA vốn vay ưu đãi. Vốn vay ưu đãi của Đức có mức độ ưu đãi cao (Thời gian trả nợ 40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn, lãi suất 0,75%/năm). Dự kiến trong thời kỳ 2006-2010 và có thể trong giai đoạn đến năm 2015, Đức có thể giữ mức cam kết ODA ổn định khoảng 45-50 triệu Euro/năm (không hoàn lại khoảng 30% và vay ưu đãi 70%).
Vương quốc Đan Mạch: Đan Mạch nối lại ODA dành cho Việt Nam vào năm 1992 sau 13 năm gián đoạn bằng việc ký hiệp định hợp tác phát triển giữa hai Chính phủ. Kể từ đó, cam kết viện trợ của Đan Mạch tăng đều qua các năm, đạt 1.410 triệu DKK trong 5 năm 2001-2005 (tương đương khoảng hơn 176 triệu USD), đạt 549 triệu USD trong giai đoạn 1993-2005, trong đó, không hoàn lại chiếm 96%. Đan Mạch áp dụng cách tiếp cận theo ngành để hỗ trợ 3 ngành chủ yếu là phát triển ngành thuỷ sản; quản lý nguồn nước và phát triển nông nghiệp và nông thôn. Ngoài 3 chương trình ngành nêu trên, Đan Mạch còn hỗ trợ các lĩnh vực môi trường (Chương trình nghị sự 21), phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ cải cách kinh tế, hành chính và tư pháp.
Dự kiến trong thời kỳ 2006-2010 Đan Mạch có thể cam kết từ các nguồn khoảng 60 triệu USD/năm ODA không hoàn lại và khoảng 20 triệu USD tín dụng hỗn hợp. Giai đoạn đến năm 2015, Đan Mạch có thể tiếp tục hỗ trợ Việt Nam với mức tăng trung bình mỗi năm khoảng 10-15 triệu USD.
Vương quốc Thụy Điển: Quan hệ hợp tác phát triển Việt Nam - Thụy Điển đã có truyền thống lâu dài, thậm chí cả trong thời gian Việt Nam bị bao vây và cấm vận. Từ năm 1969 đến nay, Thụy Điển đã cung cấp khoảng hơn 2,5 tỷ USD viện trợ không hoàn lại. Ngoài ra Thụy Điển cung cấp tín dụng ưu đãi trị giá khoảng 80 triệu USD để đầu tư cho các lĩnh vực như năng lượng, viễn thông và công nghiệp giấy. Trong 5 năm 2001-2005, Thụy Điển cam kết ODA trị giá 227 triệu USD (cam kết năm 2005 là ước tính), bình quân hàng năm khoảng 45 triệu USD. Trong giai đoạn 1993-2005, Thụy Điển cam kết ODA cho Việt Nam trị giá 413 triệu USD, trong đó không hoàn lại chiếm 67%.
Dự kiến trong thời kỳ 2006-2010 hàng năm Thụy Điển có thể cam kết khoảng 35-45 triệu USD/năm viện trợ không hoàn lại. Trong giai đoạn đến năm 2015, viện trợ trung bình của Thụy Điển cho Việt Nam có thể đạt 40 triệu USD/năm và có thể cao hơn.
Vương quốc Anh: Năm 1992 Chính phủ Anh nối lại hỗ trợ phát triển chính thức cho Việt Nam, song bắt đầu từ năm 1994 Anh mới cung cấp ODA theo cả hai hình thức viện trợ không hoàn lại và tín dụng ưu đãi. Sau tháng 7/1997 Chính phủ mới ở Anh đã thay đổi chính sách viện trợ. Đối với Việt Nam chỉ duy trì hình thức viện trợ không hoàn lại.
Trong 5 năm 2006-2010, hàng năm Vương quốc Anh có thể cam kết từ 100 - 150 triệu USD vốn ODA không hoàn lại. Những lĩnh vực Anh quan tâm trong giai đoạn này là hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn, giáo dục đào tạo và cải cách thể chế.
Phần Lan: Phần Lan có quan hệ hợp tác phát triển với Việt Nam rất sớm, từ năm 1985. Sau đợt đánh giá viện trợ toàn cầu của Phần Lan vào năm 2001, Phần Lan đánh giá Việt Nam tiếp nhận ODA có hiệu quả và coi Việt Nam là một trong 3 nước chính để cung cấp ODA.
Trong giai đoạn đến năm 2015, tuỳ thuộc khả năng hấp thụ của Việt Nam Phần Lan có thể tăng nguồn ODA không hoàn lại lên khoảng 10-15 triệu Euro, còn tín dụng ưu đãi cũng có thể tăng cao hơn mức hiện nay.
Uỷ ban châu Âu (EC): Uỷ ban châu Âu của Liên minh châu Âu (EU) cung cấp ODA cho Việt Nam dựa trên Hiệp định hợp tác khung về hợp tác giữa Việt Nam và EC ký năm 1995. Trong giai đoạn 2002-2006, EC phát triển mối quan hệ hợp tác phát triển với Việt Nam trong khuôn khổ chung về hợp tác giữa EU và ASEAN.
Trong thời kỳ 2006-2010 ODA của EC dành cho Việt Nam chắc không tăng, xấp xỉ so với giai đoạn vừa qua do tình hình kinh tế của khối có khó khăn, phải dành nhiều nguồn lực để hỗ trợ cho các nước thành viên mới cũng như phải hỗ trợ cho khu vực Trung Đông, tái thiết Iraq và Afganistan, viện trợ cho châu Phi. Dự kiến cam kết ODA của EC trong thời kỳ 2006-2010 bình quân khoảng 30-40 triệu USD viện trợ không hoàn lại, khoảng 60 triệu Euro khoản vay ưu đãi thông qua ngân hàng EIB và mức này có thể giảm dần trong những năm sau 2010.
Liên bang Nga: Trong giai đoạn dài từ năm 1990 trở về trước nước Việt Nam đã nhận được nguồn viện trợ to lớn và có hiệu quả của Liên bang Xô Viết, trong đó nước Nga có vai trò nòng cốt. Do những thay đổi chính trị và tình hình kinh tế khó khăn của Nga, hiện nay nước Nga không có chương trình ODA dành cho Việt Nam, ngoại trừ một số học bổng dành cho sinh viên Việt Nam học tập tại một số cơ sở đào tạo của nước này.
Trong triển vọng dài hạn, khi nước Nga trở thành thành viên tổ chức OECD quan hệ hợp tác phát triển giữa hai nước có thể được thiết lập, song có thể chủ yếu là hợp tác tài chính thông qua các khoản tín dụng ưu đãi, đồng thời Việt Nam cần tranh thủ hợp tác trong các lĩnh vực khác, nhất là giáo Một số nước thành viên mới của EU: như Ba Lan, Hungary, Séc hiện cung cấp ODA cho Việt Nam thông qua một số dự án, nhất là hỗ trợ kỹ thuật (TA). Riêng Việt Nam và Hungary đã ký Hiệp định về hợp tác phát triển tháng 7/2005. Cùng với đà phát triển kinh tế trong khuôn khổ EU, các nước này có thể cung cấp ODA cho Việt Nam với quy mô lớn hơn, nhất là tín dụng ưu đãi trong thời kỳ 2006-2010 (Ba Lan đã cung cấp cho Việt Nam khoản tín dụng ưu đãi 70 triệu USD cho lĩnh vực đóng tầu).
(2) Châu Á:
Nhật Bản: Nhật Bản nối lại hỗ trợ phát triển chính thức cho Việt Nam cuối năm 1992 và nhanh chóng trở thành nhà tài trợ có quy mô ODA lớn nhất, đạt tổng lượng ODA cam kết hơn 9,6 tỷ USD trong giai đoạn 1992-2004, chiếm khoảng 33% tổng lượng ODA mà cộng đồng tài trợ quốc tế cam kết dành cho Việt Nam trong giai đoạn này. ODA Nhật Bản bao gồm tín dụng ưu đãi (khoảng 89%) và viện trợ không hoàn lại (khoảng 11%). Các điều kiện vay ODA Nhật Bản ưu đãi cao (theo điều kiện chung lãi suất 1,3%/năm, thời hạn trả nợ 30 năm, thời gian ân hạn 10 năm), thực hiện dự án thông qua đấu thầu cạnh tranh quốc tế hoặc đấu thầu cạnh tranh có hạn chế.
Hiện nay quan hệ chính trị Việt - Nhật đang phát triển tốt đẹp theo phương châm “Đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”, môi trường đầu tư tại Việt Nam không ngừng được cải thiện, tình hình chính trị - xã hội Việt Nam ổn định, kinh tế tăng trưởng liên tục, nợ nước ngoài trong giới hạn an toàn, công cuộc đổi mới tiếp tục được tăng cường... là những yếu tố thuận lợi rất cơ bản để Nhật Bản tiếp tục cam kết ODA cho Việt Nam.
Quy định ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam trong thời kỳ 2006-2010 sẽ tăng, dự kiến trong 5 năm tới bình quân Nhật Bản có thể cam kết trung bình 900 triệu USD/năm. Sau năm 2010 xu thế gia tăng sẽ tiếp tục được duy trì với việc sử dụng thêm những phương thức tín dụng JBIC mới như “Các khoản vay không có điều kiện”. Dự kiến trong thời kỳ 2010-2020 có thể thu hút 1,3-1,5 tỷ USD/năm ODA từ Nhật Bản. Tuy nhiên cơ cấu nguồn vốn ODA có thể thay đổi, tỷ trọng viện trợ không hoàn lại có thể giảm, tỷ lệ vốn vay có thể tăng, trong đó có thể có các hình thức vay khác với điều kiện tài chính kém hơn vay ưu đãi song còn tốt hơn vay thương mại.
Hàn Quốc: Việt Nam và Hàn Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1992, tiếp theo đó Hàn Quốc cung cấp ODA cho Việt Nam. Tính đến hết năm 2004, Hàn Quốc đã cung cấp cho Việt Nam khoảng hơn 47 triệu USD viện trợ không hoàn lại và 168 triệu USD vốn vay ưu đãi để hỗ trợ các lĩnh vực như giao thông vận tải, cấp nước sinh hoạt, xử lý rác thải đô thị, y tế, giáo dục, dạy nghề, tăng cường năng lực nghiên cứu chính sách quản lý kinh tế, khoa học, công nghệ...
Sau năm 2010 do Việt Nam đã ở vị trí cao trong tiếp nhận ODA không hoàn lại của Hàn Quốc trong khoảng 10 năm liên tục gần đây nên chắc khó tăng thêm nguồn tài trợ này so với thời kỳ 2006-2010.
Trung Quốc: Sau khi bình thường hoá quan hệ Việt - Trung vào năm 1991, Trung Quốc bắt đầu cung cấp ODA cho Việt Nam, bao gồm cả viện trợ không hoàn lại và vốn vay ưu đãi, mặc dù Trung Quốc không công khai gọi đó là ODA vì Trung Quốc hiện là nước cũng đang tiếp nhận ODA.
Trong 5 năm 2001-2005, Trung Quốc cam kết tài trợ cho Việt Nam 24 triệu USD ODA không hoàn lại và 196 triệu USD ODA vốn vay ưu đãi. Dự kiến trong 5 năm 2006-2010 viện trợ không hoàn lại của Trung Quốc đạt khoảng 25 triệu USD, tăng nhẹ so với 5 năm 2001-2005, vốn vay ưu đãi khoảng 215 triệu USD, tăng khoảng 10% so với 5 năm hiện hành.
(4) Châu Mỹ:
Mỹ: Sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước vào năm 1995, Mỹ bắt đầu cung cấp ODA cho Việt Nam, tập trung vào 3 lĩnh vực chủ yếu: (i) Hỗ trợ hoàn thiện môi trường thương mại và đầu tư, (ii) Hỗ trợ cải thiện việc tiếp cận các dịch vụ xã hội đối với nhóm dân cư dễ bị tổn thương và (iii) Hỗ trợ quản lý bền vững môi trường công nghiệp và đô thị. dự báo khả năng nguồn ODA của Mỹ dành cho Việt Nam có thể tăng trong thời kỳ 2006-2010, nhưng chắc không tăng đột biến, dự kiến khoảng 70-100 triệu USD/năm ODA không hoàn lại và sau 2010 có thể giữ mức 100 triệu USD/năm.
Canada: Canada bắt đầu tài trợ phát triển cho Việt Nam từ năm 1990 và năm 1999 căn cứ vào nhu cầu phát triển ưu tiên của Việt Nam, Canada đã thông qua “Khung chính sách phát triển quốc gia” làm cơ sở cho việc cung cấp ODA cho Việt Nam trong thời kỳ 5 năm 1999-2004, tập trung vào các lĩnh vực: (i) Hỗ trợ tăng cường quản lý Nhà nước; (ii) Đóng góp cho công tác giảm nghèo ở nông thôn; (iii) Cung cấp một môi trường thuận lợi cho phát triển khu vực tư nhân.
(5) Các Tổ chức tài chính quốc tế:
- Ngân hàng Thế giới (WB): WB là một Nhóm các Tổ chức quốc tế bao gồm 5 Tổ chức: Ngân hàng quốc tế về tái thiết và phát triển (IBRD); Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA); Công ty tài chính quốc tế (IFC); Cơ quan bảo lãnh đầu tư đa biên (MIGA) và Trung tâm quốc tế về xử lý tranh chấp đầu tư (ICSID).
Hiện na._.nguyên thiên nhiên.
Nghiên cứu, chuẩn bị các chương trình, dự án phát triển (quy hoạch, điều tra cơ bản
1.3. Danh mục các dự án kêu gọi ODA giai đoạn 2010- 2015 và những năm tiếp theo của Thái Bình:
(1). Dự án nâng cấp đường 216.
Tổng vốn đầu tư: 11,0 triệu USD
Trong đó:
- Vốn ODA vay : 9,35 triệu USD
- Trong nước: 1,65 triệu USD
(2). Dự án nâng cấp đường tỉnh 222.
Tổng vốn đầu tư: 8,5 triệu USD
Trong đó:
- Vốn ODA vay: 7,225 triệu USD
- Trong nước: 1,275 triệu USD
(3). Dự án cải tạo, nâng cấp hệ thống trường tiểu học ở vùng nông thôn nghèo.
Tổng vốn đầu tư: 8 triệu USD
Trong đó:
- Vốn ODA vay : 6 triệu USD
- Trong nước : 2 triệu USD
(4). Dự án xây dựng tài nguyên phục vụ chế biến thủy, hải sản và nhà máy chế biến thủy, hải sản.
Tổng vốn đầu tư: 8 triệu USD
Trong đó:
- Vốn ODA vay: 6 triệu USD
- Trong nước: 2 triệu USD
(5). Dự án Xây đập sông Hóa.
Tổng vốn đầu tư: 6 triệu USD
Trong đó:
- Vốn ODA vay: 5,5 triệu USD
- Trong nước: 0,5 triệu USD
(6). Dự án nạo vét sông trục hệ thống Bắc Thái Bình và xây cống Trà Linh 1.
Tổng vốn đầu tư: 8 triệu USD
Trong đó:
- Vốn ODA vay: 7 triệu USD
- Trong nước: 1 triệu USD
(7). Dự án xây dựng cảng Tân Đệ.
Tổng vốn đầu tư: 7 triệu USD
Trong đó:
- Vốn ODA vay: 6 triệu USD
- Trong nước: 1 triệu USD
(8). Dự án Đầu tư xây dựng đường nông thôn huyện Vũ Thư.
Tổng vốn đầu tư: 7,685 triệu USD
Trong đó:
- Vốn ODA vay: 6,144 triệu USD
- Trong nước: 1,536 triệu USD
(9). Chương trình hiện đại hóa CSVC ngành giáo dục huyện Quỳnh Phụ.
Tổng vốn đầu tư: 8 triệu USD
Trong đó:
- Vốn ODA vay: 5 triệu USD
- Trong nước: 3 triệu USD
(10). Chương trình nâng cấp lưới điện hạ thế nông thôn huyện Quỳnh Phụ.
Tổng vốn đầu tư: 6 triệu USD
Trong đó:
- Vốn ODA vay: 5 triệu USD
- Trong nước: 1 triệu USD
(11). Chương trình xây dựng, nâng cấp hệ thống giao thông nông thôn Quỳnh Phụ.
Tổng vốn đầu tư: 8 triệu USD
Trong đó:
- Vốn ODA vay : 7 triệu USD
- Trong nước: 1 triệu USD
(12). Chương trình cấp nước sinh hoạt đô thị- nông thôn tập trung và bảo vệ môi trường huyện Quỳnh Phụ.
Tổng vốn đầu tư: 7,5 triệu USD
Trong đó:
- Vốn ODA vay:6,0 triệu USD
- Trong nước: 1,5 triệu USD
(13). Dự án cứng hóa mặt đê và cứng hóa kênh mương huyện Thái Thụy.
Tổng vốn đầu tư: 6,4 triệu USD
Trong đó:
- Vốn ODA vay : 5,0 triệu USD
- Trong nước: 1,4 triệu USD
(14). Dự án cải tạo, nâng cấp đường giao thông nông thôn huyện Hưng Hà.
Tổng vốn đầu tư: 15 triệu USD
Trong đó:
- Vốn ODA vay : 14 triệu USD
- Trong nước: 1 triệu USD
(15). Dự án cải tạo, nâng cấp hệ thống thủy lợi huyện Hưng Hà.
Tổng vốn đầu tư: 15 triệu USD
Trong đó:
- Vốn ODA vay: 12 triệu USD
- Trong nước: 3 triệu USD
(16). Dự án xây dựng hệ thống trường học cao tầng huyện Hưng Hà.
Tổng vốn đầu tư: 5,00 triệu USD
Trong đó:
- Vốn ODA vay: 4,32 triệu USD
- Trong nước: 0,68 triệu USD
(17). Dự án nâng cấp đường giao thông nông thôn huyện Đông Hưng.
Tổng vốn đầu tư: 2,8 triệu USD
Trong đó:
- Vốn ODA không hoàn lại: 2,8 triệu USD
2. Giải pháp thu hút và sử dụng ODA ở Thái Bình giai đoạn 2010- 2015
2.1. Giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn ODA ở Thái Bình:
Xét trên góc độ của cả nền kinh tế, hiện nay, các nhà tài trợ nước ngoài đã cam kết mạnh mẽ tăng nguồn vốn ODA để hỗ trợ các nước đang phát triển thực hiện mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs). Tuy nhiên có thể thấy rằng, nhu cầu về vốn ở các nước phát triển hiện nay đang tăng lên rất cao nên việc các nhà các tài trợ có thể đáp ứng được lượng vốn cần thiết là rất khó khăn. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra ở các nước đang phát triển chung và Việt Nam nói riêng là việc vận động, thu hút ODA phải như thế nào để đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước, để từ nguồn vốn ODA này có thể thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào trong nước.
Trong bối cảnh chung của cả nước đang cố gắng thu hút ODA thì Thái Bình cũng đang nỗ lực hết mình, tập trung mọi nguồn lực, có những biện pháp, chính sách hiệu quả nhất để thu hút vốn từ Trung ương cũng như vốn trực tiếp về tỉnh. Các biện pháp đó cụ thể như:
Tạo môi trường đầu tư thuận lợi giúp các nhà đầu tư nước ngoài cũng như giúp ban lãnh đạo cấp cao thấy rõ được hiệu quả khi đầu tư vào địa bàn tỉnh:
Tiếp tục thực hiện cả chiều rộng lẫn chiều sâu công cuộc “ Đổi mới”, trong đó, có một số chính sách mà nhà tài trợ thường nhấn mạnh và coi đó là thông điệp để xem xét việc cam kết cung cấp viện trợ phát triển. Mặc dù thường những chính sách này thường được triển khai từ trên cấp Trung ương, được triển khai về địa phương nhưng về phía tỉnh, vẫn có các chính sách riêng của mình:
Phát triển kinh tế nhanh và bền vững đi đôi với bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường. Cụ thể, ngoài việc luôn xúc tiến và đưa ra các chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế của tỉnh nói chung hay các ban, ngành nói riêng thì các cơ quan chức năng của tỉnh cũng như các ban, ngành trong địa bàn tỉnh cũng cần phải có các chính sách thúc đẩy sự phát triển của An sinh xã hội và môi trường. Khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm xã hội, tham gia đóng góp các quỹ An sinh của tỉnh như quỹ trợ cấp cho người nghèo, quỹ thương binh- xã hội,… Có các biện pháp làm nâng cao hiểu biết và tầm quan trọng của An sinh xã hội, giúp cho dân hiểu được An sinh giúp nâng cao đời sống của người dân và xã hội như thế nào. Bên cạnh đó, cũng cần cho người dân thấy rõ được tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh, hay nhỏ hơn là ngay tại nơi sinh sống và nơi làm việc của mỗi người. Có một môi trường trong sạch và hệ thống An sinh tốt sẽ giúp đời sống của bản thân người dân được cải thiện, kinh tế xã hội của tỉnh được nâng cao, thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư cũng như của Trung ương.
Quyết tâm chống lại các nạn tham nhũng trên địa bàn tỉnh.
Trong từng Bộ, ban, ngành, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh cần có các chính sách thể hiện quyết tâm chống lại nạn tham nhũng trong từng cơ sở. Muốn có một môi trường đầu tư tốt thì ngay bản thân trong từng doanh nghiệp, từng bộ ban ngành cũng phải có một môi trường trong sạch. Ý thức của từng cán bộ phải tốt, không để xảy ra tình trạng tham nhũng xảy ra, đặc biệt là trong các dự án nước ngoài. Nếu không giảm tải và xóa bỏ được tình trạng này thì càng làm cho đồng vốn vào Việt Nam nói chung và địa bàn tỉnh nói riêng ngày càng hạn hẹp. Đưa ra các biện pháp thích đáng, các hình thức phạt, kỷ luật phù hợp với từng mức vi phạm gây ra.
Xóa đói, giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Nguồn vốn ODA viện trợ vào các nước kém và đang phát triển thường là để cải tạo cơ sở hạ tầng nhưng cũng góp phần không kém trong việc xóa đói giảm nghèo cho các nước này, đặc biệt là đối với Việt Nam, nhu cầu này càng cao. Trong đó, Thái Bình là lại một tỉnh mang tính chất nông nghiệp, tình trạng đói nghèo còn cao. Do đó, cần nâng cao xóa đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách đói nghèo, giúp cho cải thiện kinh tế của tỉnh cũng làm cho thu hút vốn ODA nhiều hơn nữa.
Tạo sân chơi bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, kinh tế Nhà nước cũng như tư nhân. Có thể nói, đây là vấn đề đã được đưa ra và đã giải quyết nhưng cũng chưa triệt để. Vẫn có tình trạng chưa bình đẳng về thành phần kinh tế khi phân bổ các dự án về địa phương, vẫn có sự thiên lệch về phía thành phần Nhà nước. Ngay bản thân tỉnh phải có các biện pháp chống lại tình trạng này, bởi trên thực tế có thể thấy, nhiều dự án, nếu đưa cho tư nhân đảm nhiệm thì sẽ có kết quả tốt hơn là việc một cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm. Từ đó, giúp các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm hơn khi đầu tư vào địa bàn tỉnh.
Quản lý tài chính công một cách minh bạch, có trách nhiệm giải trình và có thể dự báo trước. Nâng cao chất lượng dự báo, đặc biệt dự báo về mặt rủi ro có thể xảy ra cho dự án.
Có các chính sách về xúc tiến đầu tư tốt và hiệu quả: Những thành quả đạt được trong thu hút đầu tư nước ngoài là có sự tham gia của nhiều yếu tố, nhưng có thể nói, một trong các yếu tố quan trọng đó là sự chú trọng và nỗ lực hết mình trong công tác vận động, xúc tiến đầu tư. Công tác xúc tiến đầu tư đi tiên phong trong việc định vị nhu cầu, đón đầu cơ hội, giảm thiểu các hàng rào thông tin và chi phí giao dịch cho nhà đầu tư. Trong bối cảnh của cả nước nói chung và cụ thể là địa bàn tỉnh nói riêng, nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là nguồn vốn ODA sẽ ngày càng khó khăn. Chính vì vậy, công tác vận động, xúc tiến đầu tư cần phải đón đầu các xu hướng phát triển và sự dịch chuyển của các luồng vốn giữa các nền kinh tế trong thời gian tới. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, thì tỉnh cần phải có các biện pháp cụ thể, chính sách đúng đắn. Cần có sự đánh giá lại tiềm năng, lợi thế của mình để xác định đúng lợi thế so sánh, đặt lợi ích của địa phương trong lợi ích của toàn quốc gia, nâng cao tính chủ động trong việc lựa chọn và tiếp nhận nguồn vốn đầu tư; đồng thời, cần phải tăng cường và có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa với Trung ương trong quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch cũng như tổ chức vận động, xúc tiến đầu tư.
Trước hết, cần tăng cường công tác quy hoạch tại địa phương, xây dựng chiến lược riêng cho xúc tiến đầu tư và các danh mục dự án khuyến khích đầu tư. Đây chính là căn cứ để hoạt động xúc tiến đầu tư đảm bảo chủ động tiếp cận và lựa chọn đúng đối tượng nhà đầu tư phù hợp và dự án hiệu quả, thay cho cách thức hiện tại là chạy theo những dự án mà nhà đầu tư chủ động đề xuất hỗ trợ (thành lập các nhóm công tác hỗ trợ) hay cấp phép tràn lan cho các dự án do nhà đầu tư đề xuất, chỉ xem xét những cái được trước mắt như thành tích, giải quyết việc làm, tăng thu ngân sách của doanh nghiệp, của tỉnh… mà không chú ý đến những cái mất mát to lớn hơn về môi trường và quy hoạch phát triển của tỉnh hay của chung cả nước…
Thứ hai, cần tiếp tục hoàn chỉnh pháp luật, chính sách về công tác xúc tiến đầu tư theo hướng tăng cường quản lý nhà nước và cơ chế phối hợp giữa trung ương và tỉnh, giữa các đầu mối xúc tiến đầu tư với tỉnh, giữa Thái Bình và các địa phương khác trong cả nước, giữa các đầu mối trong và ngoài nước…
Thứ ba, cần đẩy nhanh quá trình kiện toàn hệ thống tổ chức xúc tiến đầu tư của địa phương theo hướng tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư của tỉnh về cả số lượng và chất lượng. Nghiên cứu, đề xuất mô hình mới về cơ quan xúc tiến đầu tư ở địa bàn tỉnh nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống cơ quan xúc tiến đầu tư của tỉnh với các cơ quan khác trong cả nước.
Cuối cùng, một công việc hay giải pháp về xúc tiến đầu tư mà không kém phần quan trọng đó là phải đi sâu hơn nữa nguồn lực để phát triển hệ thống cung cấp thông tin tới các nhà đầu tư. Hiện nay, về vấn đề này, Thái Bình vẫn còn chưa phát triển đúng mức cần thiết, trong các năm tới, cần có kinh phí tăng cường hơn nữa để phát triển hệ thống thông tin của tỉnh, giúp các nhà đầu tư trong và ngoài nước thấy rõ được những lợi thế và tiềm năng của tỉnh, quảng bá hình ảnh của tỉnh hơn nữa.
Ban hành các tiêu chí làm cơ sở vận động ODA từ Trung ương về địa phương và từ trực tiếp các nhà tài trợ.
Tăng cường phối hợp với các nhà tài trợ và các cấp quản lý từ Trung ương đi thực tế, nhất là tới những khu vực gặp nhiều khó khăn về một số mặt.
Đưa ra một số các kiến nghị, đề xuất lên Trung ương trong các cuộc họp về sự cần thiết thực sự của nguồn vốn ODA về tỉnh.
Cụ thể trong năm 2009 này, ban lãnh đạo tỉnh Thái Bình đã đưa ra một số kiến nghị lên Trung ương liên quan đến chương trình ODA đang thực hiện như:
Đề nghị tổ công tác báo cáo với Thủ tướng Chính Phủ cho Thái Bình tiếp nhận nguồn vốn ODA tăng thêm của dự án thoát nước thành phố do Nauy tài trợ. Nguyên nhân là do dự án được lập từ năm 2006 nhưng đến nay giá cả nguyên vật liệu tăng cao, hiện nay giá bỏ thầu lên tới 20 triệu EURO trong khi tổng mức đầu tư ban đầu là 219 tỷ đồng ( trong đó Nauy tài trợ 8,9 tỷ EURO).
Đề nghị Tổ công tác hướng dẫn cho Thái Bình thiết lập dự án trồng khoai tây để kêu gọi vốn ODA giúp nông dân nhân giống, phát triển diện tích trồng khoai tây xuất khẩu.
Thái Bình là tỉnh nông nghiệp, ngân sách hạn hẹp và tiếp nhận tới 60-70% ngân sách từ trung ương. Do đó, những dự án có nguồn vốn đối ứng lớn ( như dự án thoát nước thành phố) đề nghị Trung ương hỗ trợ hoặc có cơ chế cho vay vốn để triển khai nhanh, đưa dự án đi vào hoạt động.
Đề nghị Chính phủ phê duyệt danh mục các dự án ưu tiên trong các năm tới của tỉnh.
Đề nghị đơn giản hóa các mẫu bảng biểu báo cáo quy định tại Quyết định 803.
Hoàn thiện hơn nữa môi trường pháp lý nói chung và đầu tư nói riêng. Nếu có một môi trường luật pháp tốt sẽ khiến các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm hơn khi đầu tư vào, sẽ thấy được nhưng điểm mạnh của địa phương đầu tư vào, thu hút nhiều hơn nguồn vốn ODA cho tỉnh.
Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ của cán bộ. Thời gian qua trong khuôn khổ các chương trình, dự án ODA, một đội ngũ cán bộ khá đông các chương trình, dự án đã được đào tạo, huấn luyện về công tác quản lý và thực hiện các chương trình, dự án ODA. Tuy nhiên, trong thời gian tới, cần có các chương trình huấn luyện rộng rãi để tạo ra thay đổi trong nhận thức, thái độ và kỹ năng cho đội ngũ cán bộ ở tất cả các cấp trong tỉnh.
2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
2.2.1. Về sử dụng ODA
- Sử dụng vốn vay ưu đãi ODA phải coi trọng hiệu quả kinh tế, không được sử dụng hết tất cả các khoản thu nhập ròng đã có, cần phải giữ một phần để hoàn trả lại vốn, lãi kịp thời.
- Hoàn thiện công tác kế hoạch hóa và xác định thứ tự ưu tiên phân bổ nguồn vốn ODA. Hoàn thiện kế hoạch hóa ODA là tạo điều kiện để liên tục hóa các bộ phận của kế hoạch đầu tư xây dựng: Kế hoạch chuẩn bị đầu tư, kế hoạch chuẩn bị thực hiện dự án và kế hoạch thực hiện dự án. Ngoài ra, phải xác định thứ tự ưu tiên phân bổ nguồn vốn đầu tư theo từng ngành, lĩnh vực cụ thể. Các ngành và các đơn vị sử dụng vốn ODA trong địa bàn cần tính toán chính xác hiệu quả sử dụng để tránh sử dụng lãng phí và đặt lợi ích của quốc gia và sự phát triển kinh tế của tỉnh lên hàng đầu.
- Chuẩn bị vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA về tỉnh.
- Các dự án phải tập trung phát huy nguồn lực hiện có của địa phương. Các chương trình, dự án ODA phải nghiên cứu để phát huy được những lợi thế sẵn có và phải xuất phát từ thực tế của địa phương để tài trợ hiệu quả hơn, phải tạo điều kiện để người dân địa phương có thể trực tiếp tham gia và quản lý chương trình, dự án.
- Xây dựng hệ thống theo dõi, đánh giá dự án. Điều này góp phần khắc phục được những yếu kém trong quá trình thực hiện dự án cũng như quản lý dự án nguồn vốn ODA một cách hiệu quả, đạt được mục tiêu ưu tiên của đất nước và của tỉnh.
- Phát huy tối đa năng lực của nhà tài trợ. Để sử dụng nguồn vốn ODA một cách có hiệu quả nhất cần kiên trì loại bỏ các ràng buộc chính trị ra khỏi quan hệ của hỗ trợ phát triển chính. Bên cạnh đó, cần quan tâm đến những lợi ích các nhà tài trợ khi họ mở rộng quan hỗ trợ cũng như đầu tư, thương mại đối với Thái Bình. Từ đó, mới có huy động hiệu quả đầu tư vào tỉnh cũng như đầu tư từ Trung ương về để phục vụ cho phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh.
- Lựa chọn lĩnh vực sử dụng nguồn vốn ODA. Hiện nay ở Việt Nam nói chung và tỉnh nói riêng, để nền kinh tế đạt kết quả trên diện rộng dựa vào luồng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài lâu dài thì việc cải thiện cơ sở hạ tầng đã trở thành nhiệm vụ cấp bách. Do đó, Thái Bình cần tập trung vốn, đặc biệt là vốn ưu đãi nước ngoài ODA để đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, các cơ sở sản xuất tạo nhiều việc làm, các dự án đầu tư quan trọng của tỉnh trong từng thời kỳ.
- Xây dựng hệ thống kiểm soát, đánh giá việc sử dụng nguồn vốn ODA: Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích đã được thẩm định phê duyệt, quán triệt phương châm vốn vay phải được sử dụng toàn bộ vào mục đích đầu tư phát triển, không dùng trang trải nhu cầu tiêu dùng; Thủ tục quản lý phải chặt chẽ nhưng phải thuận lợi cho người sử dụng trong việc rút vốn và sử dụng vốn,không gây phiềnhà làm giảm tốc độ giải ngân. Phải đặt các hạn mức sử dụng và kiểm tra chặt chẽ việc chi tiêu, theo dõi quá trình thực hiện và quản lý giải ngân dự án.
2.2.2. Về cơ chế quản lý tài chính vốn ODA
Những nội dung chủ yếu của quản lý cơ chế tài chính trong nước đối với các dự án ODA là cơ chế quản lý ngân sách,vốn đối ứng, cơ chế cho vay lại (lãi suất, trả nợ và thời gian trả nợ), thủ tục rút vốn, thuế đối với các dự án ODA..... Cơ chế này cần được xác định rõ ràng thì các chủ thể dự án mới có thể chủ động tính toán hiệu quả tài chính của dự án, nhất là các dự án ODA vốn vay.
Hiện nay, cơ chế tài chính trong nước đã dần dần được cải thiện, đã ban hành quy chế vốn đối ứng và thủ tục, quy trình rút vốn đối với các dự án ODA. Tuy nhiên vẫn cần theo dõi chặt chẽ để bảo đảm thực hiện đúng quy trình đồng thời tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh những bất cập mới nảy sinh.
Trong giải pháp về cơ chế quản lý tài chính vốn ODA cần thực hiện đồng bộ các giải pháp về phân bổ vốn đối ứng, xác định lãi suất vay lại, đơn giản hoá thủ tục rút vốn, chính sách thuế cũng như điều chỉnh lại cơ cấu chi của vốn ODA.
Kịp thời phân bổ vốn đối ứng:
Vốn đối ứng tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng rất quan trọng để hấp thụ nguồn vốn nước ngoài. Vì vậy, việc phân bổ nguồn vốn này nên linh hoạt hơn so với các nguồn vốn trong nước. Để đáp ứng kịp thời về vốn đối ứng nên địa phương có nhiều quyền hạn hơn trong việc điều chuyển vốn đối ứng giữa các dự án thuộc quyền quản lý và thông báo cho các cơ quan tài chính, kho bạc cấp vốn theo đúng tiến độ.
Các Bộ, ngành sẽ chủ động, linh hoạt phân bổ vốn đối ứng cho các dự án thuộc bộ, ngành mình quản lý. Điều này cũng phù hợp với việc phân cấp cho các Bộ, địa phương trong việc phê duyệt các dự án Hợp tác kỹ thuật, bao gồm cả phê duyệt kế hoạch sử dụng vốn đối ứng. Các Ban quản lý dự án cần phải tham gia ngay từ đầu trong quá trình đàm phán với các nhà tài trợ về kế hoạch thực hiện của dự án, và kế hoạch vốn đối ứng để bảo đảm quá trình thực hiện sau này được thông suốt.
Việc cân đối vốn đối ứng trong thời gian tới vẫn tiếp tục được thực hiện từ dưới lên và dựa trên nhu cầu thực tế của các chủ dự án. Các chủ dự án, căn cứ vào kế hoạch triển khai của dự án trong năm kế hoạch, trình địa phương chủ quản nhu cầu vốn đối ứng trong năm kế hoạch. Việc xác định nhu cầu vốn đối ứng cũng cần phù hợp với kế hoạch giải ngân nguồn vốn ODA của các nhà tài trợ.
Vấn đề xác định nhu cầu vốn đối ứng cần phải được quan tâm xác định từ giai đoạn xây dựng dự án và đàm phán với từng nhà tài trợ. Trong quá trình xây dựng kế hoạch thực hiện dự án, kế hoạch di dân giải phóng mặt bằng cần được xây dựng sát với thực tế, phù hợp với tiến độ xây dựng cơ bản, tránh tập trung công tác này vào giai đoạn đầu của dự án làm tăng đột biến nhu cầu vốn đối ứng trong giai đoạn đầu của dự án.
Ngân sách của tỉnh nên có một nguồn dự phòng dành riêng cho các dự án ODA. Nguồn dự phòng này sẽ được sử dụng trong các trường hợp bổ sung kế hoạch vốn đối ứng cho các dự án có hiệu lực sau kỳ lập kế hoạch, các dự án thiếu vốn đối ứng để nộp thuế, hỗ trợ về các huyện, xã..
Vốn đối ứng cần được giao theo đúng địa chỉ của từng chương trình, dự án ODA cụ thể, không được bố trí tuỳ tiện cho các mục tiêu khác.
Điều chỉnh lại cơ cấu chi của nguồn vốn ODA:
- Giảm tỷ lệ vốn ODA chi cho ngân sách của tỉnh.
- Tăng tỷ lệ cho vay lại đối với các doanh nghiệp.
Như vậy, có thể nói ODA là nguồn vốn quan trọng của ngân sách Nhà nước, cụ thể về phía địa phương thì nó cũng là một nguồn vốn không thể thiếu được trong ngân sách của tỉnh, được sử dụng để hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ưu tiên. Mục tiêu cung cấp ODA của các tổ chức quốc tế, các chính phủ và các nhà tài trợ ở một khía cạnh nhất định đều nhằm tạo điều kiện cho tăng trưởng và phát triển ở các nước tiếp nhận viện trợ. Tuy nhiên, với mỗi tổ chức, mỗi nhà tài trợ lại có những mục tiêu chiến lược riêng cho từng giai đoạn nhất định. Do đó, việc nắm bắt được các mục tiêu khác nhau của từng nhà tài trợ là một trong những điều kiện để vừa làm tăng khả năng thu hút nguồn vốn ODA phuc vụ cho sự nghiệp phát triển của tỉnh, vừa làm cho các chương trình dự án được thực hiện có hiệu quả cao hơn về kỹ thuật, kinh tế-xã hội đối với địa phương.
2.2.3. Giải pháp tăng tốc độ giải ngân cho tỉnh:
Hài hoà thủ tục dự án.
Đối với những dự án được triển khai từ Trung ương xuống dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA phải trải qua hai khâu thẩm định. Các quá trình thẩm định và phê duyệt dự án diễn ra từ phía các cơ quan chính phủ và các nhà tài trợ. Để đảm bảo việc phê duyệt dự án được suôn sẻ cần có sự cải tiến thủ tục và phối hợp của cả hai phía.
Thực tế hiện nay cho thấy tiến trình thẩm định và phê duyệt vẫn đang còn có những vướng mắc, các văn bản báo cáo nghiên cứu khả thi được chuẩn bị thường không đáp ứng yêu cầu do năng lực chuẩn bị báo cáo nghiên cứu khả thi của chủ đầu tư còn hạn chế dẫn đến sự chậm trễ trong việc trình và phê duyệt báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, còn thiếu sự nhất quán giữa nội dung của báo cáo khả thi được phê duyệt và các kết quả thẩm định của nhà tài trợ.
Do đó, cả hai bên cần nghiên cứu, điều chỉnh để thủ tục thẩm định của hai bên tiến tới đồng bộ, thống nhất và phối hợp nhịp nhàng với nhau cả về nội dung và thời điểm thẩm định của một quy trình thẩm định chung nhưng vẫn là hai lần thẩm định độc lập, khách quan. Trong đó, nên để thẩm định của nhà tài trợ sau khi có phê duyệt của chính phủ. Đồng thời, để tránh lãng phí thời gian nên giảm bớt những thủ tục không thật sự cần thiết trong quá trình phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi. Ngoài ra cần được bố trí vốn chuẩn bị đầu tư để lập trước nghiên cứu tiền khả thi và xúc tiến nghiên cứu khả thi cho các dự án nằm trong danh mục các dự án ưu tiên được sử dụng vốn ODA đã được chính phủ phê duyệt và nhà tài trợ có cam kết xem xét tài trợ.
Đó là khi dự án được duyệt ở trên Trung ương, nhưng khi dự án được triển khai về dưới địa phương thì lại mất thời gian nhiều khi giải quyết các vấn đề là phân chia vốn về địa phương nào, và khi về đến địa phương thì sẽ được triển khai cụ thể ra sao. Tất cả các khâu, các thủ tục ở địa phương cũng mất thời gian không kém, do đó, khi đưa ra kế hoạch cũng cần phải có kế hoạch cụ thể và riêng cho địa bàn tỉnh, có sự kết hợp giữa nhà tài trợ với tỉnh, giữa tỉnh và các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước về thủ tục khi đưa ra quyết định tài trợ về địa bàn tỉnh. Tránh các thủ tục rườm rà lặp lại ở tỉnh và các cấp dưới.
Giải quyết vốn đối ứng.
Vốn đối ứng cho các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA là phần vốn trong nước tham gia trong từng chương trình, dự án ODA được cam kết giữa phía Việt Nam và phía nước ngoài trong các hiệp định, văn kiện dự án, quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền. Các dự án vay vốn của chính phủ Nhật Bản hay Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Châu Á thường yêu cầu vốn đối ứng trong nước chiếm từ 15% đến 30% tổng giá trị dự án, các dự án hỗ trợ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc thường đòi hỏi vốn đối ứng trong nước khoảng 20% trị giá dự án.
Về nguyên tắc, vốn đối ứng của chương trình, dự án thuộc cấp nào thì cấp đó xử lý từ nguồn ngân sách của mình. Trường hợp một số địa phương có vốn đối ứng phát sinh quá lớn, vượt khả năng cân đối thì cần trình thủ tướng chính phủ để xin hỗ trợ một phần ngay từ khi lập dự án. Tuy nhiên, thực tế vốn đối ứng không phải lúc nào cũng trôi chảy, mà đang là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên sự chậm trễ trong việc thực hiện dự án. Cơ chế vốn đối ứng khác nhau cho những dự án cùng loại là câu hỏi đang chờ giải đáp. Bên cạnh đó, một số dự án do vốn đầu tư lớn nên càng khó khăn về vốn đối ứng, đặc biệt là đối với các địa phương. Nhằm tháo gỡ những khó khăn về vốn đối ứng, cần quy định cụ thể hơn về cơ chế vốn đối ứng. Đảm bảo vốn đối ứng được cấp đầy đủ và kịp thời theo tiến độ thực hiện dự án, thống nhất cơ chế quản lý vốn đối ứng đối với những dự án cùng loại.
Mặt khác, cần tăng cường quản lý và sử dụng vốn đối ứng cho các dự án ODA phù hợp với quy định của chính phủ và không được sử dụng vốn đối ứng ngoài mục đích, nội dung của dự án.
Cải thiện chất lượng đầu vào.
Để cải thiện và nâng cao tốc độ giải ngân vốn ODA, giảm thiểu gánh nặng nợ nần, phải quan tâm nhiều hơn nữa đến chất lượng đầu vào của nguồn vốn ODA. Phải lựa chọn các dự án phù hợp, phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và trung hạn.Cần chú trọng tới cơ cấu và tính bền vững của các nguồn vốn ODA. Để tăng cường chất lượng đầu vào của các chương trình, dự án ODA công tác chuẩn bị, thẩm định và phê duyệt dự án cần được tổ chức chặt chẽ và chất lượng cao trên cơ sở phát triển quan hệ đối tác. Cần phát triển hơn nữa quan hệ đối tác giữa các bên, trên cơ sở quan tâm tới lợi ích chung cả tất cả các bên tham gia và đề cao vai trò làm chủ của bên tiếp nhận. Đồng thời, chia sẻ thông tin cũng là một cơ sở quan trọng để phát trển quan hệ đối tác. Do đó, để có thể phối hợp trong quan hệ hợp tác phát triển nói chung và tạo điều kiện cho việc giải
ngân đúng tiến độ các bên cần có thông tin chính xác và tôn trọng lợi ích của nhau.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách đền bù, tái định cư.
Giải phóng mặt bằng, tái định cư là khâu quan trọng, có ý nghĩa kinh tế , xã hội, chính trị, môi trường… và ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thực hiện dự án và do đó ảnh hưởng đến tốc độ giải ngân vốn ODA nhưng đây cũng là khâu thường xuyên có vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án. Vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư cần được coi là một bộ phận quan trọng trong kế hoạch thực hiện dự án ODA, vấn đề này không chỉ liên quan đến lợi ích thiết thân, cuộc sống hiện tại cũng như lâu dài của người dân mà còn liên quan đến luật pháp, chính sách của nhà nước, chính sách của nhà tài trợ. Trong đền bù luôn gặp tính hợp pháp của tài sản và việc xử lý vấn đề này không dễ dàng trong tình trạng xây dựng trái phép, lấn chiếm đất đai phổ biến như hiện nay. Đồng thời việc áp dụng chính sách tính hợp pháp của tài sản trên thực tế nhiều khi lại mâu thuẫn với chính sách đảm bảo đời sống của người bị ảnh hưởng bởi dự án sau khi thực hiện tái định cư không tồi hơn địa điểm cũ của nhà tài trợ.
Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào Việt Nam và trong mỗi dự án cụ thể, từng giai đoạn khác nhau chúng ta cần áp dụng những biện pháp cụ thể, kịp thời để ODA thật sự trở thành nguồn vốn hỗ trợ từ bên ngoài có ý nghĩa trong phát triển kinh tế đất nước, cũng như phát triển kinh tế của tỉnh Thái Bình.
KẾT LUẬN
Nhìn lại tình hình thu hút, sử dụng và quản lý ODA ở Thái Bình có thể thấy được phần nào sự đóng góp của ODA đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế ở nước ta, cụ thể là của tỉnh Thái Bình trong các giai đoạn kể từ khi thu hút được vốn ODA lần đầu tiên vào năm 1993 cho đến bây giờ. Qua chuyên đề này của mình em đã trình bày được tình hình thu hút vốn, sử dụng và quản lý ODA ở Thái Bình. Tuy là một tỉnh nhỏ nhưng cùng với sự phát triển của cả nước thì nền kinh tế Thái Bình trong những năm gần đây cũng đang có sự phát triển rõ rệt. Thực tế tiếp nhận và sử dụng dự án ODA thời gian qua cho thấy ODA thật sự là một nguồn vốn quan trọng với sự phát triển của tỉnh và tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội tương đối hiện đại. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội mà tỉnh đề ra thì cần phải huy động được nhiều hơn và sử dụng hiệu quả hơn nữa nguồn vốn ODA về tỉnh. Từ đó em đã đưa ra một số đề xuất liên quan đến các dự án ODA của tỉnh.
Chuyên đề này được hoàn thành là có sự chỉ bảo và hướng dẫn tận tình từ thầy giáo- Tiến sĩ Nguyền Hồng Minh, sự giúp đỡ và dạy dỗ nhiệt tình của các giảng viên trong khoa Kinh tế đầu tư, trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Em đã cố gắng để hoàn thành chuyên đề, nhưng do trình độ và thời gian có hạn nên bài viết có thể có nhiều thiếu sót. Em kính mong thầy giáo và các thầy cô trong bộ môn đóng góp ý kiến để em có thể nâng cao hiểu biết của mình về vấn đề này.
Một số văn bản pháp quy quản lý ODA trực tiếp:
Nghị định số 58/2008/ND-CP Hướng dẫn thi hành Luật đấu thầu, và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật xây dựng
Quyết định 803/2007/QD-BKH
Phụ lục thông tư 04
Thông tư số 04 /2007/TT-BKH
Luật đấu thầu
Luật xây dựng
Định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006-2010
Quyết định 61 Bộ Tài Chính
Nghị định 131 của Chính Phủ về ODA
Thông tư PMU 03 BKH
Đề án ODA
Quyết định 112 của Bộ Tài Chính
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Trang
Biểu 1: Tổng cam kết ký và giải ngân ODA của Việt Nam giai đoạn
2001-2005 13
Bảng 1: Cơ cấu ODA ký kết theo ngành, lĩnh vực thời kỳ 2001- 2002 16
Bảng 2: Cơ cấu vốn ODA theo vùng do địa phương trực tiếp hưởng thụ 19 thời kỳ 2001- 2005 19
Bảng 3: Mức vốn ODA theo lĩnh vực trên địa bàn tỉnh trong tất cả các năm từ 1993 đến 2005 39
Biểu 2: vốn ODA chia theo lĩnh vực trên địa bàn tỉnh từ năm 1993- 2005 40
Bảng 4: Bảng số liệu về thu hút vốn ODA theo ngành, lĩnh vực giai đoạn
2006 – 2008 42
Biểu 3: Vốn ODA chia theo lĩnh vực giai đoạn 2006- 2008 42
Bảng 5: Bảng số liệu thu hút ODA của Thái Bình theo nhà tài trợ, giai đoạn 1993- 2005 46
Biểu 4, 5: Biểu đồ thu hút vốn ODA phân loại theo các nhà tài trợ giai đoạn 1993- 2005 46
Bảng 6: Bảng thu hút ODA theo các nhà tài trợ giai đoạn 2006- 2008 48
Bảng 7: Bảng số liệu thể hiện tình hình giải ngân của tỉnh theo ngành, lĩnh vực giai đoạn 1993- 2005 49
Biểu 6, 7: Biểu đồ thể hiện tình hình thu hút ODA của tỉnh theo các nhà tài trợ giai đoạn 2006- 2008 50
Biểu 8: Biểu đồ giải ngân của tỉnh theo lĩnh vực giai đoạn 1993- 2005 51
Bảng 8: Bảng số liệu giải ngân ODA của Thái Bình giai đoạn 2006- 2008 theo lĩnh vực 51
Biểu 9:Biểu đồ thể hiện tình hình giải ngân ODA của Thái Bình giai đoạn
2006- 2008 theo lĩnh vực 52
Bảng 9: Bảng số liệu giải ngân ODA của tỉnh giai đoạn 1993- 2005 theo
nhà tài trợ 53
Biểu 10, 11: Biểu đồ thế hiện tỷ lệ giải ngân của Thái Bình chia theo 53
Bảng 10: Bảng số liệu giải ngân ODA của tỉnh giai đoạn 2006- 2008 theo nhà tài trợ 54
Biểu 12, 13:Biểu đồ tốc độ giải ngân ODA tại Thái Bình giai đoạn 2006- 2008 theo các nhà tài trợ 55
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31197.doc