Mục lục
Kết luận 92
Danh mục tài liệu tham khảo 93
Lời nói đầu
Trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, sự di chuyển các nguồn lực ( K,R, Kỹ Thuật, Lao Động ....) giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng gia tăng và phát triển. Sự di chuyển đó được quyết định bởi đầu tư quốc tế ( bao gồm đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp ). Cùng với đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp có vai trò quan trọng. Dòng đầu tư này đang vận động theo nhiều chiều, dưới nhiều hình thức và ngày càng có xu hướng
93 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1151 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thu hút FDI Nhật Bản vào Việt Nam, Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tự do hóa. Đây là một tất yếu khách quan, các nước đều phải chấp nhận tính tất yếu này dù là nước phát triển hay đang phát triển. Nước nào nhận thức được nó và tạo điều kiện cho nó vận động thì nước đó sẽ phát triển lớn mạnh .
Đối với các nước đang phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là nhân tố quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế. Muốn phát triển nhanh các nước cần phải lợi dụng ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường lao động ..... của nhiều nước. Song nguồn FDI trên thế giới là có hạn mà nhu cầu về nó ngày càng lớn. Nó càng trở nên bức thiết trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và phân công lao động quốc tế sâu rộng ngày nay.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế của mình từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường. Quá trình chuyển đổi này, Việt Nam cần vốn đầu tư nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý.... nhằm tăng năng suất lao động, tạo công ăn việc làm trong nước. Từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập, tăng tích lũy cho sự phát triển kinh tế xã hội.Chính vì sự cần thiết về vốn đó nên em chọn đề tài : “Thu hút FDI Nhật Bản vào Việt Nam, thực trạng và giải pháp”. em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của cô giáo hướng dẫn Phạm Thị Thêu, các giáo viên trong bộ môn kinh tế đầu tư và các cô chú hướng dẫn ở Vụ đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch và đầu tư. Em rất mong sự đóng góp và nhận xét của mọi người để đề án này được hoàn thiện thêm.
Em xin chân thành cám ơn.
Chương I
Cơ sở lý luận chung về đầu tư
I. Khái niệm và vai trò của đầu tư
1. Khái niệm và vai trò của đầu tư và đầu tư phát triển
Đầu tư theo nghĩa chung nhất được hiểu là sự bỏ ra hoặc hy sinh các nguồn lực hiện tại nhằm đạt được kết quả có lợi cho người đầu tư .
Đầu tư phát triển là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm và nâng cao đời sống cho mọi người dân.
2. Vai trò của đầu tư phát triển .
Đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò này của đầu tư được thể hiện ở các mặt sau :
2.1 Đầu tư vừa tác động tới tổng cung vừa tác động tới tổng cầu.
Về mặt cầu
Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của ngân hàng Thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24 – 28 % trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng kéo theo sản lượng cân bằng tăng theo từ Q0 – Q1 và giá cả của của các đầu vào của đầu tư tăng từ P0 – P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 – E1.
Về mặt cung.
Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên ( đường S dịch chuyển sang S’ ). Kéo theo sản lượng tiềm năng từ Q1 – Q2, và do đó giá cả sản phẩm giảm từ P1 – P 2 . Sản lượng tăng giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội
P
P1
P0
P2
Q0
Q1
Q2
Q
S'
S
E2
E1
E0
D’
D
2.2 Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế .
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định của nền kinh tế vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế mọi quốc gia.
Chẳng hạn khi tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng do đó sẽ kích thích tăng trưởng sản xuất phát triển, sản lượng tăng. Sản xuất được phát triển quy mô sản xuất tăng thu hút thêm nhiều lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, giảm tệ nạn xã hội, thu nhập của người dân được cải thiện, đời sống ngày càng được nâng cao. Đầu tư tăng góp vốn vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý. Nhưng bên cạnh đó khi đầu tư tăng cầu các yếu tố đầu vào tăng dẫn đến giá cả các yếu tố đầu vào tăng ( giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động vật tư ) đến mức độ nào đó làm tăng lạm phát. Lạm phát làm cho sản xuất đình trệ đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày cành thấp hơn thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Trong trường hợp các nhà cung cấp hàng hoá đầu vào có xu hướng tăng lợi nhuận thông qua giá thì họ sẽ giảm đi mức sản xuất, đẩy giá lên, như vậy sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế
Khi đầu tư giảm quy mô sản xuất giảm tình trạnh thất nghiệp tăng tệ nạn xã hội tăng thu nhập của người dân thấp, cầu giảm. Đầu tư giảm tốc độ giảm cung các yếu tố đầu vào nhỏ hơn tốc độ giảm cầu gây nên sản xuất dư thừa của các yếu tố đầu vào ( thừa cơ cấu ). Tuy nhiên khi đầu tư giảm cầu giảm khiến cho giá thành giảm và lạm phát giảm điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong trường hợp lạm phát cao. Đầu tư giảm còn làm cho cung giảm do đó bản được các hàng hoá còn tồn đọng dư thừa, giá sản xuất sẽ tăng lên và lại khiến cho cung tăng lên và quy mô sản xuất được mở rộng.
Chính vì vậy trong điều hành vĩ mô nền kinh tế các hoạt động chính sách cần thấy hết các tác động hai mặt này phải xác định được các nhân tố và các kết quả của ảnh hưởng hai mặt đó để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế tác động xấu phát huy tác động tích cực, duy trì được sư ổn định của nền kinh tế.
2.3 Đầu tư tác động đến tốc độ phát triển và tăng trưởng kinh tế
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy : muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15 – 25% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước.
ICOR = vốn đầu tư / mức tăng GDP
Từ đó suy ra:
Mức tăng GDP = vốn đầu tư / ICOR
Mức ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
ở các nước đang phát triển, ICOR thưởng lớn từ 5 – 7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển ICOR thấp từ 2 – 3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ.
Kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất. Do đó, ở các nước phát triển tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp.
Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến. Thực vậy, ở nhiều nước đầu tư đóng vai trò như một “ cái hích ban đầu” tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế ( các nước NICS, các nước Đông Nam á )
2.4 Đầu tư và sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước là một vấn đề được liệt vào hàng quan trọng nhất trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay. Cơ cấu kinh tế chính là tổng thể hữu quan có mối quan hệ giữa các ngành, các vùng các khu vực kinh tế, giảm thành phần kinh tế, hợp thành cơ cấu kinh tế thể hiện ở các tỷ lệ cân đối kinh tế phản ánh trạng thái cân đối nhân công lao động.
Một đất nước muốn phát triển mạnh mẽ nhất thiết phải xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý :
- Cơ cấu được xây dựng phải mang tính khoa học cao, phản ánh đúng đắn yêu cầu của các quy luật khách quan, đặc biệt là quy luật kinh tế
- Phải đón đầu các xu hướng KHKT hiện đại và phù hợp với xu hướng đó
- Phải phù hợp với sự phân công và hợp tác quốc tế phải là cơ cấu kinh tế mới.
- Phải đảm bảo cho phép tối ưu hoá việc sử dụng lợi thế so sánh của các nước, khai thác có hiệu quả tiềm năng vốn có của các ngành, các địa phương và các đơn vị kinh tế cơ sở.
Muốn xây dựng cơ cấu kinh tế hoàn thiện phải có một sự đầu tư thoả đáng. Đầu tư làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật phát triển, với chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn; tạo ra sự cân đối trong phạm vi của nền kinh tế.
Đầu tư và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế có mối quan hệ mật thiết gắn bó không tách rời nhau mà tạo điều kiện cùng nhau phát triển.
2.5 Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước.
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiện quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay.
Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới thành 7 giai đoạn thì Việt Nam năm 1990 ở vào giai đoạn 1 và 2. Việt Nam đang là một trong 90 nước kém phát triển nhất về công nghệ, với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc.
Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
2.6 Đầu tư góp phần vào phát triển nguồn nhân lực ( NNL )
NNL là yếu tố tác động đến cả tổng cung và tổng cầu
- NNL là một yếu tố thuộc tổng cung
AS = f( K, L, T, R )
Như vậy, cả số lượng và chất lượng của nguồn lao động đều ảnh hưởng đến tổng cung. Để nâng cao năng lực sản xuất, không thể không nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
NNL cũng là một yếu tố trực tiếp tác động đến tổng cầu AD. Như chúng ta đã biết:
AD = f( C, G, I, N X )
Khi chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao thì lương tăng dẫn đến thu nhập tăng, thu nhập tăng làm cho cầu tăng, kéo theo tăng trưởng kinh tế. Mặt khác khi trình độ dân trí được nâng cao và nhu cầu hưởng thụ tăng theo tạo điều kiện kích thích tăng tổng cầu.
Bên cạnh đó, khi chúng ta tận dụng được nguồn nhân lực thì thất nghiệp giảm, thu nhập tăng, chi tiêu tăng, AD tăng, tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đồng thời thu nhập tăng, thất nghiệp giảm, ta cũng giải quyết được các vấn đề xã hội, đảm bảo cho nên kinh tế phát triển bền vững.
Trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hóa nền kinh tế. Việt Nam muốn phát triển kinh tế thì không thể không hội nhập. Cùng với việc hội nhập với khu vực tự do thương mại ASEAN, chương trình ưu đãi thuế quan chung cũng như gia nhập APEC và WTO Việt Nam sẽ gia nhập thị trường đầu tư, dịch vụ và lao động thế giới. Theo nhận định của nhiều chuyên gia nếu Việt Nam không nhánh tróng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì đây là một yếu tố làm suy giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trên thị trường thế giới.
Mặt khác, theo kinh nghiệm của các nước phát triển và của những nước công nghiệp mới NICS, đầu tư vào con người mang lại lợi nhuận cao nhất. Sự chăm lo đầy đủ đến con người là đảm bảo chắc chắn nhất cho sự phát triển. ở Việt Nam con người luôn được nhấn mạnh là nguồn nội lực quan trọng nhất để xây dựng đất nước. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Do đó, để nâng cao chất lượng đội ngũ lao động thì đầu tư đóng vai trò vô cùng quan trọng. Việc phát huy sức mạnh con người, một nguồn lực vô cùng quan trọng của đất nước ta là cần phải chú trọng và có sự đầu tư thoả đáng. Chỉ có đầu tư mới có thể nâng cao chất lượng đội ngũ lao động, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật và năng lực quản lý và khắc phục những yếu kém, tồn tại của thực trạng nước ta. Khi chất lượng đội ngũ lao động đã được cải thiện, thì đó là một nhân tố vô cùng quan trọng để nâng cao trình độ của nền kinh tế trong điều kiện nền kinh tế còn chậm phát triển như nước ta hiện nay. Có vậy, nền kinh tế Việt Nam mới đạt được tốc độ tăng trưởng và phát triển để bắt kịp với trình độ phát triển của thế giới trong xu hướng hội nhập quốc tế.
II. Khái niệm về vốn và vai trò của vốn đầu tư
1. Khái niệm về vốn
Để thực hiện quá trình tái sản xuất tài sản cố định ( bù đắp, khôi phục máy móc thiết bị đã hao mòn hoặc hư hỏng, xây dựng thêm công trình mới, tăng thêm máy móc thiết bị ) phải tiến hành hoạt động đầu tư thông qua vốn đầu tư.
Vốn đầu tư là toàn bộ tiền tích luỹ của xã hội của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình taí sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực lớn hơn cho sản xuất kinh doanh dịch vụ sinh hoạt xã hội và sinh hoạt trong mỗi gia đình.
Quá trình sử dụng vốn đầu tư, xét về bản chất đó là quá trình thực hiện việc chuyển vốn bằng tiền ( vốn đầu tư ) thành vốn sản xuất ( hiện vật ) để tạo nên những yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt.
Trong nền sản xuất kinh tế quốc dân, vốn là một phần thu nhập dưới dạng tài sản vật chất và tài sản tài chính được các cá nhân và các tổ chức bỏ ra tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm tìm kiếm các lợi ích về kinh tế và các lợi ích về xã hội .
Trong quá trình hoạt động đầu tư để mở rộng quá trình đầu tư cả chiều rộng lẫn chiều sâu nhà nước có thể tiến hành công tác đầu tư cơ bản mua sắm tài sản cố định, tạo nên cơ sở vật chất và kỹ thuật để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh tế tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Vốn cho đầu tư cơ bản là bộ phận chi phí để đạt được mục đích đầu tư nhất định, bao gồm : chí phí chuẩn bị đầu tư chi phí mua sắm và lắp đặt thiết bị chi phí cho giai đoạn thực hiện đầu tư các chi phí kiến thiết cơ bản khác. Vốn đầu tư cơ bản bao gồm: vốn cho ngân sách nhà nước cấp vốn của các doanh nghiệp nhà nước đầu tư, vốn tư nhân và dân cư, vốn đầu tư nước ngoài.
Qua các khái niệm trên về vốn đầu tư, vốn giải quyết các nội dung sau :
* Trạng thái mà vốn kinh doanh tham gia vào quá trình sản xuất là : tài sản vật chất ( tài sản cố định, tài sản lưu động ) và tài sản tài chính ( tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các chứng khoán ....). Điều này rất quan trọng vì nó cho thấy công cụ và đa dạng các loại vốn trong nền kinh tế.
* Vốn trong mối quan hệ với các nhân tố khác trong quá trình hoạt động đầu tư. Vấn đề này cho thấy nếu tách rời các yếu tố lao động, đất đai thì vốn không còn với tính cách là đồng vốn nữa. Điều này buộc các nhà quản lý phải xem xét quá trình sử dụng vốn như thế nào để có hiệu quả và kết quả cao nhất.
* Phải thể hiện được mục đích sử dụng vốn, đó là tìm các lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội mà hiệu quả sử dụng vốn mang lại. Vấn đề này sẽ định hướng đúng cho quá trình phân tích và quản lý kinh tế đối với toàn bộ nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn trở thành đối tượng mua bán và giá cả của nó ( lãi suất ) được hình thành theo quá trình cung cầu trên thị trường. Cơ chế đó làm cho quá trình vận động của vốn hết sức linh hoạt và hiệu quả góp phần thúc đẩy quá trình vận động tích tụ và tập trung vốn, tái tạo và phát triển thị trường ở nước ta vừa là quá trình có tính quy luật của nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường vừa để đáp ứng nhu cầu cấp bách về vốn cho qúa trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tuy vậy cần phải thấy rằng thị trường vốn có hoạt động an toàn và hiệu quả mới nâng cao hiệu quả chung của nền sản xuất xã hội.
2. Vai trò của vốn đầu tư
Để đảm bảo qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế quốc dân cần phải có các yếu tố cơ bản là : vôn, đất đai, lao động và kỹ thuất công nghệ. Hiện nay ở nước ta có nguồn lao động dồi dào, việc thiết lao động chỉ thiếu ở những ngành nghề đòi hỏi chuyên môn cao. Nhưng điều này hoàn toàn có thể khắc phục được trong một thời gian ngắn, nếu chúng ta có điều kiện để đào tạo mới và đào tạo lại. Vấn đề kỹ thuật công nghệ không phải quá khó khăn phức tạp vì chúng ta phát triển kinh tế trong điều kiện thế giới và các nước trong khu vực có một nền khoa học công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến đi trước chúng ta rất xa. Do đó, việc nhập kỹ thuật công nghệ kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới vào Việt Nam phụ thuộc vào khả năng về vốn, ngoại tệ mà chúng ta có khả năng tạo ra.
Như vậy yếu tố quan trọng hiện nay, đối với các doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung là vốn và tình hình sử dụng vốn có hiệu quả và kết quả.
Nhu cầu về vốn xét trên góc độ mỗi doanh nghiệp và toàn xã hội thể hiện ở một số mặt sau:
* Đối vơi doanh nghiệp, vốn là điều kiện để đổi mới công nghệ mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm tăng thu nhập cho người lao động ... từ đó tạo điều kiện để đổi mới thiết bị công nghệ mở rộng sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm , tăng việc làm tăng thu nhập cho người lao động ... Từ đó tạo điều kiện để doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh trên thị trường, mở rộng xuất khẩu nâng cao hiệu quả về hoạt động sản xuất kinh doanh .
* Đối với toàn bộ nền kinh tế vốn được ví như máu trong một cơ thể sống, vốn là điều kiện để nhà nước cơ cấu lại các ngành sản xuất nâng cao cơ sở hạ tầng mở rộng đầu tư, tăng phúc lợi xã hội, mặt khác vốn là tiền đề để nhà nước thực hiện phân công lao động xã hội, thu hút đầu tư nguồn vốn nước ngoài ổn định chính sách vĩ mô, đảm bảo ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế.
Vốn đóng vai trò đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển cân đối kinh tế các vùng, lãnh thổ ngành .... Vai trò này được phát huy trên cơ sở chủ động tổ chức, sử dụng tốt đồng bộ vốn để nâng cao hiệu quả sản xuất và kinh doanh.
3. Các nguồn hình thành vốn đầu tư
3.1 Vốn huy động trong nước
Đối với các nước nghèo để phát triển kinh tế và để từ đó thoát ra khỏi cảnh đói nghèo thì đó là một vấn đề nan giải ngay từ đầu là thiếu vốn gay gắt và từ đó dẫn tới thiếu nhiều các thứ khác cần thiết cho sự phát triển như công nghệ cơ sở hạ tầng.... Do đó, trong những bước đi ban đầu, để tạo ra được “cú hích đầu tiên” cho sự phát triển, để có được tích luỹ ban đầu từ trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế, không thể không huy động vốn đầu tư nước ngoài. Không có một nước chậm phát triển nào trên con đường phát triển lại không tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở
Tuy nhiên cơ sở vật chất – kỹ thuật để có thể phát huy tác dụng của vốn đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của đất nước ta lại chính là khối lượng vốn đầu tư trong nước. Tỷ lệ giữa vốn huy động được ở trong nước để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả vốn nước ngoài tuỳ thuộc vào đặc điểm phát triển kinh tế của mỗi nước. Như ở Trung Quốc, tỉ lệ này là 5 : 1, một số nước khác là 3 : 1, Việt Nam theo các nhà kinh tế thì tỉ lệ này phải là 2 :1.
Do đó xét về lâu dài thì nguồn vốn đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phồn vinh một cách chắc chắn và không phụ thuộc phải là nguồn vốn đầu tư trong nước.
3.2 Vốn huy động từ nước ngoài
3.2.1 Viện trợ phát triển chính thức ODA
Là vốn của chính phủ, các tổ chức quốc tế các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức khác nhau là viện trợ hoàn lại, viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi xuất thấp, kể cả vay theo hình thức thồng thường. Một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn tại dưới loại hình ODA – viện trợ phát triển chính thức.
Hỗ trợ phát triển chính thức có đặc điểm chủ yếu sau đây:
* Vốn đầu tư này thường lớn, cho nên có tác dụng nhanh và mạnh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước nhận đầu tư.
* Chủ yếu dành hỗ trợ cho các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải, giáo dục, y tế....
* Các nhà tài trợ là các tổ chức viện trợ đa phương ( gồm các tổ chức thuộc tổ chức LHQ, liên minh châu âu, các tổ chức phi chính phủ )
Tiếp nhận ODA thường gắn với sự trả giá về mặt chính trị và tình trạng nợ chồng chất nếu không sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay và thực hiện nghiêm ngặt chế độ trả vay nợ. Các nước Đông Nam á và NICS Đông Nam á đã thực hiện giải pháp vay dài hạn, vay ngắn hạn rất hạn chế và đặc biệt không vay thương mại. Vay dài hạn với lãi xuất thấp, việc trả nợ không khó khăn vì có thời gian hoạt động đủ để thu hồi vốn.
3.2.2 Vốn đầu tư trực tiếp FDI
Là vốn của các doanh nghiệp và các cá nhân nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quá trình quản lý sử dụng và thu hồi vốn bỏ ra.
Đầu tư trực tiếp có đặc điểm cơ bản sau :
* Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Không có ràng buộc về chính trị, không để gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
* Thông qua đầu tư trực tiếp, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý .... là các mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được.
* Nước nhận đầu tư trực tiếp phải chia sẻ lợi ích kinh tế do đầu tư đem lại với người đầu tư theo mức độ góp vốn của họ. Vì vậy có quan điểm cho rằng đầu tư trực tiếp sẽ làm cạn tài nguyên của nước nhận đầu tư.
III. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với các nước nói chung và Việt Nam nói riêng
1. Đối với chủ đầu tư
* Sử dụng có hiệu quả nguồn tư bản vốn đã dư thừa trong nước, do lợi dụng được lợi thế so sánh của nước bản địa về : sức lao động, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý.....
* Thiết lập thị trường cung cấp nguyên vật liệu ổn định với giá cả phải chăng
* Cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường đồng thời tránh được xu thế bảo hộ mậu dịch ở các nước tiếp nhận đầu tư.
* Có điều kiện để phát triển trình độ khoa học – công nghệ do đã chuyển giao công nghệ được coi là lạc hậu sang các nước chậm và đang phát triển.
2. Đối với nước tiếp nhận đầu tư
Đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc góp phần tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, dòng chảy của tư bản quốc tế vào 2 khu vực chính : các nước tư bản phát triển, các nước chậm và đang phát triển.
Các nước tư bản phát triển như Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản, việc các nước này đầu tư vào nhau có ý nghĩa quan trọng :
* Giúp giải quyết những vấn đề khó khăn về kinh tế – xã hội trong nước như thất nghiệp, lạm phát... Việc mua lại những công ty, xí nghiệp có nguy cơ phá sản giúp cải thiện tình hình thanh toán, tạo ra nhiều công ăn việc làm mới cho người lao động, tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế đã cải thiện tình hình bội chi ngân sách.
* Tạo môi trường cạnh tranh để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp trong nước
* Có điều kiện học hỏi kinh nghiệm quản lý trong nước .
Đối với những nước chậm và đang phát triển đầu tư nước ngoài giúp các nước này :
* Phá vỡ “vòng luẩn quẩn” của nền kinh tế trong nước ( năng suất lao động thấp – tích luỹ thấp – thu nhập thấp – đầu tư thấp – năng suất lao động thấp ) đẩy mạnh tốc độ công nghiệp hóa – hiện đại hoá đất nước, cho phép rút ngắn về trình độ phát triển kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
* Tạo ra các xí nghiệp mới hoặc tăng quy mô của đơn vị kinh tế, thu hút thêm lao động giải quyết phần nào nạn thất nghiệp.
* Giúp các nước chậm phát triển giảm dần nơ nước ngoài, cải thiện cán cân thanh toán, tăng khả năng xuất khẩu, tăng khả năng mới hội nhập vào xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới.
* Có điều kiện tiếp nhận kỹ thuật, vận dụng phương pháp công nghệ và kinh nghiệm quản lý hiện đại của nước ngoài, tạo ra những ngành nghề mới khai thác sử dụng tiềm năng về vật tư nguyên liệu.
Như vậy, đầu tư nước ngoài là một nhu cầu không thể thiếu được đối với các nước chậm phát triển và đang phát triển cũng như các nước phát triển. Hơn nữa nó còn là hiện tượng phổ biến, mang tính quy luật của thế giới hiện đại do sự phụ thuộc và hội nhập ngày cành gia tăng với nhau giữa các quốc gia, do quy luật vận động của tiền tệ, của giá trị thăng dư, cũng như quy luật lợi thế so sánh và quy luật cung cầu trên thị trường vốn thế giới.
3. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với việc phát triển kinh tế Việt Nam
Trong những năm gần đây đầu tư nước ngoài đã và đang trở thành yếu tố góp phần quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế của nhiều nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Kể từ khi luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành ( 12/1987) đến nay đã được hơn 10 năm, một khoảng thời gian tuy chưa dài những cũng đủ để bước đầu xem xét và đánh giá về hoạt động kinh tế đối ngoại mới mẻ này đối với Việt Nam. Xuất phát từ những nhu cầu về vốn về khoa học kỹ thuật và công nghệ nước ta còn thiếu chưa đủ sức khai thác những tiềm năng về tài nguyên và sức lao động của mình. Do vậy nước ta chủ trương mở cửa cho nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Hiện nay còn nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau về đầu tư nước ngoài ở nước ta trong 10 năm qua nhưng thực tế không thể phủ nhận đó là ảnh hưởng tích cực của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế nước ta ngày càng rõ rệt.
Đầu tư nước ngoài bước đầu đã góp phần đáng kể trong đầu tư vốn của toàn xã hội trong tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đóng góp vào ngân sách kim ngạch xuất khẩu và giải quyết việc làm. Nhiều chương trình quan trọng đã đi vào hoạt động nhiều công nghệ khá hiện đại đang được chuyển giao đã tạo ra động lực mới cho nền kinh tế phát triển. Cho tới nay các công ty nước ngoài đã tham gia đầu tư vào các ngành công nghiệp quan trọng của Việt Nam như : dầu khí, bưu chính viễn thông, xi măng, sắt thép, điện tử .....
Xét về bản chất, đầu tư nước ngoài là sự mở rộng phạm vi hoạt động quốc tế của các công ty đa quốc gia. Bằng việc thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài các công ty đa quốc gia có thể khai thác được những lợi ích độc quyền do giảm được những chi phí cao trong việc khai thác các nguồn tài nguyên. Việt Nam đã hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài bởi có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng phong phú : nguồn lao động rẻ, dồi dào với trình độ khoa học thấp và trung bình, thị trường nội địa rộng lớn và chiến lược khai thác tốt : vị trí địa lý thuận lợi trong giao lưu quốc tế. Thế nhưng môi trường thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam lại chưa được chuẩn mực quốc tế : cơ sở hạ tầng lạc hậu, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, đầy đủ và cụ thể, đặc biệt thực hiện pháp luật còn tuỳ tiện gây nhiều khó khăn cho đầu tư.
Sự gia tăng liên tục và ổn định của vòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã tạo ra những năng lực sản xuất mới, góp phần giải quyết các vấn đề về công ăn việc làm và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Cùng với việc gia tăng liên tục của dòng vốn nước ngoài là sự xuất hiện và phát triển nhiều khu công nghiệp : Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh.
Với việc nâng năng lực sản xuất của các ngành công nghiệp, hoạt động trực tiếp đầu tư nước ngoài đã góp phần hình thành một số ngành công nghiệp mới có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế quốc dân như : công nghiệp dầu khí, công nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô xe máy.... Nhiều dự án đầu tư nước ngoài đã tạo ra các sản phẩm xuất khẩu cho Việt Nam.
Bằng việc hợp tác với nước ngoài, Việt Nam đã tiếp nhận được một số công nghệ kỹ thuật tiên tiến trong một số ngành như : thông tin viễn thông, sản xuất lắp ráp ô tô xe máy, hóa dầu.... ngoài ra, Việt Nam cũng đã tiếp nhận một số phương pháp quản lý tiến bộ và một số kinh nghiệm và tổ chức kinh doanh, sản xuất.
Khu vực đầu tư nước ngoài hiện đã trở thành một bộ phận hữu cơ năng động và có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các thành phần kinh tế ở Việt Nam và ngày càng quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của đất nước. Chiếm bình quân trên 24% tổng vốn đầu tư toàn xã hội 10 năm qua, khu vực đầu tư nước ngoài trở thành nguồn đầu tư phát triển lớn thứ hai sau vốn đầu tư của dân doanh: bổ sung không chỉ nguồn vốn mà cả công nghệ kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến tạo thêm nhiều ngành nghề mới, sản phẩm và việc làm mới, qua đó góp phần khai thác các nguồn lực trong nước và thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Đến nay, khu vực đầu tư nước ngoài đã tạo ra trên 10% GDP, trên 35% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 7% nguồn thu ngân sách của nhà nước. Những tỷ lệ này ở các địa phương như TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh.... còn cao hơn nữa chính tỏ tác động tích cực của đầu tư nước ngoài đối với việc phát triển các vùng kinh tế động lực ở Việt Nam. Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài hướng về xuất khẩu đang có những triển vọng. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài 5 năm từ 1996 – 2000 đạt 10,5% tỷ USD tăng 8 lần so với 5 năm trước và chiếm tới 23% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Khu vực đầu tư nước ngoài cũng đã tạo ra việc làm mới cho gần 35 vạn lao động trực tiếp và vài trục vạn lao động gián tiếp khác, tạo điều kiện cho người lao động được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp thu công nghệ và kinh nghiệm quản lý, tác phong lao động công nghiệp .... trong các bước tiến của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và cả thế giới như gia nhập ASEAN ký hiệp định chung với EU bình thường hoá quan hệ với Mỹ, gia nhập WTO v...v. có phần đóng góp nhất định của hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung và của nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nói riêng. Với tốc độ tăng trưởng bình quân chung trên 20% năm, khu vực đầu tư sẽ có đóng góp nhiều hơn vào tăng trưởng kinh tế đất nước thời gian tới !
Những hạn chế
* Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam góp phần làm cho tình trạng phát triển kinh tế vốn đã không cân đối theo vùng và ngành nay càng mất cân đối hơn. Vì vốn đầu tư chủ yếu tập trung ở những vùng tương đối giầu và những vùng công nghiệp, dịch vụ, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sẽ có xu hướng làm tăng thêm tính nhị nguyên của nền kinh tế : nền kinh tế với công nghệ tiên tiến, phát triển nhanh với khu vực phát triển chậm, lạc hậu. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng về công ăn việc làm ở thành thị vì sự di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị cũng như từ các vùng nghèo khó sang các vùng giàu sẽ lớn hơn nhu cầu ._.lao động ở các vùng đó. Đây cũng chính là tác động làm tăng thêm khoảng cách giầu nghèo trong xã hội, khu vực công nghiệp cao với khu công nghiệp có thu nhập thấp
* Nhiều công nghệ được chuyển giao cho Việt Nam là những công nghệ cũ kỹ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Hơn thế những chi phí chuyển giao và chi phí khác thường cao hơn so với chi phí thị trường
* Qua sự phân tích ở trên cho thấy đầu tư nước ngoài mang lại lợi ích cho cả hai bên tham gia tuy còn một số hạn chế đối với một số nước nhận đầu tư nhưng chúng ta không thể phủ nhận vai trò của nó. Đối với nền kinh tế của chúng ta hiện nay, việc tranh thủ nguồn vốn nước ngoài là rất quý nhưng vấn đề là làm sao để nguồn vốn này phát huy hết hiệu quả của nó. Nếu chúng ta muốn tiếp nhận và khai thác tốt nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thì nguồn vốn đầu tư trong nước phải tăng lên tương ứng.
Trong điều kiện hiện nay, nguồn vốn tích luỹ trong nước còn hạn chế thì nguồn vốn từ nước ngoài có vị trí đặc biệt quan trọng. Có thể nói nó là quyết định nền kinh tế trong giai đoạn mà chúng ta phấn đấu để đuổi kịp các nước Châu á. Hơn nữa hoạt động đầu tư nước ngoài là một hoạt động lâu dài và thường xuyên của ta chứ không phải là công việc trước mắt. Ngay cả các nước phát triển trên thế giới hiện nay cũng đang là các nước thu hút lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài.
Với quan điểm về vị trí và vai trò của vốn đầu tư nước ngoài như trên cho phép chúng ta có cách đánh giá và nhìn nhận đúng về hoạt động này. Đồng thời cũng có chiến lược lâu dài về vấn đề thu hút đầu tư nước ngoài giúp cho việc hoạch định chính sách về kinh tế, xã hội có liên quan tới hoạt động đầu tư nước ngoài được nhất quán và đúng hướng
iV. Các hình thức đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
Trong thực tiễn, hoạt động đầu tư nước ngoài có nhiều hình thức tổ chức cụ thể khác nhau tuỳ theo tính chất pháp lý và vai trò của mỗi bên trong qúa trình hợp tác.
Những hình thức được áp dụng là :
1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Theo quy định tại khoản 1, điều 7, nghị định 12/ CP “ hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hay nhiều bên quy định trách nhiệm và phân chia kết qua kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt Nam mà không cần thành lập pháp nhân mới”
Hình thức này có đặc điểm:
- Không cho ra đời một công ty ( doanh nghiệp ) mới nào
- Cơ sở của hình thức này là hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong hợp đồng nội dung chính phải phản ánh quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên .
- Thời hạn cần thiết của hợp đồng do các bên thoả thuận phù hợp với tính chất và mục tiêu kinh doanh
- Hợp đồng phải do đại diện các bên ký.
- Trong qúa trình hợp tác kinh doanh , các bên giữ nguyên tư cách pháp nhân của mình
2. Doanh nghiệp liên doanh
Theo khoản 7 điều 2 luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định “ doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng kinh doanh hoặc hợp đồng ký giữa chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp Việt Nam hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng kinh doanh
Hình thức này có đặc điểm.
Thành lập doanh nghiệp mới ( pháp nhân mới ) hoạt động trên nguyên tắc hạch toán độc lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn
Phần góp vốn của bên hoặc các bên nước ngoài không hạn chế tối đa nhưng tối thiểu là không dưới 30% vốn pháp định và trong qúa trình hoạt động không được giảm vốn pháp định. Còn nếu muốn tăng vốn đầu tư, vốn pháp định và muốn thay đổi vốn góp của các bên liên doanh phải được các cơ quan cấp giấy phép đầu tư thông qua.
Cơ quan lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp liên doanh là hội đồng quản trị mà thành viên của nó do mỗi bên chỉ định tương ứng với tỷ lệ vốn góp của các bên nhưng ít nhất mỗi bên phải là hai người. Hội đồng quản trị có quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp liên doanh theo nguyên tắc nhất trí. Tổng giám đốc hoặc phó tổng giám đốc thứ nhất của liên doanh phải là của bên Việt Nam và thường trú tại Việt Nam .
Các bên tham gia liên doanh phân chia lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của các bên trong vốn pháp định. Điều này có nghĩa là các bên phải chịu trách nhiệm về vốn góp của mình trong liên doanh.
Thời gian hoạt động của doanh nghiệp tuỳ thuộc vào từng dự án theo quy định của mỗi nước nhưng không quá 50 năm, trong trường hợp đặc biết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 70 năm.
3. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Theo điều 26 nghị định 12/CP quy định “Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh “
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập dưới hính thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam .
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thanh lập và hoạt động kể từ ngày cấp giấy phép đầu tư, thời hạn hoạt động không quá 50 năm.
Ngoài 3 hính thức trên là chính còn có nhiều hình thức khác tuỳ theo mục đích và đặc điểm trong yêu cầu tiếp nhận đầu tư. Ví dụ: đối với lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên có nhiều hính thức hợp đồng phân chia sản phẩm. Trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng, có hợp đồng xây dựng chuyển giao,...
4. Hợp đồng xây dựng kinh doanh chuyển giao BOT
Theo khoản 1 điều 2 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam “Hợp đồng xây dựng kinh doanh chuyển giao ( BOT ) là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam với nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước Việt Nam “
5. Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh BTO
Theo khoản 12 điều 2 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam “Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh ( BTO ) là văn bản ký kết giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam với nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trính kết cấu hạ tầng, sau khi xây dựng song nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho bên Việt Nam . Chính phủ Việt Nam dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý”
6. Hợp đồng xây dựng chuyển giao
Là văn bản ký kết giữa cơ quan thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
7. Khu chế xuất, khu công nghiệp
Theo khoản 16 điều 12 Luật đầu tư nước ngoài “Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, do chính phủ thành lập và cho phép thành lập”
Theo khoản 14 điều 12 Luật đầu tư nước ngoài “Khu chế xuất, là cùng lãnh thổ chuyên sản xuất hàng hoá xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho hàng hoá xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu. Có danh giới địa lý xác định do chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập
V. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài
Thu hút đầu tư nước ngoài là cần thiết để phát triển nền kinh tế nhưng nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng tới thu hút đầu tư nước ngoài là :
Các chính sách kinh tế : có ảnh hưởng lớn tới đầu tư nước ngoài là các chính sách kinh tế trực tiếp giải quyết vấn đề đầu tư như: các quy định về chuyển giao lợi nhuận, các chính sách thương mại.... chính sách thương mại và đầu tư có ảnh hưởng tới khả năng nhập khẩu các thiết bị máy móc, nguyên liệu sản xuất và do đó trở thành mối quan tâm của tất cả các ngành đặc biệt là ngành xuất khẩu. Ngoài ra các quy định về quyền tư hữu nước ngoài, thuế, chuyển giao lợi nhuận và các yêu cầu hoạt động cũng như các chính sách khuyến khích cho các dự án đầu tư nước ngoài cũng là các chính sách rất quan trọng tác động mạnh đến các quyết định của các nhà đầu tư.
Sự ổn định chính trị : đây là yếu tố đầu tiên mà các nhà đầu tư nước ngoài phải xem xét có nên đầu tư vào một nước nào đó không . Lịch sử thế giới cho thấy, nền chính trị ổn định sẽ khuyến khích đầu tư và ngược lại. Sự mất ổn định chính trị gây ra nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư nước ngoài như : chi phí khi có sự đổ vỡ chính trị, tỷ lệ hoàn vốn không chắc chắn, cung ứng hàng hoá, dịch vụ và nhân lực bị phá vỡ.
Hệ thống pháp luật : bao gồm luật, các quy định, các văn bản quản lý hoạt động đầu tư ( giải quyết các thủ tục đầu tư, hướng dẫn đầu tư, đánh giá dự án....) hệ thống luật pháp là thành phần quan trọng của môi trường đầu tư vì nó xác định mức lợi nhuận của các nhà đầu tư và quyết định của họ.
Mức độ phát triển kinh tế : bao gồm tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, GDP / người có ảnh hưởng lớn tới quyết định của nhà đầu tư. Một yếu tố quan trọng khác đối nhà đầu tư nước ngoài là cơ sở hạ tầng của nước chủ nhà bao gồm : nhà kho, cảng, sân bay, đường, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông... đó là các nhân tố cần thiết cho sản xuất, sự sống và đảm bảo sự tiếp tục của các hoạt động thương mại, dịch vụ và giao thông vận tải.
Các yếu tố khác : bên cạnh các yếu tố trên cần có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới thu hút đầu tư nước ngoài như : vị trí địa lý tài nguyên khoáng sản, tài nguyên đất, tài nguyên du lịch... tất cả các yếu tố đó làm tăng đầu tư nước ngoài.
Tóm lại chúng ta vừa xem xét một vài nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư nước ngoài nhưng trên thực tế còn nhiều nhân tố khác, nhưng điều quan trọng là phải xem xét yếu tố nào đóng vai trò quyết định để từ đó chọn giải pháp thích hợp cho thu hút đầu tư nước ngoài.
VI. xu hướng vận động chủ yếu của FDI
1. Luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu đổ vào các nước phát triển
Mục đích của đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận , nên tiền vốn chỉ chảy đến nơi nào làm đồng vốn sinh sôi nảy nở thêm chứ không chảy đến nơi làm nó khô kiệt đi . Các nước công nghiệp phát triển lại là nơi có môi trường đầu tư tốt , đồng vốn sản xuất có hiệu quả , vòng quanh nhanh , ít rủi ro ,nên tất yếu đồng vốn FDI chảy vào các nước phát triển. Vì vậy đã tạo nên sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường đầu tư thế giới .
Những đặc trưng cơ bản của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật hiện đại đã hướng đầu tư vào tăng hàm lượng khoa học trí tuệ trong sản phẩm làm ra điều đó có vai trò quyết định chứ không phải chủ yếu là giá nhân công hạ như trước đây . Hàm lượng lao động chuyển sang những lĩnh vực đòi hỏi hàm lượng vốn và công nghệ cao như nghiên cứu sản xuất điện tử , lĩnh vực tự động hóa ,công nghiệp sinh học , tin học … với lợi nhuận cao . Do trình độ nghèo nàn lạc hậu mà hầu hết các nước thuộc thế giới thứ ba không thể đáp ứng được các yêu cầu vốn lớn công nghệ hiện đại , các điều kiện phụ trợ khác : Nguồn điện ổn định , nước sạch công nghiệp , cơ sở hạ tầng đường xá, cầu cống … đủ lớn cũng như đội ngũ cán bộ , công nhân có trình độ tay nghề cao .
Cùng với xu hướng toàn cầu hoá thì xu hướng khu vực hoá cũng diễn ra mạnh mẽ . Các nước tư bản phát triển đã có những biện pháp riêng rẽ hay tập thể để đối phó với các nước khác để bảo vệ thị trường trong nước .Để đối phó với tình trạng đó với mục tiêu là thâm nhập được vào thị trường có nhu cầu rất lớn về các mặt hàng cao cấp của các nước phát triển , các Công ty đa quốc gia không còn cách nào khác là tăng cường đầu tư trực tiếp để thành lập chi nhánh dưới hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài , liên doanh hoặc trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh , thực hiện tiêu thụ tại chỗ hoặc đưa vào các thị trường lân cận kể cả việc thực hiện xuất khẩu trực tiếp trở lại nước mẹ . Đây là một trong những biện pháp cơ bản để đối phó lại chế độ bảo hộ mậu dịch ngày càng tinh vi của các nước phát triển .
Tính chất ổn định hơn của môi trường kinh doanh cũng như môi trường luật pháp ở các nước tư bản phát triển so với các nước đang phát triển . Không những thế chúng ta cón thấy sự chênh lệch về lãi xuất giữa các nước phát triển và nước đang phát triển cũng làm cho luồng tư bản chảy sang các nước tư bản phát triển .
2. Tính đa cực trong hoạt động đầu tư
Trên thế giới hiện nay có sự khác biệt về tương quan kinh tế chính trị giữa các quốc gia , trình độ phát triển kinh tế ,trình độ khoa học công nghệ … Phân công lao động ngày càng đi theo chiều sâu , cộng với tính chất thiếu ổn định và rủi ro cao của nền kinh tế thị trường gây ra . Do vậy không còn tình trạng chỉ có một trung tâm duy nhất phát ra nguồn FDI : thực tế cho thấy ngày nay có ít nhất 4 trung tâm lớn đó là : Mỹ , Nhật Bản , Tây Âu và các nước công nghiệp mới ở châu á ( NICs) ngoài ra còn một vài nước đang phát triển khác .
3. Lĩnh vực đầu tư đã có nhiều thay đổi sâu sắc
Nếu như vào đầu thế kỷ 20 , nguồn vốn FDI thường hướng vào các lĩnh vực truyền thống như khai thác tài nguyên thiên nhiên , phát triển công nghiệp và một số ngành nghề chế biến nông sản , chủ yếu là hướng vào ngành sử dụng nhiều lao động để khai thác nguồn tài nguyên và nhân công rẻ mạt ở các nước đang phát triển . Thì ngày nay, cùng với sự chuyển đổi hướng công nghiệp từ chiều rộng sang chiều sâu thì lĩnh vực đầu tư cũng thay đổi sâu sắc. Các chủ đầu tư thường chủ yếu hướng vào những ngành như : lĩnh vực dịch vụ – chủ yếu là thương mại và tài chính , số còn lại là vào các ngành có hàm lượng công nghệ kỹ thuật cao như các ngành điện tử , năng lượng mới , vật liệu mới công nghệ tin học , tự động hoá … Riêng đối với các nước chậm và đang phát triển , thì các chủ đầu tư tập trung đầu tư vào các ngành sau :
+Các dự án vừa và nhỏ những ngành nhanh thu hồi vốn đầu tư để giảm tới mức tối sự rủi ro.
+Các dự án cho phép lợi dụng triệt để các điều kiện ưu đãi mà các nước tiếp nhận đầu tư dành cho họ.
+ Các ngành khai thác tài nguyên chiến lược như : Quặng sắt , than , dầu mỏ …
+ Các ngành có thị trường tiêu thụ ngay ở các nước sở tại .
+ Các ngành sử dụng nhiều nhân công và kho cơ giới hóa .
Trong tất cả các ngành thì ngành dịch vụ đang thu hút được nhiều vốn nước ngoài nhất , vì những lợi thế vốn có của nó trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật theo chiều sâu như ngày nay đó là :
+ Vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng không quá nhiều như các ngành khác .
+Thời gian thu hồi vốn nhanh .
+ Tỷ suất lợi nhuận vốn cao , mức rủi ro thấp .
+ Có nhiều phân nhánh , mỗi phân nhánh đều có thể tận dụng được thành tựu của khoa học kỹ thuật hiện đại như : Viễn thông , tin học , công nghệ sinh học , vật liệu mới , tự động hoá …
4. Hiện tượng hai chiều trong hợp tác đầu tư nước ngoài
Do tác động của quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế đồng thời với sự đa cực các nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài như nêu trên thì hiện tượng hai chiều trong đầu tư FDI cũng xuất hiện một tất yếu khách quan. Hiện tượng này biểu hiện ở chỗ từ những năm 80 trở lại đây chúng ta rất ít thấy và hầu như không thấy một quốc gia nào ở trình độ phát triển trung bình trở lên chỉ nhận đầu tư mà không đầu tư lại ở nước ngoài hoặc chỉ đầu tư ra nước ngoài mà không nhận đầu tư của nước ngoài . Nước Mỹ ngày nay là một chủ đầu tư lớn nhất nhưng ngược lại cũng là một con nợ lớn nhất của thế giới , mà chủ nợ của Mỹ là Nhật Bản , Hàn Quốc ,và nhiều nước khác . Một ví dụ rất gần với Việt Nam là các con rồng Châu á vào những năm 1981 – 1984 đã đầu tư 16 tỷ đô (37%) tổng số tư bản đầu tư của các nước đang phát triển ra nước ngoài . Ngược lại các nước này cũng tiếp nhận khối lượng FDI khổng lồ từ Mỹ và Nhật Bản . Riêng đối với Việt Nam , là một nước kém phát triển , cho đến ngày 29-4-1998 chúng ta đã nhận được 35.190.000.000 $ FDI của nước ngoài nhưng chúng ta cũng thực hiện xuất khẩu vốn sang một số nước trong khu vực như Lào nhưng với khối lượng không lớn lắm chỉ ở mức vài triệu đô .
5. Luồng FDI được thực hiện trước hết trong nội bộ khu vực
Trong nhiều thập kỉ qua , luồng FDI được thực hiện , vận động chủ yếu giữa các nước trong khu vực . Đó là ưu thế về khoảng cách địa lí và các điều kiện tương đồng về điều kiện địa lí , tự nhiện , văn hoá , lịch sử … có thể thấy rõ điều này khi xem xét tình hình đầu của các nước công nghiệp mới của Châu á (NICs) ra nước ngoài , họ là chủ đầu tư lớn của các nước Châu á - Thái Bình Dương , nhất là vùng Đông Nam á . Song kể từ khi có cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước trong khu vực Đông Nam á , người ta đã thấy được những nhược điểm , bất lợi , cần phải điều chỉnh xu hướng này ở mức độ sao cho phù hợp, an toàn .
6. Các Công ty đa quốc gia chủ thể của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Cùng với sự xuất hiện của hiện tượng hai chiều và đa cực trong hoạt động của FDI ,các công ty đa quốc gia là một trong những hình thức xuất khẩu tư bản chủ yếu của chủ nghĩa tư bản hiện đại , là một trong những lực lượng vận hành nền kinh tế thế giới , nắm giữ nguồn vốn kĩ thuật và kiểm soát thương mại quốc tế . Ngày nay các Công ty đa quốc gia chiếm trên 40% sản xuất công nghiệp của thế giới tư bản , 65% ngoại thương và gần 90% kĩ thuật công nghệ mới . Các công ty đa quốc gia này hầu hết đều thuộc về ba trung tâm lớn là Hoa Kì , Nhật Bản và Tây Âu , số còn lại không lớn lắm của các nước công nghiệp mới như Hàn Quốc , Mexico , Nam Phi , Singapo có trụ sở ở hầu hết các nước trên thế giới , chúng tham gia vào hầu hết các lĩnh vực đầu tư như công nghệ tin học , công nghệ sinh học , vật liệu mới cho đến những lĩnh vực có trình độ thấp hơn như khai khoáng chế biến có thể nói không có một chương trình FDI nào dù quy mô lớn vài tỷ đô la đến quy mô nhỏ một vài triệu đô mà không có sự tham gia trực tiếp hay gián tiếp của các Công ty này . Từ những năm 80 trở lại đây ,các Công ty đa quốc gia này đã kiểm soát 90% nguồn vốn FDI . Đó là kết quả của quá trình tích tụ và tập trung tư bản , công nghệ do dưới những điều kiện mới do tác động của cách mạng khoa học công nghệ và sự can thiệp của bản thân chủ nghĩa tư bản độc quyền , độc quyền nhà nước , làm tăng cường hơn nữa quá trình quốc tế hoá sản xuất và lưu thông trong điều kiện cạnh tranh đang diễn ra gay gắt như hiện nay .
VII. Kinh nghiệm thu hút đầu tư nước ngoài của một số nước ASEAN
Đầu tư là nguồn lực hết sức quan trọng đối với sự phát triển, với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đặc biệt là các nước đang phát triển - đó là một trong những nhân tố để các nước ASEAN đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế vào loại nhanh nhất thế giới hiện nay. Việc nghiên cứu kinh nghiệm thu hút đầu tư nước ngoài của các nước ASEAN sẽ là những bài học bổ ích, thiết thực đối với Việt Nam.
1. Kinh nghiệm của Thái Lan
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, Thái Lan đang chuyển mình để trở thành một nước công nghiệp mới, một phần nhờ đầu tư nước ngoài. Các dự án đầu tư phần lớn hướng về xuất khẩu. Một số đặc điểm chúng ta cần học hỏi trong việc khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Thái Lan:
* Cho phép bán đất cho công dân Thái Lan để đầu tư kinh doanh, cho phép chuyển nhượng đất và bất động sản trên đó, cho phép bán đất cho công ty liên doanh nước ngoài, nhưng nếu người nước ngoài góp trên 50% vốn pháp định thì việc bán đất rất hạn chế. Đây là điểm tiến bộ mà chúng ta cấn học hỏi. Rõ ràng chính phủ Thái Lan đã đảm bảo ưu tiên cho đầu tư trong nước phát triển.
* Miễn thuế nhập khẩu hoặc giảm 50% đối với thiết bị máy móc.
* Miễn thuế lợi tức trong thời hạn 3 – 8 năm và trong 5 năm cho phép khấu trừ vào chi phí.
* Đối với những xí nghiệp xuất khẩu thì được miễm thuế xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu, phụ tùng thay thế và đối với hàng hoá sử dụng cho tái sản xuất.
2. Kinh nghiệm của Malayxia
Malayxia là một trong 5 nước ASEAN có tốc độ thu hút đầu tư nước ngoài cao và ổn định nhất vì họ có một chính sách ưu đãi, chương trình kế hoạch đầu tư rõ ràng.
Các chính sách ưu đãi:
* Miễn thuế: 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất và được kéo dài thêm 5 năm nữa nếu nhà đầu tư đáp ứng được những tiêu chuẩn của cơ quan đầu tư. Điều này phụ thuộc vào giá trị kim ngạch của ngành xuất khẩu, các khoản thuế nộp, tình hình thu hút và sử dụng lao động.
* Giảm thuế cho các xí nghiệp xuất khẩu 50% doanh số và trong sản phẩm có hơn 50% nguyên liệu của Malaixia. Đồng thời khi tính giá thành cho phép nhân hệ số 2 đối với các khoản chi phí nghiên cứu, đào tạo ( mục đích khuyến khích nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu ), tính tăng 20 – 40% đối với các khoản chi phí cho việc xử lý chất thải, bảo vệ môi trường. Qua đây, chúng ta có thể thấy: Chính phủ Malaixia đặc biệt quan tâm đến giáo dục, đào tạo đời sống xã hội của người dân. Điều này đáng được trân trọng và học hỏi.
3. Kinh nghiệm của Indonexia
Indonexia là một nước có xuất phát điểm giống như Việt Nam tức là: từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng lại thiếu vốn để khai thác, nợ nước ngoài trầm trọng. Do vậy, việc thu hút đầu tư nước ngoài có ý nghĩa quan trọng đối với Indonexia.
Do có đòn Bẩy trong chính sách đầu tư nên Indonexia đã thu hút khá thành công vốn đầu tư nước ngoài. Năm 1994, vốn đầu tư trực tiếp đạt mức kỷ lục 23,7 tỷ USD, tăng gần 20% so với năm 1993.
Các đòn bẩy là:
* Indonexia chỉ có một hình thức đầu tư trực tiếp đó là liên doanh trong đó bên Indonexia phải sở hữu ít nhất 20% vốn và trong 15 năm sau khi hoạt động phải tiến tới sở hữu ít nhất 51% vốn pháp định.
* Miễn thuế giá trị gia tăng đối với hàng hoá, vật tư và dịch vụ sản xuất hàng xuất khẩu.
* Được nhập khẩu nguyên liệu, bán thành phẩm để sản xuất hàng xuất khẩu, nếu giá trị nhập khẩu thấp hơn trong nước.
* Miễn thuế giá trị gia tăng trong 5 năm kể từ khi sản xuất đối với các lĩnh vực có tính thương mại, giao thông công cộng.
* Xí nghiệp liên doanh được đối xử như các doanh nghiệp trong nước, được bán sản phẩm ở thị trường nội địa, được vay vốn lưu động bằng nội tệ của ngân hàng nhà nước Indonexia.
Tại đây, kinh nghiệm mà chúng ta học hỏi đó là đa dạng hoá các hình thức đầu tư nhưng lấy hình thức liên doanh là hình thức chủ đạo nhằm tạo điều kiện cho nước chủ nhà vừa học tập kinh nghiệm quản lý, tiếp thu công nghệ hiện đại vừa tận dụng được các khoản đầu tư nâng cao trình độ sản xuất.
Tóm lại, mỗi nước ASEAN tuỳ thuộc vào điều kiện của mình có những chính sách riêng phù hợp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sử dụng nguồn này có hiệu quả. Học hỏi kinh nghiệm của một số nước ASEAN, Việt Nam có thể rút ra một số bài học lớn để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
Phải ổn định tình hình kinh tế – chính trị – xã hội.
Phải xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh và hiện đại.
Phải xác định được phạm vi và định hướng đầu tư phù hợp với từng giai đoạn
Phải không ngừng cải thiện môi trường đầu tư
Phải có hệ thống giáo dục đào tạo tốt.
Chương II
Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam trong những năm qua
I- Tình hình chung về quan hệ đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam
1 -Đặc điểm FDI của Nhật Bản tới Việt Nam
Nghiên cứu thực trạng của dòng vốn FDI Nhật Bản vào Việt Nam có thể rút ra một số kết luận sau đây về đặc điểm cơ bản của FDI Nhật Bản
1.1 Mục đích, nguyên tắc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản
a) Mục đích: Nghiên cứu một cách hệ thống cho thấy, ý đồ đầu tư của các nhà đầu tư Nhật Bản chủ yếu nhằm duy trì sự ổn định nguồn cung cấp nguyên vật liệu, lao động rẻ và các yếu tố đầu vào khác cho sản xuất. Quan trọng hơn nữa là mục đích đảm bảo thị trường tiêu thụ sản phẩm của Nhật Bản. Đây là kiểu đầu tư nhằm mục đích buôn bán.
Xem xét đồng thời với các nước trong khu vực cho thấy những lý do cơ bản để giải thích cho mục đích đầu tư của Nhật Bản ở khu vực Đông Nam á nói chung và Việt Nam nói riêng là: Nhằm duy trì và mở rộng thị phần của Nhật Bản; Phát triển thị trường mới; Xuất khẩu hàng hoá Nhật Bản; Xuất khẩu sang nước thứ ba; Phát triển các cơ sở sản xuất ở nước ngoài; Đảm bảo nguồn cung cấp các linh kiện cho các cơ sở chế tạo, lắp ráp ( bao gồm cả các cơ sở sản xuất của Nhật Bản ở nước ngoài ); Tránh rủi ro về hối đoái.
ở Việt Nam, theo kết quả của cuộc điều tra của Ngân hàng xuất nhập khẩu Nhật Bản (Exim Bank), đối với một số lượng lớn các công ty Nhật Bản có tham gia vào hoạt động FDI ở khu vực này cho thấy, hoạt động đầu tư của Nhật Bản tập chung chủ yếu vào việc khai thác nguồn lao động rẻ của Việt Nam (65,3%), phát triển thị trường mới(61,1%) và xuất khẩu sản phẩm sang nước thứ ba(28,4%), trong khi đó lý do phổ biến nhất hiện nay cho hoạt động FDI của Nhật Bản đầu tư vào khu vực Đông Nam á thì thứ tự tầm quan trọng lại là: duy trì và mở rộng thị phần (64,5%); tiếp theo là xuất khẩu sản phẩm sang nước thứ ba (42,6%); và tiếp đó mới là đảm bảo khai thác nguồn lao động rẻ (40,1%) ở khu vực này
b . Nguyên tắc đầu tư
FDI của Nhật Bản nói chung thường được thực hiện theo nguyên tắc cơ bản là đầu tư vào lĩnh vực khai thác đối với những nước giàu tài nguyên thiên nhiên; đầu tư vào ngành chế tạo ở những nước có cả nguồn tài nguyên thiên nhiên và nhân lực dồi dào; đầu tư vào lĩnh vực thương nghiệp và dịch vụ đối với những nước có nền công nghiệp phát triển cao hơn.
Nguyên tắc này về thực chất phản ánh đặc điểm cơ cấu đầu tư theo mô hình đầu tư theo ngành của Nhật Bản
Phần lớn FDI của Nhật Bản ở khu vực Đông Nam á nói chung và Việt Nam nói riêng là đầu tư vào ngành chế tạo để tận dụng và khai thác triệt để nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và nguồn lao động ở khu vực này. Thời kỳ từ 1951-1990, FDI của Nhật Bản vào ngành chế tạo ở khu vực này chiếm 46,8% tổng FDI của Nhật Bản trên toàn khu vực. Từ đầu thập kỷ 90 đến nay, tuy tỷ phần của ngành chế tạo trong tổng đầu tư của Nhật Bản vào khu vực này có giảm đi nhưng vẫn xếp ở vị trí hàng đầu trong danh mục các lĩnh vực đầu tư theo mô hình đầu tư theo ngành của Nhật Bản. Ví dụ trong hai năm 1996-1997 FDI của Nhật Bản vào Singapo đã chuyển mạnh sang lĩnh vực dịch vụ, một phần do những lợi thế so sánh về chi phí lao động rẻ ở đây không còn, thêm vào đó trình độ phát triển của nước này đã ngang hàng với các nước NICs Đông á so với các nước khác trong khu vực
Về cơ cấu ngành, khác với FDI của Nhật Bản, đầu tư của Mỹ thường tập trung vào các ngành công nghiệp nhẹ thuộc lĩnh vực chế tạo và ngành xây dựng.
1.2 Phương thức đầu tư
Xét về lý thuyết có thể thấy, FDI của Mỹ là FDI được thực hiện theo chiều ngang, chủ yếu trong các ngành công nghiệp tập trung nhiều trí tuệ. Những ngành công nghiệp đòi hỏi công nghệ cao như khai khoáng, lọc dầu, dược phẩm, hoá chất, mấy móc công nghiệp lớn, thiết bị vận tải,.... là những nguồn FDI lớn nhất của Mỹ ở nước ngoài. Những ngành Nhật Bản tập trung nhiều kỹ năng tiếp thị của Nhật Bản như hàng Mỹ phẩm cao cấp hoặc hàng tiêu dùng cũng là những ngành tập trung nhiều FDI của Nhật Bản. Ví dụ như Côcacôla hay Pepsi cola đã có mặt hầu như trên khắp thế giới. Mặt khác những ngành công nghiệp như sắt thép hoặc công nghiệp dệt của Nhật Bản là những ngành có quy mô lớn nhưng những ngành này lại không phải là những ngành cần tập trung trí tuệ cao, do vậy FDI chiều ngang của Nhật Bản là hầu như vắng bóng.
Ngược lại, FDI của Nhật Bản ở Việt Nam theo phương thức hoạt động của FDI theo chiều dọc, gắn liền với việc xuất khẩu hoặc thiết lập các cơ sở lắp ráp hay đại lý tiêu thụ sản phẩm. Đặc điểm cơ bản của FDI theo chiều dọc là nhằm tranh thủ những lợi thế cạnh tranh lớn ở các nước sở tại về chi phí nguyên vật liệu và lao động... và thường được thực hiện ở các nước đang phát triển. Chính vì vậy, có thể thấy một số lượng lớn các cơ sở sản xuất dưới dạng dây chuyền lắp ráp sản phẩm, hoặc hoàn thiện sản phẩm của Nhật Bản ở Việt Nam mà tiêu biểu là các dây chuyền lắp ráp xe máy và ô tô hay các thiết bị điện tử phục vụ sinh hoạt như TV, Casset, hoặc các dây chuyền cắt may quần áo
Một khía cạnh khác về phương thức thực hiện FDI của Nhật Bản ở Việt Nam tương tự như ở Trung quốc và các nước khác trong khu vực châu á, là nhằm mục đích mở rộng thêm thị trường mới, FDI của các công ty Nhật Bản ở Đông Nam á thường là “hình thành các cơ sở sản xuất mới” và “mở rộng các sơ sở sản xuất sẵn có”. Khác với ở Mỹ, Canada và các nước thuộc khối EU, một số lượng lớn FDI của Nhật Bản ở đây thường được thực hiện theo phương thức là “mở rộng các cơ sở sản xuất sẵn có” và tiếp theo là “phát triển các cơ sở tiêu thụ”, đây cũng là lý do giải thích cho hoạt động FDI của Nhật Bản ở các nước này thường thấy ít xuất hiện các cơ sở sản xuất mới
Riêng ở Việt Nam cũng như những nước thuộc ASEAN thì ngay cả việc “mở rộng các cơ sở sản xuất sẵn có ” cũng chủ yếu là thông qua việc hình thành thêm các cơ sở sản xuất mới của các công ty mẹ ở nước sở tại.
Trong liên doanh hoặc hợp doanh với các đối tác địa phương, các công ty Nhật Bản thường đầu tư theo phương thức tập thể gồm mấy công ty con mà nòng cốt của nó là một công ty “mẹ”, một công ty đa quốc gia hay một công ty thương mại tổng hợp dạng Shogoshosa, hơn là thực hiện FDI theo phương thức một công ty đơn độc nhằm mục đích tối thiểu hoá, hay chia sẻ rủi ro trong kinh doanh ở nước ngoài.
1.3 Phương pháp gây vốn FDI của Nhật Bản
Thực tế qua điều tra về dòng FDI của Nhật Bản ở khu vực Đông Nam á nói chung và Việt Nam nói riêng cho thấy, các nguồn vốn FDI của các hãng Nhật Bản để đầu tư ở nước ngoài không phải là hoàn toàn xuất phát từ nguồn vốn nội bộ của công ty “mẹ” trong nước mà chủ yếu là nguồn cung cấp do gây vốn từ bên ngoài. Theo quan điểm của các công ty đa quốc gia của Nhật Bản, sẽ là lôgic nếu thu hút vốn đầu tư cần thiết ở các thị trường địa phương và thị trường nước ngoài, trong khi giảm tối thiểu lượng tiền được chuyển khoản trực tiếp từ Nhật Bản. Vì vậy, các công ty “con” hay các công ty phụ thuộc của các hãng lớn khi thực hiện đầu tư ở nước ngoài đều có xu hướng gây vốn tại thị trướng các nước sở tại sau thời kỳ đầu tư ban đầu. Theo một cuộc điều tra của cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản JICA vào đầu những năm 90 về việc tạo dựng nguồn vốn FDI của các công ty Nhật Bản ở ASEAN (trừ Singapo) cho thấy, có hơn 3/ 4 các hãng của Nhật Bản gây vốn thông qua các công ty con tại địa phương và chỉ có 1/ 4 nguồn vốn là xuất phát từ các công ty “mẹ” trong nước
Điều cần được giải thích ở đây là, các hoạt động gây vốn của các công ty đa quốc gia của Nhật Bản ở khu vực Đông Nam á lại dựa vào các thị trường tài chính điạ phương nơi có xu h._.hư chiếc cầu nối cuốn hút các công ty nước ngoài đến Việt Nam; giúp các chủ đầu tư nước ngoài và trong nước rút ngắn thời gian tìm hiểu, tạo điều kiện để họ nhanh chóng hợp tác. Khi mà hoạt động đầu tư đạt tới đỉnh cao và bão hoà thì lúc đó vai trò của xúc tiến đầu tư sẽ giảm đi, bởi vì khi đó môi trường đầu tư quá quen biết đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hoạt động đầu tư sẽ chuyển sang một trạng thái khác.
Có thể nói xúc tiến đầu tư tác động trực tiếp hữu hiệu tới thu hút đầu tư nước ngoài, là công cụ để chuyển những yếu tố thuận lợi của môi trường đầu tư thông qua các cơ chế hữu hiệu của hệ thống các khuyến khích tác động đến các nhà đầu tư. Đồng thời cần phải xúc tiến đầu tư có quá nhiều cơ hội đầu tư mới, sự lựa chọn của các nhà đầu tư phải trên lượng thông tin kịp thời và chính xác trên cơ sở so sánh mức độ sinh lời và rủi ro.
Vai trò của xúc tiến đầu tư sẽ là rất quan trọng. Hệ thống xúc tiến đầu tư như hiện nay sẽ trở nên quá tải, lạc hậu so với nhu cầu thực tế bởi vì đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư còn thiếu về thiết bị yếu kém về trình độ năng lực. Phần lớn họ đảm bảo được chức năng tư vấn môi giới, còn tư vấn tác nghiệp rất ít và yếu.
Hệ thống xúc tiến còn thiếu đồng bộ, thống nhất và đã đến lúc phải tổ chức lại theo hướng:
* Hoạch định một chiến lược xúc tiến đầu tư nhằm đáp ứng được nhu cầu và mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế xã hội.
* Củng cố bộ phận xúc tiến đầu tư đủ mạnh về đội ngũ, mạnh mẽ về trình độ, năng lực theo hướng tập trung hoá cao độ chứ không phân tán, manh mún như hiện nay.
* Tăng cường và có kế hoạch đưa các Bộ, viện, trường và các cơ quan làm công tác đối ngoại tham gia vào hoạt động xúc tiến đầu tư, phối hợp các chương trình nghiên cứu nhằm tạo thế chủ động trong giao tiếp và sử lý các quan hệ với bên ngoài. Thiết lập quan hệ với các cơ quan quản lý của nhà nước về đầu tư của một số nước để trao đổi thông tin, kinh nghiệm đẩy mạnh quan hệ với các công ty tư vấn pháp luật, dịch vụ đầu tư quốc tế để có nguồn thông tin và có sự trợ giúp trong công tác xây dựng luật khuyến khích đầu tư.
Trong năm 2000 vừa qua nhà nước ta đã ban hành một số giải pháp xúc tiến hoạt động đầu tư sau:
* Phối hợp với các địa phương, bộ, ngành xây dựng trương trình vận động xúc tiến đầu tư trên cơ sở các quy hoạch, dự án thu hút vốn FDI. Tập trung các hoạt động xúc tiến đầu tư tại các địa bàn trọng điểm như: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... và một số nước châu âu. Hoàn chỉnh danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài thời kỳ 2001 – 2010 kèm theo các thông tin cơ bản về dự án.
* Phối hợp với các địa phương, bộ, ngành xây dựng các website giới thiệu về đầu tư nước ngoài.
* Đề nghị nhà nước cho phép mở văn phòng xúc tiến đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm sử dụng kinh phí của nhà nước.
1.4 Tăng cường công tác quản lý dự án sau khi cấp phép
Thời gian qua, các cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam còn coi nhẹ việc quản lý các dự án. Nhưng qua thực tế sự thất bại của nhiều dự án, công tác này đã được coi trọng hơn. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần được khắc phục như: các vấn đề phát sinh trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được sử lý ( đơn do cơ quan quản lý không nắm được tình hình hoạt động của doanh nghiệp ) làm kéo dài tình trạng sản xuất đình trệ, làm xấu môi trường đầu tư, nhiều trường hợp được sử lý không đúng luật pháp mà thiên về biện pháp hành chính, một số cơ quan tự ý đề ra những quy định riêng về quản lý doanh nghiệp, giá bán điện .... trái với quy định chung của nhà nước làm cho các nhà đầu tư hoài nghi chính sách và luật pháp của ta. Trước tình hình trên, chúng ta cần phải rà soát lại các văn bản hiện có nhằm xác định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn và quan hệ công tác giữa các cơ quan nhà nước theo tinh thần vừa phát huy chức năng của các cơ quan vừa quản lý tập trung thống nhất, khắc phục hiện tượng chia cắt, phân tán, thực hiện nghiêm túc các quy định của chính phủ về hình thành, thẩm định và thực hiện dự án đầu tư nước ngoài.
Trong toàn bộ chu trình của một dự án, khâu quản lý là khâu quan trọng nhất quyết định sự thành công của một dự án cụ thể và theo toàn bộ hoạt động hợp tác đối tác. Do vậy, phải đặc biệt coi trọng công tác quản lý dự án, nâng cao chất lượng của các cơ quan quản lý nhà nước của chính quyền địa phương và những tổ chức cán bộ làm việc này giành sự quan tâm chỉ đạo để nắm chắc tình hình thực hiện theo sát diễn biến nhằm chủ động có biện pháp xử lý kịp thời. Đẩy mạnh việc kiểm tra định kỳ, kiên quyết xử lý kể cả rút giấy phép đối với các trường hợp dây dưa, không triển khai dự án theo quy định hiện hành.
Phấn đấu nâng cao hơn tỷ lệ vốn thực hiện và lợi ích của ngân hàng, coi đó là một chỉ tiêu đánh giá của hoạt động đầu tư nước ngoài.
1.5 Hoàn thiện bổ sung công tác xây dựng quy hoạch và ban hành các loại danh mục đầu tư
Hiện nay, số lượng dự án đầu tư vào Việt Nam khá nhiều, nhiều lĩnh vực đã đạt được sự cân bằng giữa cung và cầu, nhiều loại dự án có quy mô đầu tư lớn hơn hoặc có lợi nhuận cao như sản xuất bia, xi măng, lắp ráp ô tô xe máy, văn phòng cho thuê, khách sạn, sản xuất đường..... đã bão hoà. Do đó vấn đề quy hoạch theo ngành và lãnh thổ, cơ cấu kinh tế và mục tiêu của từng dự án phải được đặt lên hàng đầu để làm thế nào vẫn thu hút được vốn đầu tư từ nước ngoài nhưng phải hướng họ đầu tư vào các vùng, các dự án trọng điểm. Trước mắt, khẩn trương hoàn thành các quy hoạch các khu công nghiệp, các sản phẩm quan trọng các vật liệu xây dựng ..... Trên cơ sở đó xác định những dự án trong nước tự đầu tư hoặc vay vốn để đầu tư, những dự án có thể kêu gọi đầu tư nước ngoài theo ngành và lãnh thổ cũng như xác định yêu cầu tương ứng về công nghệ thiết bị..... Để đáp ứng nhu cầu bức xúc của hoạt động đầu tư nước ngoài, các ngành cần hoàn chỉnh thêm một bước quy hoạch phối hợp với thành phố, địa phương xây dựng quy hoạch trên địa bàn đặc biệt quy hoạch phát triển các khu công nghiệp.
Nhằm thu hút được vốn đầu tư với hiệu quả lớn, khắc phục tình trạng yếu kém về cơ sở hạ tầng trừ một số dự án đặc thù như khai thác chế biến khoáng sản, các dự án chế biến nông sản gắn với vùng nguyên liệu, các dự án đầu tư vào miền núi, Tây Nguyên, duyên hải miền trung .... các dự án còn lại cần được thu hút vào các khu vực đầu tư tập trung, các khu công nghiệp, giảm bớt tỷ lệ dự án đầu tư phân tán. Hướng dẫn các công ty tập đoàn lớn đầu tư vào các khu trung tâm đó. Đặc biệt và trước hết là vùng kinh tế trọng điểm cần phải sớm hoàn thành quy hoạch như đã nói ở trên. Như vậy, thực hiện quy hoạch và định hướng thu hút vốn đầu tư vào Việt Nam làm tốt sẽ giúp chúng ta xác định được ngành nào, vùng nào cần được ưu tiên phát triển để từ đó xây dựng một danh mục đầu tư hợp lý.
1.6 Huy động vốn trong nước để tăng cường hợp tác với nước ngoài, xây dựng cơ cấu đầu tư hợp lý
Nhận thức được vốn đầu tư trong nước đóng vai trò quyết định, còn vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng nên việc huy động vốn trong nước cho đầu tư phát triển được coi là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách vĩ mô của nhà nước. Với chính sách kinh tế nhiều thành phần, thời gian qua ta đã thu được kết quả đáng kể trên lĩnh vực này, huy động được khối lượng vốn ngày càng tăng đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư ngày càng lớn. Trong bối cảnh đó, việc huy động vốn trong nước để tăng cường khả năng hợp tác với nước ngoài cũng được quan tâm ngay từ những năm đầu thực hiện đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, do eo hẹp về khả năng tài chính của bản thân doanh nghiệp trong nước cũng như do khó khăn chung về nguồn vốn của đất nước, khả năng hợp tác với nước ngoài để thành lập các doanh nghiệp liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh còn nhiều hạn chế. Do có khó khăn về vốn, dẫn đến tình trạng nhiều lĩnh vực, nhiều dự án tuy có tỷ suất lợi nhuận cao, rủi ro ít nhưng tỷ trọng góp vốn của bên Việt Nam rất thấp do đó lợi nhuận được chia thấp, nhiều trường hợp buộc phải chấp nhận để bên nước ngoài đầu tư 100% vốn của họ. Những năm gần đây, tình hình có cải thiện hơn đã xuất hiện một số dự án có tham gia cùng một lúc của nhiều bên Việt Nam làm tăng tỷ trọng góp vốn chung của bên Việt Nam. Để góp phần khắc phục tình trạng trên, nhằm nâng cao chất lượng đầu tư của bên Việt Nam cần nghiên cứu các biện pháp sau:
* Đối với các dự án thông thường, không đòi hỏi cao về chuyên môn nghiệp vụ cần huy động nhiều tổ chức Việt Nam cùng tham gia liên doanh.
* Đối với những dự án quan trọng, đòi hỏi tính chuyên ngành cao đối tác Việt Nam dứt khoát là những tổ chức chuyên ngành, những tổng công ty mạnh. Trong trường hợp cần thiết có thể huy động các tổ chức Việt Nam khác nhưng tổ chức chuyên ngành phải nắm rõ vai trò chủ động.
* Thành lập các quỹ đầu tư trong nước cũng như cho phép các quỹ đầu tư nước ngoài được hoạt động ở Việt Nam để cấp vốn cho bên trong và ngoài nước tham gia liên doanh. Để thành lập quỹ hỗ trợ cho vay vốn điều lệ của doanh nghiệp Việt Nam, bên cạnh nguồn vốn tự có và một phần huy động của các ngân hàng cần phải có nguồn vốn hỗ trợ chính sách khác của nhà nước ( như nguồn ngân sách, nguồn tài trợ quốc tế....) ngoài ra để giúp các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tích luỹ, tích tụ, tập trung giảm vốn nhanh hơn cần có các chính sách ưu đãi như giảm thuế doanh thu, thúê lợi tức, thuế xuất nhập khẩu, áp dụng mức lãi xuất ưu đãi đối với một số liên doanh mới hình thành có tỷ xuất lợi nhuận thấp hoặc áp dụng khoa học tiến bộ cao, công nghệ cao tạo nhiều việc làm.
Để khai thác nguồn nội lực, tiền vốn, tài nguyên, lao động, thị trường, công nghệ ..... chúng ta cần phải xây dựng được một cơ cấu đầu tư hợp lý. Đối với cơ cấu kinh tế khu vực và ngành sản xuất cần phát triển mạnh kinh tế nông thôn nhất là khu vực đồng băng bắc bộ và nam bộ. Phát triển các ngành công nghiệp nặng như xi măng, công nghệ hiện đại, vật liệu xây dựng, sản xuất cơ khí, lọc dầu..... ở các tỉnh miền trung. Phần lớn khu vực này sản xuất nông nghiệp rất khó khăn, năng suất thấp, đất đai là rừng núi chỉ có thể thuận lợi cho phát triển công nghiệp. Các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh.... nên điều chỉnh phát triển theo hướng các trung tâm thương mại hóa và dịch vụ. Bởi vì xét về lâu dài, việc thu hút đầu tư phát triển thương mại các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung vào các đô thị lớn là không có lợi cho nên kinh tế. Các đô thị lớn hiện có nên phát triển theo hướng các đô thị xanh đẹp có khả năng thu hút du lịch, kinh doanh thương mại, tài chính và những ngành hỗ trợ phát triển cơ cấu hạ tầng. Chúng ta phải có những ngành kinh doanh chủ đạo do lợi thế kinh tế tạo ra. Những ngành này phải do các nhà kinh doanh Việt Nam nắm giữ một cách chắc chắn là những ngành sản xuất mà các nhà kinh doanh trong nước đảm nhận được không cần đến sự đầu tư của nước ngoài như ngành: may mặc giầy da, ngành sản xuất trong nông nghiệp và chế biến xuất khẩu, ngành vật liệu xây dựng ..... nên tránh sự thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào ngành nghề như hiện nay
1.7 Xây dựng và phát triển hệ thống tài chính ngân hàng
Hiện nay, ở Việt Nam hệ thống ngân hàng trong nước và nước ngoài. Việc cải tổ hệ thống ngân hàng là một cách tích cực và triệt để theo phương hướng phân biệt chức năng quản lý nhà nước của ngân hàng. Nhà nước với chức năng kinh doanh tín dụng tiền tệ của các ngân hàng thương mại, gồm cả chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh sẽ góp phần tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư được thuận lợi. Tuy nhiên, ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nên cần lựa chọn trọng đối tượng và đề phòng trường hợp mở cửa làm lũng đoạn nền kinh tế đất nước.
Cần có chính sách tài chính phù hợp để tránh tình trạng tái lạm phát ở mức có thể chấp nhận được. Cần thành lập các công ty cổ phần, công ty tài chính để huy động vốn góp ban đầu cũng như để mua lại phần vốn của bên nước ngoài. Loại công ty này tạo vốn cho các nhà đầu tư và giúp họ giải quyết các vấn đề tài chính trong liên doanh cũng như trong thẩm định các dự án đầu tư.
Liên quan đến công cụ hỗ trợ vốn cho đầu tư, ngoài ngân hàng thương mại cần đổi mới tổ chức va hoạt động của công ty bảo hiểm nhà nước. Nhanh chóng xây dựng thị trường vốn đặc biệt là thị trường chứng khoán. thị trường vốn có vai trò đảm bảo nguồn vốn có luân chuyển lâu dài và vững chắc tạo điều kiện cho các biện pháp khuyến khích đầu tư mang tính ổn định lâu dài và phát triển bền vững.
Trong năm 2000 việc thực hiện luật ngân hàng theo hướng đảm bảo cho ngân hàng hoạt động theo cơ chế thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế tặng thêm nhiều thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Một số loại hình tín dụng phi ngân hàng đã được mở thêm để đa dạng hoá chủng loại như công ty tài chính nước ngoài, công ty cho thuê tài chính; phạm vị hoạt động của ngân hàng nước ngoài từng bước được nới lỏng; một số giao dịch vãng lai và một phần của giao dịch vốn được tự do hoá.
1.8 Đẩy mạnh cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt nhằm góp phần nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam.
Vấn đề cơ sở hạ tầng xã hội nghèo nàn của Việt Nam là vấn đề nổi cộm trong môi trường đầu tư. Có thể nói tình trạng yếu kém của cơ sở hạ tầng là nhân tố kìm hãm tốc độ, tính ổn và chất lượng tăng trưởng kinh tế của đất nước nói chung và ảnh hưởng tới khả năng thu hút vốn đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam nói riêng. Các nước Singapore, Đài Loan rất chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng nên họ thu hút được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhanh tróng với khối lượng lớn. Bất kỳ nhà đầu tư nước ngoài nào khi đầu tư sang nước khác cũng đều phải quan tâm đến những vấn đề như điện nước, đường giao thông, phương tiện liên lạc..... bởi đó là những yếu tố hàng đầu không thể thiếu được để đảm bảo cho công việc kinh doanh của họ đạt thuận lợi.
Trong phát triển cơ sở hạ tầng không chỉ chú ý vào phần cứng như xây dựng đường xá, kho tàng bến bãi, thông tin liên lạc... mà phải chú ý cả phần cơ sở hạ tầng phần mềm, trong đó đặc biệt chú trọng đào tạo nguồn nhân lực.
Để giải quyết vấn đề trên, một trong những hướng khắc phục trước mắt của ta nên tập trung vào xây dựng khu chế xuất, khu công nghiệp trọng điểm. Trong điều kiện hạ tầng xã hội còn yếu, lại chưa đều giữa các vùng trong toàn quốc, thì cần có quy hoạch phù hợp về phát triển ngành, lĩnh vực. Không cứ nhất thiết tất cả các tỉnh tất cả các tỉnh có đầu tư nước ngoài, phải có nhà máy xi măng hay sắt thép ở tỉnh mình. Cần dựa trên cơ sở thế mạnh của từng tỉnh. Vùng mà kêu gọi đầu tư nước ngoài nói chung, của Nhật Bản nói riêng.
Cần tạo ra sự bình đẳng trong tiếp nhận các dịch vụ cho sản xuất cũng như cho đời sống sinh hoạt giữa các công ty trong và ngoài nước, giữa người Việt Nam và người nước ngoài. Trong điều kiện dịch vụ kém chúng ta lại thi hành chính sách giá phân biệt và quá cao với người nước ngoài quả là bất hợp lý, không những không khuyến khích được các hoạt động kinh doanh sản xuất mà cả hoạt động du lịch cũng bị hạn chế.
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng là một vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam nhưng nó kém hấp dẫn các nhà đầu tư. Do đó để khắc phục tình trạng này , chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau:
* Việt Nam phải xây dựng các dự án khả thi và tính toán cụ thể đến mức mà các chủ đầu tư thấy có thể bỏ vốn được.
* Có chính sách ưu đãi thoả đáng theo hướng coi trọng việc xây dựng cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện phát triển kinh tế chứ không phải chỉ tính thu ngân sách đơn thuần là từ công trình. Khuyến khích đầu tư xây dựng theo hình thức BOT.
* Gắn cơ sở hạ tầng với kinh doanh và bất động sản.
* Kết hợp xây dựng cơ sở hạ tầng với các dự án khai thác tài nguyên với các chính sách ưu đãi nhà đầu tư khai thác sử dụng, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
1.9 Đào tạo và phát triển lực lượng lao động
Một trong những mục tiêu thu hút đầu tư của Việt Nam là công nghệ kỹ thuật tiến tiến. Để tiếp thu được những khoa học kỹ thuật mới này phải có một đội ngũ cán bộ, kỹ sư và công nhân lành nghề; mặt khác trong quá trình làm việc hợp tác với nước ngoài, đội ngũ lao động này sẽ học hỏi được những kinh nghiệm quý giá, nâng cao sự hiểu biết và có điều kiện tìm tòi sáng tạo hơn. Nhưng đây là khâu yếu nhất của ta trong hoạt động đầu tư. Xét trên khía cạnh trình độ nguồn nhân lực, chất lượng lao động của Việt Nam chưa cao, điều này có thể thấy được thông qua chỉ số phát triển nguồn nhân lực HDI, là chỉ số được thiết lập dựa trên các thông số về tuổi thọ bình quân, trình độ học vấn, số năm đi học, tri thức và thu nhập quốc dân tính trên đầu người. Với tất cả những hạn chế trên đã được phân tích ở trên, trước hết chúng ta phải có sự đào tạo chính quy ban đầu, không những công nhân, kỹ sư mà cả các cán bộ quản lý vì hoạt động đầu tư ngày gia tăng cả về quy mô và tính phức tạp. Đội ngũ ngũ này vừa phải được đào tạo trang kiến thức về kinh tế, chính trị để bắt kịp yêu cầu của thời đại, vừa phải tinh thông về nghiệp vụ, vừa phải vững vàng về bản chất. Đồng thời đào tạo đội ngũ chuyên gia luật thương mại và kinh doanh quốc tế, phát triển các công ty tư vấn luật nước ngoài tại Việt Nam.
Khi nói đến vấn đề lao động, chúng ta phải nói đến vấn đề tiền lương và vấn đề của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trên thực tế đã có rất nhiều xung đột giữa người lao động với chủ đầu tư về vấn đề trên. Do đó, vai trò kiểm soát của các tổ chức nhà nước hết sức quan trọng. Nhìn chung có một số giả pháp sau:
+ Nhà nước nên áp dụng mức lương trung bình thay cho mức lương tối thiểu về lâu dài và có lợi cho đa số người lao động.
+ Các điều kiện về lao động, bảo hiểm, y tế phải thực hiện đầy đủ còn các vấn đề bãi công xa thải công nhân.... phải được quy định rõ ràng trong các văn bản.
+ Nhà nước nên điều tiết thị trường lao động để tránh tình trạng chảy máu chất xám.
+ Khuyến khích ưu đãi tạo điều kiện thuận lợi trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo như miễm giảm học phí, gửi đi đào tạo tại nước ngoài, ưu tiên việc làm và trả lương cao cho những người có trình độ ở tất cả các cấp học, đồng thời đào tạo cần phải được triển khai thực hiện một cách khẩn trương, tích cực, có hiệu quả.
Việc biến lợi thế cấp thấp thành lợi thế cấp cao thông qua việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là trong lĩnh vực đào tạo, cũng như phát triển trình độ khoa học công nghệ, từ sử dụng, cải tạo đến hoàn thiện và nghiên cứu phát triển là việc làm có tính cấp bách vừa có tính lâu dài, đòi hỏi thời gian. Tuy nhiên, việc bắt đầu ngay từ bây giờ là điều cần làm đối với Việt Nam.
1.10 Đẩy mạnh quá trình đổi mới phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Nhằm gia tăng sức hút với nhà đầu tư nước ngoài cùng với những vấn đề cơ bản nêu trên liên quan trực tiếp đến đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải tiếp tục đổi mới, cải cách kinh tế, tạo ra sự phát triển năng động của nền kinh tế Việt Nam. Sự phát triển kinh tế của Việt Nam, chính là sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư.
Việc phát triển kinh tế không chỉ tạo ra cơ hội đầu tư mà còn tăng thu nhập mở rộng nhu cầu. Điều này rất có ý nghĩa đối với nhà đầu tư nước ngoài nhằm vào sản xuất phục vụ thị trường nội địa Việt Nam.
Vừa là nguyên nhân thúc đẩy vừa là kết quả của quá trình đổi mới phát triển kinh tế, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm đầu 2000 này cần được xúc tiến mạnh hơn. Việc tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN, việc đàm phán tiến tới gia nhập WTO.... sẽ là những tác động rất quan trọng cho việc tăng đầu tư nước ngoài, trong đó có đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, không hội nhập thì không những không thu hút được đầu tư nước ngoài mà nền kinh tế cũng khó có thể phát triển. Đất nước sẽ tụt hậu so với thế giới, đó là nguy cơ lớn nhất và cũng là lý do thúc đẩy quá trình hội nhập mở cửa, qua đó thu hút đầu tư nước ngoài, biến ngoại lực thành nội lực để phát triển nền kinh tế nước nhà.
2. Những giải pháp cụ thể đối với Nhật Bản
2.1 Khuyến khích hình thức kinh doanh dưới dạng 100% vốn đầu tư của Nhật Bản
Cần có các giải pháp cụ thể khuyến khích phát triển hình thức kinh doanh FDI dưới dạng 100% vốn và đầu tư qua công ty nhánh của Nhật Bản. Các giải pháp cụ thể là : miễm thuế xuất nhập khẩu đối với máy móc thiết bị và nguyên liệu phục vụ cho các loại hình doanh nghiệp hoặc công ty này. Xét miễm giảm thuế đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của họ trong thời gian đầu ( có thể từ một đến 3 năm đầu ). Tạo điều kiện thuận lợi về mặt pháp lý và thủ tục hành chính đối với loại hình đầu tư này.
Sở dĩ để xuất giải pháp như vậy mà không phải là khuyến khích hình thức liên doanh hay hình thức kinh doanh trực tiếp ở nước ngoài của Nhật Bản tại Việt Nam. Bởi vì, như chúng ta đã biết từ trước tới nay, hình thức liên doanh vẫn là hình thức chủ yếu trong hoạt động FDI của Nhật Bản vào Việt Nam. Tuy hình thức này có lợi là chúng ta có thể tiếp thu công nghệ kỹ thuật và bí quyết quản lý trực tiếp thông qua quá trình sản xuất với các chuyên gia Nhật Bản, nhưng về thực chất những công nghệ trong liên doanh mà chuyển sang Việt Nam chưa thực sự là những công nghệ tiên tiến, hơn nữa trong hình thức liên doanh này, để có được công nghệ và bí quyết quản lý, chúng ta phải bỏ chi phí dưới dạng góp vốn liên doanh ( bởi vì vốn góp phần lớn là vốn vay, chúng ta phải chịu lãi suất, một hình thức chi phí xét về bản chất ).
Thực tế đã chứng minh rằng, tác dụng có ý nghĩa nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước đang phát triển là sự tràn công nghệ từ các công ty đa quốc gia sang các công ty trong nước, và các công ty này thu được nhiều lợi nhuận từ sự tràn này mà không phải mất phí tổn nào cả. Các công ty đa quốc gia thường chuyển giao toàn bộ công nghệ của nó nếu như đó là công ty 100% vốn của họ hoặc chi nhánh của nó tại nước tiếp nhận đầu tư. Sự tràn công nghệ sang các công ty nội địa được thực hiện thông qua các quan hệ mua bán sản phẩm quan trọng nhất là sự tràn trong từng ngành sản xuất bằng cách trao đổi học hỏi kinh nghiệm, trình diễn và giới thiệu sản phẩm công nghệ, quá trình cạnh tranh trên thị trường. Có thể khẳng định rằng đầu tư qua chi nhánh của nước ngoài hay công ty 100% vốn nước ngoài thì có thể nhận được các công nghệ cao, còn liên doanh thì hầu như không. Vậy về lâu dài, khuyến khích phát triển hình thức trên là hoàn toàn có lợi hơn. Dĩ nhiên, sự phát triển của hai hình thức này có thể gây ra rất nhiều khó khăn và dẫn đến nguy cơ phá sản của nhiều doanh nghiệp trong nước. Song sự phá sản tốt hay xấu? Một cách tích cực điều này có nghĩa là trong nền kinh tế sẽ chỉ chấp nhận sự tồn tại của các công ty mạnh và làm ăn có hiệu quả.
2.2 Điều chỉnh một cách hợp lý cơ cấu FDI của Nhật Bản vào các ngành sản xuất
Trên cơ sở nguyên tắc đầu tư theo ngành vào từng khu vực của Nhật Bản đặc biệt nhấn mạnh vào ngành nghề chế tạo và xây dựng, đã đặt ra vấn đề tương đối cấp thiết là phải có những giải pháp cả ở tầm vi mô và vĩ mô nhằm củng cố cải thiện và phát triển ngành công nghiệp chế tạo, tăng tính hấp dẫn của nó đối với FDI của Nhật Bản. Thực tế cho thấy, dòng vốn FDI hết sức năng động, các lợi thế so sánh của các nước trong khu vực là gần như ngang băng nhau, sự phát triển công nghiệp chế tạo ở một số nước trong khu vực cũng gần như tương đương và chính vì vậy rất có thể chỉ vì một nguyên nhân nào đó ( cho dù là không lớn ) có ảnh hưởng theo chiều hướng tiêu cực đối với tính hấp dẫn cho hoạt động FDI ở lĩnh vực này sẽ làm các nguồn FDI dự định đầu tư vào Việt Nam sẽ đổi hướng sang Philipin, Mianma hoặc Bruney.
Chúng ta đang trong quá trình thực hiện mục tiêu chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp chế tạo chính là nòng cốt để thực hiện chiến lược này. Thực trạng FDI của Nhật Bản thời gian qua cho thấy, tuy tỷ lệ vốn FDI của Nhật Bản vào lĩnh vực chế tạo là lớn nhất nhưng vẫn chỉ chủ yếu tập trung vào những ngành công nghiệp nhẹ như lắp ráp hàng điện tử dân dụng, các ngành dệt hoặc may. Trong lĩnh vực công nghiệp nặng, công nghệ kỹ thuật cao thì chỉ chiếm một khối lượng dự án rất khiêm tốn.
Các giải pháp cụ thể là:
Thứ nhất, ở tầm vĩ mô nhà nước nên có những chính sách riêng ưu đãi đối với lĩnh vực chế tạo về nguồn vốn, có thể cho vay với lãi suất thấp, hỗ trợ để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng và trình độ cao. Mạnh dạn thực hiện việc cổ phần hóa hoặc tư nhân hoá các doanh nghiệp lớn thuộc lĩnh vực chế tạo trước đây thuộc sở hữu nhà nước nhưng làm ăn kém hiệu quả, để có thể huy động nguồn vốn tiềm năng trong nước. Cần phải dẹp bỏ tư tưởng cho răng những doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực này phải thuộc sở hữu của nhà nước. Việc giữ vai trò chủ đạo của nhà nước thể hiện qua công tác điều hành quản lý của chính phủ bằng các công cụ điều tiết vĩ mô như pháp luật. Đương lối chính sách.... và các giải pháp thích hợp can thiệp kịp thời chứ không phải trực tiếp nắm quền điều khiển các doanh nghiệp kiểu như vậy, nhất là trong trường hợp không có khả năng duy trì nguồn vốn để sản xuất.
Thứ hai, ở tầm vĩ mô, các ngành các bộ chủ quản cũng như các doanh nghiệp phải có các biện pháp cụ thể thích hợp với từng ngành, từng doanh nghiệp như cải tổ cơ cấu, cải tiến phương thức làm việc và quản lý, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật trong khả năng bao gồm cả việc nâng cao tính hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài.
Lợi điểm của chúng ta là: Việt Nam đang có nhu cầu cấp bách trong phát triển công nghiệp chế tạo. Trong khi Nhật Bản lại có thế mạnh và xu hướng nhấn mạnh đầu tư giữa hai nước sẽ là nền tảng tốt cho mong muốn tăng cường thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam.
2.3 Cải tiến tiếp nhận và tổ chức thực hiện các dự án FDI của Nhật Bản
Đặc điểm của nhà đầu tư Nhật Bản là ban đầu thường đầu tư với những dự án quy mô nhỏ, rồi sau đó mới tăng lên thực hiện những dự án đầu tư có quy mô lớn hơn, mức độ tăng dần của quy mô các dự án ngoài hiệu quả kinh doanh của đối tác còn phụ thuộc nhiều vào độ tin cậy của đối tác Việt Nam. Các nhà đầu tư Việt Nam thường hết sức nghiêm túc, coi trọng chữ tín trong kinh doanh. Chính vị vậy để góp phần đưa Việt Nam lên vị trí hàng đầu trong con mắt của các nhà đầu tư Nhật Bản chúng ta nên có những giải pháp như trong công tác tiếp nhận và nghiên cứu tính khả thi của dự án phải xem xét một cách có hệ thống trên cơ sở đánh giá, tổng hợp các yếu tố ảnh hưởng, không nên vì chạy theo các dự án lớn,nhất là những dự án dưới hình thức liên doanh, vượt qua khả năng thực hiện của phía Việt Nam, đặc biệt là về vốn và điều hành quản lý dự án, lĩnh vực ta chưa có nhiều kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn, sẽ dẫn đến không hoàn thành trách nhiệm, hiệu quả không tốt gây mất lòng tin đối với phía đối tác Nhật Bản.
Gần đây, trong nền kinh tế Việt Nam, xu hướng các xí nghiệp vừa và nhỏ đầu tư ra nước ngoài ngày càng tăng lên. Do vậy, cần phải có những giải pháp trước mắt trong quan hệ đầu tư với Nhật Bản để tranh thủ những dự án nhỏ có tính khả thi, lợi ích lớn. Có giải pháp khuyến khích để tăng cường nguồn FDI của Nhật Bản bằng cách tăng số đầu tư của các công ty vừa và nhỏ của Việt Nam. Điều này không có nghĩa là chỉ tiếp nhận các dự án nhỏ mà không tiếp nhận các dự án lớn liên doanh với Nhật Bản cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước, hoặc huy động nguồn lực tổng hợp của nhiều đối tác Việt Nam. Các giải pháp về tiếp nhận đầu tư theo hướng đúng sẽ mang lại hiệu quả cao.
Kết luận
Tương lai cung như hiện tại , Nhật Bản , hơn bất cứ nước nào khác , vẫn giữ vị trí là bạn hàng số 1 ở Việt Nam .Đánh giá những thành công trong mối quan hệ kinh tế Việt- Nhật và xu hướng trong tương lai chúng ta có thể nói rằng hiện nay Việt Nam đang bước vào giai đoạn mới – công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước- đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư lớn. Việt Nam dự kiến sẽ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 20 tỷ USD, trong đó Nhật Bản là một trong những nước chúng ta hy vọng có lượng vốn đầu tư lớn nhất. Tuy nhiên bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể nhận thấy rằng ảnh hưởng của FDI vào từng nước là khác nhau, kể cả những mặt tích cực và những mặt tiêu cực. Nước ta hiện nay, qua một thời gian thực hiện luật đầu tư nước ngoài bên cạnh những thành tựu đạt được đáng khích lệ vẫn còn những vấn đề nảy sinh gây vướng mắc cho việc thu hút FDI của nước ngoài vào Việt Nam. FDI tạo ra sự thay đổi trong cơ cấu ngành nghề và phân chia các khu vực lãnh thổ một cách cơ bản theo hướng phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Những nơi được đầu tư thì kinh tế phát triển nhanh hơn, nhưng bên cạnh những mặt tích cực đó vẫn song song tồn tại những mặt trái của FDI. Mong muốn của cá nhân người viết bài này là chỉ ra được những tồn tại và từ đó có một vài giải pháp để đóng góp vào qúa trình thu hút FDI của Nhật Bản nói riêng và của nước ngoài nói chung có hiệu quả hơn. Góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Bài viết này được hoàn thành nhờ sự giúp đỡ và hướng dấn tận tình của cô giáo Phạm Thị Thuê. Tuy nhiên, do không có điều kiện để nghiên cứu sâu hơn nên bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được những nhận xét, những ý kiến đóng góp từ phía cô giáo và bạn đọc để những bài viết sau được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Báo đầu tư các số 2000, 2001
2. Con số và sự kiện 1+2 / 2001
3. 25 năm quan hệ Việt Nam Nhật Bản 1973 – 1998, NXB KHXH, Hà Nội 1999
4. Hướng dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
5. Nghị định thông tư 82/1999 TT – BTC
6. Quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản đang phát triển – NXB KHXH HN – 1996
7. Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản, số 11 – 1995 : sự gia tăng vai trò của Nhật Bản trong khu vực Châu á và Thái Bình Dương.
8. Tạp chí Nhật Bản các số năm 2001.
9. Tạp chí thương mại 01/2001
10. Thời báo tài chính Việt Nam – số 6 12/01/2001
11. Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 62 ngày 04/08/2000
12. Tạp chí Tri thức thế giới, số 16 – 1999
13. Vụ đầu tư nước ngoài : Báo cáo tổng quan tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2001
14. Vụ đầu tư nước ngoài : Báo cáo tóm tắt hoạt động hợp tác giữa trung tâm ASEAN và Bộ kế hoạch và đầu tư
15. Vụ đầu tư nước ngoài : Tình hình chính sách thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, những mong muốn đối với nhà đầu tư Nhật Bản.
16. Vụ đầu tư nước ngoài : báo cáo tóm tắt tình hình đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0027.doc