MỤC LỤC
A .LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa hiện nay trên thế giới, đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là một trong những hình thức kinh doanh không thể thiếu được của các quốc gia trong điều kiện mở cửa và hội nhập. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã và đang góp phần thúc đẩy mỗi quốc gia hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu.
Đối với những nước có xuất phát điểm thấp như Việt Nam, trong quá trình hội nhập đầu tư nước ngoài có vai trò hết sức quan trọ
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1923 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Thu hút FDI ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng. Vì vậy, việc mở rộng thu hút FDI đã trở thành mục tiêu cơ bản, lâu dài và là hoạt động không thể thiếu được đối với Việt Nam.
Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại Việt Nam.trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng kể: Theo đánh giá của viện tài chính quốc tế, nguồn vốn FDI đã tăng mạnh mẽ trong toàn thế giới trong những năm gần đây. Đặc biệt là dòng vốn chảy vào các nền kinh tế mới nổi, nơi có tốc độ tăng trưởng cao và môi trường đầu tư ngày càng thuận lợi. Theo ước tính trong năm 2005 tổng dòng vốn FDI đạt 237,58 tỷ USD, chiếm 2,8% tổng GDP của các nước đang phát triển. Đối với Việt Nam kể từ sau đổi mới kinh tế năm 1987, luồng vốn FDI đã tăng đáng kể, mặc dù cũng đã có những thời điểm không ổn định do khủng hoảng kinh tế khu vực cũng như những bất cập trong luật pháp, môi trường đầu tư trong nước. Trong giai đoạn 2001-2005 và 2006 theo số liệu từ cục đầu tư nước ngoài cho biết tổng luồng vốn cấp mới FDI trong giai đoạn này đạt 20,9 tỷ USD vượt 73% so với mục tiêu đề ra. Quan trọng hơn nguồn vốn FDI đã đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất nước, đó là nguồn thu ngoại tệ, tạo công ăn việc làm cho người dân, chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn lực … Trong giai đoạn tới một điều chắc chắn rằng, FDI vẫn sẽ đóng vai trò to lớn cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
Xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có những thay đổi đáng lưu ý trong những năm qua. Luồng vốn FDI đang di chuyển từ các nước công nghiệp phát triển sang thị trường mới nổi ở Đông Á và Đông Nam Châu Âu. Mặt khác, thời kỳ ồ ạt tấn công vào thị trường Trung Quốc rộng lớn, giờ đây các tập đoàn đa quốc gia đang dần thay đổi chiến lược dài hạn và rút bớt những khoản đầu tư ra khỏi Trung Quốc nhằm tránh những rủi ro. Trong bối cảnh đó rất nhiều nhà đầu tư đã quan tâm đến Việt Nam. Với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO năm 2006 như một bằng chứng cho thấy cam kết cho việc mở cửa hơn nữa nền kinh tế, cải cách môi trường đầu tư theo hướng minh bạch và bình đẳng hơn trong tương lai. Các nhà đầu tư đánh giá rất cao và tìm hiểu cơ hội đầu tư ở Việt Nam.
Do vậy việc nghiên cứu thực trạng về việc thu hút FDI tại Việt Nam để từ đó đưa ra những giải pháp để tăng cường thu hút FDI vào phát triển kinh tế của đất nước là việc làm hết sức thiết thực và cần thiết. Vì lý do đó em đã chọn đề tài “Thu hút FDI ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”
B.NỘI DUNG:
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ FDI
I. Khái niệm FDI và các hình thức FDI chủ yếu.
1. Khái niệm FDI:
Khi những chủ nợ quốc tế (đặc biệt là các ngân hàng ) đã và đang hạn chế các khoản vốn cho vay nếu các nước đang phát triển khó có thể trả nợ được những khoản nợ cũ và nguồn vốn phát triển chính thức (Official Development Assistance –ODA) ngày càng giảm sút, thì việc thu hút vốn đầu tư tực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment-FDI) được xem là biện pháp hữu hiệu nhất để giải quyết vấn đề thiếu vốn đầu tư cho quá trình phát triển kinh tế với những quốc gia này.Câu hỏi hiện nay không phải là việc chấp nhận hay không chấp nhận FDI mà chính là việc làm sao thu hút được nhiều FDI và sử dụng chúng một cách có hiệu quả nhất để phát triển kinh tế.
Cho tới nay đã có nhiều khái niệm FDI không đồng nhất với nhau được nhiều nhà kinh tế và các tổ chức kinh tế khác nhau trên thế giới nêu ra.Song vẫn chưa có khái niệm nào được coi là hoàn chỉnh và được đại đa số chấp nhận.
Điều 2 luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (năm 2000) quy định: “Đầu tư FDI là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”.
Xuất phát từ khái niệm trên đây, không tính đến tỷ lệ góp vốn của các bên, Điều 12 và 13 của Luật quy định Tổng Giám Đốc hoặc Phó Tổng Giám Đốc thứ nhất là công dân Việt Nam và có quyền yêu cầu Hội đồng quản trị họp bất thường. Tiếp theo,Điều 14 của Luật đã quy định về nguyên tắc nhất trí giữa các thành viên tại các cuộc họp Hội Đồng quản trị dể quyết định những vấn đề quan trọng nhất trong tổ chức hoạt động của doanh nghiệp liên doanh.
Điều 8 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 quy định: “Phần vốn góp của bên nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh không bị hạn chế về mức cao nhất theo sự thỏa thuận của các bên, nhưng không dưới 30% cốn pháp định , trừ những trường hợp do chính phủ quy định”
Quyền điều hành, quản lý hoạt động của doanh nghiệp, việc phân chia lợi nhuận và chịu rủi do được tính theo tỷ lệ góp vốn của các bên hoặc theo các thỏa thuận khác quy định tronh hợp đồng liên doanh.
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chính là việc chủ đầu tư chu chuyển những tài sản vật chất, tài chính và công nghệ của họ vào nước ta nhằm xây dựng mới hoặc mua lại từng phần hay toàn bộ các cơ sở sản xuất kinh doanh sẵn có ở nước đó với mục đích làm chủ từng phần hay toàn bộ cơ sở đó. Một số vốn nhất định là điều kiện cần thiết để chủ đầu tư nước ngoài trực tiếp tham gia điều hành lâu dài đối tượng mà họ đã bỏ vốn đầu tư đồng thời chịu trách nhiệm kết quả đầu tư kinh doanh
Trên thế giới, khái niệm FDI của quỹ tiền tệ quốc tế( International Monetary Fund- IMF) đưa ra năm 199 cũng được chấp nhận rộng rãi đó là: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là là vốn đầu tư được thực hiện đối với doanh nghiệp hoạt động ở đất nước khác nhằm thu về những lợi ích lâu dài cho nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là dành được tiếng nói có hiệu quả cho việc quản lý doanh nghiệp đó”
Khái niệm của IMF chú trọng tới vai trò của nhà đầu tư nước ngoài, trước hết là việc quản lý, điều hành hoạt động sử dụng vốn đầu tư mà họ bỏ ra tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh tại nước khác.
Từ những khái niệm về FDI được chấp nhận rộng rãi, kết hợp với bản chất, động cơ, đặc điểm, mục đích cũng như những giải pháp để đạt được mục đích giành quyền kiểm soát vốn bỏ ra của nhà đầu tư nước ngoài ta thấy khái niệm FDI của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (Organisation for Economic Co-operation and Development- OECD) là tổng quan nhất:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài phản ánh những lợi ích khách quan lâu dài mà một thực thể kinh tế tại một nước (nhà đầu tư) đạt được thông qua một cơ sở kinh tế tại một nền kinh tế khác với nền kinh tế thuộc đất nước của nhà đầu tư (doanh nghiệp đầu tư trực tiếp). Lợi ích lâu dài bao gồm sự tồn tại của một mối quan hệ giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp đầu tư cũng như nhà đầu tư giành được ảnh hưởng quan trọng và có hiệu quả trong việc quản lý doanh ngiệp đó. Đầu tư trực tiếp bao hàm sự giao dịch ngay từ đầu và tất cả những giao dịch vốn tiếp sau giữa hai thực thể và các doanh nghiệp liên kết một cách chặt chẽ.
Như vậy, động cơ chủ yếu FDI là:phần vốn được sử dụng ở nước ngoài gắn liền với việc tạo ra ảnh hưởng trực tiếp hoặc phục vụ việc kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiếp nhận phần vốn đó.
2. Các hình thức FDI chủ yếu.
Hội đồng hợp tác kinh doanh:
Là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên (gọi là bên hợp doanh) quy định rõ ràng trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư mà không thành lập pháp nhân.
Doanh nghiệp liên doanh:
Là loại hình doanh nghiệp do hai bên hoặc các bên nước ngoài hợp tác với nước tiếp nhận đầu tư cùng góp vốn,cùng kinh doanh,cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn.Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước nhận tiếp nhận đầu tư.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài:
Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài( tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài )do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại các nước tiếp nhận đầu tư, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh.
Theo điều 21 của luật đầu tư Việt Nam, hiện nay ở Việt Nam chính phủ cho phép thực hiện hoạt động FDI dưới các hình thức cụ thể như sau:
- Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài.
- Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC , hợp đồng BOT , hợp đồng BTO, hợp đồng BT.
- Đầu tư phát triển kinh doanh.
- Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
- Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.
- Các hình thức đầu tư trực tiếp khác.
II. Vai trò của nguồn vốn FDI.
1. Đối với các nước đi đầu tư:
- Thông qua đầu tư FDI, các nước đi đầu tư tận dụng được những lợi thế về chi phí sản xuất thấp của các nước nhận đầu tư (giá nhân công rẻ,chi phí khai thác tài nguyên, vật liệu tại chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm,giảm chi phí vận chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thé nhập khẩu ở các nước tiếp nhận đầu tư .Nhờ đó mà nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
- Đầu tư FDI cho phép công ty có thể kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm đã được sản xuất và tiêu thụ ở thị trường trong nước.Thông qua FDI, các công ty của các nước phát triển chuyển được một phần các sản phẩm công nghiệp ở giai đoạn cuối của chu kỳ sống của sản phẩm sang các nước chậm đầu tư để tiếp tục sử dụng chúng như những sản phẩm mới ở các nước này, tạo thêm lợi nhuận cho nhà đầu tư.
- Giúp các công ty chính quốc tạo dựng được thị trường cung cấp nguyên, vật liệu rồi dào ,ổn định với giá rẻ.
- Cho phép chủ đầu tư bành chướng sức mạnh về kinh tế,tăng cường khả năng ảnh hưởng của mình trên thị trường quốc tế, nhờ mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, lại chánh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước nhận đầu tư, giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với hàng hóa nhập từ các nước khác.
2. Đối với các tiếp nhận đầu tư:
- FDI giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế xã hội cho tích lũy nội bộ thấp, cản trở đầu tư và đổi mới kỹ thuật trong điều kiện khoa học, kỹ thuật thế giới phát triển mạnh. Các nước NICs trong gần 30 năm qua, nhờ nhận được 50 tỷ USD đầu tư nước ngoài cùng với chính sách kinh tế năng động, hiệu quả đã trở thành những con rồng châu Á.
- Cùng với việc cung cấp vốn, thông qua FDI các công ty nước ngoài đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc nước khác sang cho nước tiếpthì nhận đầu tư, do đó các nước tiếp nhận đầu tư có thể nhận được những công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại ( thực tế, có những công nghệ không thể mua được bằng quan hệ thương mại đơn thuần), những kinh nghiệm quản lý, năng lực marketing, đội ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện về mọi mặt (trình độ kỹ thuật, phương pháp làm việc, kỷ luật lao động …)
- Đầu tư FDI làm cho các hoạt động đầu tư trong nước phát triển, thúc đẩy tính năng động và khả năng cạnh tranh trong nước, tạo điều kiện khai thác có hiêụ quả các tiềm năng của đất nước. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực.
- Với việc tiếp nhận FDI, không đẩy các nước vào cảnh nợ nần, không chịu những ràng buộc về chính trị, xã hội. FDI góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc đánh thuế các công ty nước ngoài. Thông qua hợp tác với nước ngoài, nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện thâm nhập vào thị trường thế giới. Như vậy các nước có khả năng tốt hơn trong việc huy động tài chính cho các dự án phát triển.
- Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận đầu tư, bên cạnh những ưu điểm thì FDI cũng có những hạn chế nhất định. Đó là, nếu đầu tư vào nơi có môi trường bất ổn về kinh tế và chính trị thì nhà đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn. Còn đối với nước sở tại, nếu không có quy hoạch cho đầu tư cụ thể và khoa học thì sẽ dẫn tới chỗ đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
III. Tính tất yếu khách quan của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.
Trình độ phát triển kinh tế không đồng đều giữa các quốc gia là nguyên nhân tạo ra những lợi thế khác nhau ở mỗi nước. Sự khác biệt về giá cả các yếu tố sản xuất, trình độ khoa học, kỹ thuật,công nghệ,vị trí dịa lý và tài nguyên….dẫn đến sự khác biệt giữa nhu cầu và khả năng tích lũy vốn ở các nước.Chính hiện tượng thừa vốn tương đối và thiếu vốn tương đối ở một số nước là nguyên nhân cơ bản dẫn dến sự trao đổi từ nơi thừa đến nơi thiếu đồng thời thúc đẩy sự ra đời và phát triển của thị trường vốn quốc tế, thị trường vốn FDI.
Vốn đầu tư có một đặc trưng cơ bản trong nền kinh tế thị trường đó là : vốn là một hàng hóa đặc biệt tuân theo quy luật cung- cầu trên thị trường, chảy từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ nơi mang lại lợi nhuận thấp đến nơi mang lại lợi nhuận cao hơn với mục đích cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận do vốn đầu tư mang lại.
Từ giả định nhìn nhận thế giới là một tổng thể được cấu thành từ hai quốc gia, các nhà kinh tế đã chứng minh được: di chuyển vốn quốc tế thông qua FDI đã làm tăng khả năng phân phối tiềm lực kinh tế quốc tế, tăng phúc lợi và tổng sản phẩm của nền kinh tế thế giới. Lợi ích của việc hợp tác phát triển kinh tế thông qua loại hình đầu tư này đối với các quốc gia tham dự được đánh giá là rất lớn.
IV. Các nhân tố ảnh hưởng dến việc thu hút FDI
Khả năng thu hút FDI đối với mỗi quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố. Chúng ta có thể chia thành nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài
1. Nhân tố bên trong
Đây là nhân tố cơ bản quyết định đến khả năng thu hút FDI của một quốc gia, nó tác động trực tiếp đến sự di chuyển của dòng FDI vào một quốc gia. Nó bao gồm các nhân tố sau:
a. Chiến lược huy động vốn phát triển kinh tế
Chiến lược huy động vốn phát triển kinh tế của một quốc gia có thể coi là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến các hoạt động triển khai và kết quả thu hút FDI của nước đó. Chiến lược này tập trung vào những việc sau: nước đó có mở cửa thu hút vốn bên ngoài hay không, đặt trọng tâm thu hút vốn trong nước hay ngoài nước, định hướng các lĩnh vực thu hút…. Việc định hướng các chiến lược thu hút có ý nghĩa quan trọng để thiết lập các điều kiện thu hút phù hợp.
Nếu theo đuổi chiến lược phát triển kinh tế hướng nội, dựa vào phát triển thay thế hàng nhập khẩu thì hình thức huy động vốn được yêu thích hơn cả là vay thương mại ngắn hạn, phát hành tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ ra nước ngoài. Tính chất ngắn hạn của nguồn vốn này tạo ra áp lực sử dụng vốn theo những mục tiêu ngắn hạn không có lợi cho quá trình tăng trưởng bền vững.
Nếu lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế hướng ngoại, tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, hình thức huy động vốn được ưa thích là FDI và vay dài hạn. Các hình thức này không chịu sức ép ngắn hạn của yêu cầu trả nợ cũng như sự tăng trưởng quá nhanh khối lượng nợ. Ngoài ra dựa vào FDI có thể tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ hiện đại hiệu quả hơn, tận dụng tốt hơn các quan hệ thị trường để thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu.
b. Mối quan hệ kinh tế quốc tế
Trong xu thế quóc tế hóa ngày càng phát triển, tính phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn, không một quốc gia dân tộc nào tự khép kín, cô lập với thế giới mà có thể phát triển được. Mục đích của quan hệ quốc tế là đem lại lợi ích trước hết cho quốc gia, dân tộc mình nhằm tăng sự tiến bộ xã hội, đồng thời giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc mình với dân tộc khác và nhân loại. Các mỗi quan hệ quốc tế diễn ra trên các lĩnh vực khác nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…. trong đó quan hệ kinh tế quốc tế là mối quan hệ quan trọng nhất vì nó vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng vừa là động lực thúc đẩy mối quan hệ ở các lĩnh vực khác. Mối quan hệ kinh tế quốc tế của một quốc gia vừa là hệ quả của một chiến lược huy động vốn cuả quốc gia đó vừa là cơ hội dể tìm kiếm đối tác đầu tư. Những quốc gia khi thực hiện mở cửa tham gia các tổ chức kinh tế khu vực hoặc quốc tế, hoạt động ngoại thương phát triển nhanh chóng, thu hút đầu tư nước ngoài tăng nhanh, chất lượng đầu tư nước ngoài cải thiện đáng kể do đó mở thêm nguồn lực để phát triển kinh tế đất nước.
c. Thiết lập điều kiện thu hút FDI
- Sự ổn định kinh tế - chính trị - xã hội
Đây là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro kinh tế - chính trị của FDI vượt khỏi sự kiểm soát của chủ đầu tư nước ngoài. Những bất ổn kinh tế - chính trị không chỉ làm cho ròng vốn FDI này bị chững lại, thu hẹp mà còn làm cho ròng vốn đầu tư trong nước chảy ngược ra ngoài tìm đến những nơi an toàn và hấp dẫn hơn
Điều kiện này không chỉ bao gồm các yêu cầu về duy trì sự ổn định phát triển kinh tế và trật tự chính trị - xã hội càn thiết cho sự vận hành bình thường của đất nước mà còn duy trì được dư luận và tâm lý xã hội chung thuận lợi và ủng hộ của nhà đầu tư nước ngoài. Bất kỳ sự bất ổn chính trị nào, các xung đột khu vực, nội chiến hay sự hoài nghi, tẩy chay, thiếu thiện cảm của giới lãnh đạo và nhân dân đối với đối với vốn đầu tư nước ngoài đều là những nhân tố nhạy cảm tác động tiêu cực dến tâm lý và hành động thực tế của các chủ đầu tư nước ngoài, cũng như làm chậm lại các cải cách chính sách cần thiết đối với việc thu hút FDI của nước chủ nhà
- Sự hoàn chỉnh hữu hiệu của hệ thống pháp luật đầu tư
Hệ thống pháp luật đầu tư là thành phần quan trọng của môi trường đầu tư, bao gồm các văn bản pháp luật, các văn bản quản lý hoạt động đầu tư ( như hướng đẫn đầu tư, đánh giá, thẩm định dự án và quản lý các hoạt động đầu tư ,….) nhằm tạo nên hành lang pháp lý đồng bộ và thuận lợi nhất chop hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các quy định trong hệ thống pháp luật đầu tư của nước sở tại phải đảm bảo sự an toàn về vốn và cuộc sống cá nhân cho nhà đầu tư
- Sự mềm dẻo, hấp dẫn của hệ thống chính sách đầu tư nước ngoài
Chính sách thương mại: cần thông thoáng theo hướng tự do hóa để đảm bảo khả năng xuất nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên liệu sản xuất cũng như sản phẩm, tức bảo đảm sự thuận lợi, kết nối liên tục các hoạt động đầu tư thực sự trở thành mối quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài.
Chính sách tiền tệ: phải giải quyết các vấn đề chống lạm phát và ổn định tiền tệ, chính sách lãi suất và tỷ giá tác động trược tiếp đến các dòng chảy của FDI với tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mực lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định
Việc xem xét sự vận động của vốn nước ngoài ở các nước trên thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư dài hạn nhất là FDI đổ vào một nước thường tỷ lệ thuận với sự tăng lòng tin của các nhà đầu tư, đồng thời tỷ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi xuất trong và ngoài nước. Nếu độ chênh lệch lãi xuất càng cao tư bản nước ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn, ít chịu rủi do và hưởng lãi ngay trên chỉ số chênh lệch đó. Hơn nữa, khi mức lãi xuất trong nước cao hơn mức lãi xuất quốc tế thì sức hút với dòng vốn chảy vào càng mạnh. Tuy nhiên, đồng nghĩa với lãi xuất cao là chi phí trong đầu tư cao làm giảm đi lợi nhuận của các nhà đầu tư. Một tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế từng giai đoạn thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu càng lớn sức hấp dẫn với vốn nước ngoài càng lớn. Một nước có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm yên lòng các nhà đầu tư vì khả năng trả nợ của nước đó được bảo đảm hơn, độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm xuống.
Các mức ưu đãi tài chính tiền tệ: Dành cho vốn đầu tư nước ngoài trước hết phải đảm bảo cho chủ đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận cao nhất trong điều kiện kinh doanh của khu vực của mỗi quốc gia để khuyến khích họ đầu tư vào trong nước và vào những nơi mà chính phủ muốn khuyến khích đầu tư.
Những ưu đãi về thuế chiếm vị trí hàng đầu trong số các ưu dãi tài chính giành cho đầu tư nước ngoài. Mức ưu dãi thuế cao hơn luôn được giành cho các dự án đầu tư có tỷ lệ vốn nước ngoài cao, quy mô lớn, dài hạn, hướng về thị trường nước ngoài, sử dụng nhiều nguyên vật liệu và lao động trong nước, tái đầu tư lợi nhuận.
Hệ thống thuế, một hệ thống thi hành sẽ càng hiệu quả nếu càng rõ ràng, đơn giản dễ áp dụng và mức thuế không được quá cao ( so với lãi xuất, lợi nhuận trung bình, so với mức thuế chung của khu vực và quốc tế ) các thủ tục thuế, cũng như các thủ tục quản lý đầu tư nước ngoài khác, phải được tinh giảm hợp lý, tránh vòng vèo, nhiều khâu trung gian phải công khai và thuận lợi cho đối tượng chịu quản lý và nộp thuế. Tự do hóa càng cao càng thu hút được nhiều vốn nước ngoài.
- Sự phát triển của cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là công cụ thu hút FDI, là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quy định và triển khai trên thực tế các dự án đầu tư đã cam kết. Một tổng thể hạ tầng phát triển phải bao gồm một hệ thống giao thông vận tải với các cầu, cảng, đường xá, kho bãi và các phương tiện vận tải đủ sức bao phủ quốc gia và đủ tầm hoạt động quốc tế, một hệ thống bưu điện thông tin liên lạc viễn thông với các phương tiện nghe nhìn hiện đại, có thể nối mạng thống nhất toàn quốc và toàn cầu, hệ thống điện nước rồi dào và phân bổ tiện lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống và một hệ thống mạng lưới cung cấp các loại dịch vụ khác phát triển rộng khắp, đa dạng và có chất lượng cao (y tế, giáo dục, giải trí, dịch vụ hải quan, tài chính ngân hàng, thương mại, quảng cáo, kỹ thuật….Nó phải giúp cho các chủ đầu tư nước ngoài giảm chi phí sản xuất về giao thông vận tải, trong khi không hề bị cản trở trong việc duy trì và phát triển các quan hệ làm ăn bình thường với các đối tác của họ trong các nước cũng như khắp toàn cầu.
- Sự phát triển của đội ngũ lao động, khoa học công nghệ và hệ thống doanh nghiệp trong nước
Đội ngũ nhân lực có trình độ kỹ thuật cao là điều kiện hàng đầu để một nước nghèo vượt qua được những hạn chế về tài nguyên thiên nhiên và trở nên hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Việc thiếu các năng lực, kỹ thuật lành nghề, các nhà lãnh đạo, quản lý cao cấp, các nhà doanh nghiệp tài ba và sự lạc hậu về trình độ khoa học công nghệ trong nước sẽ khó lòng đáp ứng được các yêu cầu của nhà đầu tư để triển khai các dự án của họ, làm chậm và thu hẹp lại dòng vốn nước ngoài chảy vào trong nước.
Một hệ thống doanh nghiệp trong nước phát triển đủ sức hấp thụ công nghệ chuyển giao và là đối tác ngày càng bình đẳng với các nhà đầu tư, là điều kiện cần thiết để nước tiếp nhận đầu tư có thể thu hút được nhiều hơn và hiệu quả hơn luồng vốn nước ngoài. Hệ thống các doanh nghiệp đó bao gồm cả những doanh nghiệp sản xuất lẫn dịch vụ ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề và thành thạo các nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, đủ sức giữ được thị phần thích đáng tại thị trường trong nước và ngày càng có sức cạnh tranh quốc tế. Mạng lưới các doanh nghiệp dịch vụ về tài chính ngân hàng có vai trò quan trọng trong hệ thống đó nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc huy động và lưu chuyển vốn trong nước và quốc tế. Tự do hóa tài chính và đầu tư sẽ tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư lớn.
- Sự phát triển của nền hành chính quốc gia và hiệu quả các dự án đầu tư FDI đã triển khai
Lực cản lớn nhất làm nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục hành chính rườm rà, phiền phức, gây tốn kém về thời gian và chi phí, làm mất cơ hội đầu tư. Bộ máy hành chính hiệu quả quyết định sự thành công không chỉ thu hút vốn nước ngoài mà còn của toàn bộ quá trình huy động, sử dụng vốn đầu tư phát triển.Bộ máy đó phải thống nhất ,gọn nhẹ, sáng suốt và nhạy bén về chính sách, với những thủ tục hành chính, những quy định pháp lý có tính chất tối thiểu đơn giản , công khai và nhất quán, được thực hiện bởi những nguời có chuyên môn cao, được giáo dục tốt và có kỷ luật, tôn trọng pháp luật.
Vì mục tiêu của FDI là nhằm thu lợi nhuận cao. Do vậy, nếu các dự án FDI đã được triển khai trong quá trình khai thác đạt kết quả tỷ xuất lợi nhuận cao sẽ khuyến khích và củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục đầu tư để tái sản xuất mở rộng, đồng thời có sức thuyết phục các nhà đầu tư nước ngoài khác yên tâm bỏ vốn. Điều này sẽ giúp ích cho nguồn vốn FDI tiếp tục gia tăng. Ngược lại nếu các dự án đang triển khai kinh doanh không hiệu quả, thường xuyên thua lỗ sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư vì họ cho rằng môi trường đầu tư đã có rủi ro.
2. Môi trường bên ngoài.
a. Xu hướng vận động của các dòng vốn FDI trên thế giới.
Qua xem xét xu hướng vận động của các dòng vốn FDI trên thế giới ta có thể thấy được chiến lược mục tiêu theo đuổi của các nhà đầu tư trong hoạt động FDI tại các thị trường khác nhau, từ đó dự báo về xu hướng vận động của nó có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chiến lược thu hút và xúc tiến đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư.
b. Chiến lược phát triển của các công ty đa quốc gia ( TNCS).
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện chủ yếu bởi các công ty đa quốc gia. Từ đầu thập kỷ 80 đến nay, các TNCS đã dần trở thành lược lượng chủ yếu , nòng cốt thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, khu vực hóa nền kinh tế thế giới. Các TNCS cũng đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển tải kỹ thuật công nghệ, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa của các nước đang phát triển. Do đó lưạ chọn đầu tư phát triển của các nước TNCS có tác động rất lớn đến xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
c. Liên kết khu vực và xu hướng đối thoại giữa các nước.
Liên kết khu vực sẽ hình thành các khối thị trường chung, tạo điều kiện thuận lợi để TNCS di chuyển địa điểm sản xuất, phân phối giữa các nước thành viên, thúc đẩy lưu chuyển FDI.
Xu hướng đối thoại giữa các nước cũng có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến sự lưu chuyển của các dòng vốn FDI trên thế giới. Nếu xu hướng đối thoại phát triển, sẽ mở rộng quan hệ hợp tác giữa các nước tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư hợp tác quốc tế. Ngược lại, nếu xu thế các nước là đối đầu, hợp tác kinh tế quốc tế sẽ giảm và điều này làm giảm đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tóm lại trong dòng vận động của mình, FDI sẽ tìm đến những quốc gia có nền kinh tế, chính trị - xã hội ổn định, hệ thống pháp luật đầu tư đầy đủ, cởi mở, chính sách đầu tư nước ngoài thông thoáng, cơ sở hạ tầng chuẩn bị tốt, lao động có trình độ và sức khỏe, thị trường tiêu thụ rộng lớn, nền hành chính hữu hiệu và các dự án kinh doanh hiệu quả….Cùng với một môi trường quốc tế thuận lợi sẽ làm cho việc thu hút FDI có hiệu quả hơn nhiều
V. Kinh nghiệm thu hút FDI của một số nước.
1. Kinh nghiệm Trung Quốc.
- Thống nhất môi trường pháp lý giữa đầu tư trong nước và ngoài nước.
Bài học kinh nghiệm từ thực tế Trung Quốc trong thu hút và sử dụng đầu tư nước ngoài cho thấy, cần tiến tới xây dựng mặt bằng pháp lý thống nhất cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phù hợp với thông lệ quốc tế. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thực hiện chính sách khá thông thoáng, thuận lợi mà trọng tâm là dành cho đầu tư nước ngoài một số ưu đãi với mức độ khác nhau để thu hút dòng vốn quan trọng này. Chính sách đó bao gồm hai nội dung cơ bản là: xoá bỏ một số rào cản của pháp luật hiện hành đối với đầu tư nước ngoài; và áp dụng các tiêu chuẩn đối xử thuận lợi trên cơ sở đàm phán.
- Thực hiện các chính sách và biện pháp hiệu quả trong thu hút đầu tư nước ngoài.
Kết hợp chính sách ưu đãi thuế và cải cách thủ tục hành chính để thu hút đầu tư nước ngoài, tiến tới thu hút đầu tư nước ngoài qua lợi thế về nhân lực, hạ tầng cơ sở, công nghệ và chi phí giao dịch. Thực hiện các chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài ở các vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn. Đổi mới về nội dung và phương thức vận động, xúc tiến đầu tư theo một chương trình chủ động, có hiệu quả phù hợp với từng địa bàn; chú trọng xúc tiến đầu tư trực tiếp đối với từng dự án, từng nhà đầu tư có tiềm năng. Đối với một số dự án lơn, quan trọng, cần chuẩn bị kỹ dự án, lựa chọn đàm phán trực tiếp với các tập đoàn có tiềm lực về tài chính, công nghệ. Ngân sách Nhà nước cần dành một khoản kinh phí phù hợp cho công tác xúc tiến đầu tư.
2. Kinh nghiệm ấn Độ.
- Chiến lược thu hút FDI của các công ty xuyên quốc gia.
Trước đây, ấn Độ được coi là quốc gia thuộc thế giới thứ ba và dựa vào chính sách độc quyền sáng chế lỏng lẻo để rập mẫu các hàng hoá phương Tây, khiến các TNC thường không tập trung nhiều ở ấn Độ. Tuy nhiên, hiện nay, ấn Độ đang có những thay đổi trong lĩnh vực nghiên cứu và triển khai ở một số ngành nghề, đặc biệt là những ngành đang rất phát triển như ô tô, dược phẩm và sản phẩm phần mềm nên các TNC đã bắt đầu đẩy mạnh đầu tư vào ấn Độ. Để tạo ra sự khác biệt về lợi thế cạnh tranh với các nước châu á khác, đặc biệt là Trung Quốc, vốn có nhiều lợi thế về lao động dồi dào và rẻ, ấn Độ không chọn tài nguyên hay lao động giản đơn mà sử dụng tri thức là “chất xúc tác”, chọn dịch vụ làm thế mạnh để phát triển kinh tế. ấn Độ tập trung vào công nghệ thông tin, dịch vụ văn phòng, tài chính ngân hàng, nghiên cứu và chế tác dược phẩm – những lĩnh vực mũi nhọn. Kim ngạch xuất khẩu phần mềm của ấn Độ trong năm 2004 lên đến 17,2 tỷ USD, tăng 35% so với năm trước. Để có thể thực hiện được định hướng đó, ấn Độ đã áp dụng một chính sách giáo dục thích hợp với nhu cầu thời đại. Hàng năm, ấn Độ đào tạo được khoảng hơn 3 triệu cử nhân, trong số đó nhiều người có trình độ chuyên môn cao về kỹ thuật, kinh doanh hay y học. Số trường kỹ thuật tính đến năm 2004 đã lên tới khoảng 1.600 trường. Nhờ lợi thế về tiếng Anh, lao động ấn Độ tiếp thu rất nhanh các ngành khoa học phương Tây, thích ứng nhanh với những đòi hỏi mới trong lĩnh vực công nghệ thông tin và điện tử. Hiện nay, một số công ty tin học của ấn Độ dẫn đầu thế giới về phần mềm cũng như dịch vụ khai thác.
Chính những biện pháp trên, tổng số vốn FDI vào ấn Độ trong những năm gần đây liên tục tăng, đạt 4,3 tỷ USD năm 2003; 5,3 tỷ USD năm 2004 và 6,0 tỷ USD năm 2005 đạt tốc độ tăng trưởng là 12% năm. Đặc biệt đầu tư FDI vào ấn Độ chủ yếu từ các công ty xuyên quốc gia (TNC) lớn trên thế giới, đồng thời cũng là nguồn cung cấp FDI chính cho thế giới. Theo kết quả các cuộc điều tra hàng năm của Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Thương mại và phát triển (UNCTAD), trong hai năm trở lại đây, theo đánh giá của các TNC, ấn Độ là một địa điểm đầu tư lý tưởng nhất trên thế giới. Trên thực tế, các TNC đầu tư vào ấn Độ nhiều hơn rất nhiều so với các nước khác trong khu vực. Tính đến năm 2005, hơn 100 trong số 500 công ty lớn nhất thế giới đã có mặt tại ấn Độ, trong khi con số này ở Trung Quốc là 33 công ty. Theo thống kê của Liên đoàn các phòng công nghiệp và thương mại của ấn Độ (FICCI), 70% các công ty đầu tư vào ấn Độ làm ăn có lãi và._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21914.doc