Tài liệu Thu hút FDI tại Trung Quốc và kinh nghiệm với Việt Nam: ... Ebook Thu hút FDI tại Trung Quốc và kinh nghiệm với Việt Nam
108 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1569 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thu hút FDI tại Trung Quốc và kinh nghiệm với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Sau hơn 20 năm (từ 1979 đến nay) thực hiện chính sách cải cách mở cửa, kinh tế Trung Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn, thu hút sự chú ý của cả thế giới. Kim ngạch ngoại thương hai chiều của Trung Quốc đã tăng từ 28 tỷ USD năm 1982 lên 510 tỷ USD năm 2001. Năm 2001, Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu đứng thứ bẩy thế giới (266,3 tỷ USD) và là nước nhập khẩu đứng thứ 8 trên thế giới (243,7 tỷ USD). Cho đến nay, tương ứng với các thời kỳ, nền kinh tế Trung Quốc vẫn dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng. Vị thế và ảnh hưởng của Trung Quốc đã tăng lên rõ rệt. Nhiều nhà kinh tế nhận định rằng, từ nay đến hết thập niên đầu thế kỉ XXI vẫn là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc.
Một trong những yếu tố tạo nền sự phát triển mạnh mẽ kinh tế của Trung Quốc trong hơn 20 năm qua là sự thành công trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Từ năm 1992 đến nay, Trung Quốc liên tục đứng đầu các nước đang phát triển và đứng trong tốp đầu trên thế giới về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và thậm chí đã vượt qua Hoa Kỳ vào năm 2002 với 52,7 tỷ USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành động lực của sự phát triển kinh tế Trung Quốc và chính nó là yếu tố then chốt để nước này thực hiện công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Quan trọng hơn, nó là cơ sở chủ yếu để Trung Quốc thực hiện bước chuyển từ một nước nông nghiệp, khai thác tài nguyên, xuất khẩu nguyên liệu là chính sang thành nước sản xuất và xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng công nghiệp chế tạo. Nhờ có đầu tư trực tiếp nước ngoài mà đất nước Trung Quốc đã thay da đổi thịt. Nếu như trước khi mở cửa, Trung Quốc được ví như một hành tinh chết, không sinh sôi, không nảy nở, phát triển thì sau 20 năm mở cửa, một đất nước Trung Quốc lớn mạnh đang hình thành, tạo nên một trong những “điều thần kỳ kinh tế vĩ đại nhất của thế kỷ”.
Việt Nam tiến hành cải cách mở cửa sau Trung Quốc 8 năm nên việc tham khảo kinh nghiệm trong lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc trong quá trình phát triển kinh tế là cần thiết.
Về mặt lý luận, nó giúp ta có thêm dữ liệu để hiểu kỹ bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài, vừa là điều kiện để đánh giá chuẩn xác hơn sự tác động của loại hình kinh tế này đối với quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam. Về thực tiễn, Trung Quốc phát triển kinh tế thành công một phần lớn là nhờ đã triệt để tận dụng những ưu thế của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bài học thiết thực được đúc kết là nước nào có năng lực thu hút và biết sử dụng hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài thì kết quả đạt được trong quá trình phát triển tương đối thành công.
Chúng ta tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc chính là cơ sở để học hỏi những thành công và né tránh những điều chưa hợp lý mà Trung Quốc đã vấp phải. Vì đầu tư trực tiếp nước ngoài không phải là “chìa khoá vạn năng”, nó cũng có những mặt trái nên trong khoá luận này, tôi xin đề cập cả những bài học thành công cũng như chưa thành công của Trung Quốc. Tham khảo một cách có chọn lọc những bài học kinh nghiệm là yêu cầu cần thiết, bổ ích cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận chia thành 3 chương:
Chương I: Thực trạng thu hút FDI tại Trung Quốc.
Chương II: Những bài học kinh nghiệm trong thu hút FDI tại Trung Quốc. Chương III: Vận dụng kinh nghiệm trong hoạt động thu hút FDI của trung quốc ở Việt Nam.
Do trình độ và thời gian có hạn nên khoá luận này không tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Bùi Thị Lý, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong việc hoàn thành khoá luận này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2003.
Người viết
Học viên Nguyễn Thị Thu Hảo
CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC
Năm 1979 đánh dấu việc Trung Quốc mở cửa thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Kể từ đó đến nay, tình hình thu hút FDI tại Trung Quốc đã có những biến chuyển mạnh mẽ. Có thể tóm tắt quá trình thu hút FDI tại Trung Quốc thành bốn giai đoạn.
I. THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC QUA CÁC GIAI ĐOẠN
1. Giai đoạn thăm dò (1979 - 1985)
Do Trung Quốc có một thời gian dài đóng cửa bài ngoại nên đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Trung Quốc trong giai đoạn đầu này chỉ mang tính thăm dò, mức độ chậm chạp, quy mô không lớn. Chủ yếu là các dự án đầu tư vào vùng duyên hải của các nhà tư bản vừa và nhỏ ở Hồng Kông, Ma Cao. Các nhà đầu tư chủ yếu đầu tư vào các công trình nhà hàng, khách sạn thu lợi tương đối cao. Hầu hết các hạng mục quy mô nhỏ, kỹ thuật thấp, kỳ hạn quay vòng vốn ngắn. Tính tới cuối năm 1985, Trung Quốc đã thu hút được 6.321 hạng mục, với số vốn đầu tư thực tế là 4,72 tỷ USD. Hầu hết các hạng mục sử dụng nhiều lao động vào những ngành gia công cấp thấp hoặc trung bình. Mục đích của nhà đầu tư lúc đó là lợi dụng sức lao động rẻ ở Trung Quốc.
2. Giai đoạn phát triển ổn định (1986 - 1991)
Đầu năm 1986, Trung Quốc có sự điều chỉnh. Chiến lược thu hút FDI được cựu Tổng bí thư Đảng CS Trung Quốc Triệu Tử Dương gọi là “lưỡng đầu tại ngoại”, tức là dựa vào bên ngoài cả về cung đầu vào lẫn thị trường đầu ra. Với chiến lược này, Trung Quốc quyết định lấy mục tiêu kinh tế loại hình hướng ra bên ngoài là kết hợp công thương, lấy xây dựng công nghiệp làm chủ, lấy trọng điểm từ việc trải ra kinh doanh chuyển hướng cơ bản sang nắm sản
xuất, nâng cao trình độ để đạt hiệu quả kinh tế. Đây là quyết định có ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển kinh tế ở Trung Quốc. Chính sách này rất khác so với chính sách của nhiều nước công nghiệp hoá mới (NICs) là thu hút FDI vào sản xuất thay thế nhập khẩu. Đặc điểm của Trung Quốc là đồng thời chuyển đầu tư nước ngoài từ thay thế nhập khẩu sang hướng về xuất khẩu đồng thời vẫn thực hiện công nghiệp hoá. Đặc điểm này đã làm cho các nhà đầu tư chú ý.
Các nhà đầu tư từ trên 60 nước và khu vực, chủ yếu là từ Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan, Nhật Bản và các nước phát triển phương Tây đã đến Trung Quốc. Họ chủ yếu đầu tư vào các ngành năng lượng, thông tin, chế tạo máy, điện tử, dệt, công nghiệp nhẹ, hoá chất, nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, đánh cá, xây dựng và ngành bất động sản. Những dự án được chấp thuận ở các tỉnh và thành phố duyên hải chiếm 80% tổng số của cả nước. Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài có sự chuyển hướng từ các ngành kinh doanh dịch vụ sang các ngành công nghiệp chế tạo, chủ yếu là các ngành công nghiệp tập trung nhiều lao động, sản phẩm được tái xuất qua Hồng Kông phù hợp với chiến lược sử dụng vốn nước ngoài cho mục đích xuất khẩu của Trung Quốc, đã làm tổng sản lượng công nghiệp tăng lên.
Năm 1991, Trung Quốc đã thông qua việc khống chế vĩ mô, kết hợp chặt chẽ chính sách ưu đãi trong thu hút vốn nước ngoài và chính sách ngành nghề của đất nước, khuyến khích có trọng điểm đầu tư nước ngoài vào các hạng mục theo hướng phù hợp với chính sách ngành nghề, các hạng mục phải có quy mô tương đối lớn và có kỹ thuật tiên tiến. Đầu tư nước ngoài ngày càng phát triển vững chắc hơn. Theo báo cáo điều tra của Cục mậu dịch Hồng Kông, từ năm
1979 - 1991, Trung Quốc đã phê chuẩn 12.100 hạng mục vốn nước ngoài, kim ngạch ký kết theo hiệp định là 121,5 tỷ USD, vốn lợi dụng thực tế đạt 79,6 tỷ
USD.
Nhìn chung, giai đoạn 1984 - 1991, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc phát triển ổn định, có sự tăng trưởng cao. Đặc điểm chủ yếu của đầu tư là các hạng mục mang tính sản xuất ngày càng tăng, (riêng năm 1991
chiếm trên 90%). Các hạng mục mang tính kỹ thuật tiên tiến và thuộc loại hình xuất khẩu ngày càng nhiều.
3. Giai đoạn phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ (1992 - 1993)
Bước sang thập kỷ 90, sau chuyến đi thị sát của Đặng Tiểu Bình ở các tỉnh phía Nam, tại Đại hội XIV năm 1992, Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định đẩy nhanh tốc độ kinh tế thị trường. Cả nước đã hình thành kết cấu mở cửa đối ngoại bao gồm 339 huyện thị với diện tích hơn 50 vạn km2 và hơn 300 triệu người. Trung Quốc tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư ngày càng phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của kinh tế thị trường, mở rộng thêm các lĩnh vực đầu tư, quyết định đẩy nhanh sự phát triển của ngành nghề thứ ba và đặc biệt là mở rộng thị trường nội địa. Các nhà đầu tư đã nhìn thấy thị trường nội địa rất tốt, tiềm lực rất lớn, do vậy họ đã đầu tư ồ ạt vào thị trường trong nước.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc tăng trưởng cao chưa từng thấy. Số lượng đầu tư của thương gia nước ngoài tăng theo cấp số nhân. Năm
1992, tổng số hạng mục đầu tư của thương gia nước ngoài ký kết trên cả nước là 48.764 hạng mục, tăng 3,75 lần so với 1991. Nó vượt quá cả tổng số hạng mục thời kỳ 1979 - 1991 là 42.027 hạng mục. Kim ngạch ký kết theo hiệp định là 58,12 tỷ USD, tăng 4,85 lần so với 1991, vượt qua tổng kim ngạch ký kết thời kỳ 1979 - 1991, là 52,54 tỷ USD. Kim ngạch sử dụng thực tế là 11,01 tỷ, tăng 2,52 lần so với năm 1991. Năm 1993, số dự án đầu tư của thương gia nước ngoài lên tới 83.437 hạng mục, tăng 71,1% so với năm 1992. Kim ngạch ký kết theo hiệp định là 111,44 tỷ USD, tăng 149,95% so với năm trước. Đồng thời nó cũng nhiều hơn tổng kim ngạch ký kết 14 năm trước đó (1987 - 1992) là 110,46 tỷ USD. Mức sử dụng thực tế đạt 27,52 tỷ USD, tăng 2,49 lần so với năm 1992 và tương đương 80% tổng kim ngạch 14 năm trước đó.
Nguồn FDI trong 2 năm đến từ hơn 120 nước và khu vực. Tốc độ tăng trưởng của các nước phương Tây tăng nhanh. Trong đó các công ty xuyên quốc
gia (TNCs), các nhà tư bản từ 3 cường quốc Mỹ - Nhật - EU ngày càng tăng cường số lượng đầu tư vào Trung Quốc.
TNCs và các nhà tư bản lớn phương Tây đầu tư vào Trung Quốc mang theo một số loại hình đầu tư mới, quy mô đầu tư lớn, khởi điểm kỹ thuật cao, sản phẩm cao cấp hoá. Các dự án mang tính sản xuất trong kết cấu ngành nghề giảm xuống. Các dự án mang tính phi sản xuất phát triển tương đối nhanh. Đặc biệt là ngành bất động sản tăng cao, chiếm tỷ trọng lớn trong số các dự án và tỷ lệ trong số vốn của hiệp định từ 9,3% và 31% năm 1992 lên đến 13,57% và
39,28% năm 1993.
Do đầu tư tăng cao đã gây nên những cơn sốt đầu tư, gây ra tình trạng rối loạn về bất động sản, về mở khu chế xuất, khu khai thác kinh tế kỹ thuật. Đầu tư tăng cao đã làm cho nền kinh tế trở nên quá nóng. Năm
1992, kinh tế tăng trưởng 12%, năm 1993 tăng 13,4%. Tốc độ tăng trưởng này đã kéo theo rối loạn về tài chính tiền tệ, tổng cung và tổng cầu mất cân bằng ảnh hưởng đến lạm phát.
Năm 1992, 1993, tuy đầu tư tăng trưởng cao nhưng tỷ trọng kim ngạch sử dụng thực tế trong kim ngạch hiệp định mỗi năm là 18,9% và 24,7%, thấp hơn so với mấy năm trước đó. Tình trạng này xẩy ra một phần do ở nhiều địa phương đã mù quáng đưa các hạng mục đầu tư mà tiền vốn đồng bộ trong nước kèm theo không đủ, thiết bị cơ sở hạ tầng không theo kịp, nguyên liệu, nhiên liệu, cung ứng không đủ.
Nhìn chung, FDI những năm 1992 - 1993 tăng trưởng với tốc độ cao ở Trung Quốc. Đặc trưng cơ bản của nó là mở rộng khu vực đầu tư, mở rộng ngành nghề, mở rộng quy mô dự án, cải thiện kết cấu đầu tư, kết cấu ngành nghề có sự chuyển biến cao cấp hoá.
4. Giai đoạn điều chỉnh (1994 đến nay)
Trước tình trạng FDI tăng trưởng quá nóng trong giai đoạn 1992 - 1993, từ năm 1994, Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh chiến lược thu hút FDI theo hướng:
+ Đưa tiền vốn vào từ công nghiệp gia công thông thường chuyển sang các ngành nghề cơ sở, ngành nghề tập trung nhiều tiền vốn và kỹ thuật.
+ Từ tiếp nhận những hạng mục nhỏ chuyển sang tiếp nhận những hạng mục lớn và vừa.
+ Từ thu hút tiền vốn ngành nghề chuyển sang thu hút tiền vốn lưu thông quốc tế.
+ Từ xây dựng doanh nghiệp mới là trọng tâm chuyển sang cải tạo những doanh nghiệp cũ.
+ Từ việc đưa đầu tư vào đối tượng bị động chuyển sang đưa vào đối tượng chủ động, có lựa chọn, chú trọng hơn đến chất lượng của đầu tư.
Chính sách điều chỉnh đã làm dịu tình trạng kinh tế quá nóng của Trung Quốc trong 2 năm 1992 - 1993. Trong 6 tháng đầu năm 1994, những cơn sốt về mở khu chế xuất và bất động sản đã dịu xuống. Số lượng dự án mở khu chế xuất, khu phát triển kỹ thuật ở các tỉnh Giang Tô, Triết Giang, Sơn Đông, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Liêu Ninh, Hà Bắc đã giảm từ hơn 1.200 khu xuống chỉ còn 200 khu. Kim ngạch dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng
143,5% trước đây chỉ còn tăng 43,9%. Ở khu vực duyên hải - điểm nóng mà thương gia nước ngoài đầu tư ngoài Thượng Hải - tăng một chút 1,5%, với kim ngạch tăng 14,2%, các tỉnh và thành phố khác đều có xu thế giảm đi, trong đó, Giang Tô giảm 55,5%, Sơn Đông giảm 50%.
Nhờ điều chỉnh mà đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc đã có sự chuyển biến rõ rệt từ số lượng sang chất lượng. Từ năm 1994 đến nay, mặc dù kim ngạch hiệp định có xu hướng giảm đi nhưng kim ngạch sử dụng thực tế tăng lên. Thượng Hải và Bắc Kinh từng nơi tăng trưởng 2,1 lần và 2,7 lần. Sơn Đông tăng ít nhất cũng đạt 17%. Tính chung cả nước trong năm 1994, số hạng mục đầu tư được Trung Quốc phê chuẩn là 47.490, giảm 43,09% so với năm
1993. Số kim ngạch đầu tư ký kết theo hiệp định là 81,41 tỷ USD, giảm
26,95%. Song số kim ngạch sử dụng thực tế là 33,75 tỷ USD, tăng 22,78%, chiếm 41,5% trong tổng kim ngạch đầu tư ký kết theo hiệp định. Vốn FDI thực tế vào Trung Quốc trong hai năm tiếp theo 1995, 1996 cũng vẫn tăng đều đặn với mức 10%/ năm.
Tuy nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997 mà luồng vốn FDI vào Trung Quốc có sụt giảm trong hai năm 1998,
1999. Kim ngạch thực tế trong hai năm này lần lượt chỉ đạt 43,7 tỷ USD và
40,3 tỷ USD, giảm 1% và 7% so với những năm trước đó. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ làm giảm thực lực kinh tế của các nước trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài loan, Hồng Kông, vốn là những đối tác đầu tư chủ yếu của Trung Quốc (chiếm hơn 75% tổng vốn FDI). Các nước này phải giải quyết những khó khăn nội tại nên giảm đầu tư ra nước ngoài nói chung và vào Trung Quốc nói riêng. Trung Quốc đã tiến hành một loạt các biện pháp nhằm tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư như: duy trì ổn định tỷ giá đồng NDT, duy trì tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế, tiếp tục đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng, lựa chọn những hạng mục đầu tư có hiệu quả cao, nâng cao hàm lượng khoa học kỹ thuật của các hạng mục. Nhờ vậy, từ năm 2000, FDI vào Trung Quốc bắt đầu phục hồi trở lại mức 40,77 tỷ USD, 46,87 tỷ USD vào năm
2001, và tăng lên con số kỷ lục là 52,7 tỷ USD vào năm 2002 và theo dự đoán trong năm 2003 sẽ đạt 60 tỷ USD. Hiện nay, có hơn 400.000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuộc 180 nước và vùng lãnh thổ đang hoạt động ở Trung Quốc.
II. ĐẶC ĐIỂM FDI TẠI TRUNG QUỐC
1. Nguồn vốn đầu tư
Với thị trường tiêu thụ khổng lồ và môi trường đầu tư thuận lợi, Trung
Quốc là một mảnh đất màu mỡ đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Như Lord
Powell, Chủ tịch của China - British Council tuyên bố: “Đường phố Trung Quốc không được dát vàng. Nhưng Trung Quốc tới nay đã thu hút nhiều vốn FDI hơn bất cứ quốc gia nào, trừ Mỹ, và thu hút được một lượng FDI lớn gấp
10 lần lượng FDI vào Ấn Độ.”
Lượng vốn FDI đổ vào Trung Quốc ngày càng nhiều. Chỉ riêng trong giai đoạn 1996 - 1999, FDI vào Trung Quốc đạt 126 tỉ USD, gấp 6 lần FDI vào Nhật Bản. Nếu như năm 1991, Trung Quốc chỉ đứng thứ 13 thế giới và thứ 3 trong các nước đang phát triển về thu hút FDI thì từ năm 1992 - 1998, Trung Quốc liên tục đứng đầu các nước đang phát triển và đứng trong tốp đầu của thế giới về thu hút FDI. Tuy nhiên, năm 1999, FDI giảm từ mức 48 tỷ USD (1998) xuống còn 40,4 tỷ USD (1999). Đây là lần đầu tiên luồng FDI vào Trung Quốc có sự giảm sút kể từ khi Trung Quốc cải cách kinh tế và mở cửa từ 1979. Từ năm 2000, FDI đã khởi sắc trở lại mức 40,7 tỷ USD, tăng lên 46,8 tỷ USD vào năm 2001 và tăng lên con số kỷ lục là 52,7 tỷ USD vào năm 2002.
Hình 1: 13 nước thu hút FDI hàng đầu thế giới năm 2000 và 2001
Đơn vị : tỷ USD
Mü
A nh
12 4
11 7
54
43
30 1
Ph ¸p 53
BØ v μ Lux 51
H μ L an 52
50
41
T rung Q uèc 47
18 5
24 6
§øc
C anada
32
27 67
15
200 0
M ªhic« 25
T huþ § iÓn 23
13
200 1
§ an M ¹ch
7 32
9
Ph Çn L an 4
6
Na U y 3
0 50 100 150 200 250 300 350
Nguồn: UNCTAD World Investment Report 2002.
Tính tới cuối năm 2001, tổng kim ngạch ký kết theo hiệp định đạt 731,9 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt 395,192 tỷ USD. Riêng năm 2001, Trung Quốc đã phê chuẩn 26.140 hạng mục, với số vốn ký kết theo hiệp định là 69,19 tỷ USD, số vốn sử dụng thực tế đạt 46,87 tỷ USD.
Như vậy mặc dù sự kiện 11 tháng 9 có làm sụt giảm đầu tư toàn cầu nhưng nhờ việc Trung Quốc gia nhập WTO (tháng 11 / 2001), nên đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc vẫn gia tăng. Với 46,84 tỷ USD tiếp nhận được, Trung quốc đã chiếm 23% vốn FDI vào các nước đang phát triển và chiếm 6,4% vốn FDI toàn cầu.
2. Đối tác đầu tư
Hình 2: Đầu tư chủ yếu của MNCs và Tư bản Hoa kiều (expatriates)
giai đoạn 1983 - 1997
Đơn vị: triệu USD
Nguồn: Guha, Ashok and Ray, Amit S. (2000), “Multinational vs Expatriate FDI: A
comparative Analysis of the Chinese and Indian experience”, New Delhi.
Ngay từ khi mới mở cửa, Trung Quốc đã huy động tối đa tiềm năng của người Hoa ở nước ngoài phục vụ cho hoạt động thu hút đầu trực tiếp nước ngoài. Người Hoa ở nước ngoài không những đã trở thành lực lượng hùng hậu tiến hành việc tuyên truyền, quảng bá chính sách, vận động, làm môi giới... đầu tư trực tiếp nước ngoài cho Trung Quốc mà họ còn là những nhà đầu tư chủ yếu trực tiếp chuyển vốn về nước thực hiện các dự án đầu tư. Theo thống kê của nhiều chuyên gia kinh tế Trung Quốc, có tới 70 - 80% số dự án và trên 65% tổng vốn FDI vào Trung Quốc là của tư bản Hoa kiều.
Trong tổng vốn đầu tư của tư bản người Hoa và Hoa kiều đầu tư về Trung Quốc đại lục, đầu tư của Hoa kiều ở Hồng Kông, Đài loan, Ma Cao chiếm tỷ trọng chủ yếu. Điều này giải thích tại sao Hồng Kông, Đài Loan luôn nằm trong danh sách những đối tác đầu tư lớn nhất của Trung Quốc.
Bảng 1: Mười nhà đầu tư lớn nhất Trung Quốc năm 2001
STT
Nước
Số hạng mục
Kim ngạch theo hiệp định
Tỷ
trọng
Kim ngạch thực tế
Tỷ
trọng
1
Hồng Kông
8.008
20,69
30%
16,72
36%
2
Mỹ
2.606
7,51
11%
4,43
9%
3
Nhật Bản
2.019
5,42
8%
4,35
9%
4
Đài Loan
4.214
6,91
10%
2,98
6%
5
Hàn Quốc
2.909
3,49
5%
2,15
5%
6
Singapore
675
1,98
3%
2,14
5%
7
Đức
280
1,17
2%
1,21
3%
8
Vương quốc Anh
269
1,52
2%
1,05
2%
9
Hà Lan
114
0,97
1%
0,78
2%
10
Pháp
151
0,57
1%
0,53
1%
Đơn vị: tỷ USD
Nguồn: China Statistical Yearbook 2001
Bảng 1 cho thấy bức tranh đầu tư theo các đối tác đầu tư tại Trung Quốc. Ta thấy Hồng Kông là đối tác lớn nhất với 36% vốn FDI, tuy nhiên đang có xu hướng giảm dần. Nếu như trong giai đoạn 1979 - 1997, lượng vốn đầu tư của Hồng Kông vào Trung Quốc đại lục đạt khoảng 111 tỷ USD, chiếm 53% thì năm 2001, vốn đầu tư thực tế của Hồng Kông chỉ còn chiếm 36%, với 8.008 dự án và vốn đăng ký đạt 20,68 tỷ USD.
Đầu tư của Đài Loan vào Trung Quốc thoạt nhìn chiếm con số rất khiêm tốn là 2,98 tỷ USD vốn thực hiện, đứng thứ 4 trong số 10 nhà đầu tư lớn nhất tại Trung Quốc và thậm chí có người còn cho rằng trong những năm qua, tầm quan trọng của các nhà đầu tư Đài Loan đang giảm dần. Trong giai đoạn 1992 -
1998, FDI của Đài Loan chiếm 8,5% nhưng trong 3 năm gần đây, tỷ trọng FDI của Đài Loan luôn dao động trên dưới 6%. Nhưng những con số thống kê chính thức này chưa phản ánh hết tiềm lực vốn khổng lồ của các nhà đầu tư Đài Loan. Trong thực tế, vốn đầu tư của Đài Loan về Trung Quốc đại lục vượt xa cả Mỹ và Nhật Bản, chỉ đứng sau Hồng Kông về quy mô.
Nguyên nhân là Chính phủ Đài loan, vì lý do chính trị, đưa ra những quy định hạn chế lượng FDI tối đa mỗi doanh nghiệp Đài Loan được đầu tư vào Trung Quốc và cấm một số ngành công nghiệp không được đầu tư về đại lục nên các doanh nghiệp Đài Loan đã tìm mọi cách “lách luật” bằng cách thành lập công ty mới ở một nước trung gian như Hồng Kông, Singapore, British Virgin Islands…để thông qua đó chuyển vốn đầu tư về Trung Quốc. Do vậy, đầu tư của “True Taiwan - một Đài Loan thực sự” lớn hơn con số thống kê rất nhiều. Tuy nhiên , từ tháng 1 / 2001, Chính phủ Đài Loan đã bãi bỏ quy định về mức trần 50 triệu USD mà mỗi cá nhân được đầu tư về Trung Quốc nội địa và quyết định sẽ cấp phép tự động cho các dự án dưới 20 triệu USD, cùng với việc Trung Quốc mở cửa các lĩnh vực dịch vụ theo quy định của WTO, các công ty Đài Loan sẽ được chuyển vốn trực tiếp về Trung Quốc chứ không phải thông
qua một nước trung gian nữa. Đầu tư của Đài Loan về Trung Quốc trong thời gian tới chắc chắn sẽ tăng. Tính đến hết năm 2001, đã có 40.000 công ty Đài Loan tại đại lục, là nguồn đóng góp chủ lực cho ngân sách và tạo ra công ăn việc làm cho 10 triệu lao động.
Từ tháng 9 / 1993, Bộ hợp tác kinh tế đối ngoại của Trung Quốc cho phép các công ty xuyên quốc gia được đến Trung Quốc và mở rộng hơn phạm vi kinh doanh với các công ty này, nhiều công ty xuyên quốc gia và tập đoàn tài chính lớn trên thế giới đã dồn dập đầu tư vào Trung Quốc với hy vọng sẽ có chỗ đứng lâu dài trong thị trường có tiềm năng khổng lồ này. Với phương châm “Lấy thị trường đổi lấy kỹ thuật”, “Lấy thị trường đổi lấy vốn”, “Lấy thị trường để phát triển”, Trung quốc thực thi các biện pháp linh hoạt để mở rộng thị trường nội địa, thiết lập và cải tiến cơ chế cạnh tranh trên thị trường, cải thiện môi trường đầu tư nên số lượng các công ty xuyên quốc gia đã tăng lên nhanh chóng. Đáng chú ý là từ năm 1994, trong khi vốn đầu tư cam kết từ Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan giảm thì đầu tư từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Đức lại tăng lên ở những mức độ khác nhau. Quy mô trung bình của mỗi dự án đều cao gấp đôi so với các dự án đầu tư từ Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan vì hầu hết đây là những công ty lớn.
Theo số liệu mới nhất của UNCTAD năm 2001, hơn 400 trong số 500
TNCs lớn nhất thế giới đã đến Trung Quốc đầu tư. Từ năm 1995 đã có 30 nhà doanh nghiệp nổi tiếng của các công ty Nhật Bản và Đức đã đầu tư xây dựng ở Trung Quốc với tổng cộng 231 doanh nghiệp, trong đó chỉ có
25 doanh nghiệp được thành lập vào những năm 80, còn lại 80% số doanh nghiệp chỉ đến năm 1993 mới được xây dựng. Như vậy, đa số các doanh nghiệp có đầu tư của TNCs được thành lập từ sau 1993. Tính tới cuối năm
1996, 18 trong số 20 công ty lớn nhất của Mỹ, 17 trong số 20 công ty lớn nhất của Nhật Bản, 8 trong số 10 công ty lớn nhất của Đức, 16 trong 20 công ty lớn nhất của Hàn Quốc đã có mặt tại Trung Quốc.
Mỹ là đối tác đầu tư lớn thứ hai ở Trung Quốc sau Hồng Kông, với vốn FDI tăng từ 354 triệu USD (1990) lên 4,4 tỷ USD năm 2001. Cùng với Hồng Kông, cửa ngõ của Trung Quốc với thế giới, Trung Quốc ngày càng trở thành địa chỉ đầu tư ưa thích của các công ty Mỹ. FDI của Mỹ vào Trung Quốc và Hồng Kông (2000) lên con số kỷ lục 4,4 tỷ USD - tăng 4% so với năm 1999 và chiếm 3,1% tổng vốn đầu tư trực tiếp của Mỹ ra nước ngoài. Năm 2001, kim ngạch đầu tư theo hiệp định của Mỹ đạt 7,5 tỷ USD, kim ngạch thực tế đạt 4,43 tỷ USD, chiếm 10% tổng lượng FDI thực hiện của Trung Quốc. Đầu tư của Mỹ tập trung vào những ngành sản xuất tạo giá trị gia tăng cao (thiết bị điện tử, viễn thông), dịch vụ (bảo hiểm, tài chính, phân phối) và dầu khí.
Nhật Bản xếp hạng thứ ba, sau Mỹ trong danh sách 10 nhà đầu tư lớn nhất tại Trung Quốc năm 2001 với 2.019 dự án và vốn sử dụng thực tế đạt 4,3 tỷ USD, chiếm 9%. Nếu tính chung cả giai đoạn 1979 - 1997 thì đầu tư của Nhật Bản trội hơn của Mỹ. Năm 1995 và 1996 là hai năm đánh dấu lượng đầu tư rất lớn của Nhật Bản. Trong hai năm này, các công ty Nhật Bản đã ký rất nhiều dự án đầu tư vào Trung Quốc. Năm 1995 có 2.946 hợp đồng với tổng số vốn ký kết đạt 7,59 tỷ USD, và năm 1996 là 1.742 hợp đồng với 5,8 tỷ USD. Năm 1997, đầu tư của Nhật Bản đạt mức 4,33 tỷ USD, cao hơn gần 1 tỷ so với mức đầu tư thực tế của Mỹ. Tuy nhiên năm 1997 cũng đánh dấu sự chững lại của đầu tư Nhật Bản, chủ yếu do sự đình trệ của nền kinh tế Nhật, nên đến năm
1998 lượng đầu tư của Nhật chỉ bằng một nửa lượng đầu tư của Mỹ, hạ vị trí của Nhật xuống hàng thứ ba, sau Mỹ, trong số các nhà đầu tư lớn nhất tại Trung Quốc.
Ngoài Hàn Quốc và Singapore (chiếm 5% lượng vốn đầu tư thực hiện), các nước còn lại trong 10 nước dẫn đầu về đầu tư trực tiếp tại Trung Quốc chiếm tỷ trọng rất nhỏ, từ 1-2%. Các nước châu Âu chỉ mới thực sự gia tăng đầu tư vào Trung Quốc trong mấy năm gần đây và việc đầu tư chủ yếu được thực hiện qua các công ty xuyên quốc gia. Tuy nhiên, với việc Trung Quốc gia
nhập WTO tháng 11 / 2001, đầu tư của các nước này trong tương lai gần chắc chắn sẽ tăng.
3. Qui mô của các dự án đầu tư
Bảng 2: Quy mô bình quân một dự án giai đoạn 1985 - 2001
Đơn vị: triệu USD
Năm
Bình quân dự án
Năm
Bình quân dự án
1985
1,930
1994
1,714
1986
1,892
1995
2,403
1987
1,661
1996
3,0
1988
1,071
1997
2,5
1989
0,969
1998
2,54
1990
0,907
1999
2,6
1991
0,923
2000
2,78
1992
1,192
2001
2,64
1993
1,336
Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê Trung Quốc 2001
Qua bảng trên, ta thấy quy mô đầu tư vào mỗi hạng mục đầu tư nước ngoài biến động không đều qua các năm. Thời kỳ đầu mở cửa, quy mô dự án nhỏ. Giữa thập kỷ 80, quy mô dự án khá cao, xấp xỉ 2 triệu USD một dự án. Tuy nhiên, quy mô này lại giảm vào những năm cuối của thập kỷ 80 và xu hướng tăng lại bắt đầu từ năm 1992 trở lại đây, từ mức 1,2 triệu USD/dự án lên
3 triệu USD/dự án.
Khoảng thời gian đầu, do đầu tư của thương gia nước ngoài còn mang tính thăm dò, nên các dự án có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Giữa thập kỷ 80, do đa số các dự án tập trung vào xây dựng các công trình cơ sở nên quy mô đầu tư của hạng mục tương đối lớn, lên tới gần 2 triệu USD/dự án. Từ năm 1986, mục tiêu kinh tế chuyển sang sản xuất để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng trong cả nước và xuất khẩu thu ngoại tệ, chính phủ khuyến khích đầu tư vào chế biến hàng xuất khẩu và những ngành thâm dụng nhân công. Để tận dụng những ưu đãi, các nhà đầu tư đã chú trọng vào những ngành như: may mặc, sản xuất đồ điện tử thứ cấp, là những ngành không cần vốn đầu tư lớn. Do vậy, quy mô đầu tư giảm xuống dưới 1 triệu USD /dự án.
Nghiên cứu kỹ hơn, ta sẽ nhận thấy quy mô đầu tư của tư bản người Hoa ở Hồng Kông, Đài Loan, Ma Cao luôn nhỏ hơn mức bình quân trong giai đoạn đầu thập kỷ 90 trở về trước. Điều này quyết định tới quy mô nhỏ các hạng mục đầu tư nước ngoài vì Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan luôn là những đối tác đầu tư chủ yếu của Trung quốc. Quy mô một hạng mục của Ma Cao chỉ có 1,17 triệu USD, của Đài Loan đạt 0,844 triệu USD. Nguyên nhân là đầu tư của tư bản người Hoa và Hoa kiều mang tính truyền thống gia tộc là chính. Đầu tư của họ chủ yếu là vào những xí nghiệp vừa và nhỏ, ít vốn, phân tán, quản lý rời rạc, phương thức kinh doanh theo kiểu truyền thống. Theo số liệu điều tra của Trung Quốc năm 1992, những doanh nghiệp quy mô đầu tư dưới 1 triệu USD thường là những doanh nghiệp gia công vừa và nhỏ, loại hình tập trung nhiều lao động. Đối với những doanh nghiệp quy mô trên 1 triệu USD, thì có trên
80% tập trung vào ngành tập trung nhiều lao động như dệt may, giầy da, quần áo, đồ thể thao.
Từ năm 1993, chính sách khuyến khích TNCs phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường ngày càng lôi kéo nhiều TNCs đầu tư vào Trung Quốc. Điểm nổi bật của các hạng mục đầu tư của TNCs là quy mô lớn hơn của tư bản Hoa kiều rất nhiều. Đặc biệt, các hạng mục kỹ thuật cao, mới của các khu khai thác kinh tế kỹ thuật ven biển đã nâng cao từ 10% mấy năm trước lên 30% vào năm 1994, quy mô mỗi hạng mục tăng từ 1,8 triệu USD năm 1993 lên 2,4 triệu năm 1995. Ở Quảng Đông, Bắc Kinh và Thượng Hải, các hạng mục đầu tư quy mô lớn tăng lên rõ rệt. Trong năm 1993, ở Quảng Đông có tới 738 hạng mục được phê chuẩn trên 10 triệu USD, tăng 527 hạng mục so với trước. Cũng cùng năm đó ở Bắc Kinh có 202 hạng mục trên 10 triệu USD, trong đó có tới 49
hạng mục đầu tư trên 50 triệu USD. Ở Thượng Hải có 146 công ty xuyên quốc gia, đầu tư 281 hạng mục, vốn ký kết theo hiệp định là 3,722 tỷ USD, bình quân mỗi hạng mục là 13,5 triệu USD. Đặc biệt, trong những năm gần đây đã xuất hiện những dự án có số vốn kỷ lục như: khu công nghiệp Tô Châu - Singapore, tổng đầu tư 20 tỷ USD, khu khai thác kinh tế Dương Phố - Hải Nam, tổng đầu tư 130 tỷ USD.
Quy mô các hạng mục đầu tư nước ngoài tăng mạnh đã làm cho FDI có sự chuyển biến từ số lượng sang chất lượng. Đây là đặc điểm nổi bật của hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc trong những năm gần đây. Đó là lý do tại sao từ 1994 đến nay, mặc dù FDI ký kết theo hiệp định giảm nhưng FDI thực tế ngày càng tăng.
4. Hình thức đầu tư
Bảng 3: FDI tại Trung Quốc theo hình thức đầu tư năm 2001 và 2000
Đơn vị: triệu USD
TT
Hình thức đầu tư
Kim ngạch ký kết
Kim ngạch thực hiện
2001
2000
%
tăng
2001
2000
%
tăng
1
Liên doanh
17.540
20.030
-12
16.250
14.590
11
2
Hợp tác kinh doanh
trên cơ sở hợp đồng
8.310
8.050
3
6.060
6.500
-7
3
DN 100% vốn nước
ngoài
42.980
34.010
26
23.550
19.140
23
4
DN cổ phần đầu tư
nước ngoài
330
210
57
460
110
31,8
5
Các hình thức khác
30
350
-91
530
440
20,4
Tổng cộng
69.190
62.650
10
46.850
40.770
15
Nguồn: China Statistical Yearbook 2001
Số liệu ở bảng 3 cho thấy hình thức đầu tư chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp “ba vốn”, tức là các doanh nghiệp hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp
đồng, doanh nghiệp chung vốn (còn gọi là doanh nghiệp liên doanh) và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Năm 2000, doanh nghiệp hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp chung vốn và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài lần lượt chiếm
12,7%; 32% và 54% vốn đăng ký và 16%; 35%; 46% tổng vốn đầu tư thực hiện. Năm 2001, tỷ trọng này lần lượt là 12%; 25%; 62% tổng vốn đăng ký và
13%; 34,7% và 50,3% vốn đầu tư thực hiện.
Doanh nghiệp hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng là doanh nghiệp kiểu hợp đồng, chủ đầu tư là nước ngoài cung cấp tiền vốn, thiết bị, kỹ thuật, Trung Quốc cung cấp tiền vốn, địa điểm, nhà xưởng hiện có, cơ sở trang thiết bị, sức lao động và các dịch vụ lao động. Tỷ lệ bỏ vốn của phía nước ngoài không thấp hơn 25% vốn đăng ký. Hai bên cùng nhau hợp tác hoạt động hoặc cùng hợp tác sản xuất kinh doanh. Hình thức này khác với doanh nghiệp liên doanh ở chỗ hai bên không thành lập pháp nhân mới. Khi chấm dứt hợp đồng, tài sản của doanh nghiệp trở thành sở hữu không bồi hoàn của phía Trung Quốc. Hình thức này rất phát triển trong giai đoạn đầu khi Trung Quốc đang xây dựng các đặc khu kinh tế và phát triển cơ sở hạ tầng vì nó đáp ứng yêu cầu về mặt thời gian, không mất nhiều thời gian đàm phán. Tuy nhiên, do đây là hình thức hợp tác giản đơn nên có xu hướng giảm dần cả về tỷ trọng lẫn tiến độ thực hiện. Vốn đầu tư thực tế theo hình thức này năm 2001 chỉ đạt 6 tỷ USD, giảm 7% so với mức 6,5 tỷ USD năm 2000.
Doanh nghiệp liên doanh là doanh ng._.hiệp hợp doanh kiểu cổ phần. Nó là phương thức chủ yếu để thu hút đầu tư nước ngoài. Nó do các công ty, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác hoặc cá nhân nước ngoài cùng đầu tư, cùng kinh doanh, cùng chịu lỗ lãi, rủi ro với các công ty doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế khác của Trung Quốc. Hình thức trách nhiệm của nó là công ty trách nhiệm hữu hạn. Vốn góp của hai bên là vốn pháp định (25%), còn lại là vốn vay. Vốn vay này do công ty liên doanh đứng ra vay và có trách nhiệm hoàn trả. Doanh nghiệp liên doanh trong thời gian liên doanh không được giảm bớt tiền vốn đăng ký kinh doanh của mình. Các bên chung vốn phân chia lợi
nhuận, gánh chịu rủi ro theo tỷ lệ đầu tư. Ở thời kỳ đầu cải cách mở cửa, hình thức chiếm tỷ trọng chủ yếu vì được ưu đãi nhiều nhất về thuế xuất nhập khẩu hải quan so với các hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp hợp tác kinh doanh và vì Trung Quốc không cho phép doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ. Tuy nhiên, hiện nay với việc Trung Quốc mở cửa các lĩnh vực dịch vụ theo khuyến nghị của WTO, hình thức này đang có xu hướng giảm sút, nhường chỗ cho hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Vốn đăng ký theo hình thức doanh nghiệp liên doanh năm 2001 chỉ đạt 17,54 tỷ USD, giảm 12% so với mức 20,03 tỷ USD năm 2000. Tỷ trọng của doanh nghiệp liên doanh cũng giảm từ 32% vốn đăng ký năm 2000 xuống còn 25% năm 2001.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp mà toàn bộ vốn đầu tư do chủ đầu tư nước ngoài đầu tư, xây dựng ở Trung Quốc theo luật pháp Trung Quốc, không kể những cơ cấu chi nhánh trên lãnh thổ Trung Quốc và các tổ chức kinh tế khác. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là pháp nhân Trung Quốc. Loại doanh nghiệp này phát triển rất mạnh mẽ ở Trung Quốc trong thời gian gần đây. Năm 2001, có tới 62% vốn FDI, tương đương 42,98 tỷ USD đăng ký theo hình thức này. Tỷ trọng của hình thức này trong tổng vốn thực hiện cũng đạt mức cao nhất so với các hình thức khác: 46% năm 2000 và
50% năm 2001. Hình thức này được các nhà đầu tư nước ngoài ưa chuộng vì họ được toàn quyền quyết định việc quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ năm 1992 - 1993, bên cạnh tiền vốn ngành nghề vào Trung Quốc theo doanh nghiệp “ba vốn” còn có tiền vốn lưu thông quốc tế theo các nhà đầu tư phương Tây vào Trung Quốc. Tiền vốn lưu thông này do các loại quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm, cung cấp. Nó trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các công ty đầu tư, công ty chứng khoán vào Trung Quốc, dưới các phương thức mua bán chứng khoán, lưu thông tiền vốn cổ phần, xây dựng quỹ tham gia cổ phần, đưa tiền vốn vào Trung Quốc nhằm thu lợi. Những tiền vốn lưu thông này không tự
mình lưu thông mở xưởng, làm hoạt động sản xuất thương mại mà nó theo đuổi tỷ suất cổ tức cố định, lâu dài, rủi ro tương đối nhỏ, tính lưu động tiền vốn cao, giá thành trực tiếp quản lý kinh doanh tương đối thấp.
Doanh nghiệp cổ phần đầu tư nước ngoài năm 2001 thu hút được 330 triệu USD vốn đăng ký (chiếm 0,5% vốn đăng ký), tăng gấp rưỡi năm 2000 và
460 triệu USD vốn thực hiện (chiếm gần 1% tổng vốn thực hiện), tăng 31,8% so với năm 2000. Đặc điểm của hình thức này là toàn bộ tiền vốn do những cổ phần mức bằng nhau tạo thành, các chủ đầu tư có thể phát hành cổ phiếu, cổ phần trưng tập tới các nhà đầu tư khác. Những cổ phiếu này có thể lưu thông trong giao dịch chứng khoán hoặc chuyển nhượng trên thị trường trong nước và ngoài nước. Mục đích là để thu hút nhiều nhà đầu tư tăng vốn mở rộng cổ phần hơn nữa và tham gia vào cải cách doanh nghiệp quốc doanh. Tính đến cuối năm
1996, có 86 công ty Trung Quốc trong danh sách các công ty bán cổ phiếu B (cổ phiếu phát hành bằng NDT ở Thượng Hải và bằng HKD tại Thâm Quyến chỉ dành cho các nhà đầu tư nước ngoài). 86 công ty này bán cổ phiếu thu được gần 3 tỷ USD. Đầu năm 1997, Uỷ ban Chứng khoán nhà nước công bố thêm danh sách 33 doanh nghiệp được phát hành cổ phiếu B.
Từ 1995 đến nay, các doanh nghiệp nước ngoài mở rộng cổ phần và tham gia vào thị trường chứng khoán Trung Quốc. Điều này đánh dấu hoạt động đầu tư của nước ngoài đã bắt đầu dựa vào thị trường vốn. Hoạt động đầu tư nước ngoài cũng bước vào giai đoạn đầu tư quy mô lớn, hệ thống hoá. Hình thức doanh nghiệp cổ phần chắc chắn sẽ phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.
5. Lĩnh vực đầu tư
Tính đến năm 1995, trong tổng vốn FDI vào Trung Quốc có 57,1% được đưa vào các ngành công nghiệp, 36% vào các ngành dịch vụ, 5% vào các ngành nông nghiệp, nghề rừng, chăn nuôi gia súc, nghề cá, bảo vệ nguồn nước. Như vậy, các ngành công nghiệp nhìn chung vẫn thu hút được đa số vốn FDI.
Thời kỳ đầu, song song với quy mô đầu tư nhỏ thì đầu tư cũng chỉ tập trung vào những ngành dịch vụ, chủ yếu là kinh doanh khách sạn, điểm vui chơi giải trí, xây cao ốc, vì những lĩnh vực này dễ thu hồi vốn. Từ năm 1986, Trung Quốc ban hành “Những quy định ưu đãi dành cho nhà đầu tư nước ngoài” trong đó ban hành nhiều ưu đãi nếu các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào những lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu. Do vậy, đầu tư vào công nghiệp đã tăng lên nhanh chóng. Nếu như năm 1986, công nghiệp chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ bé 27,7% trong tổng vốn FDI thì đến năm 1990 đã tăng lên 84,4%. Năm 1992 và 1993, tỷ trọng này có giảm đi nhưng vẫn giữ ở mức cao là 55,3% và 45,9%. Thời kỳ này, đa số đầu tư tập trung vào những ngành công nghiệp gia công tập trung nhiều lao động, kỹ thuật thấp hoặc trung bình, sản phẩm chủ yếu để tái xuất hoặc xuất khẩu như: công nghiệp thực phẩm, đồ uống, dệt, may mặc, giầy da, đồ chơi, xà phòng, thuốc tẩy, chế tạo vỏ container...Công nghiệp nhẹ và công nghiệp gia công lần lượt chiếm 58,34% và 30,54% đầu tư nước ngoài trong ngành công nghiệp. Do kết cấu như trên nên sức cạnh tranh của các doanh nghiệp liên doanh thời kỳ 1986 - 1991 còn bị hạn chế.
Năm 1994, chính phủ Trung Quốc có sự điều chỉnh kết cấu ngành nghề, khuyến khích đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực dịch vụ và các ngành cơ sở nên lĩnh vực đầu tư được mở rộng, tuy nhiên, công nghiệp vẫn giữ vị trí chủ đạo. Trọng điểm ngành nghề đã được Trung Quốc chuyển từ công nghiệp gia công sang các ngành tập trung nhiều tiền vốn và kỹ thuật, thu hút đầu tư nước ngoài hợp lý, từng bước có lựa chọn về mặt kỹ thuật cao. Các dự án theo quy định ưu tiên trong chính sách ngành nghề của Nhà nước về tái thiết và phát triển các ngành điện tử, máy móc, cơ khí và hoá dầu được hưởng nhiều ưu đãi.
Nhờ chính sách điều chỉnh, FDI vào các ngành dịch vụ ngày càng tăng. Trung Quốc khuyến khích đầu tư vào những hoạt động tư vấn, bảo hiểm, lưu thông tiền tệ, ngoại thương, du lịch, thương nghiệp bán lẻ. Tới cuối năm 1996, Trung Quốc đã phê chuẩn thành lập 148 cơ quan tài chính tiền tệ có vốn nước ngoài, 18 liên doanh bán lẻ, 2 liên doanh về mậu dịch đối ngoại. Hoạt động của
các ngân hàng và các công ty bảo hiểm cũng đã phục vụ đắc lực cho mục tiêu thu hút vốn nước ngoài của Trung Quốc. Tính đến cuối năm 1995, tổng số vốn các ngân hàng này huy động được đã lên tới 3 tỷ USD tiền gửi và đã cho vay gần 30 tỷ USD, trong đó trên 90% là cho vay trong nước. Trung Quốc cũng cho phép các nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh tiền tệ và ngoại thương.
Đầu tư vào bất động sản tăng cực kỳ nhanh, tỷ lệ so với tổng số từ 6,9% năm 1986 lên 30,6% và 39,3% trong các năm 1992 và 1993. Trong năm 1994, nhiều dự án bất động sản phải chịu thua lỗ nặng nề. Đến nửa đầu năm 1995, tỷ lệ vốn đầu tư vào ngành này chỉ còn 26 %.
Nông nghiệp thu hút được ít vốn đầu tư nhất với mức tỷ lệ bình quân trên tổng lượng FDI là dưới 3%. Gần đây, nhờ những chính sách khuyến khích đầu tư nhiều hơn vào nông nghiệp mà tỷ trọng đầu tư vào ngành này có xu hướng tăng lên, đạt 5% vào năm 1995.
6. Địa bàn đầu tư
Thời kỳ đầu, FDI tại Trung Quốc chủ yếu đến từ tư bản người Hoa và Hoa kiều ở Hồng Kông, Đài Loan, Ma Cao nên địa điểm lý tưởng nhất cho đầu tư của họ là vùng ven biển Đông Nam. Nơi đây giao thông thuận tiện, được chính phủ Trung Quốc ưu tiên chọn làm trọng điểm đầu tư và quan trọng hơn, nơi đây chính là quê hương của phần lớn bà con Hoa kiều. Trong vùng này, 5 tỉnh thành gồm Quảng Đông, Phúc Kiến, Giang Tô, Sơn Đông và Thượng Hải có mức độ tập trung cao nhất. Năm 1992, 1993, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào 5 tỉnh thành này chiếm 70,8% và 66,2% FDI cả nước. Cho đến nay, những thành phố ven biển vẫn là nơi tập trung FDI lớn nhất. Năm 1998, lượng vốn FDI vào
14 thành phố ven biển chiếm tới 88% tổng lượng FDI của cả nước.
Khu vực rộng lớn nhưng lại thu hút lượng FDI ít hơn cả là vùng sâu trong nội địa. Trong nhiều năm, tỷ trọng FDI vào vùng này chỉ chiếm trên dưới
10% trong tổng lượng FDI cả nước. Nhằm hạn chế bớt sự chênh lệch về phân bố đầu tư giữa các vùng, gần đây, chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm
tăng sự hấp dẫn hơn nữa của miền Trung và miền Tây đối với nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ có những cố gắng như vậy mà gần đây, đầu tư nước ngoài đã vươn tới những tỉnh nằm sâu trong nội địa. Bằng Tường, một tỉnh nghèo thuộc biên giới Tây Nam, chỉ trong vòng 5 năm 1992 - 1997 đã thu hút được 21 xí nghiệp “ba vốn” với lượng vốn đầu tư trị giá 33,6 triệu USD.
Đầu tư nước ngoài cũng có sự phát triển nhanh ở các tỉnh Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam của khu vực Nam Trung Bộ, Tứ Xuyên ở khu vực Tây Nam. Kế tiếp theo là bốn tỉnh, khu: Cam Túc, Tân Cương, Ninh Hạ, Thanh Hải của vùng Tây Bắc. Đến cuối năm 1993, 4 tỉnh, khu này đã cho phép thành lập số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lần lượt là 823, 570, 264, 67 triệu USD. Kim ngạch ký kết theo hiệp định lần lượt là: 0,467; 0,352; 0,102 và 0,028 tỷ USD. Kim ngạch sử dụng thực tế lần lượt đạt: 12,7; 53; 15,42; 3,92 triệu USD.
III. NHỮNG NHÂN TỐ TẠO NÊN SỨC HẤP DẪN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI TRUNG QUỐC:
Trung Quốc là một mảnh đất đầu tư mầu mỡ đối với các nhà đầu tư
nước ngoài vì những lí do sau đây:
1. Kinh tế tăng trưởng mạnh
Trung Quốc là một thị trường đầy tiềm năng, đặc biệt khi các thị trường Châu Âu và Bắc Mỹ đã tương đối bão hoà. Tính theo ngang giá sức mua PPP, Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Mỹ và người ta dự đoán quy mô của thị trường này sẽ vượt Mỹ vào năm 2020. Theo tạp chí Econosystem số ra ngày 23 / 7 / 2001, Trung Quốc duy trì được mức tăng trưởng GDP bình quân một năm khá cao 10,1% trong suốt mười năm từ 1991 đến 2000 và mức tăng trưởng trung bình là 9,7% kể từ 1980. Cho đến nay, tương ứng với các thời kỳ, Trung Quốc vẫn dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng.
Bảng 4: Tăng trưởng GDP thực tế hàng năm của Trung Quốc giai đoạn
1991 - 2000
Đơn vị: phần trăm (%)
Bình quân giai đoạn
1991-2000
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002*
10,13
10,5
9,6
8,8
7,8
7,1
8,0
7,0
7,1
Nguồn: tạp chí Econosystem số 23 / 7 / 2001. (2002*: số liệu ước tính)
Năm 2001, trong bối cảnh suy giảm chung của nền kinh tế toàn cầu, Trung Quốc là nền kinh tế duy nhất duy trì được tốc độ tăng trưởng 7%.
Theo “Kế hoạch năm năm lần thứ 10” (2001 - 2005) về phát triển kinh tế xã hội của Quốc hội Trung Quốc, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Trung Quốc sẽ được duy trì ở mức 7%/năm. Với mức tăng trưởng này, đến năm 2005, GDP của Trung Quốc sẽ đạt 15.500 tỷ NDT, tương đương 1.870 tỷ USD, mức GDP bình quân đầu người sẽ đạt 9.400 NDT (1.140 USD).
2. Tiềm lực thị trường to lớn
Với số dân đông nhất thế giới (1,3 tỉ người), Trung Quốc là một thị trường to lớn đầy hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài lợi thế là một thị trường tiêu dùng khổng lồ, Trung Quốc còn có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú: Hiện nay, tài nguyên khoáng sản của Trung Quốc đứng thứ 3 trên thế giới, chủng loại phong phú và số lượng rất lớn. Trung Quốc là một trong những nước giàu nhất thế giới về các nguồn khoáng sản quan trọng như than, quặng sắt, kim loại màu: mangan chiếm 10% trữ lượng thế giới, vonfram chiếm 90% trữ lượng thế giới, molipden chỉ kém có Mỹ, antimoan chiếm khoảng 75-80% trữ lượng thế giới. Trong những năm gần đây, sản phẩm mang tính tài nguyên tăng nhanh. Than nguyên khai, xi măng, bông, vải bông, nguyên liệu dầu, đứng đầu thế giới. Lượng phát điện và sản lượng thép đứng thứ 4 thế giới, sản lượng dầu thô đứng thứ 5 thế giới.
3. Giá thành lao động và giá thành đất đai thấp
Với hơn 1,3 tỷ dân, hàng năm Trung Quốc cung cấp một nguồn lao động dồi dào cho sản xuất và lưu thông. Hơn nữa, giá thành lao động lại rẻ. Tiền lương bình quân ở Trung Quốc bằng 1/10 các nước NICs và bằng 1/30 của Nhật, Mỹ và một số nước tư bản phát triển. Bên cạnh giá lao động rẻ, giá cả đất đai để sử dụng xây dựng nhà máy, doanh nghiệp ở Trung Quốc cũng rất rẻ, chỉ bằng 1/30 ở Đài Loan. Giá thành lao động và giá đất đai thấp giúp hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh, thu được nhiều lợi nhuận, kích thích các nhà tư bản nước ngoài đầu tư vào Trung Quốc.
4. Trung Quốc gia nhập WTO
Tháng 11 / 2001, sau một quá trình đàm phán kéo dài trong khuôn khổ WTO, Trung Quốc đã trở thành thành viên chính thức của WTO, một sự kiện quan trọng trong khuôn khổ hệ thống thương mại toàn cầu. Sự kiện này là hồi chuông mới nhất và vang xa nhất báo hiệu sự xuất hiện của Trung Quốc với tư cách một cường quốc kinh tế và chính trị đang lên.
Sự kiện này làm diễn ra một số thay đổi nhất định trong toàn bộ hệ thống quan hệ kinh tế thế giới. Hàng xuất khẩu của Trung Quốc trong 15 năm qua đã tăng 9 lần còn nhập khẩu tăng 5 lần. Về kim ngạch ngoại thương, Trung Quốc hiện đứng thứ 7 thế giới và dự kiến nước này sẽ nắm vị trí cao hơn nữa.
Tác động quan trọng của việc Trung Quốc gia nhập WTO là việc củng cố tiềm lực kinh tế của Trung Quốc. Trước hết, xuất khẩu của nước này sẽ tăng mạnh nhờ việc giảm thiểu các biện pháp phân biệt đối xử đối với hàng hoá Trung Quốc, đảm bảo cho Trung Quốc được hưởng quy chế Tối Huệ Quốc trong quan hệ với các đối tác trong tổ chức này. Theo số liệu của Viện Hàn Lâm KHXH Trung Quốc, kim ngạch mậu dịch của Trung Quốc sẽ tăng từ
509,8 tỷ USD/2001 lên 600 tỷ USD năm 2005. Theo tính toán của ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế, GDP của Trung Quốc sẽ tăng 2-3%/ năm. Các
chuyên gia Trung Quốc cho rằng việc này sẽ làm tăng GDP của Trung Quốc lên 2,9% hay 24 tỷ USD/ năm và tạo ra 10 triệu việc làm mới.
Việc mở rộng thị trường và cải thiện môi trường đối với hoạt động kinh doanh sẽ làm tăng mạnh nguồn vốn FDI. Theo số liệu của Viện hàn lâm KHXH Trung Quốc, FDI của Trung Quốc sẽ tăng lên 100 tỷ USD/năm vào năm 2005. Việc cơ cấu lại doanh nghiệp và toàn bộ các ngành dịch vụ như WTO khuyến nghị sẽ làm tăng hiệu quả phân phối lại các nguồn lực, tăng tiềm lực kinh tế của Trung Quốc.
Việc gia nhập WTO sẽ giúp Trung Quốc tăng cường định hướng thị trường trong hoạt động kinh tế của mình. Trung Quốc sẽ phải thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế về mậu dịch hàng hoá, mậu dịch dịch vụ và trong các lĩnh vực bảo hộ sở hữu trí tuệ.
Trung Quốc sẽ có những thay đổi trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Trong những năm qua, Trung Quốc đã dành quy chế Tối Huệ Quốc đối với doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Trung Quốc thông qua các công ty trong nước. Trong khi đó, Trung Quốc vẫn có phân biệt đối xử đối với các công ty nước ngoài, ví dụ các yêu cầu về tỷ trọng sản phẩm trong giá thành sản phẩm cuối cùng, cam kết xuất khẩu và hạn chế bán hàng trong thị trường nội địa. Tuy nhiên, trong tương lai, Trung Quốc sẽ không thể áp dụng các biện pháp mâu thuẫn với các quy định của WTO. Trung Quốc sẽ phải đảm bảo chỉ được đối xử quốc gia với các công ty có vốn đầu tư nước ngoài và xóa bỏ ưu đãi đối với các công ty trong nước.
Những thay đổi trong quản lý đầu tư sẽ dẫn đến những thay đổi cơ cấu
FDI. Dự báo vốn FDI vào khu vực dịch vụ sẽ tăng mạnh. Trong thập kỷ qua,
60% FDI tập trung vào công nghiệp. Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, việc phi điều tiết các khu vực tài chính, viễn thông, phân phối và dịch vụ nghề nghiệp sẽ góp phần làm tăng FDI vào các lĩnh vực này.
Ngoài ra, với môi trường kinh doanh thuận lợi, hệ thống pháp lý không ngừng được bổ sung, cơ sở hạ tầng không ngừng được hoàn thiện, Trung Quốc
sẽ tiếp tục là địa điểm đầu tư lý tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài trong thời gian tới.
CHƯƠNG II
NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC
Hơn hai mươi năm qua, Trung Quốc đã thực hiện đường lối mở cửa khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài nhằm phục vụ cho chiến lược cải cách kinh tế: chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường XHCN “mang màu sắc Trung Hoa”. Với những biện pháp và phương cách độc đáo chỉ có ở Trung Quốc, chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế Trung Quốc.
I. TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ TRUNG QUỐC
1. Tác động tích cực
1.1. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Từ 1979 đến nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đã tăng lên rất nhanh. Nếu mức tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc vào năm 1979 mới đạt
3% thì đến giữa thập niên 90, tốc độ tăng trưởng đạt trên 10% và hiện duy trì ở mức trên 7%. Đạt được thành tựu kỳ diệu như vậy phải kể đến sự đóng góp không nhỏ của FDI. Tính đến hết năm 2002, Trung Quốc có hơn 420.000 xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đóng góp ngày càng lớn cho thu nhập quốc dân, từ mức 3,1% năm 1980 lên 19,6% năm 1999 và tăng vọt lên mức 32,3% GDP vào năm 2000. Thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ 8 (1991 - 1995), tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm giá trị sản lượng công nghiệp của các doanh nghiệp “ba vốn” là 95,6%, dường như mỗi năm tăng lên 1 lần, trong khi các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước chỉ tăng 7,1%, doanh nghiệp công nghiệp tập thể tăng 28%. Năm 1998, tổng giá trị sản lượng công nghiệp của doanh nghiệp “ba vốn” chiếm 17,86% tổng giá trị sản lượng công nghiệp của cả nước (xem bảng 5).
Bảng 5: Tỷ lệ các ngành công nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài trên tổng số công nghiệp của Trung Quốc
Đơn vị: phần trăm (%)
Lĩnh vực
Số doanh nghiệp
Tổng tài sản
Giá trị tăng thêm
Doanh thu
Thuế
Tổng cộng
9,15
17,53
17,86
20,52
17,26
Công nghiệp nhẹ
12,71
25,37
24,79
28,15
18,89
Công nghiệp nặng
5,81
13,45
13,2
15,1
16,16
Nguồn: Chỉnh lý từ Niên giám thống kê Trung Quốc năm 1998.
Bên cạnh đó, kết quả xuất khẩu nổi bật của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đóng góp tích cực cho sự phát triển của ngoại thương Trung Quốc. Các doanh nghiệp này có lợi thế hơn các doanh nghiệp trong nước trong việc xuất khẩu sản phẩm của mình, các lợi thế đó bao gồm: công nghệ tiên tiến, trình độ quản lý và kiểm tra chất lượng tốt hơn, sản phẩm có danh tiếng hơn và có hệ thống tiêu thụ quốc tế rộng lớn hơn. Mức đóng góp gia tăng xuất khẩu của khu vực này năm 1988 là 18%, năm 1995 tăng lên 38,81% và năm 1997 lên tới 42%. Khu vực ĐTNN không chỉ thúc đẩy tăng trưởng tổng lượng xuất khẩu mà còn thúc đẩy việc cải thiện cơ cấu và nâng cấp sản phẩm xuất khẩu. Tuyệt đại bộ phận sản phẩm xuất khẩu của khu vực này là sản phẩm công nghiệp, tỷ trọng trung bình các năm đều hơn 90%. Tỷ trọng các sản phẩm công nghiệp chế biến tăng từ 74,4% năm 1990 lên 83,7% năm 1994, tỷ trọng sản phẩm sơ cấp hạ từ 22,5% xuống còn 16,3%, tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm cơ điện tăng từ 17,9% lên 26,4%. Kết cấu hàng hoá ngày càng được cải thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Quốc tham gia ngày càng sâu vào mậu dịch thế giới.
Có thể nói, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành bộ phận có sức sống nhất, là điểm tăng trưởng mạnh nhất trong nền kinh tế Trung Quốc những năm qua. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế Trung Quốc,
trong tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao hàng năm của Trung Quốc có khoảng 4-5% thuộc về tiền vốn bên ngoài, điều này có nghĩa là tiền vốn của thương gia nước ngoài chiếm khoảng 3% tổng số tiền vốn trong nước, đã đóng góp hơn 30% cho sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc.
1.2. Bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đất nước
Trước khi mở cửa, Trung Quốc là một nước chậm phát triển với GDP
năm 1978 là 358,8 tỷ NDT, thu nhập bình quân đầu người khu vực đô thị là
316 NDT, tích luỹ đầu tư hầu như không có. Để có được nguồn vốn, Trung Quốc đã áp dụng chính sách “thắt lưng buộc bụng” và mở cửa thu hút ĐTNN. Kể từ đó đến nay, nguồn vốn FDI đã có tác dụng bổ sung ngày càng lớn cho vốn đầu tư ở Trung Quốc.
Giai đoạn 1985 - 1995, vốn FDI thực tế bình quân một năm ở Trung Quốc đạt 11,7 tỷ USD, chiếm 6,4% vốn đầu tư cơ bản hàng năm của Trung Quốc. Tỷ lệ này tăng mạnh lên mức 14,6% vào năm 1997 rồi sau đó giảm nhẹ vào các năm 1998, 1999 và 2000, lần lượt chiếm 12,9%; 11,3% và 10,5% tổng vốn đầu tư cơ bản. FDI trong đầu tư tài sản cố định của Trung Quốc như vậy là khá cao so với mức bình quân 6,8% của thế giới.
Theo các số liệu thống kê, đầu tư trực tiếp của thương gia nước ngoài ước tính có tới 70% trở thành vốn đầu tư cố định, 30% trở thành vốn đầu tư lưu động. FDI đã trở thành nguồn vốn chủ yếu bù đắp vào chỗ thiếu trong tài sản cố định toàn xã hội của Trung Quốc.
Bên cạnh đó, thuế thu được của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là khoản đóng góp đáng kể cho nhu cầu chi tiêu, đầu tư của chính phủ. Năm 1992, tiền thuế liên quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại của Trung Quốc là 10,7 tỷ NDT, chiếm 2,1% số thuế tài chính cả nước, con số này năm
1995 là 65,96 tỷ NDT và chiếm13,2%.
Như vậy, FDI đã trở thành nguồn quan trọng bù đắp sự thiếu hụt trong tài sản cố định toàn xã hội của Trung Quốc và bổ sung cho nguồn thu nhập tài chính của Nhà nước.
1.3. Tạo điều kiện cho Trung Quốc phát triển công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý
Đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ bù đắp sự thiếu hụt về vốn mà còn mang đến kỹ thuật và cơ chế quản lý hiện đại. Thông qua việc xây dựng các xí nghiệp “ba vốn”, Trung Quốc đã thu hút được một loạt kỹ thuật tiên tiến, bù vào chỗ thiếu của một số doanh nghiệp và ngành nghề của Trung Quốc. Trong đó tương đối nổi bật là những tiến bộ kỹ thuật như đường dây cáp quang, thiết bị thông tin, máy khí cụ tự động hoá, tivi mầu, thang máy, đường điện thống nhất quy mô lớn, máy điện cỡ nhỏ, ô tô con, vật liệu xây dựng loại mới, dược phẩm. Cùng với dòng chảy vào của FDI, những kinh nghiệm tổ chức và quản lý doanh nghiệp tiên tiến hiện đại cũng vào theo, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ chế kinh doanh theo hướng thị trường của các doanh nghiệp Trung Quốc.
Hiện nay, nhờ những chính sách hợp lý của chính phủ trong việc thu hút công nghệ cao, các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đang có sự chuyển hướng sang các ngành công nghệ sinh học, vật liệu mới, đồ điện tử, công nghệ thông tin. Theo công bố chính thức của Viện Hàn lâm Trung Quốc, năm 2001, các doanh nghiệp này đã thành lập 124 trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ cao (Hi-tech R&D centers) tại Trung Quốc. Phần lớn các TNCs đều thành lập ít nhất một trung tâm R&D. Điển hình là các công ty Mỹ. Nếu như năm 1997, họ đầu tư 35 triệu USD cho hoạt động R&D tại Trung Quốc thì năm 1999, con số này đã tăng lên 305 triệu USD (tăng 771%), trong đó 292 triệu USD là của các hãng chế tạo còn 26 triệu USD còn lại là của các hãng dược phẩm đầu tư vào nghiên cứu và phát triển.
Mức độ thu hút công nghệ nguồn vào Trung Quốc ngày càng gia tăng. Theo thống kê của Cục Thương Mại Mỹ, năm 1997, chỉ có 13% doanh nghiệp có vốn nước ngoài ở Trung Quốc áp dụng những công nghệ hiện đại nhất của
công ty mẹ vào Trung Quốc. Năm 2001, tỷ lệ này đã tăng lên 41% và ước tính năm 2002 lên mức 50%. FDI thực sự đã mang đến những kỹ thuật, công nghệ hiện đại và kỹ năng quản lý mới cho Trung Quốc.
1.4. Thúc đẩy sự hình thành thị trường các yếu tố sản xuất
Những hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc mang lại những phương thức hoạt động, những kinh nghiệm quản lý thị trường cho Trung Quốc, tạo điều kiện cho Trung Quốc dần hình thành thị trường các yếu tố sản xuất: thị trường kỹ thuật, thị trường vật tư, thị trường tiền vốn, thị trường lao động, thị trường đất đai.
Thứ nhất, FDI thúc đẩy hình thành thị trường nhà đất. Từ năm 1987, Trung Quốc đã bắt đầu thực hiện nhượng bán quyền sử dụng đất của nhà nước cho các thương gia nước ngoài khai phát kinh doanh. Tính tới cuối năm 1990, khu vực ven biển nhượng bán tổng cộng 19,8 km2, thu về 19,5 tỷ NDT, trong đó, Thâm Quyến nhượng bán 6,5 km2, giá hợp đồng là 780 triệu NDT.
Thứ hai, FDI thúc đẩy sự hình thành thị trường vốn. Để có một thị trường tiền vốn, Trung Quốc đã từng bước xây dựng cơ sở và bộ phận chủ yếu của thị trường vốn, đó là thị trường chứng khoán, trong đó lại chia ra xây dựng thị trường cổ phiếu, trái khoán và thị trường quỹ tiền vốn. Thị trường cổ phiếu được chính thức thành lập ở Thâm Quyến và Thượng Hải năm 1992. Việc phát hành cổ phiếu loại B (cổ phiếu dành riêng cho thương gia nước ngoài) đã đánh dấu sự đột phá quan trọng trong thể chế tiền tệ của Trung Quốc. Ngoài ra, Trung Quốc còn phát hành cổ phiếu bằng ngoại tệ ở nước ngoài, chẳng hạn như cổ phiếu N được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán New York, cổ phiếu H được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hồng Kông.
Với sự phát triển trên, thị trường ở Trung Quốc ngày càng mở rộng. Nó thúc đẩy các loại nguồn vốn lưu thông, kết hợp các yếu tố sản xuất, thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển.
Ngoài ra, FDI còn tạo công ăn việc làm cho một bộ phận đông đảo người lao động Trung Quốc, thúc đẩy giao lưu kinh tế giữa Trung Quốc với Hồng Kông, Ma Cao, góp phần cân bằng thu chi giữa Trung Quốc với quốc tế.
Bên cạnh những tác động tích cực, FDI cũng gây một vài ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế Trung Quốc.
2. Những tác động tiêu cực của FDI đối với nền kinh tế Trung Quốc
2.1. Kết cấu ngành nghề của FDI còn chưa hợp lý, ảnh hưởng tới kết cấu ngành nghề chung của Trung Quốc
Trong tổng nguồn vốn đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc, phần lớn đầu tư vào ngành công nghiệp trong khi đầu tư vào nông nghiệp và ngành dịch vụ vẫn còn khiêm tốn. Trong công nghiệp, phần lớn đầu tư vào ngành tập trung nhiều lao động, còn đầu tư ít vào ngành tập trung nhiều kỹ thuật và vốn, dẫn đến tình trạng Trung Quốc phải nhập phần lớn nguyên liệu để gia công lắp ráp, còn ít những hạng mục cao và mới. Ngành gia công thì tăng nhanh, trái lại ngành kỹ thuật cao thì tăng chậm, điều này đã ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
2.2. Quá trình thu hút FDI tạo ra sự phát triển chênh lệch giữa các vùng của
Trung Quốc
Thời gian qua, FDI vào khu vực miền Trung và miền Tây chiếm tỷ trọng rất nhỏ và hầu như không đáng kể trong tổng luồng vốn FDI vào cả nước. Trong khi đó, các tỉnh, các thành phố ven biển lại là nơi tập trung chủ yếu của FDI. Theo tạp chí “The Taipei Times” ra ngày 12 / 1 / 1999, chỉ riêng tỉnh Quảng Đông thu hút được 26,5% tổng vốn FDI vào Trung Quốc năm 1998, trong khi cả miền Tây nội địa rộng lớn chỉ thu hút có 3%. Điều này gây ra sự phát triển mất cân đối giữa khu vực ven biển với miền Trung, miền Tây nội địa. Theo tài liệu thống kê của Trung Quốc trong hai chục năm qua, tổng giá trị sản xuất quốc nội ở khu vực miền Trung từ 31% xuống còn 27,5%, khu vực miền
Tây từ 16,5% giảm còn 14,1%, khu vực miền Đông thì từ 52,5% nâng lên
58,3% so với cả nước. Năm 2000, thu nhập sau thuế trung bình trên đầu người là 6.280 NDT/ năm ở các thành phố ven biển trong khi ở các thành phố nội địa chỉ đạt 2.253 NDT. GDP/người ở thành phố ven biển cao gấp gần 3 lần khu vực nội địa.
2.3. FDI tăng cao ảnh hưởng đến kinh tế quá nóng
Có những giai đoạn FDI đổ vào Trung Quốc quá nhiều gây nên những cơn sốt đầu tư. Chẳng hạn như giai đoạn 1992 - 1993, do quá coi trọng việc đưa tiền vốn bên ngoài vào, các địa phương đua nhau theo đuổi tiền vốn nước ngoài, thậm chí đem việc thu hút FDI đánh đồng với phát triển kinh tế. Họ đua nhau miễn giảm thuế thu nhập, hạ thấp giá cả sử dụng đất đai, hình thành nên những “cơn sốt” cổ phiếu, nhà đất, khu khai phát, lợi dụng vốn ngân hàng...trên khắp cả nước. Một hậu quả trực tiếp mà những cơn sốt đem lại chính là đầu tư quá nóng. Đầu tư quá nóng ảnh hưởng làm kinh tế quá nóng. Lạm phát tăng cao trong hai năm liền, năm 1993 là 13,2%, 1994 là 21,7%.
Thu hút FDI nghiêng nhiều về ngành bất động sản. Quy mô đầu tư vào ngành này quá lớn: các dự án xây dựng quá nhiều đã làm tăng nhu cầu về vật liệu xây dựng. Do vậy ở một mức độ nhất định việc cung ứng vật liệu xây dựng bị căng thẳng, nó đã mở rộng khoảng cách giữa cung và cầu, thúc đẩy vật giá gia tăng. Ngành bất động sản phát triển mạnh còn nảy sinh hoạt động đầu cơ bất động sản buôn đất, buôn nhà làm cho giá các khâu chuyển nhượng vượt qua hàng chục lần, thậm chí hàng trăm lần giá nhượng bán đất gây nên sự bất ổn định của tiền tệ.
II. NHỮNG BÀI HỌC THÀNH CÔNG TRONG THU HÚT FDI Ở
TRUNG QUỐC
1. Từng bước mở rộng địa bàn đầu tư
Trước khi tiến hành cải cách, nền kinh tế Trung Quốc cũng lâm vào tình trạng suy thoái toàn diện, nên khi thực hiện mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, tất cả các địa phương, các ngành đều đứng trước nhu cầu thiếu gay gắt về vốn. Tuy nhiên, vì mỗi vùng có trình độ phát triển khác nhau nên không thể cùng một lúc mở cửa tất cả các vùng. Với phương châm “dò đá qua sông”, vừa làm thử vừa rút kinh nghiệm, Trung Quốc đã ưu tiên mở cửa đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các vùng có điều kiện thuận lợi phát triển trước.
1.1. Xây dựng các đặc khu kinh tế (Special Economic Zones)
Khu vực ven biển Đông Nam của Trung Quốc có một ưu thế đặc biệt, đó là truyền thống kinh doanh buôn bán lâu đời và vị trí địa lý thuận lợi trong giao thương quốc tế. Nếu vùng này có thể đi vào thị trường quốc tế để tỏ rõ thế mạnh, tìm ra lối thoát để chuyển sang quỹ đạo hướng ra bên ngoài, tạo một cái nhìn tốt về nền kinh tế Trung Hoa thì chẳng những kinh tế vùng đó phát triển mà còn làm bàn đạp cho sự phát triển của cả miền Trung và miền Tây. Xuất phát từ ý nghĩ đó, năm 1980, Trung Quốc chính thức thành lập tại khu vực này bốn đặc khu kinh tế (ĐKKT): Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu tại tỉnh Quảng Đông và đặc khu Hạ Môn tại tỉnh Phúc Kiến. Đến năm 1988, để đáp ứng nhu cầu mở cửa đối ngoại, Trung Quốc đã thành lập tỉnh đảo Hải Nam và toàn tỉnh đã trở thành đặc khu kinh tế thứ năm khiến cho quy mô các đặc khu ngày càng mở rộng.
Với phương châm “mượn gà đẻ trứng”: sử dụng vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài để phát triển kinh tế đất nước và chỉ rõ “những con gà cần mượn”, Trung Quốc đã không nhầm khi xác định các đối tượng đầu tư của chính sách thu hút vốn đầu tư bên ._.ở Việt Nam hiện nay
5.1. Những thuận lợi
- Xu thế hoà bình, ổn định hợp tác trong khu vực:
Việt Nam có vị trí địa lý hết sức thuận lợi là nằm ngay trong lòng khu vực châu Á -Thái Bình Dương, khu vực phát triển năng động nhất thế giới về thương mại, vận chuyển hàng hoá, viễn thông. Các nhà kinh tế trên thế giới đã dự đoán rằng trong 50 năm nữa thì khu vực này vẫn là khu vực phát triển nhất trên thế giới về kinh tế với sự lớn mạnh của Trung Quốc và Nhật Bản. Với tiêu chí “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”, Việt Nam tích cực gia nhập các tổ chức khu vực và quốc tế, ký các hiệp định song phương và đa phương với chính phủ các nước khác: gia nhập ASEAN, tham gia AFTA, ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ... Tất cả những hoạt động này sẽ góp phần tăng tính hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
- Môi trường kinh tế, chính trị ổn định:
Ở tầm vĩ mô, môi trường kinh tế của Việt Nam là khá ổn định, đời sống nhân dân các vùng, cả thành thị và nông thôn không ngừng được nâng cao, bình quân mỗi năm tăng 4-5% là mức cao so với khu vực. Đó là điều kiện để không ngừng mở rộng dung lượng thị trường. Nhờ chính sách phát huy mạnh mẽ nội lực, vốn trong nước chiếm tới 60% tổng vốn đầu tư toàn xã hội với tỷ lệ tích luỹ nội bộ nền kinh tế năm 2000 đạt 27% GDP, cho phép huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn bên ngoài. Môi trường chính trị ở nước ta khá ổn định, nhất là trong bối cảnh thế giới hiện nay, giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài có được sự tin tưởng, an tâm về sự an toàn trong hoạt động đầu tư.
- Lực lượng lao động dồi dào:
Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào về số lượng, có trình độ tiên tiến. Chỉ số phát triển nguồn nhân lực đạt cao hơn trình độ phát triển kinh tế, thể hiện điểm nổi trội của chất lượng nguồn nhân lực, có khả năng tiếp thu và thích nghi hoá chuyển giao công nghệ để không ngừng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Trong điều kiện sản xuất như hiện nay, về cơ bản người lao động Việt Nam đáp ứng được yêu cầu và có mặt bằng tiền lương thấp hơn các nước ASEAN khác.
- Luật đầu tư tương đối hấp dẫn:
Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam lần đầu tiên thực sự đi vào cuộc sống từ năm 1988. Trải qua quá trình thực hiện bổ sung, sửa đổi, luật này đã được hoàn thiện dần, tạo ra được sự lôi cuốn đối với các nhà đầu tư. Đến thời điểm này, nếu so sánh với các nước ASEAN khác thì Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã tương đối hấp dẫn.
5.2. Những khó khăn
- Cạnh tranh mạnh mẽ của các nước trong khu vực:
Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ gặp phải sức ép cạnh tranh mạnh mẽ từ các nước trong khu vực. Trước hết phải kể đến Trung Quốc. Việc Trung Quốc gia nhập WTO sẽ biến Trung Quốc thành địa điểm đầu tư lý tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài. Theo tính toán, đến năm 2005, mức FDI vào Trung Quốc có thể đạt tới 100 tỷ USD/năm. Điều này đồng nghĩa với việc dòng vốn FDI vào các nước khác trong khu vực sẽ giảm đi đáng kể, ít nhất là 10% (theo ước tính của ban thư ký ASEAN). Vì thế, không chỉ Việt Nam mà cả các nước ASEAN khác cũng đều phải gia tăng những biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài của mình và thực hiện chúng một cách có hiệu quả.
Việt Nam cũng sẽ phải cạnh tranh với các nước ASEAN khác trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
1997, các nước khác trong khu vực đã áp dụng nhiều biện pháp để cải thiện môi trường đầu tư của mình. Hàn Quốc đã ban hành luật xúc tiến đầu tư nước
ngoài mới (11 / 1998), thực hiện tự do hoá thị trường chứng khoán và thị trường vốn, bãi bỏ hoàn toàn các hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài trong việc sáp nhập và mua lại các công ty của nước này. Thái Lan cũng ban hành Luật kinh doanh của người nước ngoài mới (10 / 1998), sửa đổi luật đất đai và nhà ở theo hướng cho phép nhà đầu tư nước ngoài có đủ điều kiện sở hữu đất ở, tự do hoá lĩnh vực tài chính. Điều này buộc Việt Nam phải cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư của mình.
- Chi phí đầu tư ở Việt Nam còn cao:
So với các nước trong khu vực, chi phí đầu tư của Việt Nam tương đối cao, đặc biệt là giá điện và dịch vụ thông tin. Ví dụ như giá nước sạch của ta duy trì ở mức 0,21-0,47 USD/ m3, cao hơn hầu hết các nước trong khu vực, giá điện sản xuất ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cao hơn so với Bangkok, Kuala Lumpur, Jakarta, giá cước vận chuyển container ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cao hơn so với Thượng Hải, Singapore, Bangkok, Kuala Lumpur, cước điện thoại quốc tế ở Việt Nam cao hơn từ 2,6 đến 5 lần so với các nước Thái Lan, Malaysia, Inđônêsia, Singapore và Philipine. Giá thuê đất tuy ở mức trung bình so với các nước trong khu vực nhưng nếu tính thêm cả chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng thì tổng chi phí nhà đầu tư nước ngoài phải bỏ ra để có được quyền sử dụng đất là rất cao.
- Hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài còn chưa đầy đủ và
đồng bộ:
Mặc dù luật đầu tư nước ngoài đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn tình trạng chồng chéo, không nhất quán giữa các văn bản pháp luật. Nhiều Bộ ngành vẫn chưa ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn nghị định
24 / 2000 / NĐ-CP ngày 31 / 7 / 2000 của chính phủ quy định chi tiết việc thi hành Luật đầu tư nước ngoài, ví dụ các văn bản hướng dẫn về thuế, quản lý tài chính doanh nghiệp, chế độ kế toán của Bộ tài chính; hướng dẫn chuyển giao công nghệ, nhập máy móc thiết bị qua sử dụng, công nghệ cao, xử lý môi trường của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường.
Chính sách thuế, hải quan còn bất cập, gây cản trở cho sản xuất của các doanh nghiệp, lãng phí thời gian cho doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước (ví dụ Thông tư 40 / 2000 / TT-BTC của Bộ Tài Chính).
Quy định hiện hành vẫn chưa rõ ràng về thời gian giải phóng mặt bằng, chi phí ai chịu, vấn đề cưỡng chế di dời... gây lãng phí rất nhiều công sức, thời gian của các nhà đầu tư trong việc triển khai dự án. Các văn bản quy định về sở hữu trí tuệ vẫn còn chung chung và chưa được thực hiện có hiệu quả, khiến cho tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, đặc biệt là nạn buôn lậu, làm hàng giả, hàng nhái rất phổ biến, gây nhiều thiệt hại cho các chủ đầu tư nước ngoài.
Quy định đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài cũng là trở ngại đối với nhà đầu tư nước ngoài vì lợi nhuận của họ bị đánh thuế hai lần (thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế chuyển lợi nhuận).
- Khả năng đáp ứng ngoại tệ cho các dự án đầu tư nước ngoài chưa cao: Cân đối ngoại tệ cho các dự án đầu tư nước ngoài đang là một vấn đề nổi
lên vì nhiều dự án triển khai sớm nhằm vào thị trường trong nước, sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu đã đến thời kỳ phải trả vốn vay, trong khi khả năng đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của các ngân hàng thương mại rất hạn chế, nhất là vào thời điểm cuối chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp.
- Thủ tục hành chính còn rườm rà:
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá thủ tục hành chính của Việt Nam còn nhiều phức tạp, gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Hoạt động quản lý chồng chéo, nhiều tầng lớp. Cán bộ quản lý lại thiếu thông hiểu về pháp luật, thiếu kinh nghiệm chuyên môn trong việc xử lý các tình huống phát sinh và nhìn chung, các nhà quản lý của Việt Nam vẫn mang tác phong nông nghiệp.
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao:
Mặc dù chi phí tiền lương cho lao động Việt Nam tương đối thấp, nó chỉ đúng trong điều kiện so sánh với các nước ASEAN trong giai đoạn hiện nay. Về lâu dài, khi trình độ sản xuất phát triển, nếu lao động Việt Nam không được đào tạo kịp thời thì lợi thế đó cũng sẽ mất đi trong so sánh với các nước
ASEAN khác. Nếu so sánh với các nền kinh tế phát triển thì các nước ASEAN vẫn đang giữ được lợi thế là thị trường lao động rẻ. Trong so sánh này thì các nước ASEAN đang gặp phải đối thủ cạnh tranh có tiềm lực, đó là thị trường Trung Quốc.
- Cơ sở hạ tầng kém phát triển, vốn đồng bộ trong nước còn thấp:
Để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả FDI, nước nhận đầu tư cần phải có một số điều kiện tối cần thiết như: vốn đối ứng trong nước phải gấp 2-3 lần vốn đầu tư nước ngoài, có cơ sở hạ tầng tương đối phát triển, có năng lực nội tại đủ tiếp nhận các công nghệ phù hợp của dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài như trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý sản xuất...
Từ nền sản xuất nhỏ vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị trường, Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn trong việc tạo lập các điều kiện này. Đây là thử thách lớn của Việt Nam so với các nước ASEAN khác trong cuộc cạnh tranh thu hút vốn FDI.
III. VẬN DỤNG KINH NGHIỆM TRONG HOẠT ĐỘNG THU HÚT FDI CỦA TRUNG QUỐC Ở VIỆT NAM
Trên cơ sở phân tích những nét tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng như khả năng hiện tại của Việt Nam trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, ta có thể vận dụng một số kinh nghiệm sau cho hoạt động thu hút FDI ở Việt Nam.
1. Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước
Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, Nhà nước có vai trò quan trọng trong hoạch định chiến lược tổng thể phát triển đất nước, xác định mục tiêu từng thời kỳ trên cơ sở đó bố trí cơ cấu vốn đầu tư một cách hợp lý, thu hút đầu tư vào những ngành, vùng theo mục tiêu định hướng tránh tình trạng tự phát. Thiếu sự quản lý của nhà nước có thể dẫn đến tình trạng cấp giấy phép đầu tư ồ
ạt vào một số ngành, một số vùng, như ngành dệt, đồ chơi ở khu vực ven biển
Trung Quốc.
Ở Việt Nam, thời gian qua cũng có tình trạng đã cấp giấy phép đầu tư ồ ạt vào một số lĩnh vực và sản xuất tạm thời vượt quá nhu cầu hiện tại như: các dự án khách sạn, văn phòng cho thuê, thức ăn gia súc, nước giải khát có ga, sản phẩm điện tử gia dụng, lắp ráp ô tô, xe máy. Điều này đã gây ra sức ép với sản xuất trong nước và sự giải thể của một số dự án đầu tư nước ngoài. Nguyên nhân là chúng ta chưa xác định được chính thức quy hoạch đối với một số ngành chủ chốt, trong khi đó một số ngành tỏ ra có sức hấp dẫn đối với nhiều nhà đầu tư thì gần như đã đến giai đoạn bão hoà về nhu cầu đầu tư.
Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của nhà nước theo quy định của nhà nước, theo quy định của pháp luật, tránh tình trạng không kiểm soát được như hiện nay, đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia như phân công trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng trong bộ máy hành chính, tinh giảm theo hướng gọn nhẹ, nâng cao năng lực quản lý của bộ máy này nhằm ngăn chặn tham nhũng, quan liêu, gây phiền hà cho các nhà đầu tư.
2. Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, lành mạnh hoá môi trường kinh tế vĩ
mô
Khi nhà đầu tư bỏ vốn ra kinh doanh thì ổn định kinh tế và chính trị là vấn đề quan tâm hàng đầu, đặc biệt là với những nền kinh tế mới chuyển đổi như Việt Nam và Trung Quốc. Chính trị có ổn định thì đời sống kinh tế xã hội trong nước mới có điều kiện phát triển.
Trong những năm vừa qua, nước ta dưới sự lãnh đạo thống nhất và xuyên suốt của một Đảng vẫn được dư luận thế giới đánh giá cao về sự ổn định của môi trường chính trị. Trong điều kiện thế giới gần đây có nhiều biến động, cuộc chiến của Mỹ với những nước chứa chấp khủng bố vẫn chưa đến hồi kết thì sự ổn định chính trị của nước ta là một lợi thế so sánh cần được tăng cường.
Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế theo hướng tích cực cũng là tiền đề cho việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của FDI. Môi trường kinh tế vĩ mô tốt cho đầu tư bao hàm sự lành mạnh về giá cả hàng hoá nguyên vật liệu, về giá trị đồng tiền và tỉ giá hối đoái, về hoạt động của hệ thống ngân hàng, thị trường vốn, cơ chế tổ chức quản lý nền kinh tế.
Một trong những nội dung chính của tạo lập và ổn định môi trường kinh tế vĩ mô là ổn định tiền tệ. Việc sử dụng hệ thống công cụ này ở nước ta cho đến nay vẫn còn nhiều điểm phải sửa đổi bổ sung và hoàn chỉnh. Muốn vậy, chúng ta cần phải xác định quan điểm rõ ràng về hiểm hoạ lạm phát và biện pháp kiềm chế nó. Bên cạnh đó, cũng cần khắc phục những khó khăn trong việc phát triển nền kinh tế như: chênh lệch thu nhập, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề còn chậm chạp, sự nghèo nàn, xuống cấp của tài nguyên…để phát triển kinh tế thị trường và thiết lập một hệ thống thị trường đồng bộ. Muốn vậy, phải kiên trì đổi mới, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá và sự vận động của thị trường chứng khoán.
Một nền kinh tế thị trường thực sự phát triển, có hệ thống thị trường đồng bộ, một môi trường chính trị ổn định sẽ là một nhân tố tích cực đối với việc tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn tại Việt Nam, góp phần thu hút nhiều hơn vốn FDI từ các nước phát triển.
3. Tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư
3.1. Chú trọng cải thiện môi trường đầu tư “mềm”
Sức hút của mỗi quốc gia về lĩnh vực đầu tư trước hết thể hiện ở hệ thống luật pháp có liên quan đến đầu tư của nước đó. Các nhà đầu tư khi đầu tư vào một nước sẽ quan tâm tới các vấn đề: tỉ lệ góp vốn ra sao, vấn đề thuê đất, tuyển dụng lao động, xuất nhập khẩu sản phẩm, máy móc, thuế... Tất cả những điều này đều được quy định cụ thể bằng các văn bản luật và dưới luật. Do vậy,
nếu không có những văn bản hướng dẫn rõ ràng thì nhà đầu tư sẽ không biết được ý định của nước chủ nhà như thế nào cũng như mình nên tiến hành đầu tư ra sao. Vậy để có một môi trường pháp lý đầy đủ và đồng bộ, rõ ràng, cần tiến hành nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư theo hướng:
- Thiết lập một mặt bằng pháp lý chung áp dụng cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất và kinh doanh, đồng thời áp dụng một số quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực trong từng thời kỳ.
- Đa dạng hoá các hình thức FDI để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới, nghiên cứu và thực hiện thí điểm các hình thức đầu tư như công ty hợp danh, công ty quản lý vốn, cho phép nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài mua, nhận khoán kinh doanh, quản lý, thuê các doanh nghiệp trong nước; nghiên cứu mô hình kinh tế mở.
- Mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp với cam kết trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Từng bước mở cửa hơn nữa thị trường bất động sản cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia đầu tư ở Việt Nam; xây dựng cơ chế để doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được xây dựng, kinh doanh nhà ở và xây dựng; xây dựng kinh doanh phát triển khu đô thị mới, khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ khoa học, công nghệ dịch vụ thông tin, chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, từng bước mở rộng khả năng hợp tác đầu tư trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch.
- Tiếp tục thí điểm chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, tạo điều kiện cho doanh nghiệp này tham gia thị trường chứng khoán. Nghiên cứu sửa đổi các quy định về thời hạn đàm phán dự án BOT và quy tắc, thẩm quyền chỉ định nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài làm dự án BOT trong một số trường hợp cần thiết.
- Cụ thể hoá các quy định về việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào dịch vụ nhập khẩu, dịch vụ phân phối trong nước, thu hẹp danh mục hàng hoá không thuộc đối tượng doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài mua để mở rộng thị trường xuất khẩu.
- Thực hiện đồng bộ các chính sách khuyến khích đầu tư:
Tiếp tục cải tạo hệ thống thuế cho phù hợp tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và cam kết quốc tế theo hướng đơn giản hoá các sẵc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xây dựng chính sách thuế khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào sản xuất phụ tùng, linh kiện, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm, cho phép các dự án sản xuất nguyên liệu phụ trợ phục vụ hàng xuất khẩu được hưởng ưu đãi tương tự như các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Bảo hộ có thời hạn hợp lý và hiệu quả đối với một số sản phẩm quan trọng.
3.2. Chú trọng cải thiện môi trường đầu tư “cứng”
Cơ sở hạ tầng là một nhân tố hết sức quan trọng khi nhà đầu tư quyết định bỏ vốn của mình ra, bởi nó có liên quan trực tiếp đến hiệu quả thực hiện dự án. Thành công của Trung Quốc đã cho chúng ta thấy điều này. Bởi vậy, việc cần thiết hiện nay là xây dựng một quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng cụ thể và hợp lý để có thể tận dụng các khoản vay ưu đãi từ các nhà tài trợ. Đồng thời, chính phủ cũng cần bố trí cơ cấu ngân sách hợp lý, dành nhiều hơn cho phát triển cơ sở hạ tầng. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này thông qua các hình thức BOT, BT, BTO, và đặc biệt dành nhiều ưu đãi về giá cả như dịch vụ điện nước, thông tin liên lạc và chi phí giải phóng mặt bằng nhiều hơn các lĩnh vực đầu tư khác.
4. Đa dạng hoá các đối tác đầu tư
Nhà nước Việt Nam đã có quan điểm chuyển sang thu hút FDI từ EU và Mỹ. Đây là quyết định đúng đắn vì trong bối cảnh cuộc khủng hoảng khu vực vừa qua, quan hệ thương mại và đầu tư của Việt Nam với
các nước trong khu vực đã giảm đáng kể, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong thời gian tới, Việt Nam cần xây dựng chính sách thu hút đầu tư của các công ty xuyên quốc gia (TNCs). Vì vậy, trước tiên cần khuyến khích TNCs đầu tư vào các ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ. Đây là những thế mạnh của các TNCs, đặc biệt những TNCs lớn của các nước công nghiệp phát triển. Bằng cách này, Việt Nam không chỉ thu hút được nhiều vốn đầu tư mà còn nhận được công nghệ chuyển giao trực tiếp từ công nghệ nguồn và tiếp cận nhanh chóng vào mạng lưới Marketing toàn cầu của các họ. Trong khi đó, các đối tác có tiềm năng đầu tư hạn chế thường chuyển giao công nghệ lạc hậu qua các chi nhánh TNCs, theo mô hình “Đàn nhạn bay” hoặc công nghệ trình độ thấp. Vì vậy cần có nhiều tổ chức tư vấn chất lượng cao, có những toà án giải quyết tranh chấp có uy tín, hiểu biết sâu sắc về pháp luật Việt Nam và thế giới.
5. Xây dựng định hướng và quy hoạch tổng thể về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Mặc dù nhu cầu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của chúng ta hiện nay là rất lớn, nhưng không phải vì thế mà chúng ta chấp nhận nó bằng mọi giá. Đến nay, chúng ta chưa xác định được chính thức quy hoạch phát triển với một số ngành chủ chốt, trong khi đó một số ngành tỏ ra có sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư thì nay đã đến giai đoạn bão hoà về nhu cầu đầu tư. Đây là một trong những lý do của tình trạng chững lại và giảm thiểu của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian gần đây. Để cải thiện nhanh chóng tình hình này, bên cạnh việc hoàn thiện và tăng tính hấp dẫn của các văn bản pháp quy thì việc sớm công bố quy hoạch cũng trở nên rất cấp bách. Quy hoạch này, cố gắng đảm bảo độ chuẩn xác cao với tình hình và yêu cầu của thực tế. Bản quy hoạch phải trở thành bức tranh tổng thể về nhu cầu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam. Một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước
ngoài trong việc lựa chọn dự án đầu tư. Mặt khác, công khai làm căn cứ cho các ngành, các địa phương tính toán, chủ động trong kêu gọi vốn đầu tư một cách hợp lý, có hiệu quả, giải toả được những bất hợp lý trong cơ cấu đầu tư nước ngoài theo ngành kinh tế, kỹ thuật và vùng lãnh thổ như vừa qua.
6. Nâng cao trình độ phát triển nguồn nhân lực
Đây là vấn đề có tính chất quyết định đến trình độ sản xuất và đến việc nhà đầu tư nước ngoài có quyết định đầu tư công nghệ cao vào Việt Nam hay không. Muốn thu hút được công nghệ cao thì trong nước phải có đội ngũ cán bộ, công nhân có đủ điều kiện để vận hành nó. Bên cạnh việc chú trọng đào tạo trong nước, Trung Quốc còn có chính sách thích hợp để thu hút nhân tài về Tổ quốc. Vào cuối thập kỷ 70, Trung Quốc bắt đầu cho phép sinh viên du học nước ngoài với mong muốn họ sẽ trở về hỗ trợ công cuộc hiện đại hoá đất nước. Hơn 320.000 sinh viên đã được đưa ra nước ngoài trong đó có gần một nửa được đưa sang Mỹ, nhưmg đến giữa thập kỷ 80, chỉ có khoảng 1/3 số họ trở về sau tốt nghiệp. Trước tình hình đó, Trung Quốc đã có nhiều biện pháp tích cực để khuyến khích lưu học sinh trở về như: thành lập trung tâm dịch vụ sinh viên hồi hương năm 1991, cử hàng loạt quan chức sang Mỹ gặp gỡ và phổ biến những chính sách ưu đãi của chính phủ cho sinh viên hải ngoại. Nhờ những nỗ lực đó, trong 4 năm qua, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp về nước đã tăng bình quân 13% mỗi năm. Hầu hết các thành phố cuả miền Nam đến Đại Liên của miền Bắc đều cố gắng tạo ra môi trường làm việc tốt nhất cho người lao động có tay nghề cao. Các khu công nghệ cao đã được xây dựng trong toàn quốc và đối tượng ưu tiên là những lưu học sinh và các nhà khoa học nước ngoài. Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam chưa cao nên việc học tập các kinh nghiệm trên của Trung Quốc là rất cần thiết để tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài.
7. Nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp, khu chế xuất
Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao có vai trò rất quan trọng trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đến nay, Nhà nước ta đã phê duyệt cho thành lập trên 70 KCX, KCN. Như vậy, so với tiềm lực đầu tư, và dự báo phát triển các doanh nghiệp đầu tư xây dựng trong KCX, KCN, khu công nghệ cao thì số lượng các KCX, KCN hiện có của ta đang đạt mức cao. Để nâng cao hiệu quả theo đúng những ưu thế vốn có của KCN, KCX, khu công nghệ cao, góp phần tạo ra sự hấp dẫn hơn đối với đầu tư nước ngoài cũng như đầu tư trong nước, trước mắt chúng ta cần có sự tập trung hơn cho việc hoàn thành xây dựng cơ bản các KCN, KCX đã phê duyệt để sớm đưa hệ số sử dụng cao hơn. Tuy nhiên, sự phát triển của hình thức này cũng cần phải tuân theo quy hoạch tổng thể, phù hợp với yêu cầu phát triển và điều kiện thực tế của Việt Nam, quan tâm đến chất lượng hơn số lượng vốn đầu tư. Chúng ta cần thận trọng trong việc phê duyệt thành lập KCX, KCN, khu công nghệ cao mới. Sắp tới, nên hình thành một cách cân đối các KCX, KCN với quy mô khác nhau, nhất là các cụm KCN, KCX quy mô vừa và nhỏ phục vụ nông nghiệp, nông thôn.
8. Tăng cường hội nhập, tham gia vào các tổ chức khu vực và thế giới
Trong xu thế hội nhập và hợp tác mạnh mẽ như hiện nay, một quốc gia không thể phát triển đơn lẻ một mình mà phải gắn mình vào một khối thống nhất trong khu vực và thế giới. Trung Quốc và Việt Nam đều nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, khu vực tăng trưởng năng động nhất thế giới. Trung Quốc hiện nay đang trở thành một hiện tượng của thế giới, có quan hệ hợp tác với hơn 200 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới và gần đây đã gia nhập WTO. Việc Trung Quốc tham gia vào chiếu chợ lớn nhất thế giới sẽ phần nào gợi ý cho Việt Nam điều chỉnh hướng đi thích hợp, chuẩn bị cho việc gia nhập vào WTO. Do hạn chế về trình độ, Việt Nam cần nỗ lực để điều chỉnh nền kinh tế của mình cho phù hợp, nâng cao năng lực nội sinh của đất nước, phát triển năng lực hấp thụ, chuyển hoá
hiệu quản các nguồn vốn nước ngoài trong đó có đầu tư nước ngoài thành hợp lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước theo hướng CNH - HĐH.
9. Nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến đầu tư
Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động để tạo dựng chính xác hình ảnh một đất nước Việt Nam thực sự muốn mở rộng quan hệ với bên ngoài. Về nội dung, hoạt động xúc tiến đầu tư cần tập trung vào việc cải thiện, tuyên truyền tốt hơn môi trường và cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Từng ngành, từng địa phương cùng với việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng cần xây dựng các dự án cụ thể và có biện pháp bố trí các đối tác, cán bộ giải pháp tài chính. Mặt khác cần nghiên cứu thành lập các tổ chức tư vấn đầu tư chuyên ngành ở một số địa phương để cung cấp các dịch vụ triển khai dự án khi được cấp giấy phép đầu tư như dịch vụ về đất đai, dịch vụ quản lý xây dựng...tạo thuận lợi cho các chủ đầu tư 100% vốn.
KẾT LUẬN
Mặc dù còn có một số hạn chế, những thành công của Trung Quốc trong thu hút FDI là không thể phủ nhận. Cho đến nay, một số mục tiêu lớn mà Chính phủ Trung Quốc đặt ra khi thực hiện chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài về cơ bản đều đạt được. Trong điều kiện thiếu các nguồn vốn trong nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giúp Trung Quốc “đảm bảo sự phát triển đi lên bền vững của nền kinh tế quốc dân; thúc đẩy cải cách kinh tế và chuyển sang hoạt động của cơ chế thị trường; đóng vai trò quan trọng trong hiện đại hoá nền kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới”.
Một số yếu tố cơ bản, đảm bảo sự thành công trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc có thể tóm tắt lại là:
- Thứ nhất, đó là chiến lược mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế theo vùng lãnh thổ tuân theo quy hoạch ưu tiên. Về mặt này, Trung Quốc đã rất thành công và cũng không để xẩy ra tình trạng tập trung các dự án đến mức thái quá như trường hợp của Thái Lan.
- Thứ hai, thực hiện đa dạng hoá các nguồn huy động vốn, kết hợp có hiệu quả việc sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với các nguồn vốn tín dụng trong và ngoài nước. Tìm kiếm các nguồn tín dụng từ bên ngoài với các điều kiện vay có lợi nhất và sử dụng một phần đáng kể vốn vay này vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Thứ ba, có chính sách thỏa đáng để mở rộng việc thu hút người Hoa và Hoa kiều đầu tư về nước. Mở rộng địa bàn hoạt động, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, sử dụng các chính sách ưu đãi phù hợp với yêu cầu phát triển của từng thời kỳ, đa dạng hoá các hình thức đầu tư.
Qua việc nghiên cứu những chính sách thu hút FDI của Trung Quốc, chúng ta có thể thấy rằng thành công hay thất bại của việc thu hút FDI phụ thuộc rất lớn vào vai trò quản lý của Nhà nước. Quản lý và thu hút không được tách rời nhau mà phải bổ sung cho nhau thì mới triệt để tận dụng được những
mặt tích cực của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và giảm thiểu những tác hại của nó. Bên cạnh đó, kinh nghiệm của Trung Quốc chỉ ra rằng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tự bản thân nó không thể đạt được hiệu quả mong muốn của nhà đầu tư nếu không có các điều kiện thích ứng của nước nhận đầu tư. Và lượng vốn này chảy vào nhiều hay ít cũng không phụ thuộc ý muốn của nước chủ nhà. Về hình thức, ta có cảm giác như nước tiếp nhận đầu tư hầu như ở thế thụ động trước các dòng chẩy của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhưng bản chất của vấn đề lại không phải vậy, nước nhận đầu tư chính là người chủ động trong việc kêu gọi, hấp dẫn đầu tư. Khi một nước có nhu cầu tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài nếu có các điều kiện, các tiền đề cần thiết đảm bảo cho việc thực hiện các dự án đầu tư đạt hiệu quả cao thì đó sẽ là địa bàn có sức hút mạnh, có khi làm đổi hướng cả dòng chảy đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhận thức đầy đủ đặc điểm này rất cần thiết đối với việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu bằng tiếng Việt:
1. Trung Quốc 20 năm cải cách mở cửa, cải cách chế độ sở hữu, Tề Quế Trân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001.
2. Trung Quốc nhìn lại một chặng đường phát triển, Jun Ma, NXB trẻ TP Hồ Chí Minh, Thời báo kinh tế Sài Gòn, Trung tâm kinh tế Châu Á -Thái Bình Dương 2002.
3. Phép lạ Trung Quốc - Chiến lược phát triển và cải cách kinh tế, Justin Yifu Lin - Fang Cai - Zhou Li, NXB TP Hồ Chí Minh, Trung tâm kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương, Thời Báo kinh tế Sài Gòn 1998.
4. Về cải cách mở cửa Trung Quốc, Lý Thiết Ánh, NXB KHXH Hà Nội 2002.
5. Trung Quốc 2020, Ngân hàng thế giới, NXB KHXH Hà Nội 2001.
6. Niên giám thống kê Trung Quốc 2001, 2002.
7. Việc thành lập các đặc khu kinh tế ở Trung Quốc, Nguyễn Minh Hằng, tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, số 5 / 1996.
8. Tạp chí “Nghiên cứu Trung Quốc” các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000,
2001, 2002.
9. Bản tin Trung Quốc các số năm 2000, 2001, 2002.
10. Giáo trình “Đầu tư nước ngoài”- Chủ biên: PTS. Vũ Chí Lộc, và bài giảng môn học -Trường đại học Ngoại thương.
11. Giáo trình “Kinh tế đầu tư” (Chủ biên: PGS.PTS. Nguyễn Ngọc Mai), trường ĐH KTQD.
12. Sách “Đầu tư nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”, PTS. Vũ
Trường Sơn, NXB Thống kê.
13. Những nội dung kinh tế tài chính của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam, PTS. Phạm Đào Duyên, NXB Tài Chính tháng 9 / 1999.
14. Thực trạng và những vấn đề vận dụng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, Vũ Tuấn Anh, Tư liệu Viện Kinh tế học, Hà Nội 1997.
15. Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế ở Việt Nam, Lê Văn Châu, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995.
16. Công nghiệp hoá và Chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997.
17. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và khu vực, nguyên nhân và tác động, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1999.
18. Cải cách kinh tế ở các nước đang phát triển, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội 1994.
19. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia ở các nước
đang phát triển, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996.
20. Các báo: Đầu tư, Thời báo kinh tế Việt Nam, Lao Động (2001 - 2002).
21. Các báo cáo về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam năm
1999, 2000, 2001, 2002 của Vụ Quản lý dự án và Vụ đầu tư nước ngoài, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư.
23. “Tình hình kinh tế xã hội năm 2001”, Báo cáo của Tổng cục thống kê.
II. Tài liệu bằng tiếng Anh:
1. Growth triangles: Conceptual and operational considerations. Growth triangles in Asia,
Tang and Thant, Oxford University Press 1994.
2. Economic Globalization, Crisis and Emergence of Chinese Communities in South East
Asia, Wai Cheng Yeung, Henry (2000) London.
3. Ethnic Chinese Network and international investment evidence from inward FDI in
China, Ting, Gao (2000), Department of Economics, University of Missouri.
4. FDI in China: an Asian perspective - Yasheng, Huang (1998) - Singapore.
5. Investment Guide in Zhuhai, China Zhuhai Administration and service centre of Foreign investment, 1997.
6. Multinational and Expatriate FDI: A comparative analysis of the China and Indian experience, Guha, Ashok & Ray, Amit S. (2000), New Delhi.
7. Taiwan Statistical Data Book 2001.
8. China Statistical Yearbook 2001, 2002.
9. UNCTAD World Investment Report 2001, 2002.
10. Econosystem 23/2/2001.
11. Taipei Times 12/1/1999.
12. China Daily 23/3/2002.
13. Data released by US Bureau of Economic Analysis, US Dept of Commerce.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8366.doc