Tài liệu Thu hút FDI của EU, Mỹ, Nhật vào Việt Nam: ... Ebook Thu hút FDI của EU, Mỹ, Nhật vào Việt Nam
96 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1444 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thu hút FDI của EU, Mỹ, Nhật vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Kể từ khi Việt Nam ban hành luật khuyến khích đầu tư nước ngoài đầu tư nước ngoài năm 1987, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động đầu tư phát triển của nước ta. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã đóng góp đáng kể cho ngân sách, giải quyết công ăn việc làm, và đặc biệt chuyển giao cho Việt Nam những công nghệ hiện đại và tương đối hiện đại so với khu vực và thế giới. Đây là khu vực năng động của nền kinh tế nước ta, chiếm tỷ trọng đáng kể trong GDP của nước ta, nó cùng với kinh tế quốc doanh đã tạo động lực cho nền kinh tế phát triển.
Chính vì vậy, Việt Nam kể từ khi ban hành luật khuyến khích đầu tư nước ngoài đến nay đã không ngừng sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và tạo điều kiện tốt cho hoạt động FDI được diễn ra một cách thuận lợi nhất. Việt Nam đã không ngừng học hỏi kinh ngiệm FDI của các nước trên thế giới, tổ chức các cuộc họp với các nhà đầu tư nước ngoài để giải quyết những khó khăn, vướng mắc mà họ gặp phải. Tất cả những điều đó không ngoài việc nhằm tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam.
Trong thời kỳ hiện nay, thời kỳ khó khăn cho Việt Nam trong việc thu hút FDI, thời kỳ Trung Quốc được coi là: "thỏi nam châm thu hút vốn". Đối với ta một nền kinh tế nhỏ và gần kề thì khó khăn trong hoạt động thu hút FDI là điều tất yếu. Cộng thêm thời kỳ ảm đạm của kinh tế Nhật, một trong những nhà đầu tư truyền thống và chiếm tỷ trọng lớn của khu vực thì luồng vốn FDI vào Việt Nam càng thêm khó khăn mặt khác các nước trrong khu vực hiện nay không ngừng thay dổi chính sách thu hút FDI của theo xu hưóng ngày càng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư vào. Do các nước này cần phải thu hút FDI để khôi phục lại nền kinh tế kể từ sâu vụ khủng hoảng khinh tế tầi chính năm 1997. Trong khi các nước ASEAN đang tích cực cải thiện môi trường đầu tư thì Việt Nam vẫn có mức cước phí rất cao so với khu vực, đơn cử: vấn đề về cước phí internet, cước phí vận tải... . Điều đó khiến ta phải tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác với các nước, các khu vực
trên thế giới đặc biệt là EU, Nhật và Mỹ... Đây là ba trung tâm kinh tế lớn của thế giới. Vì vậy, cần tăng cường khả năng thu hút FDI từ những khu vực này.
Trong khuôn khổ của đề tài này chỉ đề cập đến một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng thu hút FDI từ EU, Nhật và Mỹ vào Việt Nam .
Nội dung của đề án bao gồm ba chương, được khái quát như sau: Chương 1: Đặc điểm và vị trí của EU, Mỹ, Nhật Bản trong lĩnh vực FDI. Chương 2: Thực trạng thu FDI của EU, Mỹ, Nhật vào Việt Nam
thời gian qua.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng thu hút FDI
của EU, Mỹ, Nhật vào Việt Nam trong thời gian tới.
Chương I
ĐẶC ĐIỂM VÀ VỊ TRÍ CỦA EU, MỸ, NHẬT BẢN TRONG LĨNH VỰC FDI
I. KHÁI NIỆM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ngày càng phát triển rất mạnh mẽ và trở thành một trong những khuynh hướng chủ yếu của quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng này là do tính hiệu quả mà phương thức kinh doanh đặc biệt này mang lại và do sự phát triển ngày càng tăng các mối quan hệ giữa các quốc gia, kể cả giữa các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau.
Do yêu cầu quản lý vĩ mô và nâng cao hiệu quả đầu tư, mỗi quốc gia đều có văn bản pháp luật riêng để điều chỉnh quan hệ Đầu tư nước ngoài, trong đó có đề cập đến khái niệm của lĩnh vực kinh tế này.
Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam (Ban hành năm 1987, điều chỉnh năm 1990, 1992 và 2000) đã định nghĩa như sau: "Đầu tư nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào khác được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo qui định của Luật này". (Ở đây cần lưu ý rằng Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam chỉ trực tiếp điều chỉnh quan hệ kinh tế Đầu tư trực tiếp nước ngoài nên định nghĩa trên cũng chính là định nghĩa của Đầu tư trực tiếp nước ngoài).
Từ đó, chúng ta có thể hiểu Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các nhà đầu tư (pháp nhân hoặc cá nhân) đưa vốn hay bất kỳ hình thái giá trị nào vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận hoặc đem lại các hiệu quả xã hội.
2. Tác động của Đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1. Đối với nước chủ đầu tư
2.1.1. Các tác động tích cực
Đối với nước đầu tư, Đầu tư trực tiếp nước ngoài đem lại lợi nhuận cao hơn ở trong nước. Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với các nhà đầu tư. Việc đầu tư ra nước ngoài làm cho yêu cầu tương đối về lao động ở trong nước giảm hay năng suất giảm. Ngược lại, tổng lợi nhuận thu được từ đầu tư ra nước ngoài tăng, lợi suất đối với yếu tố lao động giảm và yếu tố tư bản tăng. Như vậy, thu nhập từ việc đầu tư ở nước ngoài có sự tái phân phối thu nhập quốc nội từ lao động thành tư bản.
Trong quá trình đầu tư ra nước ngoài, Đầu tư trực tiếp nước ngoài kích thích việc xuất khẩu trực tiếp thiết bị máy móc. Đặc biệt là khi đầu tư vào các nước đang phát triển có nền công nghiệp cơ khí lạc hậu hoặc khi các công ty mẹ cung cấp cho các công ty con ở nước ngoài máy móc thiết bị, linh kiện, phụ tùng và nguyên liệu. Nếu công ty của nước đầu tư muốn chiếm lĩnh thị trường thì Đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động vào việc xuất khẩu các linh kiện tương quan, các sản phẩm tương quan để tăng tổng kim ngạch xuất khẩu.
Đối với nhập khẩu, nếu các nước đầu tư đầu tư trực tiếp vào ngành khai thác của nước chủ nhà, họ có được nguyên liệu giá rẻ. Trong điều kiện nhập khẩu ngang nhau, họ có thể giảm được giá so với trước đây nhập từ nước khác. Nếu sử dụng giá lao động rẻ của nước ngoài để sản xuất linh kiện rồi xuất về trong nước để sản xuất thành phẩm, họ có thể giảm được giá thành phẩm mà trước đây họ phải nhập khẩu.
Trong dài hạn, việc đầu tư ra nước ngoài sẽ đem lại ảnh hưởng tích cực cho cán cân thanh toán quốc tế của nước đầu tư. Đó là do việc xuất khẩu thiết bị máy móc, nguyên vật liệu... cộng với một phần lợi nhuận được chuyển về nước đã đem ngoại tệ trở lại cho nước đầu tư. Các chuyên gia ước tính thời gian hoàn vốn cho một dòng tư bản trung bình là từ 5 đến 10 năm.
2.1.2. Các tác động tiêu cực
Như trên đã phân tích thì Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp cải thiện cán cân thanh toán quốc tế của nước đi đầu tư nhưng đó là tác động tích cực trong dài hạn. Trước mắt, do sự lưu động vốn ra nước ngoài mà việc đầu tư trực tiếp này lại gây ra ảnh hưởng tiêu cực tạm thời cho cán cân thanh toán quốc tế. Nguyên nhân là do trong năm có đầu tư ra nước ngoài, chi tiêu bên ngoài của nước đầu tư tăng lên và gây ra sự thâm hụt tạm thời trong cán cân thanh toán ngân sách. Vì vậy, nó khiến một số ngành trong nước sẽ không được đầu tư đầy đủ.
Một yếu tố ảnh hưởng tiêu cực khác nữa là việc xuất khẩu tư bản có nguy cơ tạo ra thất nghiệp ở nước đầu tư. Hãy xem xét một trong những nguyên nhân mà các nhà tư bản đầu tư ra nước ngoài là nhằm sử dụng lao động không lành nghề, giá rẻ của những nước đang phát triển. Điều này tất yếu làm tăng thất nghiệp cơ cấu trong số lao động không lành nghề của nước đầu tư. Thêm vào đó, nước sở tại lại có thể xuất khẩu sang nước đầu tư hoặc thay cho việc nhập khẩu trước đây từ nước đầu tư, họ tự sản xuất được hàng hoá cho mình càng làm cho nguy cơ thất nghiệp này thêm trầm trọng. Xu hướng giảm mức thuê mướn nhân công ở nước chủ đầu tư và tăng mức thuê công nhân ở nước sở tại dẫn đến sự đối kháng về lao động ở nước đầu tư và quyền lợi lao động ở nước chủ nhà.
Tóm lại, có một số tác động không tốt tới cán cân thanh toán quốc tế hay làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp của việc các nhà tư bản đầu tư ra nước ngoài song không vì thế mà khuynh hướng này có chiều hướng bị giảm sút. Để đáp ứng yêu cầu thực tế và vì những lợi ích to lớn và lâu dài mà hình thức đầu tư này mang lại, nhất định Đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn sẽ ngày càng được phát triển mạnh mẽ.
2.2. Đối với nước tiếp nhận đầu tư
2.2.1 Tác động tích cực
Đối với các nước đang phát triển, tác dụng chủ yếu của Đầu tư trực tiếp nước ngoài là làm tăng thêm tích luỹ và bù đắp vào lỗ hổng ngoại tệ. Do thu nhập của các nước này còn thấp nên tích luỹ thấp trong khi tỷ lệ tư bản đầu ra lại cao. Muốn đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhất định (là tỷ lệ tích luỹ trừ đi tỷ lệ tư bản đầu ra) thì một trong những biện pháp là phải hạ tỷ lệ tư bản đầu ra. Biện pháp này yêu cầu phải nâng cao trình độ kỹ thuật và quản lý và Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể đáp ứng được đòi hỏi này. Bên cạnh tỷ lệ tích luỹ thấp, các nước đang phát triển còn thiếu nhiều ngoại tệ. Do vậy, không thể đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu đầu tư thiết bị, Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng lấp được lỗ hổng này.
Ngoài ra Đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có thể kéo theo đầu tư trong nước. Khi nước ngoài đầu tư vào các công trình hạ tầng cơ sở, các ngành công nghiệp sẽ thúc đẩy nước sở tại đầu tư. Như vậy, nó cũng làm tăng thêm việc làm cho các nước này.
Lợi ích quan trọng mà Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại là công nghệ kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến có thể thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật trong các nước đang phát triển, góp phần làm tăng năng suất các yếu tố sản xuất, khai thác và sử dụng hiệu quả hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên, thay đổi kết cấu sản phẩm, phát triển các ngành nghề mới, đặc biệt là các ngành có hàm lượng công nghệ cao. Nó có tác động lớn lao đối với quá trình công nghiệp hoá và tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển.
2.2.2. Tác động tiêu cực
Như chúng ta đã phân tích thì không thể phủ nhận được ảnh hưởng tích cực đối với thu chi quốc tế của nước sở tại mà Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đem lại, nhưng xét về lâu dài, việc các công ty xuyên quốc gia (TNCs) đem vốn đến đầu tư và hàng năm lại chuyển lợi nhuận về nước sẽ tạo ra gánh nặng ngoại tệ đối với các nước này, đặc biệt là sau khi TNCs thu hồi vốn.
Bên cạnh đó, vấn đề việc làm cũng phải lúc nào cũng đi theo chiều hướng mong đợi của chúng ta, những nước tiếp nhận vốn đầu tư. Những năm gần
đây, do sự phát triển của khoa học công nghệ, lao động không lành nghề trở nên có hiệu suất thấp. Thực tế cho thấy, các công ty có vốn FDI nhìn chung ít sử dụng lao động tại chỗ (trừ những doanh nghiệp gia công xuất khẩu hoặc doanh nghiệp chỉ sử dụng công nhân với lao động giản đơn, dễ đào tạo) và để hạ giá thành sản phẩm, họ đã sử dụng phương thức sản xuất tập trung tư bản nhiều hơn. Nó có tác động làm giảm việc làm, đi ngược với chiến lược việc làm của các nước đang phát triển.
Mặt khác nữa, trong việc thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nước sở tại còn phải chịu nhiều thiệt thòi. Các ngành công nghiệp mới mẻ, hiện đại của các nước công nghiệp phát triển đã có điều kiện xuất hiện ở những quốc gia này song chủ yếu lại bị các nước đầu tư kiểm soát, kết cấu kinh tế thì bị phụ thuộc vào đối tượng ngành hàng sản xuất mà nước đầu tư quyết định kinh doanh.
Không chỉ có vậy, sự dịch chuyển những kỹ thuật công nghệ kém tiên tiến, tiêu hao nhiều năng lượng từ các nước đầu tư đã gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức...
Tóm lại, trong việc thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước sở tại vừa được lợi lại vừa bị thiệt hại. Giải quyết vấn đề này hài hoà như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào chính sách, sách lược và chiến lược thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu nước sở tại xây dựng được một kế hoạch đầu tư cụ thể và khoa học thì việc thu hút cũng như sử dụng nguồn vốn đầu tư này sẽ mang lại hiệu quả rất cao.
2.3. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với kinh tế xã hội Việt
Nam.
* Đầu tư nước ngoài đã tạo thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực sản xuất của Việt Nam. Không tính dầu khí, kim ngạch xuất khẩu của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 24% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Theo thống kê từ cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài với đầu tư nước ngoài tập trung 50,5 % vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, còn lại 45,5% vào dịch vụ. Đây là nhân tố quan trọng tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao tỷ trọng công nghiệp và dịch
vụ.
* Thông qua đầu tư nước ngoài đã hình thành các KCN và KCX
* Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã góp phần giải quyết việc làm cho gần 40 vạn lao động trực tiếp, không kể khoảng 1 triệu lao động gián tiếp khác 9 theo cách tính của WB, cứ 1 lao động trực tiếp tạo ra việc làm cho khoảng 2-3 lao động gián tiếp trong xây dựng và cung ứng các loại dịch vụ khác).
* Đầu tư nước ngoài đã góp phần phá thế bao vây cấm vận của một số thế lực phản động quốc tế, nâng cao quan hệ hợp tác quốc tế, tăng cường thế và lực của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực.
* Đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào các địa phương có điều kiện cơ sở hạ tầng thuận lợi hơn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Lai ... đã góp phần làm cho trọng điểm kinh tế có tác động tăng trưởng cao, tạo động lực lôi kéo cho các vùng xung quanh phát triển theo.
* Đầu tư nước ngoài đã phóp phần chuyển giao công nghệ sang Việt Nam những công hiện đại và tương đối hiện đại so với khu vực và thế giới. Đây là yếu tố rất quan trọng cho ta thực hiện CNH - HĐH đất nước.
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT CỦA EU, MỸ, NHẬT TRONG VẤN ĐỀ ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI
1. Một số đặc điểm nổi bật của EU trong lĩnh vực FDI với Thế giới
Khu vực EU có một vài đặc điểm quan trọng, trong lĩnh vực đầu tư EU cũng là một trong ba nước trọng điểm trong lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài. Vì vậy, không ngừng các nước và vùng lãnh thổ nghiên cưú EU để mở rộng quan hệ, để điều kiện thận lợi cho dòng FDI chẩy vào.
Đặc điểm nổi bật nhất của EU đó là sự liên kết kinh tế xã hội chặt chẽ. Đây là khu vực duy nhất thế giới cho đến nay sử dụng đồng tiền chung Châu Âu trong nội bộ khối, chính sách tiền tệ cũng được sử dụng chung chẳng hạn: vấn đề về lãi suất, vấn đề về tỷ giái hối đoái... điều này tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư tham gia đầu tư từ ngoài khối đầu tư vầo khu vực và thậm chí ngay cả các nhà đầu tư tại nội bộ khối cũng dễ dàng đầu tư trong khối. Bởi vì, các nhà đầu tư dễ dàng chuyển tiền của mình sang các nước trong nội bộ khối do không có tỷ giá hối đoái giữa các nước.
Khu vực EU có sức mạnh kinh tế lớn. Nếu GDP của EU cộng thêm NA UY, THUỴ SĨ và ICELAND vào khoảng 8.000 tỷ $ gấp đôi khu vực ASEAN cộng thêm Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc và Đài Loan. Trong khi dân số của khu vực này nhỏ hơn rất nhiều so với khu vực Asean và Trung quốc. Điều đó đã chứng tỏ khu vực EU có tiềm lực kinh tế mạnh như tthế nào. Tiềm lực kinh tế mạnh cộng thêm sự năng động của khu vực này đã đóng góp rất lớn cho sự tăng trưởng kinh tế của thế giới. Hiện nay, Việt Nam thu hút FDI của EU còn rất hạn chế so với tiềm năng của hai khu vực, do đó chúng ta cần phải tăng cường hơn nữa trong việc thu hút FDI của EU.
Công nghệ cao của thế giới được tập trung ở EU. Đây là khu vực công nghệ nguồn của thế giới. Điều đó đặt ra cho phía Việt Nam là: để thu hút FDI của EU thì ta cần phải có một đội ngũ trình độ kỹ thuật cao mới có đủ khả năng để tiếp cận công nghệ hiện đại của khu vực này.
Sự phát triển cao về kinh tế xã hội , trình độ văn hoá, đầu tư rất lớn trong nội bôi khối... đó là những đặc điểm kinh tế xã hội nổi bật chung của EU. Ngoài ra ta còn thấy đặc điển khinh tế riêng của từng nước ví dụ: đặc điểm kinh tế Đức, nước có tiềm lực kinh tế mạnh thứ ba thế giới mà chủ yếu phát triển mạnh về các doanh nghiệp vừa và nhỏ so với quy mô của thế giới. Đây là điều rất đáng chú ý của kinh tế Đức, nó đặt ra cho Việt Nam là: trong quá trình thu hút FDI của Đức ta phải có các dự án có quy mô không quá lớn không phù hợp với yêu cầu đặt ra đối với các nhà đầu tư. Có lẽ đây là khó
khăn cho ta trong việc thu hút FDI từ Đức bởi các nhà đầu tư có truyền thống đầu tư vào các dự án có quy mô nhỏ thì rất hạn chế đầu tư sang các khu vực khác cách quá xa.
EU bao gồm những nước có trình độ phát triển tương đối đồng đều nhau vào loại cao nhất Thế giới. Vì vậy, cùng với xu hướng chung của Thế giới là đầu tư phát triển giữa các quốc gia này chiếm trên 3/4 toàn bộ FDI trên Thế giới, điều đó dễ hiểu khi ta thấy đầu tư nội bộ khối EU chiếm tỷ trọng lớn đồng thời ngày càng gia tăng giữa các quốc gia tong nội bộ khối
Hiện nay khoảng một nửa dòng vốn đầu tư từ các nước EU được thực hiện trong nội bộ khối EU ngày càng được gia tăng chiếm tỷ trọng từ 19,7% dòng vốn FDI toàn cầu năm1995 tăng lên 48,1% năm 2000 đạt con số trên
550 tỷ $.
Đầu tư dưới hình thức mua lại và sáp nhập phát triển mạnh về quy mô, số lượng và tố độ kể từ sau cơn bão tài chính tiền tệ Châu Á năm1997. Tổng giá trị mua lại và sáp nhập của EU trrong năm 1998 đạt 332 tỷ $ bằng 80% dòng vốn FDI của EU, gấp 3,5 lần năm 1995. Tuy nhiên, hoạt động mua lại và sáp nhập có xu hướng nước ngoài trững lại từ cuối năm 2001. Lý do, vì tình hình kinh tế thế giới biến động phức tạp hiện nay đã tác động mạnh mẽ đến những tập đoàn kinh tế lớn do sự kém linh hoạt hơn các tập đoàn kinh tế hay các công ty xuyên quốc gia (TNCs) có quy mô nhỏ hơn.
Mỹ là điểm đến chính trong dòng vốn đầu tư ra của EU. Trung bình thời kỳ 1995-2000, đầu tư của EU vào Mỹ chiếm khoảng 30% dòng FDI từ EU. Mỗi năm đầu tư của EU vào Mỹ chiếm 60% tổng vốn FDI vào Mỹ Trong thời kỳ 1995-1997. Tỷ lệ này tăng nhanh từ 8,5% vào năm 1998 và 1999, giảm xuống 72% vào năm 2000.
2. Một số đặc điểm kinh tế nổi bật của Mỹ trong lĩnh vực FDI với Thế giới.
Mỹ là nước có tiềm lực kinh tế mạnh, với hàng trăm công ty đa quốc gia quy mô lớn, hoạt động trên nhiều lĩnh vực, Mỹ là chủ đầu tư của nhiều
nước. Mỹ đầu tư nhiều nhất vào những nơi có cơ sở hạ tầng phát triển, trình độ lao động có chuyên môn cao, luật pháp ổn định rõ ràng, mức độ rủi ro thấp. Như vậy, những nước có nền kinh tế càng phát triển càng thu nhận nhiều FDI. Và các nước ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (bao gồm cả ASEAN) là địa chỉ hấp dẫn để thu hút FDI.
Đặc biệt FDI của Mỹ được phân bổ theo qui mô và cơ cấu nhằm tối đa hóa lợi nhuận
2.1 - Quy mô vốn đầu tư
Cũng như đa số các nước tư bản khác, Hoa Kỳ bắt đầu hoạt động xuất khẩu tư bản dưới hỡnh thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài từ cuối thế kỷ 19 và nhanh chóng trở thành một trong những nhà đầu tư lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, trong khoảng vài chục năm đầu, Hoa Kỳ chỉ đứng thứ 3 thế giới về xuất khẩu tư bản, sau hai cường quốc tư bản lúc ấy là Anh và Pháp. Kể từ sau cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai đến nay, Hoa Kỳ mới thực sự vươn lên trở thành quốc gia đứng đầu thế giới về sức mạnh kinh tế nói chung và trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nói riêng.
Bảng biểu 1 dưới đây sẽ giúp chúng ta thấy rừ hơn tỡnh hỡnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Hoa Kỳ trong những năm gần đây.
(*) Tính đến hết quý II năm 2002
Nguồn: Viện phõn tớch kinh tế Hoa Kỳ (BEA)
Từ bảng biểu 1 bắt đầu từ năm 1989 đến hết năm 2001, trung bỡnh mỗi năm Hoa Kỳ đầu tư trực tiếp ra nước ngoài khoảng 113,2 tỷ USD và liên tục giữ vị trí dẫn đầu thế giới về FDI. Giai đoạn 1994-2001, mức tăng FDI bỡnh quõn hàng năm của nước này là 9,21%, trong đó tăng cao nhất vào các năm
1997-1999 và sụt giảm trong hai năm tiếp theo , ứng với biểu đồ phát triển của nền kinh tế Hoa Kỳ. Tuy giảm cả về tuyệt đối và tương đối (giảm tỷ trọng FDI so với toàn thế giới) trong một, hai năm gần đây nhưng khoảng cách giữa Hoa Kỳ và các quốc gia khác trong lĩnh vực FDI vẫn cũn tương đối lớn và nước này vẫn tiếp tục duy trỡ vị trớ số 1 thế giới về FDI.
2.2 - Cơ cấu đầu tư
Cơ cấu theo thị trường đầu tư
Như đó phõn tớch ở trờn, luồng chảy chủ đạo của nguồn FDI toàn cầu là từ các nước phát triển đến các nước phát triển. Hoa Kỳ cũng không nằm ngoài xu hướng này. Bảng 1.3 trỡnh bày chi tiết về cơ cấu FDI của Hoa Kỳ theo thị trường từ năm 1994 đến hết quý II năm 2002.
Bảng 2: Cơ cấu FDI của Hoa Kỳ theo thị trường giai đoạn 1994 - 2002
Đơn vị : triệu USD
Thị trường
FDI
Tỷ trọng
Canada
99447
10,09 %
Chõu Âu
533955
54,18 %
Mỹ Latinh
180574
18,32 %
Chõu Phi
12800
1,30 %
Trung Đông
8088
0,82 %
Chõu Á-TBD
147956
15,01 %
Quốc tế
2683
0,27 %
Tổng FDI
985521
100 %
(*) Tính đến hết quý II năm 2002 Nguồn: BEA
Châu Âu, nơi tập trung phần lớn các nước công nghiệp phát triển, là thị trường FDI lớn nhất của Hoa Kỳ. Trong giai đoạn 1994-2002, hơn một nửa lượng FDI của nước này đó đổ vào đây. Ngoài ra, chỉ riêng nước láng giềng Canada, cũng là một quốc gia phát triển, đó thu hỳt 10,09% FDI của Hoa Kỳ. Đó là chưa kể đến thị phần của các nước phát triển khác nằm rải rác ở những khu vực cũn lại trên thế giới. Trong số những “khách hàng nhỏ”, các nước Mỹ Latinh, vốn được coi là “sân sau” của Hoa Kỳ, và khu vực châu Á - Thái Bỡnh Dương là những địa chỉ hấp dẫn hơn cả đối với nguồn FDI của Hoa Kỳ. Điều này một lần nữa lại khẳng định sự vươn lên đầy năng động của các nước châu Á - Thái Bỡnh Dương, mà đa số là các quốc gia đang phát triển, trong việc thu hút FDI.
Cơ cấu theo lĩnh vực đầu tư
Bảng 3: Cơ cấu FDI của Hoa Kỳ theo lĩnh vực giai đoạn 1994 - 2002.
Đơn vị : triệu USD
Lĩnh vực
FDI
Tỷ trọng
Dầu mỏ
66800
5,18%
Sản xuất
280358
21,76%
Thực phẩm
Hoỏ chất
Luyện kim
Mỏy múc, thiết bị
Điện tử
Thiết bị vận tải
Cỏc ngành SX khỏc
21570
82171
16473
36829
68510
28839
48634
1,67%
6,38%
1,28%
2,86%
5,32%
2,24%
3,77%
Bỏn buụn
62975
4,89%
Tài chớnh, ngõn hàng
397579
30,85%
Dịch vụ
66912
5,19%
Cỏc lĩnh vực khỏc
110898
8,61%
Tổng FDI
1288548
100%
(*) Tính đến hết quý II năm 2002 Nguồn: BEA
Qua bảng 1.4 có thể thấy tài chính - ngân hàng là thế mạnh của Hoa Kỳ khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Lĩnh vực này chiếm trên 30% tổng FDI của Hoa Kỳ giai đoạn 1994-2002, lớn hơn tất cả các ngành sản xuất gộp lại. Tiếp theo là lĩnh vực sản xuất, mà đứng đầu là ngành hoá chất và điện tử. Dịch vụ và dầu mỏ cũng là những ngành chiếm tỷ trọng khá lớn. Có thể nói FDI của Hoa Kỳ nói chung, cũng như các lĩnh vực là thế mạnh của nước này trong FDI nói riêng, bao trùm một phạm vi lớn các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, từ dầu mỏ đến điện tử, từ hoá chất đến dịch vụ và tài chính - ngân hàng. Sự đa dạng trong lĩnh vực đầu tư này là minh chứng sinh động cho một nền kinh tế vững mạnh và toàn diện của Hoa Kỳ.
Như vậy, chúng ta đó phõn tớch những nột khỏi quỏt trong tỡnh hỡnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Hoa Kỳ trong những năm gần đây. Với cơ cấu FDI đa dạng về thị trường cũng như về lĩnh vực đầu tư, đặc biệt là với một lượng vốn FDI khổng lồ qua các năm, có thể nói Hoa Kỳ đó khẳng định
được vị trí số 1 thế giới trong lĩnh vực FDI. Để đạt được và duy trỡ vị trớ này trong một khoảng thời gian dài liờn tục, Hoa Kỳ đó và đang có những chiến lược hết sức phong phú, đa dạng trong các hoạt động FDI của mỡnh trờn toàn cầu. Cỏc chiến lược đó có thể được đề cập trên nhiều phưong diện khác nhau.Đó là chiến lược trên tầm vĩ mô của chính phủ Hoa Kỳ và chiến lược trên tầm vi mô của các công ty nước này khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
3. Một số đặc điểm kinh tế nổi bật của Nhật trong lĩnh vực FDI với Thế giới.
Nhật là một trong những nước có tiềm năng kinh tế có thể nói ngang hàng với Mỹ trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Cũng như các nhà đầu tư khác, Nhật phân bổ nguồn vốn đầu tư của mình theo ngành, theo khu vực nhằm thu được tối đa lợi nhuận.
3.1. FDI theo cơ cấu ngành:
Ngành công nghiệp khai khoáng ngày càng có xu hướng giảm,thay thế vào đó là những ngành mang hình thức thương mại, tài chính, tiền tệ, dịch vụ bảo hiểm, kinh doanh và một số dịch vụ khác. Riêng trong lĩnh vực đầu tư vào các ngành chế tạo thì vẫn ở mức độ không cao lắm.
3.2. FDI theo cơ cấu khu vực địa lý:
Nhật vẫn ưu tiên hàng đầu cho các quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, khu vực Châu Á luôn được Nhật tăng cường đầu tư thôn. Tuy nhiên, Nhật cũng dang chuyển hướng đầu tư sang các nước có nền kinh tế phát triển trong đó Mỹ có quan hệ đầu tư ra nước ngoài lớn nhất sau đó mới đến các nước thuộc EU và Châu Á là khu vực được Nhật tập trung đầu tư.
II. ĐẶC ĐIỂM FDI CỦA EU, MỸ, NHẬT TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ VÀO VIỆT NAM.
1. Vị trí của EU trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt
Nam.
Đầu tư của EU vào Việt Nam trong chiến lược Châu Á mới của mình cũng xác định Việt Nam là mũi đột để từ đó thâm nhập vào các thị trường khác ở Châu Á, bởi EU đã tìm thấy ở Việt Nam nhiều lợi thế để chọn Việt Nam là "địa bàn đầu cầu", địa điểm quan trọng chiến lược đối ngoại của mình. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay do Trung Quốc đang là nước thu hút mạnh mẽ FDI dồng thời những nhà đầu tư từ EU phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ so với quy mô doanh ngiệp các nước phát triển của Thế giới.
2. Vị trí của Mỹ trong lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài ở Việt Nam
Từ sau khi Mỹ chính thức xóa bỏ lệnh cấm vận đối với Việt nam vào ngày 3/2/1994, hoạt động đầu tư trực tiếp của các công ty Mỹ vào Việt nam đã có bước nhảy vọt. Nhiều công ty và tập đoàn kinh tế Mỹ vào Việt nam với
mục đích là thăm dò hoạt động đầu tư của thị trường này. Chỉ riêng năm 1994
- năm đầu tiên khi lệnh cấm vận được bải bỏ - số vốn đầu tư của Mỹ vào Việt nam đã tăng vọt lên 120,310 triệu USD với 12 dự án, đưa nước này lên vị trí thứ 14 trong danh sách các nhà đầu tư lớn nhất vào Việt nam. So với cả giai đoạn 1988-1993, khi lệnh cấm vận còn hiệu lực, đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam với tổng số vốn đăng ký là 3,34 triệu USD. Điều này cho thấy: trước khi Mỹ xoá bỏ cấm vận, các công ty của Mỹ đã rất sốt ruột muốn được vào đầu tư kinh doanh tại Việt nam, để có cơ hội cạnh tranh với các công ty của Nhật Bản, Châu Âu và các nước khác. Do đó khi huỷ bỏ lệnh cấm vận, các công ty Mỹ đã "nhảy" vào đầu tư ở Việt nam. Cụ thể, sau khi huỷ bỏ lệnh cấm vận 1 ngày, đã có 30 công ty mở văn phòng đại diện tại Việt nam, "mở đầu cuộc đấu tranh để giành trái tim và ví tiền của người Việt nam". Chỉ vài năm sau đó, nhất là khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao, đầu tư của Mỹ tại Việt nam đã tăng lên nhanh chóng.
3. Vị trí của Nhật trong lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài ở Việt Nam
Sau khi luật đầu tư của Việt Nam ra đời thì Nhật vẫn còn do dự chưa thực sự đầu tư vào nước ta, một phần là do lệnh cấm vận của Mỹ tác động. Chỉ cho đến ba năm sau kể từ 1 dự án duy nhất vào đầu năm 1990 với tổng vốn chỉ là 1 triệu USD, Nhật đã đầu tư vào ta tới 20 dự án vào năm 1991 và đứng thứ tư trên thế giới với số vốn gấp nhiều lần so với năm 1991 là 791 triệu USD với 76 dự án. Đến năm 1995 Nhật đã đứng thứ ba sau Đài Loan và Hồng Kông với tổng số vốn đầu tư lên xấp xỉ 2 tỷ USD.
1996-1997 là những năm khó khăn trong lĩnh vực đầu tư ra nức ngoài nói chung do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á, năm
1997 giảm xuống chỉ còn 54 dự án với tương đương 606 triệu USD. Đến đầu năm 1999 thì tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của Nhật ở Viêt Nam chỉ xấp xỉ
3.892 triệu USD với khoảng 300 dự án.
4. Nhân tố tác động đến thu hút FDI của EU , Mỹ, Nhật vào Việt Nam.
Ta nhận thấy tác động đến đầu tư trực tiếp nước ngoài đó là lợi nhuận. Tuy nhiên, việc đầu tư vào đâu, vào quốc gia nào vào lĩnh vực nào lại ảnh hưởng lớn bởi môi trường đầu tư trong nước và quốc tế. Dưới đây xin đề cập đến một số nhân tố tác động đến thu hút FDI của EU, Mỹ, Nhật vào Việt Nam.
THỨ NHẤT: Việc Trung Quốc gia nhập tổ chức WTO đồng thời nó đang là nước thu hút FDI lớn nhất trong các nước đang phát triển, thì tác động khả năng thu hút FDI của Việt Nam là không thể tránh khỏi . Đa số các nhà đầu tư được hỏi, chiến lược Châu Á của họ là gì, chúng ta đều nhận được câu trả lời rằng trước tiên đó là xen xét thị trường Trung Quốc sau đó mới đến các quốc các quốc gia khác, trong Việt Nam được xem là quốc gia được đánh giá cao. Mặc dù ổn định về chính trị và mức độ rủi ro của ta tốt hơn của Trung quốc. Tuy nhiên, chúng ta còn rất nhiều yếu tố kém Trung Quốc, đơn cử về vấn đề thị trường, thị trường của ta tương đối lớn nhưng đó chỉ là thị trường tiềm năng có nghĩa là dân số đông nhưng sức mua yếu do dân số có mức thu nhập thấp chỉ bằng chưa được một nửa so với Trung Quốc.
THỨ HAI: Vấn đề về an ninh chí trị cả nước và khu vực, lấy Indonesia làm ví dụ. Vụ khủng bố vừa qua ở Bali đã tác động trực tiếp đến môi trường đầu tư của nước này. Kết quả hoạt động kinh doanh của nước này chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng mạnh, lĩnh vực trước tiên đó là du lịch sau đó là các lĩnh vực nhạy cảm khác, tiếp đó sẽ là sự suy giảm hoạt động đầu tư.
THỨ BA: Việc xúc tiến đầu tư của Việt Nam. Để hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế có ấn tượng đẹp, chúng ta không thể khoanh tay ngồi nhìn các nước nhận đầu tư mà chúng ta cần phải tăng cường quảng bá về tính hấp dẫn môi trường đầu tư Việt Nam. Vừa qua chúng ta đã có liên tiếp các cuộc viếng thăm ở tầm nguyên thủ quốc gia sang các nước Châu Âu, Mỹ, Nhật đi kèm với nó là các hoạt động xúc tiến quan hệ giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. Điều đó, sẽ ảnh hưởng lớn đến thu hút FDI của Việt Nam.
THỨ TƯ : Vấn đề về lao động .
Hiện nay đội ngũ lao động có tay nghề cao là rất hiếm. Trong khi EU, Mỹ, Nhật là nơi "công nghệ nguồn" của thế giới, công nghệ đứng vào hàng thứ nhất thế giới thì khả năng tiếp nhận được công nghệ hiện đại là rất khó. Sự chênh lệch quá lớn về công nghệ khi các nhà đầu tư vào, điều đó có nghĩa phải đào tạo, do đó sẽ tăng chi phí cho các nhà đầu tư và đây cũng là điều rất đáng quan tâm của nhà đầu tư .
THỨ NĂM: Một số yếu tố khác :
Vấn đề về thị trường: Đối với một số nhà đầu tư, mối quan tâm đầu tiên của họ khi đầu tư vào quốc gia đó là quy mô thị trường, hơn thế nữa đây không phải là thị trường tiềm năng với dân số cao, mà phải là thị trường thực tế với số dân có thu nhập tương đối và có sức mua cao, đặc biệt nó phải được nghiên cứu trong mối quan hệ mật thiết với môi trường đầu tư.
Về hệ thống pháp luật: Hệ thống pháp luật không chỉ ảnh hưởng đến khả năng thu hút FDI của EU, Mỹ, Nhật vào Việt Nam mà ảnh hưởng đến toàn bộ kết quả thu hút FDI các khu vực và các quốc gia khác.
Về cơ sở hạ tầng: Đây là một trong những yếu tố của môi trường đầu tư trong nước.
Hiện nay ta là một quốc gia được đánh giá có cơ sở hạ tầng rất kém, có cước phí cao, tốc độ sử lý của internet rất chậm, tốc độ truyền thông cũng vậy.
Chương 2
THỰC TRẠNG THU HÚT FDI CỦA EU, MỸ, NHẬT VÀO VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH THU HÚT FDI CỦA EU, MỸ, NHẬT VÀO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1990 - 2002.
1. FDI của EU, Mỹ, Nhật vào Việt Nam theo lĩnh vực đầu tư.
1.1. FDI của EU vào Việt Nam theo lĩnh vực đầu tư.
Các nhà đầu tư EU có mặt trong tất cả các ngành kinh tế tại Việt Nam. Trong đó, hai lĩnh vực vốn FDI của EU tập trung lớn vào (thể hiện ở quy mô các dự á._.n), đó là ngành giao thông vận tải - bưu điện (chiếm 30,1% số vốn với quy mô 1 dự án là 101,4 triệu USD) và ngành dầu khí (chiếm 6,7% về vốn nhưng quy mô 1 dự án là 41,7 triệu USD). Điều đó chứng tỏ những ngành có thế mạnh cùng với những kỹ thuật tiên tiến của Châu Âu đang có mặt tại Việt Nam.
Tuy nhiên, nếu xem xét số dự án thì ngành công nghiệp nặng là ngành có số dự án FDI nhiều nhất (56 dự án, chiếm 23,7%) với vốn đầu tư chỉ đứng thứ 3, sau đó là ngành công nghiệp nhẹ (32 dự án, chiếm 13,5%), rồi đến ngành nông - lâm (25 dự án, chiếm 10,5% số dự án). Tuy vậy, các dự án này lại có quy mô nhỏ. Điều này có thể thấy rõ qua bảng dưới đây:
Bảng 1: Các dự án FDI đang hoạt động của 10 nước EU vào Việt
Nam phân theo ngành (1998 - 2002).
TT
Ngành
Số dự án
VĐT
Q.mô/1DA (triệu USD)
Số
DA
(%)
Giá trị
(triệu USD)
(%)
1
CN nặng
56
23,7
886,4
20,2
15,8
2
CN dầu khí
7
2,9
292,0
6,7
41,7
3
CN nhẹ
32
13,5
85,2
1,9
2,6
4
CN thực phẩm
16
6,8
302,8
6,9
18,9
5
Nông - Lâm - Ngư
25
10,5
337,7
7,7
13,5
6
Khách sạn - Du lịch
17
7,1
407,1
9,3
23,9
7
Dịch vụ
22
9,3
118,5
2,7
5,4
8
XD VP - Căn hộ
8
3,4
234,3
5,3
29,3
9
GTVT - Bưu điện
13
5,5
1.318,3
30,1
101,4
10
Xây dựng
17
7,2
177,7
4,1
10,4
11
VH - Y tế - Giáo dục
9
3,8
54,3
1,2
6,0
12
Tài chính - Ngân hàng
15
6,3
172,0
3,9
11,5
Tổng số
237
100
4.386,7
100
(Nguồn: Vụ quản lý dự án)
Chúng ta sẽ xem xét một số ngành nổi bật mà các dự án đầu tư của EU đã tập trung với khối lượng vốn lớn, vì đây là những ngành đã chứng tỏ được thế mạnh của các nhà đầu tư này, nhất là về kỹ thuật - công nghệ:
- Các nhà đầu tư của EU đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực dầu khí, nhất là hai nước Anh và Hà Lan trong giai đoạn đầu. Trong tổng số các dự án đang hoạt động và cả các hợp đồng đã hết hạn hoặc giải thể thì số dự án thăm dò khai thác dầu khí ở Việt Nam đã có một nửa thuộc về các nhà đầu tư của EU,
với các "đối thủ" lừng danh thế giới như tập đoàn BP (Anh), Shell (Hà Lan), Total (Pháp), Fina (Bỉ)...
- Lĩnh vực giao thông vận tải - bưu điện chiếm tỷ lệ vốn lớn nhất. Riêng trong lĩnh vực bưu điện, các tên tuổi nổi tiếng như Siemens (Đức), Alcatel (Pháp), Kinnevik và Comvil (Thuỵ Điển) cũng trở nên quen thuộc với thị trường Việt Nam. Hãng Siemens với 2 dự án liên doanh sản xuất cáp quang, thiết bị viễn thông và hãng Alcatel cũng liên doanh sản xuất thiết bị viễn thông là những hãng mạnh dạn đầu tư vào Việt Nam. Trong khi đó, nhiều hãng viễn thông của các nước khác chỉ thực hiện các hợp đồng thương mại khai thác dịch vụ viễn thông.
- Lĩnh vực đứng thứ hai về vốn đầu tư là ngành công nghiệp, trong đó công nghiệp nặng chiếm tỷ lệ vốn lớn nhất (69,5%). Các nhà đầu tư của EU chủ yếu tập trung vào các ngành như điện tử, tin học; ô tô, xe máy; hoá chất... Đây là những lĩnh vực thuộc thế mạnh của các nhà đầu tư EU. Tuy nhiên, quy mô mỗi dự án vẫn chưa cao, chưa xứng với tiềm năng của các nhà đầu tư này.
Ngành công nghiệp nhẹ có tỷ lệ vốn thấp nhất và cũng có quy mô dự án nhỏ nhất nhưng chính các dự án này đã thu hút được một lượng lớn lao động, tận dụng được giá nhân công rẻ và nguồn nguyên liệu dồi dào của Việt Nam. Tuy nhiên, trong ngành công nghiệp nhẹ, công nghệ sản xuất do các nhà đầu tư của EU sử dụng không phải là những công nghệ tiên tiến.
Mặc dù vậy, các nhà công nghiệp Châu Âu cũng đã mang đến nước ta những kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến trong ngành công nghiệp thực phẩm, đặc biệt là chế biến nông phẩm - một lĩnh vực đang được nước ta kêu gọi đầu tư (quy mô của mỗi dự án này khá cao: 18,9 triệu USD). Đáng kể nhất là dự án mía đường Bourbon của Pháp ở Tây Ninh với vốn đầu tư 111 triệu USD; tiếp đó là dự án sữa Foremost của Hà Lan ở Sông Bé với vốn đầu tư là 49,5 triệu USD; các dự án chế biến hạt điều, chè xuất khẩu; chế
biến cà phê ở Đắc Lắc; trong lĩnh vực đồ uống cao cấp, các hãng rượu, các hãng bia nổi tiếng thế giới của Hà Lan, Đan Mạch cũng đã có mặt tại Việt Nam...
- Cũng giống như các nhà đầu tư của những nước khác, các nhà đầu tư của EU rất chú ý vào lĩnh vực khách sạn - du lịch (quy mô mỗi dự án tương đối lớn: 23,9 triệu USD). Sớm nhất và cũng thành công nhất cho đến nay phải kể đến dự án liên doanh khách sạn Metropole vơí Công ty Feal International (Pháp) và Societe de Development de Metropole B.V (Hà Lan); Công ty Feal còn tham gia một dự án lớn khác về khách sạn, đó là khách sạn Cột Cờ Thủ Ngữ 76 triệu USD... Trên thực tế đây là lĩnh vực có khả năng thu hồi vốn tương đối nhanh. Hầu hết các dự án trong ngành được cấp giấy phép trong giai đoạn 1989 - 1994. Thời gian này lưu lượng khách quốc tế, các đoàn thương gia và du khách đến Việt Nam tăng nhanh, trong khi đó ở Việt Nam có rất ít khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế, do vậy đây là giai đoạn bùng nổ về đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này. Nhưng gần đây, ngành này đã trở nên bão hoà và các dự án của các nước EU cũng không còn coi đây là lĩnh vực đầu tư "nóng" nữa.
- Một lĩnh vực đầu tư rất đáng chú ý ở đây, đó là nông - lâm. Đây là lĩnh vực thường có lợi nhuận thấp, rủi ro nhiều nhưng cũng được các nhà đầu tư EU dành 337,7 triệu USD để khai thác thế mạnh của nó. Quy mô 1 dự án ngành này không cao lắm: 13,5 triệu USD nhưng cũng đã góp phần CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn của nước ta.
- Một lĩnh vực rất đáng quan tâm nữa đó là xây dựng - văn phòng với
08 dự án, nhưng chiếm 5,3% số vốn và có quy mô trung bình 1 dự án tương đối lớn: 29,3 triệu USD. Trong đó đáng chú ý là 1 dự án liên doanh của Đức - Công ty Badaco Wego ở TP. Hồ Chí Minh với vốn đầu tư là 109,4 triệu USD.
* Ngoài các lĩnh vực đáng chú ý trên, các nhà đầu tư của EU còn tham gia đầu tư vào các lĩnh vực khác nhưng với số vốn ở mức thấp. Nói tóm lại, các nhà đầu tư của EU tập trung vốn FDI nhiều vào các ngành giao thông vận
tải - bưu điện, dầu khí, công nghiệp, khách sạn - du lịch,... từ đó đã chuyển giao những công nghệ hiện đại vào quá trình CNH - HĐH của Việt Nam thông qua các lĩnh vực này, nhưng sự chuyển giao về vốn và công nghệ đó còn quá nhỏ bé so với tiềm lực của các nước đó.
Bên cạnh đó có thể thấy thế mạnh của các nước EU là kỹ thuật - công nghệ, nhưng các lĩnh vực tập trung nhiều dự án FDI của EU lại có quy mô một dự án tương đối nhỏ (như công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, nông - lâm nghiệp, dịch vụ, xây dựng...), điều đó chứng tỏ hàm lượng kỹ thuật trong các ngành này là rất thấp, có khi sử dụng cả những công nghệ cũ và lạc hậu. Ở đây có một mâu thuẫn là: chúng ta khuyến khích FDI có sự chuyển giao kỹ thuật - công nghệ tiên tiến, hiện đại, nhưng chỉ khi sử dụng những công nghệ sử dụng nhiều lao động (thường là các công nghệ cũ, lạc hậu) thì các nước EU mới có thể tận dụng được nguồn nhân công dồi dào với giá rẻ của Việt Nam, mà những công nghệ này các nước trong khu vực Châu Á đã chuyển giao phần lớn thông qua FDI vào Việt Nam. Vì vậy chúng ta phải có những chính sách hấp dẫn để có thể khai thác được thế mạnh của các nước EU mà vẫn tận dụng được mọi nguồn lợi thế so sánh của đất nước trong quá trình hội nhập và phát triển.
1.2. FDI của Mỹ vào Việt Nam theo lĩnh vực đầu tư.
Hoa Kỳ, trong giai đoạn 1996 - 2000 với trên 100 dự án và tổng vốn đưng ký là 1.094.829.771 USD, chiếm 3,05% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có đóng góp tích cực trong việc giải quyết nhu cầu vốn cho nền kinh tế nước ta, là nguồn bổ sung quan trọng cho tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế của nước ta.
Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, các dự án đầu tư của Mỹ chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng (gồm công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, tin học và dịch vụ tin học, công nghiệp chế biến dầu khí...) với 60 dự án, tổng vốn đăng ký đạt 660
triệu USD, chiếm 59% về số dự án nhưng chiếm 62% về vốn đàu tư. Lĩnh vực dịch vụ (bao gồm xây dựng văn phòng, căn hộ cho thuê, văn hoá, y tế, giáo dục, tài chính, Ngân hàng...) đứng thứ 2 với 30 dự án, tổng vốn đăng ký 275 triệu USD, chiếm 30% số dự án và 26% tổng số vốn. Lĩnh vực nông lâm thuỷ sản chiếm tỷ trọng rất nhỏ với11dự án, tổng nguồn vốn đăng ký 130,9 triệu USD, chiếm 11% về số dự án và 12% về vốn. Chi tiết được trình bày ở bảng
2.
Bảng 2: Đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam tính theo ngành.
TT
Ngành
Số dự án
Tỷ trọng
Tổng vốn
Tỷ trọng
1
Công nghiệp nặng
12
11,81 %
359.017
30,37 %
2
Công nghiệp nhẹ
28
27,72 %
336.421
28,46 %
3
Y tế, văn hoá, giáo dục
17
16,83 %
116.215
9,83 %
4
Kinh doanh du lịch khách sạn
6
5,96 %
102.791
8,69 %
5
Xây dựng
7
6,95 %
87.259
7,38 %
6
Nông - Lâm
9
8,91 %
72.664
6,65 %
7
Vận tải
4
3,98 %
40.350
3,41 %
8
Dịch vụ
12
11,88 %
37.502
3,17 %
9
Dầu khí
4
3,98 %
19.200
1,62 %
10
Thuỷ sản
2
1,94 %
4.816
0,41 %
Tổng
101
100 %
1.176.236
100 %
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Chú ý: Các dự án trên đây không bao gồm các dự án bị giải thể hoặc hết thời hạn hoạt động.
Đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp, tốc độ tăng trưởng của khu vực này đạt trên 20%/năm, góp phần quan trọng đưa tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước đạt trên
10%/năm. Đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ trong lĩnh vực dịch vụ có chiều hướng tăng lên, trong đó tỷ trọng đầu tư trực tiếp nước ngoài về khách sạn, du lịch giảm rõ rệt, đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, bưu chính viễn thông, y tế, đào tạo nguồn nhân lực tăng nhanh. Đây là dấu hiệu rất tích cực nhằm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá và nâng cao hiệu quả đầu tư.
Đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ chủ yếu được thực hiện dưới hình thức
100% vốn nước ngoài với 61 dự án (chiếm 60% số dự án), tổng vốn đầu tư đăng ký là 503,6 triệu USD (chiếm 47%); 31 dự án liên doanh (chiếm 31%), tổng vốn đầu tư đăng ký 516 triệu USD (chiếm 48%), 9 dự án hợp doanh (chiếm 9%) với vốn đăng ký 45,5 triệu USD chiếm 5%.
1.3. FDI của Nhật vào Việt Nam theo lĩnh vực đầu tư.
Nền kinh tế Nhật Bản có đặc thù là một nền kinh tế hướng ngoại với cơ cấu công nghiệp hoàn chỉnh. Vì vậy, FDI của Nhật có mặt trong tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế nước ta từ công nghiệp, nông, lâm, ngư nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Nhưng tập trung chủ yếu vẫn là trong lĩnh vực công nghiệp. Công nghiệp nặng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các ngành (chiếm 39% xét về số dự án). Sau công nghiệp nặng là công nghiệp nhẹ (chiếm 19,7% tổng số dự án).
Thời gian đầu, Nhật Bản quan tâm nhiều đến các dự án khai thác tài nguyên thiên nhiên và các dự án phát triển dịch vụ. Như đã nói ở trên, Nhật Bản là
một nước nghèo về tài nguyên thiên nhiên, đây là lý do quan thúc đẩy các công ty Nhật Bản thực hiện chiến lược phát triển hướng ngoại trên cơ sở nhập nguyên liệu. Thêm vào đó, từ thập kỷ 70 - 80; Nhật Bản vấp phải tình trạng ô nhiễm môi trường do hậu quả của quá trình công nghiệp hoá rút ngắn theo phương thức cổ điển (khai thác tài nguyên đồng thời tàn phá thiên nhiên). Vì vậy, chiến lược đầu tư của Nhật Bản vào Châu Á từ cuối thập niên 80 đến nay vẫn là nhằm vào khai thác nguyên liệu từ bên ngoài và đồng thời bắt đầu chú trọng chuyển giao những ngành mà Nhật mất lợi thế cạnh tranh và gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra cũng từ thực trạng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở Việt Nam giai đoạn này, đó là các ngành thuộc cơ sở hạ tầng, các ngành công nghiệp yếu kém, có nhu cầu thu hút FDI. Điều này góp phần lý giải tại sao cơ cấu đầu tư theo ngành của Nhật Bản trong giai đoạn đầu khi đầu tư vào Việt Nam lại diễn ra như vậy.
Bảng 3: Đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam theo ngành tính hết năm 1994.
Đơn vị: triệu USD
Số dự án
Tổng số vốn đầu
tư
Tỷ lệ của Nhật
trong tổng vốn đầu tư theo từng ngành (%)
Tổng
Dự án
Phần
của
Nhật
Phần chung
Của Nhật
Công nghiệp
492
40
3.838,2
175,4
4,6
Dầu khí
25
4
1.284,9
121,4
9,4
Nông-lâm-ngư nghiệp
75
5
385,8
7,7
2,6
Ngư nghiệp
20
-
60,4
-
-
GTVT-Bưu điện
21
-
636,8
-
-
Khác sạn du lịch
104
5
1.954,1
184,6
9,4
Dịch vụ
127
12
729,6
34,6
4,7
Tài chính-Ngân hàng
15
-
176,6
-
-
Các ngành khác
51
-
-
-
-
Tổng số
930
66
9066,4
523,7
30,7
Nguồn: Uỷ ban Hợp tác và đầu tư
Ở giai đoạn sau, FDI đã có sự cải thiện theo hướng đa dạng hoá các lĩnh vực đầu tư. FDI đã được phân bố vào các lĩnh vực: công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải, bưu điện, xây dựng, công nghiệp chế biến, nông nghiệp, tài chính - ngân hàng, dầu khí, bảo hiểm và các ngành khác. Có thể nói, sự đa dạng hoá này là một bước tiến thực sự của hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam, phù hợp với lợi ích của phía Nhật Bản và nhu cầu của Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá nước nhà.
Bảng 4. Đầu tư nước ngoài của Nhật Bản tại Việt Nam phân theo ngành
(Tính đến hết 20/12/2002)
Đơn vị tính: triệu USD
Ngành
Số dự
án
Vốn đăng ký
(triệu $)
Vốn thực hiện
Vốn thực
hiện/vốn
đăng ký
Công nghiệp nặng
117
1.846,8
954
51
Công nghiệp nhẹ
59
341,1
231,8
68
Xây dựng
18
423,6
295
70
Công nghiệp thực phẩm
18
122,9
74,8
60,8
Công nghiệp dầu khí
4
131
434
-
Nông, lâm nghiệp
17
53,5
30,9
57,8
Thuỷ sản
5
20
14,5
72,5
Khách sạn, du lịch
8
142,9
84
58,8
Xây dựng hạ tầng KCX
3
53,2
14
26,3
Tài chính - Ngân hàng
Văn hoá - Y tế - giáo dục
4
7
56
35,9
49,2
20
87,9
55,7
Xây dựng văn phòng, căn hộ
13
173
133
76,9
Dịch vụ
20
29
4,5
15,5
Tổng số
310
3.941,9
2.664
67,6
Nguồn: Vụ Quản lý dự án - Bộ KH & ĐT
Nếu tính chung cả toàn bộ lĩnh vực công nghiệp thì FDI đã chiếm tới
65% số dự án, 61% tổng số vốn cho tới thời điểm cuối năm 2000. Trong lĩnh vực công nghiệp thì công nghiệp nặng có 117 dự án với vốn đầu tư 1.876,8 triệu USD; công nghiệp nhẹ có 56 dự án với 341,1 triệu USD; công nghiệp thực phẩm có 18 dự án với 122,9 triệu USD; và công nghiệp xây dựng cũng có 18 dự án với 423,6 triệu USD. Có thể nói những lĩnh vực mà Nhật Bản đầu tư vào hầu hết thuộc những ngành, lĩnh vực mũi nhọn mà nước ta còn yếu và đang chú trọng phát triển, đòi hỏi kỹ thuật cao như sản xuất ô tô, xe máy, sản xuất Robot, điện tử, vật liệu xây dựng...
Sau công nghiệp, một số lĩnh vực được các nhà đầu tư Nhật ưu tiên đầu tư theo thứ tự: dịch vụ với 20 dự án chiếm 6,5% tổng số dự án, 0,7% tổng vốn đăng ký; giao thông vận tải, bưu điện có 17 dự án, chiếm 5,4% số dự án, 7,3% vốn đăng ký; xây dựng chiếm 5,8% trong tổng dự án, 10,7% tổng vốn đầu tư đăng ký. Như vậy, mặc dù số dự án đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ đứng vị trí thứ hai sau công nghiệp về số dự án nhưng lượng vốn đăng ký lại không đáng kể chiếm 0,7% tổng vốn FDI. Ngược lại, ngành giao thông vận tải, bưu điện và xây dựng xếp vị trí sau dịch vụ về số dự án nhưng lại có vốn đăng ký
chiếm tới 7,3% và 10,7% tổng vốn đăng ký.
Trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp đến nay có 17 dự án với tổng số vốn là 53,5 triệu USD chiếm 5,5% số dự án và 1,4% tổng số vốn đầu tư. Nhìn chung số dự án trong lĩnh vực này tăng chậm, nguyên nhân chính là việc đầu tư vào lĩnh vực này gặp nhiều khó khăn về cung cấp nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm, về giải quyết đất đai, chịu ảnh hưởng của thời tiết khí hậu...
Rõ ràng là những biến động trong quy mô và tốc độ thực hiện của dự án FDI tiến triển theo chiều hướng tích cực. Thực tế cho thấy, đối với ngành công nghiệp nặng, tính đến thời điểm tháng 12 năm 2001 tỷ lệ vốn thực hiện/vốn đăng ký đạt khoảng 51%; công nghiệp nhẹ 68%; công nghiệp thực phẩm 60,8%; xây dựng 70% văn phòng, xây dựng văn phòng và căn hộ cho thuê là 70%; riêng ngành dầu khí, khi triển khai thực hiện dự án, phía Nhật Bản đã tăng vốn đầu tư đưa trị giá thực hiện lên đến 434 triệu USD gấp 9,2 lần so với vốn đăng ký ban đầu.
Nhìn chung tiến độ thực hiện đầu tư là khá nhanh so với các đối tác nước ngoài khác. Điều đó thể hiện tiến độ thực hiện dự án của các nhà đầu tư Nhật Bản đạt hiệu quả cao hơn cả. Tỷ lệ vốn thực hiện trung bình đạt 67,6% tổng số vốn đăng ký.
2. FDI của EU, Mỹ, Nhật vào Việt Nam theo lãnh thổ.
2.1. FDI của EU vào Việt Nam theo lãnh thổ.
Đến ngày 31/12/1999, đầu tư của các nước EU đã có mặt ở 35 địa phương trong tổng số 61 tỉnh thành có vốn FDI của cả nước. Các dự án tập trung chủ yếu vào các tỉnh phía Nam như TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai,... Các tỉnh phía Bắc các dự án của EU chủ yếu tập trung ở Hà Nội - là nơi đứng thứ 2 sau TP. Hồ Chí Minh, sau đó là Hải Phòng. ở miền Trung cũng có dự án tập trung nhiều ở Quảng Nam - Đà Nẵng, ngoài ra chỉ còn có ở Thừa Thiên Huế và Nghệ An. Các dự án khác tập trung rải rác ở các tỉnh thành khác ở phía Nam và Bắc với số vốn phần lớn là nhỏ. Ta có bảng sau:
Bảng 5: Các dự án FDI đang hoạt động của 10 nước EU ở một số
địa phương tiêu biểu của Việt Nam (từ 01/01/1998 - 13/12/1999).
TT
Địa phương
Dự án
Vốn đầu tư
Số DA
(%)
Triệu USD
(%)
1
TP. Hồ Chí Minh
86
36,2
1.832,2
41,8
2
Hà Nội
53
22,4
1.198,4
27,4
3
Đồng Nai
19
8,1
289,5
6,5
4
Bình Dương
13
5,5
95,9
2,2
5
Quảng Nam - Đà Nẵng
8
3,3
52,7
1,2
6
Hải Phòng
5
2,2
55,8
1,3
7
Các địa phương khác
53
22,3
862,2
19,6
Tổng số
237
100
4.386,7
100
Nguồn: Vụ quản lý dự án
Theo số liệu tổng hợp của bảng trên, TP. Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước về số dự án lẫn số vốn đầu tư: 86 dự án, chiếm 36,2% và vốn đầu tư là
1.832,2 triệu USD, chiếm 41,8% tổng số vốn. Trong đó, các nước đầu tư chủ
yếu là Pháp, Anh, Hà Lan, Đức có số dự án chiếm 87,2% và chiếm 98,8% vốn
ở đây.
Hà Nội đứng thứ hai cả về số dự án lẫn vốn đầu tư: 53 dự án, chiếm
22,4% và vốn đầu tư là 1.198 triệu USD, chiếm 27,4% vốn. Trong đó, các dự
án cũng tập trung chủ yếu vào các nước trên.
Các dự án vào Đồng Nai chủ yếu từ các nước như Pháp, Đức, HàLan. Như vậy các dự án của EU tập trung chủ yếu vào các thành phố, các
trung tâm đô thị phát triển - là những nơi có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển như cơ sở hạ tầng tốt, có sức mua lớn,... đó là những điều kiện thuận lợi hấp dẫn bất cứ một nhà đầu tư nào chứ không phải riêng EU.
2.2. FDI của Mỹ vào Việt Nam theo lãnh thổ.
Về địa bàn đầu tư, cũng như các quốc gia khác, đầu tư trực tiếp của Mỹ
tập trung vào các địa phương có cơ sở hạ tầng tốt như TP. Hồ Chí Minh, Hà
Nội, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu, Đồng Nai. Riêng 5 tỉnh này đã chiếm
62% về số dự án và 12% tổng số vốn đầu tư. Chi tiết xem ở bảng 6.
Bảng 6: FDI của Mỹ vào Việt Nam theo lãnh thổ.
TT
Địa bàn
Số dự án
Tỷ trọng
Số vốn
Tỷ trọng
1
TP. Hồ Chí Minh
29
28,71 %
351.111
29,7 %
2
Đồng Nai
08
7,92 %
250.909
21,22 %
3
Hà Nội
22
21,78 %
196.118
16,59 %
4
Hải Dương
01
0,99 %
102.700
8,69 %
5
Bà Rịa Vũng Tàu
05
4,95 %
100.432
8,5 %
6
Bình Dương
11
10,89 %
50.910
4,31 %
7
Đà Nẵng
04
3,96 %
35.093
2,97 %
8
Hà Tây
01
0,99 %
20.000
1,69 %
9
Đak Lak
03
2,97 %
12.035
1,02 %
10
Quảng Nam
01
0,99 %
11.283
0,95 %
11
Các địa phương khác
16
15,84 %
46.645
4,37 %
Tổng
101
100 %
1.176.23
100 %
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Chú ý: Các dự án trên đây không bao gồm các dự án bị giải thể hoặc hết thời hạn hoạt động.
Xét trên quan điểm về phân bổ đầu tư trực tiếp việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế được thể hiện như sau: Tại vùng Bắc Bộ, đầu tư trực tiếp của Mỹ tập trung vào ngành công nghiệp nhẹ chiếm tỷ trọng 63,8%, ngành công nghiệp nặng chiếm 12,2%, ngành công nghiệp thực phẩm chiếm 9,3%; Tại vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đầu tư trực tiếp của Mỹ tập trung vào các ngành công nghiệp nặng chiếm 23,3%, ngành khách sạn du lịch chiếm 22,6% và ngành giao thông vận tải bưu điện chiếm 13%. Tại vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ, đầu tư trực tiếp của Mỹ tập trung vào ngành công nghiệp thực phẩm chiếm 24%, ngành xây dựng chiếm 19,7%, ngành khách sạn du lịch chiếm
36,7% và ngành công nghiệp nhẹ chiếm 10,5%; Tại vùng kinh tế trọng điểm
Nam Bộ, đầu tư của Mỹ tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp nặng chiếm
22,8%, ngành công nghiệp nhẹ chiếm 19,4%, ngành xây dựng văn phòng, trang trí nội thất chiếm 15,4%; tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, đầu tư trực tiếp của Mỹ tập trung chủ yếu ngành xây dựng chiếm tỷ trọng 55,3%,
trong khi ngành lớn thứ 2 là ngành công nghiệp nhẹ chỉ chiếm 14,2% và ngành công nghiệp thực phẩm chiếm 12,4%.
2.3. FDI của Nhật vào Việt Nam theo lãnh thổ.
Cơ cấu FDI theo vùng, lãnh thổ đã có chuyển biến tích cực. Thời gian đầu, FDI chủ yếu tập trung vào các tỉnh phía Nam, đến nay đã có sự quan tâm hơn đối với khu vực miền Bắc; có tới 28/61 tỉnh thành trong cả nước có các dự án đầu tư của Nhật Bản đang được tiến hành thực hiện. Đây là những tỉnh thành có cơ sở hạ tầng (cả cứng và mềm) thuận lợi tương đối hơn so với các địa phương khác và có nguồn lực được đào tạo có tay nghề như ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đồng Nai...; Riêng TP. Hồ Chí Minh tập trung được nhiều dự án cũng như vốn đầu tư nước ngoài, với hơn 90 văn phòng đại diện của các hãng và ngân hàng Nhật Bản; Cao nhất là Hà Nội với 59 dự án với số vốn là 867,933 triệu USD chiếm 19,7% tổng dự án và 22,5% tổng số vốn; TP. Hồ Chí Minh có 118 dự án chiếm 39,5% với số vốn là 45,141 triệu USD chiếm 19,3 % tổng số vốn; tiếp đến là Đồng Nai 28 dự án với số vốn là
729,929 triệu USD; Thanh Hoá chỉ có 2 dự án nhưng vốn chiếm tới 373,6 triệu USD.... Tuy nhiên gần đây có nhiều dự án đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng như khu chế xuất Tân Thuận, Linh Trung, dự án Bắc Nhà Bè - Nam Bình Chánh, dự án đô thị mới Nam Sài Gòn và dự án nhà máy nước Bình An.
Bảng 7: Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản theo vùng lãnh thổ.
(Tính đến năm 2000 - Chỉ tính dự án còn hiệu lực)
Đơn vị: triệu USD, %
Địa phương
Số dự
án
Vốn đầu tư
đăng ký
Vốn đầu tư
thực hiện
Vốn thực hiện/Vốn
đăng ký
Hà Nội
59
867,93
319,08
37,8
TP. Hồ Chí Minh
118
745,14
358,19
48,1
Đồng Nai
28
729,93
304,53
41,7
Thanh Hoá
2
373,60
235,35
63,0
Bình Dương
17
295,43
94,74
32,0
Vĩnh Phúc
6
220,67
165,40
75,0
Bà Rịa Vũng Tàu
7
169,26
159,32
94,1
Bắc Ninh
1
126,00
126,00
100
Hải Phòng
18
108,00
57,45
52,0
Quảng Ninh
5
22,34
21,54
96,4
Hà Tây
3
19,48
15,37
74,0
Khánh Hoà
3
18,94
17,72
94,0
Lâm Đồng
6
17,44
3,16
18,1
Đà Nẵng
5
16,35
13,15
80,4
Bình Định
1
14,12
14,62
103,6
Thái Nguyên
4
9,33
0,60
6,4
Bạc Liêu
1
8,96
9,78
109,1
Thừa Thiên Huế
2
8,75
4,90
56,0
Hải Dương
1
8,00
6,00
75,0
Bình Thuận
2
4,88
0,79
16,0
Nghệ An
1
4,51
1,89
42,0
An Giang
1
4,50
1,60
35,6
Hưng Yên
1
4,44
3,78
84,2
Cần Thơ
2
3,80
0,87
23,0
Hoà Bình
2
2,38
0,86
36,2
Thái Bình
1
0,90
-
-
Hà Tĩnh
1
0,53
0,87
164,5
Tổng số
298
3.805,61
1.937,56
50,9
Nguồn: Vụ quản lý dự án đầu tư - Bộ KH & ĐT (Không tính các dự án dầu khí)
Từ số liệu ở bảng trên, chúng ta có thể thấy động thái FDI ở Việt Nam. Mặc dù TP. Hồ Chí Minh là thành phố có số dự án cao nhất nhưng quy mô trung bình của một dự án chỉ khoảng 6,31 triệu USD, trong khi đó Hà Nội và Đồng Nai là hai vùng có số dự án chỉ bằng 1/2 và gần 1/4 TP. Hồ Chí Minh nhưng quy mô trung bình của một dự án là 14,7 triệu USD và 2,6 triệu USD; đặc biệt Bắc Ninh là một trong những tỉnh có duy nhất một dự án nhưng có quy mô vốn đầu tư là cao nhất 126 triệu USD.
Qua sự phân tích trên phần nào cho thấy quy mô các dự án ở TP. Hồ Chí Minh nhỏ, chủ yếu hoạt động ở các lĩnh vực dịch vụ. Trong khi đó ở Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai... là những địa phương mà Nhật Bản đạt cơ sở sản xuất, nhà xưởng như liên doanh sản xuất xe máy Sirius với 24,25 triệu USD; liên doanh Yamaha Sóc Sơn 80 triệu USD; đây là những ngành tạo ra giá trị gia tăng một cách trực tiếp.
Cho đến thời điểm này, đã có rất nhiều công ty hàng đầu của Nhật Bản có mặt và đầu tư tại Việt Nam trên nhiều lĩnh vực như sản xuất phụ tùng, lắp ráp ô tô, xe máy; sản xuất phân bón, hoá chất; dầu khí...
Có thể nói, cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ của FDI tại Việt Nam không cân đối, với một biểu hiện nổi bật là chỉ tập trung vào một số địa phương. Điều này cho thấy đối tác Nhật rất kén địa điểm đầu tư. Mười địa phương dẫn đầu đã chiếm tới 87,6% tổng số dự án và 91,8% tổng vốn FDI vào Việt Nam. Sự phân bố này khá tương ứng với tính chất, mức độ mở cửa
và tiềm năng của các vùng kinh tế ở Việt Nam. Bên cạnh đó, không thể phủ nhận FDI nói chung và FDI nói riêng đã góp phần hình thành nên các vùng kinh tế trọng điểm quốc gia và ở giai đoạn đầu tiến hành Công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì đây là một tất yếu khách quan; và như vậy mới tạo ra được những chuyển biến cần thiết cho nền kinh tế.
3. FDI của EU, Mỹ, Nhật vào Việt Nam theo hình thức đầu tư.
3.1. FDI của EU vào Việt Nam theo hình thức đầu tư.
Các dự án FDI của EU vào Việt Nam tính đến thời điểm 31/12/1999 có đủ các hình thức đầu tư, trong khi các nhà đầu tư Châu á có xu hướng thích chọn hình thức 100% vốn nước ngoài thì hình thức liên doanh lại được các nhà đầu tư của EU ưa thích nhất. Sau đó mới là hình thức 100% vốn nước ngoài, rồi đến hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh và cuối cùng là hình thức BOT, hình thức này chỉ có 2 dự án. Cụ thể:
Bảng 8: FDI đang hoạt động của 10 nước EU tại Việt Nam từ
10/01/1998 - 31/12/1999 phân theo hình thức đầu tư.
Hình thức
Số dự án
VĐT
Số DA
(%)
Triệu USD
(%)
100% vốn
94
39,7
440,4
10
Liên doanh
123
51,9
2.039,2
46,4
HĐHTKD
18
7,6
1.516,9
34,5
BOT...
02
0,8
390,2
9,1
Tổng
237
100
4.386,7
100
Nguồn: Vụ quản lý dự án
Bên cạnh những nét chung như đã thấy qua bảng trên, mỗi nước thuộc EU lại có một "nét" riêng, chẳng hạn các nhà đầu tư của Pháp, Anh, Hà Lan thích hình thức hợp đồng hợp tác liên doanh; trong khi Đức, Thuỵ Điển, Đan Mạch, Italia, Bỉ, Lucxembua và Áo lại ít chọn hay không chọn hình thức này... Cụ thể:
Bảng 9: Các dự án FDI đang hoạt động của từng nước EU tại Việt
Nam phân theo hình thức đầu tư, đơn vị: triệu USD (từ 01/01/1998 -
31/12/1999).
TT
Hình thức
100% vốn
Liên doanh
HĐHTKD
BOT
Nước
Số DA
VĐT
Số DA
VĐT
Số DA
VĐT
Số DA
VĐT
1
Pháp
38
191,4
57
861,5
08
619,2
01
120,0
2
Anh
11
52,5
11
242,2
05
481,4
01
270,2
3
Hà Lan
14
105,2
19
408,2
03
73,8
-
-
4
Đức
13
66,4
14
287,1
01
1,0
-
-
5
Thuỵ
Điển
02
1,5
04
27,8
01
341,5
-
-
6
Đan Mạch
01
0,9
04
110,5
01
1,0
-
-
7
Italia
01
1,6
04
38,0
-
-
-
-
8
Bỉ
05
9,2
06
48,7
-
-
-
-
9
Lucxembua
06
9,2
04
18,7
-
-
-
-
10
Áo
03
2,5
01
2,8
-
-
-
-
Tổng
94
440,4
123
2.039,2
18
1.516,9
2
390,2
Nguồn: Vụ Quản lý dự án
Có một điểm nổi bật đó là phần lớn các nước đều lựa chọn hình thức liên doanh. Như vậy có thể thấy các nhà đầu tư của EU đều muốn có sự tham gia của các đối tác Việt Nam, muốn tranh thủ sự hiểu biết và hỗ trợ của các đối tác Việt Nam trong FDI của mình. Điều này cũng dễ dàng giải thích, bên cạnh những nguyên nhân về nguồn tài chính hạn hẹp... thì nguyên nhân sâu xa nhất đó chính là việc các nhà đầu tư của EU còn e ngại và chưa quan, chưa hiểu rõ được môi trường đầu tư của Việt Nam, vì vậy họ rất sợ có nhiều rủi ro cho những đồng vốn của mình. Thông qua hình thức liên doanh, các nhà đầu tư EU vừa chia sẻ được các rủi ro đó, vừa có một cách tiếp cận nhanh nhất và dễ dàng nhất với môi trường đầu tư còn nhiều biến động, đặc biệt trong các chính sách luật pháp của Việt Nam. Còn các nhà đầu tư của Việt Nam khi tham gia liên doanh, họ đồng thời phải có trách nhiệm với đồng vốn của mình nên sẽ sẵn sàng cung cấp và hỗ trợ những thông tin cần thiết nhất cho các đối tác để sự phối hợp đầu tư đem lại hiệu quả cao nhất.
Nhưng hình thức này chỉ được các nhà đầu tư EU ưa chuộng chủ yếu trong thời gian đầu. Theo con số tổng hợp thì giai đoạn 1996 - 1999, các dự án đầu tư hình thức này đã có chiều hướng giảm, chỉ còn 50 dự án so với 73 dự án của giai đoạn trước. Còn hình thức 100% vốn có tới 58 dự án, đã tăng lên 161% so với 36 dự án của giai đoạn trước. Đồng thời cũng có nhiều dự án đã chuyển từ hình thức liên doanh sang hình thức 100% vốn nước ngoài, ví dụ: Công ty quốc tế Thái Bình, sản xuất đá khối của Lucxembua ở Quảng Nam, chuyển hình thức 100% vốn vào ngày 18/5/1994; Công ty Prezioso sản xuất bao bì, sơn chống gỉ của Pháp ở TP. Hồ Chí Minh chuyển hình thức đầu tư vào tháng 7/1995... Điều này cũng dễ dàng giải thích vì các nhà đầu tư EU đã bắt đầu hiểu rõ hoặc đã có nhiều thời gian để tiếp cận với môi trường đầu tư... của Việt Nam. Hơn nữa, hình thức liên doanh cũng đã bộc lộ những yếu kém về quản lý của bên Việt Nam. Vì vậy, các nhà đầu tư EU sẽ cảm thấy yên tâm hơn và kiểm soát được các rủi ro chủ yếu trong qúa trình đầu tư, từ đó có
thể lựa chọn hình thức 100% vốn nước ngoài để có quyền chủ động với nguồn vốn của mình, tự quyết định được các phương thức kinh doanh hiệu quả nhất và cũng tránh được sự can thiệp, nhất là sự quản lý yếu kém của bên đối tác. Như vậy, một môi trường đầu tư ổn định là rất quan trọng để hấp dẫn đầu tư trực tiếp của các đối tác EU.
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chiếm tỷ lệ vốn lớn là do các dự án có quy mô vốn rất lớn và tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực giao thông vận tải - bưu điện, dầu khí như hợp đồng dầu khí lô 05-2 với BP và Staoil của Anh và Na Uy với vốn đầu tư là 103 triệu USD; hợp đồng thông tin di động của Thuỵ Điển ở Hà Nội với số vốn là 341,5 triệu USD.
3.2. FDI của Mỹ vào Việt Nam theo hình thức đầu tư.
Ngoài ra FDI của Mỹ còn có một số Công ty đăng ký tại Singapore, British Virgin Islands,... thuộc tập đoàn lớn của Mỹ đầu tư sang Việt Nam như Coca Cola, Procter & Gamble... không thuộc danh mục đầu tư trực tiếp của Mỹ ở Việt Nam. Chi tiết xem ở bảng 10.
Bảng 10: Hình thức đầu tư trực tiếp của Mỹ tại Việt Nam
(Đơn vị: 100.000 USD)
STT
Hình thức đầu tư
Số dự án
Tỷ trọng
Tổng vốn
Tỷ trọng
1
100% vốn nước ngoài
61
60 %
503,6
47 %
2
Liên doanh
31
31 %
516,0
48 %
3
Hợp đồng hợp tác LD
09
9 %
45,5
5 %
Tổng
101
100 %
1.065,100
100 %
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Chú ý: Các dự án trên đây không bao gồm các dự án bị giải thể hoặc hết thời hạn hoạt động.
3.3. FDI của Nhật vào Việt Nam theo hình thức đầu tư.
Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Việt Nam được thực hiện dưới ba dạng
chủ yếu sau:
Bảng 11: Các hình thức FDI của Nhật ở Việt Nam.
Đơn vị: dự án
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Liên doanh
7
._.c đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng về mặt tạo ra nhiều sản phẩm và việc làm, mà có còn kích thích các nền kinh tế đã phát triển đạt hiệu quả cao hơn nữa trong việc sản xuất các mặt hàng kỹ thuật cao, là những thứ các nước đang phát triển đòi hỏi để thực hiện công nghiệp hoá.
Để thực hiện những chiến lược lớn trên, ta cần phải có những giải pháp cụ thể gì? Điều này sẽ được giải đáp ở phần tiếp theo.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG THU HÚT FDI CỦA EU, MỸ , NHẬT VÀO VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI.
1. Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng thu hút FDI của EU, Mỹ, Nhật vào Việt Nam trong thời gian tới
1.1. Tăng cường các chính sách thu hút vốn đầu tư của EU, Mỹ, Nhật
Bên cạnh việc thực hành và thực thi các chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài nói chung, cần tiếp tục bổ sung các các ưu đãi khuyến khích mạnh mẽ đầu tư của EU, Mỹ, Nhật vào các lĩnh vực theo hướng chủ yếu sau:
1.1.1. Đối với các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu:
Thực hiện công bố hạn ngạch công bằng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đối với các mặt hàng xuất khẩu bằng hạn ngạch.
Thực hiện chính sách tài trợ xuất khẩu như chính sách tín dụng ưu đãi, chính sách tỷ giá hối đoái khuyến khích xuất khẩu.
Cho phép tự cân đối ngoại tệ . Thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu vào EU, Mỹ, Nhật nhằm hỗ trợ doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính khi xuất khẩu sang EU, Mỹ, Nhật như hỗ trợ một phần lãi suất, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu.
Có chính sách ưu đãi về thuế với điều kiện là sản phẩm được xuất khẩu sang thị trường các nước này.
Không thu thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài trong vòng 3 - 5 năm
kể từ khi sản phẩm được xuất khẩu sang EU, Mỹ, Nhật.
1.1.2. Đối với các dự án sử dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến của
EU, Mỹ, Nhật.
Đưa các dự án này vào doanh mục vào doanh mục các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư. Nhà nước chịu toàn bộ chi phí đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động để sử dụng máy móc, thiết bị hiện đại được đưa vào Việt Nam.
1.1.3. Đối với các dự án phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông
thôn.
Đưa các dự án này vào doanh mục đặc biệt khuyến khích đầu tư, với
các chính sách miễn tiền thuê đất trong suốt thời gian hoạt động của dự án .
Áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi nhất 10% .
Đảm bảo hỗ trợ cân đối ngoại tệ trong toàn bộ quá trình hoạt động của
dự án.
Ưu đãi đặc cánh cho các dự án tạo giống cây con mới, chất lượng cao,
đáp ứng yêu cầu xuất khẩu .
1.1.4. Thiết lập chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các tập đoàn lớn của EU, Mỹ, Nhật đầu tư vào Việt Nam như cho phép thí điểm các tập đoàn lớn của họ được thành lập công ty quản lý vốn, quỹ hỗ trợ đầu tư, công ty đa mục đích, đa dự án .
1.1.5. Có chính sách ưu đãi để thu hút vốn đầu tư của các công ty nhỏ và vừa của các nước trên bằng cách tích cực tuyên truyền về sự hấp dẫn về môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thông qua các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, thông qua hội thảo về xúc tiến đầu tư ở các nước này.
1.1.6. Hỗ trợ các công ty EU, Mỹ, Nhật trong việc chuẩn bị tiếp cận thị trường Việt Nam bằng việc cung cấp các thông tin về các thủ tục để tiến hành đầu tư tại Việt Nam thông qua việc xây dựng trung tâm thông tin về Việt Nam ở các nước này.
1.1.7. Hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa kinh doanh tại Việt Nam
thông qua quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEDF) bắt đầu hoạt động
từ 1/1999.
1.1.8. Giảm và tiến tới không thu thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.2. Cải thiện môi trường đầu tư.
1.2.1. Về chính trị, pháp luật
Ở Việt Nam từ năm 1977 đã công bố điều lệ đầu tư nước ngoài, nhưng về cơ bản không thực hiện được. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó chủ yếu là nguyên nhân bên trong, tức là môi trường đầu tư của Việt Nam khi đó chưa thông thoáng. Chúng ta chưa nhận thức đầy đủ người điều kiện để tiếp nhận đầu tư và quyền lợi kinh doanh của người nước ngoài, mà chỉ chú ý đến quyền lợi của mình. Do vậy, không được các nhà đầu tư nước ngoài hưởng ứng.
Rút kinh nghiệm từ thực tiễn trong nước và tham khảo bên ngoài, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được công bố tháng 12 năm 1987 đã đảm bảo được quyền lợi và tính hấp dẫn cho các bên tham gia đầu tư, do vậy đã được giới đầu tư quốc tế hưởng ứng.
Để giúp các chủ đầu tư thực hiện luật dễ dàng, nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành luật, trong đó quan trọng nhất là nghị định 139/HĐBT ban hành ngày 05/9/1988. Sau hơn 2 năm thực hiện, ngày 30/6/1990 Quốc hội Việt Nam đã sửa đổi bổ sung luật đầu tư. Tiếp đó Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 28/HĐBT thay thế cho nghị định 139/HĐBT và có hiệu lực từ ngày 06/2/1991. Đến nay đã hình thành được hệ thống văn bản pháp lý về đầu tư nước ngoài cả "chiều dọc" và "chiều ngang". Đây là một cố gắng rất lớn trong lĩnh vực luật pháp nói riêng và đầu tư nước ngoài nói chung của Việt Nam. Tuy nhiên, qua thể nghiệm thực tiễn đã bộc lộ không ít những sai sót và hạn chế có thể khái quát như sau: hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ và cụ thể, đặc biệt thực hiện luật pháp còn tuỳ tiện, gây nhiều khó khăn rắc rối cho chủ đầu tư. Như nhận xét của các nhà đầu tư nước ngoài "Hệ thống văn bản pháp luậtcủa Việt Nam nói
chung là tốt nhưng thiếu tính bảo đảm vững chắc, nhất là tuỳ tiện khi thi hành. Nhiều văn bản pháp lý ban hành chậm, nội dung của một số điều khoản trong văn bản pháp lý còn chồng chéo, chưa thống nhất, thậm chí còn có chỗ mâu thuẫn...".
Để khắc phục những thiếu sót, nhược điểm trên, hiện nay những việc sau đây đang được triển khai:
+ Rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật có liên quan cả chiều dọc lẫn chiều ngang để tìm ra những điểm bất hợp lý, chồng chéo hoặc còn thiếu để điều chỉnh, bổ sung.
+ Thể chế hoá chính sách đầu tư trực tiếp của ngành và địa phương như là các văn bản dưới luật, trên cơ sở đó ban hành các tài liệu hướng dẫn đầu tư của từng ngành, từng địa phương cụ thể.
+ Ban hành thêm một số luật và quy chế cần thiết như luật đầu tư gián tiếp, hoàn chỉnh quy chế khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp kỹ thuật cao, luật công ty cổ phần và các luật kinh tế khác.
+ Đẩy mạnh các công tác nghiên cứu, tham khảo luật đầu tư nước ngoài của các nước trên thế giới, đặc biệt các nước trong khu vực.
+ Tăng cường kiểm soát việc thực hiện pháp luật, khắc phục tình trạng thực hiện luật còn tuỳ tiện, theo cảm tính như hiện nay.
1.2.2. Hoàn thiện hệ thống quản lý đầu tư nước ngoài
Để tăng tính khả thi của dự án và định hướng theo quy hoạch chung của nền kinh tế quốc dân, công tác quản lý các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tập trung vào hai vấn đề lớn: Thẩm định dự án và quản lý các dự án được cấp giấy phép.
+ Công tác thẩm định dự án: trong thời gian qua nhìn chung chất lượng thẩm định tăng dần, đã chuyển từ thẩm định giản đơn, thuần tuý xem xét hồ sơ sang việc đánh giá tổng hợp với sự phối hợp của nhiều ngành và địa phương. Đã có sự cố gắng đảm bảo quy trình, thời gian và giảm dần phiền hà đối với chủ dự án trong quá trình làm thủ tục.
Tuy nhiên, công tác thẩm định dự án đã bộc lộ nhiều hạn chế gây cản trở đến quá trình đầu tư của các chủ dự án như: chưa bảo đảm đúng thời gian luật định; sự phối hợp thẩm định dự án của một số ngành chưa thật đầy đủ, việc gửi chậm hoặc không gửi ý kiến thẩm định đã gây khó khăn cho việc cấp giấy phép đầu tư. Các thủ tục cấp giấy phép còn phiền hà (muốn xin được giấy phép phải qua nhiều con dấu, chỉ thiếu một con dấu thì dự án bị om lại) v.v... Để nâng cao chất lượng thẩm định dự án, hiện nay đang giải quyết những công việc sau:
- Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan quản lý và chủ dự án đầu tư, trong việc thẩm định dự án, nhất là các cơ quan như, Uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư (SCCI), Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Ngân hàng, Bộ thương mại, Bộ khoa học công nghệ và môi trường, Bộ tài chính v.v...
- Xây dựng quy trình thẩm định dự án đảm bảo chất lượng và theo thông lệ quốc tế.
- Phân cấp và quy trách nhiệm cụ thể đố với các ngành hữu quan, giảm bớt các mối phê chuẩn cấp giấy phép.
- Triển khai việc hướng dẫn cách thức xây dựng dự án đầu tư và phát hành mẫu hồ sơ cho một số ngành chủ yếu.
+ Công tác quản lý các dự án: Việc theo dõi các chủ đầu tư hoạt động có đúng quy định của giấy phép hay không là vấn đề hết sức quan trọng và phức tạp. Trong thời gian qua đã có nhiều dự án hoạt động không đúng giấy
phép.
Công tác kiểm tra các dự án được cấp giấy phép trên 6 tháng mới được tiến hành đã cho thấy những thiếu sót như: do thiếu theo dõi thường xuyên triển khai dự án nên không kịp thời giải quyết những khó khăn mắc mớ trong thực hiện dự án; một số cơ quan Nhà nước thực hiện kiểm tra một cách tuỳ tiện, không đúng pháp luật; cán bộ kiểm tra chưa thông thạo pháp luật, chưa nắm chắc nội dung và phương pháp kiểm tra, nhất là kiểm tra tài chính của xí nghiệp; xử lý các sai phạm còn chậm và chưa kịp thời, chưa hình thành được
mạng lưới quản lý đầu tư nước ngoài thống nhất trong cả nước...
Hướng khắc phục những hạn chế trên là:
- Tăng cường kiểm tra theo dõi quá trình triển khai những dự án theo pháp luật.
- Xử lý kịp thời và kiên quyết các dự án hoạt động sai giấy phép.
- Đặc biệt chú ý đến sự am hiểu pháp luật,nghiệp vụ và ngoại ngữ của các cán bộ trong đoàn kiểm tra.
- Cụ thể hoá các chính sách đầu tư cho từng ngành và địa phương, trên cơ sở đó làm căn cứ để kiểm tra các hoạt động của các chủ đầu tư.
- Thường xuyên ban hành sửa đổi các mẫu hồ sơ, báo cáo và kiểm tra
đều đặn việc thực hiện các báo cáo này của xí nghiệp.
1.2.3. Nâng cấp cơ sở hạ tầng hiện có:
Hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam đều phàn nàn về cơ sở hạ tầng quá kém, nhất là giao thông bưu điện. Thực ra vấn đề này gần như chưa được chuẩn bị trước khi tiếp nhận đầu tư nước ngoài. Chính vì thế Việt Nam đã chú trọng những ưu tiên của dự án vào cơ sở hạ tầng. Nhưng do chưa có khuyến khích hợp lý, nên đã không được các nhà đầu tư nước ngoài hưởng ứng (trừ một số dự án trong lĩnh vực viễn thông và khách sạn). Để giải quyết vấn đề này cần thực hiện các công việc sau:
+ Giảm hoặc miễn thuế trong một thời gian đủ lớn để hấp dẫn các dự
án đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
+ Nhà nước khuyến khích các chủ đầu tư Việt Nam tham gia liên doanh với bên nước ngoài bằng các khuyến khích về tài chính, cấp tín dụng, viện trợ...
+ Nhà nước dành phần lớn nguồn tài chính theo chương trình ODA tài trợ cho các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng (đặc biệt là nguồn vốn từ Chính phủ Nhật).
+ Sớm hình thành và thực hiện nghiêm chỉnh luật giao thông trong cả
nước (như Nghị định 13 về An toàn giao thông của Chính phủ).
+ Nhanh chóng đầu tư nâng cấp một số công trình trọng điểm có ảnh
hưởng thiết thực, cấp bách đến sự phát triển kinh tế - xã hội trong cả nước.
1.2.4. Tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp EU , Mỹ , Nhật duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh tại Việt Nam.
1.2.4.1. Thực tiễn hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các nước cho thấy đây là phương vận động đầu tư có hiệu quả nhất, có tác dụng tích cực cho việc xây dựng hình ảnh về một môi trương đầu tư hẫp dẫn và có sức thuyết phục đối với các nhà đầu tư tiềm năng.
1.2.4.2. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để triển khai nhanh chóng dự án đầu tư. Quy rõ ràng về việc giải phóng mặt bằng. Linh hoạt hơn trong việc chuyển nhượng vốn, điều chỉnh mục tiêu dự án hoặc tỷ lệ xuất khẩu, miễn, giảm tiền thuê đất, mở rộng diện ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp , nhanh chóng hoàn thuế VAT. Cho phép các doanh nghiệp EU , Mỹ , Nhật tự do áp dụng hệ thống kiểm toán theo tiêu chuẩn quốc tế. Thường xuyên đối thoại trực tiếp với cộng đồng các nhà đầu tư của các nước này.
1.3. Đẩy mạnh công tác vận động đầu tư nước ngoài.
Việt Nam bắt đầu tiếp nhận đầu tư nước ngoài trong hoàn cảnh thế giới đang có sự cạnh tranh gay gắt về thị trường đầu tư. Nhiều nước xung quanh đã có nhiều kinh nghiệm và không ngừng cải tiến môi trường đầu tư để tạo sự hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Do vậy, Việt Nam cần đẩy mạnh công tác vận động đầu tư một cách liên tục để gây sự chú ý và quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài.
Trong mấy năm qua với sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế như UNIDO và UNDP chúng ta đã tiến hành triển khai các công tác xúc tiến đầu tư ở trong và ngoài nước. Việc mở các diễn đàn đầu tư đã đem lại một số kết quả bước đầu khả quan, trong đó đặc biệt là học được nhiều kinh nghiệm về công tác vận động đầu tư nước ngoài.
Thực tế cho thấy phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xúc tiến đầu tư theo những hướng sau:
+ Tăng cường tổ chức các diễn đàn đầu tư ở trong và ngoài nước, cần
chú ý đến nội dung của các diễn đàn theo tính chất và địa điểm cụ thể.
+ Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế và Việt kiều ở nước ngoài để giới thiệu, quảng cáo về môi trường đầu tư ở Việt Nam.
+ Tổ chức thường xuyên việc cung cấp và tiếp nhận thông tin từ các sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài, có kế hoạch cụ thể để các sứ quán có thể tham gia một cách tích cực và có hiệu quả công tác vận đoọng đầu tư.
+ Nghiên cứu xây dựng mạng lưới xúc tiến đầu tư ở một số khu vực chủ yếu.
+ Thiết lập mối quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư ở một số nước để trao đổi thông tin và kinh nghiệm. Đồng thời đẩy mạnh quan hệ với các công ty tư vấn pháp lý, dịch vụ đầu tư quốc tế để thu thập thông tin và tiếp nhận sự giúp đỡ trong xây dựng pháp luật, vận động đầu tư...
+ Đẩy mạnh việc nghiên cứu chính sách của các nước có quan hệ với Việt Nam trong hoạt động kinh tế đối ngoại, nhất là những nước có tiềm năng lớn để có những giải pháp thích hợp.
+ Bộ phận xúc tiến đầu tư cần tăng cường và có kế hoạch phối hợp với các Bộ, Viện, Trường và các cơ quan làm công tác đối ngoại để phối hợp nghiên cứu các chương trình, xu hướng đầu tư quốc tế nhằm tạo thế chủ động trong việc giao tiếp và xử lý các quan hệ với bên ngoài.
+ Chú trọng công tác biên dịch các tài liệu, văn bản pháp luật về đầu tư nước ngoài của Việt Nam ra tiếng nước ngoài và ngược lại, để các chủ đầu tư trong nước và ngoài nước hiểu biết về nhau tốt hơn.
1.4. Đa dạng hóa các hình thức thu hút vốn đầu tư và kết hợp chặt chẽ giữa các hoạt động kinh tế đối ngoại
Để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam đang thực hiện chính sách đa dạng hoá các hình thức đầu tư trong đó coi trọng đầu tư gián tiếp. Việc kết hợp hợp lý giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp sẽ tạo ra được nguồn vốn rất lớn cho đất nước.
Phối hợp đồng bộ các hoạt động kinh tế đối ngoại sẽ tạo nên một sức
mạnh tổng hợp thúc đẩy tốc độ thu hút vốn đầu tư. Thực tế các hoạt động đầu tư có tiến hành trôi chảy được hay không phụ thuộc chặt chẽ vào các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, trong đó đặc biệt là ngoại thương và ngân hàng. Việc kết hợp giữa các yếu tố của các hoạt động kinh tế đối ngoại sẽ tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh doanh nước ngoài góp phần quan trọng cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam.
1.5. Đối với hoạt động của ngân hàng, phát triển ngân hàng liên doanh, mở chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và hoạt động của các công ty nước ngoài cổ phần.
Qua các năm thực hiện luật đầu tư, hầu như các nhà kinh doanh nước ngoài không muốn đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng, trong khi ngân hàng là "mắt xích" không thể thiếu được đối với các hoạt động đầu tư. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân, song chủ yếu là do nhận thức của chúng ta chưa đầy đủ về vai trò của ngân hàng đối với hoạt động kinh doanh của người nước ngoài. Chúng ta còn áp dụng nhiều quy định khắt khe với các nhà đầu tư nước ngoài và nhiều quy định không phù hợp với thông lệ quốc tế (nay đã sửa đổi nhiều và đã có một số ngân hàng của Pháp, Thái Lan, Inđênêxia ... xin mở chi nhánh tại Việt Nam). Thêm vào đó, do luật ngân hàng của chúng ta hoạt động với cơ chế không thông thoáng nên cơ chế thị trường gặp rất nhiều khó khăn lúng túng, từ đó có tâm lý rụt rè, do dự khi cho phép người nước ngoài được kinh doanh Ngân hàng tại Việt Nam.
Do vậy trong thời gian tới cần phải nhanh chóng khắc phục những hạn chế trên để thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực
này.
Đi liền với cơ chế hoạt động của ngân hàng là sự phát triển các hoạt động của công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. Đây là những giải pháp quan trọng nhằm đa dạng các hình thức đầu tư để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia vào kinh doanh với mọi khả năng của mình. Hơn thế nữa,
thông qua các hình thức này mà quá trình lưu thông vốn được thuận lợi và huy động tốt hơn mọi tiềm năng và vốn của nhiều người trong và ngoài nước.
1.6. Đào tạo cán bộ
Suy cho cùng chìa khoá để giải quyết mọi vấn đề, quyết định sự phát triển của đầu tư nước ngoài là đội ngũ cán bộ và công nhân làm việc trong lĩnh vực hợp tác đầu tư. Đây là khâu yếu nhất của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Trong thời gian qua từ chỗ chưa biết gì về lĩnh vực đầu tư nước ngoài đến chỗ hình thành được đội ngũ cán bộ biết làm việc trong lĩnh vực mới mẻ này. Đây là kết quả lớn nhất trong những năm thực hiện luật đầu tư.
Tuy vậy, thực tế đã bộc lộ là rất nhiều yếu kém về hiểu biết hoặc phẩm chất cán bộ của công nhân Việt Nam làm việc trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là vấn đề hết sức cấp bách cần giải quyết và theo những nội dung chủ yếu sau:
+ Tăng cường mở các lớp dưới nhiều hình thức và qui mô khác nhau để đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức về hợp tác đầu tư nước ngoài cho cán bộ và công nhân Việt Nam.
+ Chú trọng đào tạo cán bộ quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài. Cán bộ chuyên ngành phối hợp với các địa phương và với sự giúp đỡ của Uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư mở các lớp đào tạo cán bộ tham gia hội đồng quản trị và các cán bộ chủ chốt của xí nghiệp liên doanh.
+ Tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế để đào tạo cán bộ.
+ Nghiên cứu từng bước hình thành các chuyên đề và môn học về đầu tư nước ngoài để giảng dạy ở một số trường đại học.
+ Sớm tiêu chuẩn hoá trình độ cán bộ làm việc ở các chức vụ khác nhau trong xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là trong xí nghiệp liên doanh.
1.7. Tích cực tìm hiểu kỹ văn hoá, tập quán của các thành viên EU, Mỹ, Nhật.
Văn hoá kinh doanh có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các công ty, các tập đoàn lớn... Do đó ta cần tích cực tìm hiểu văn hoá lối sống, sở thích của các đối tác để từ đó dành được thiện cảm và đặc biệt là sự tôn trọng của đối tác.
2. Một số kiến nghị
Sau đây xin đưa ra một số kiến nghị với Nhà nước nhằm tăng sức hấp dẫn của hệ thống chính sách nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam.
2.1. Hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chính sách thương mại cần thông thoáng theo hướng tự do hoá để bảo đảm khả năng xuất nhập khẩu các máy móc thiết bị, nguyên vật liệu sản xuất cũng như sản phẩm, tức là bảo đảm sự thuận lợi, kết nối liên tục các công đoạn hoạt động đầu tư cho các nhà đầu tư nói chung và cho các nhà đầu tư Mỹ nói riêng.
Chính sách tiền tệ phải giải quyết được các vấn đề chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Trong đó, chính sách lãi suất và tỷ giá tác động trực tiếp đến dòng chảy của FDI với tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức thuận lợi thu được tại một thị trường xác định.
Việc xem xét sự vận động của vốn nước ngoài ở các nước trên thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư dài hạn, nhất là FDI đổ vào một nước thường tỷ lệ thuận với sự gia tăng lòng tin của các chủ đầu tư, đồng thời lại tỷ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong - ngoài nước, trong - ngoài khu vực. Nếu độ chênh lệch lãi suất đó càng cao, tư bản nước ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn, ít chịu rủi ro và hưởng lãi ngay trên chỉ số chênh lệch lãi suất đó. Hơn nữa, khi mức lãi suất trong nước cao hơn mức lãi suất quốc tế thì sức hút với dòng vốn chảy vào càng mạnh. Tuy nhiên, đồng nghĩa với lãi suất cao là chi phí trong đầu tư cao, làm giảm đi lợi nhuận của các nhà đầu tư.
Tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ở
từng giai đoạn sẽ làm tăng khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu, tăng sức hấp
dẫn với vốn nước ngoài từ Mỹ. Có thể nói, có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm yên lòng các nhà đầu tư Mỹ vì khả năng trả nợ của nước ta được bảo đảm hơn, độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm xuống.
Các mức ưu đãi về tài chính - tiền tệ dành cho vốn đầu tư nước ngoài trước hết phải bảo đảm cho các chủ đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận cao nhất trong điều kiện kinh doanh chung của khu vực để khuyến khích họ đầu tư vào trong nước và vào những nơi mà Chính phủ muốn khuyến khích đầu tư.
Trong đó, những ưu đãi về thuế chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong số các ưu đãi tài chính giành cho đầu tư nước ngoài. Mức ưu đãi thuế cao hơn luôn được giành cho các dự án đầu tư có tỷ lệ vốn nước ngoài cao, quy mô lớn, dài hạn, hướng về thị trường nước ngoài, sử dụng nguyên vật liệu và lao động trong nước, tái đầu tư lợi nhuận và có mức độ nội địa hoá sản phẩm và công nghệ cao hơn. Hệ thống thuế thi hành sẽ càng hiệu quả nếu càng rõ ràng, đơn giản, dễ áp dụng và mức thuế không được quá cao (so với lãi suất, lợi nhuận bình quân, so với mức thuế chung của khu vực và quốc tế...). Các thủ tục thuế cũng như các thủ tục quản lý đầu tư nước ngoài khác phải được tinh giản hợp lý, tránh vòng vèo nhiều khâu trung gian, phải công khai và thuận lợi cho đối tượng chịu quản lý và nộp thuế.
2.2. Về mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài và đa dạng hoá hình thức đầu tư nước ngoài
Xây dựng đề án mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài. Ban hành các quy định về việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư vào dịch vụ nhập khẩu, dịch vụ phân phối trong nước theo tinh thần Nghị định
24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ.
Xây dựng quy chế để thực hiện thí điểm việc chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Nghiên cứu thí điểm việc cho phép thành lập công ty mẹ - công ty con theo hướng đa mục tiêu, đa hình thức. Khuyến khích hoạt động của các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
2.3. Hoàn thiện thêm một bước về luật pháp, cơ chế chính sách về đầu tư
nước ngoài
Về lĩnh vực thuế:
Sửa đổi, bổ sung thuế VAT theo hướng mở rộng diện hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0%, sửa đổi thuế suất VAT từ 3 mức thuế hiện nay (không kể thuế suất 0%) xuống còn 2 và dần dần là một mức thuế suất thống nhất; giảm thuế suất thuế VAT đối với một số sản phẩm thuộc các ngành có vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tiến tới quy định về khấu trừ thuế chỉ áp dụng cho hàng hoá, dịch vụ đầu vào có hoá đơn giá trị gia tăng.
Nghiên cứu dự án luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng hạ thuế suất phổ thông nhằm giảm dần sự chênh lệch về thuế suất này giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI; bỏ quy định thu thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; hướng dẫn cụ thể hơn về thu nhập chịu thuế, các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ và các ưu đãi miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp.
Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Trong năm 2003 thống nhất áp dụng phí đăng kiểm phương tiện cơ giới, phí cảng biển, phí quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, phí thăm quan các di tích văn hoá, lịch sử, cách mạng.
Về lĩnh vực đất đai:
Đẩy nhanh tiến độ đền bù, giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các dự án đầu tư nước ngoài.
Ban hành ngay các văn bản hướng dẫn về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp, khu chế xuất; hướng dẫn việc xử lý trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên với đất góp vốn vào liên doanh trong trường hợp doanh nghiệp chuyển đổi hình thức đầu tư, bị phá sản hoặc giải thể trước thời hạn.
Về lĩnh vực vốn
Ban hành các quy định về bảo đảm vay vốn, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được vay tín dụng kể cả trung và dài hạn ở các tổ chức tín được phép hoạt động tại Việt Nam.
2.4. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước
Trước hết, cần rà soát, phân loại các dự án đầu tư nước ngoài đã cấp giấy phép đầu tư; bổ sung sửa đổi Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ban hành kèm theo nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ; bổ sung các mô hình mới về khu công nghiệp, điều chỉnh cơ chế chính sách đầu tư phát triển hạ tầng trong và ngoài hàng rào.
Tiếp tục thực hiện chủ trương phân cấp quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra của các Bộ, ngành trung ương.
2.5. Cải tiến các thủ tục hành chính
Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương và địa phương trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài. Duy trì thường xuyên việc tiếp xúc trực tiếp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài.
Cải tiến mạnh thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài theo hướng tiếp tục đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, rà soát có hệ thống để bãi bỏ những loại giấy phép, quy định không cần thiết đối với hoạt động đầu tư nước ngoài...
2.6. Đẩy mạnh vận động, xúc tiến đầu tư
Cần có những biện pháp thúc đẩy mạnh việc vận động xúc tiến đầu tư; Cần bố trí ngân sách hợp lý cho hoạt động xúc tiến đầu tư; Tập trung làm tốt các thông tin tuyên truyền về đầu tư nước ngoài.
KẾT LUẬN
Từ khi EU, Mỹ, Nhật đầu tư vào Việt nam, hoạt động FDI đã có những đóng góp tích cực cho quá trình phát triển nền kinh tế xã hội của Việt nam như góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt nam, góp phần giải quyết công ăn việc làm, đóng góp vào ngân sách nhà nước, việc chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, cũng có không ít những điều còn trăn trở như số dự án đầu tư của ba nước trọng điểm này vào Việt nam chỉ tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp tập trung mạnh vào dầu khí. Trong khi lĩnh vực nông nghiệp hầu như còn bỏ ngỏ chỉ có Pháp có một số dự án trong nông nghiệp có quy mô đáng kể còn hầu hết đều rất nhỏ, vốn đầu tư của EU, Mỹ, Nhật vào Việt nam còn quá nhỏ bé so với tiềm năng của cả hai nước, việc chuyển giao công nghệ còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng cường kết cấu hạ tầng, hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư, tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư đang là những vấn đề đặt ra nhằm thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư vào Việt nam.
Do có sự hạn chế về thời gian và vốn hiểu biết, đề án chỉ trình bày sơ lược những nét cơ bản về tình hình đầu tư trực tiếp của EU, Mỹ, Nhật vào Việt Nam, về những kết quả đạt được và những khó khăn tồn tại để đưa ra một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của các nước này vào Việt Nam. Do vậy đề án không thể tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để giúp cho bài viết này của em hoàn thiện hơn.
Để đạt được kết quả như ngày hôm nay , em xin trân thành cảm ơn quý thầy cô trường đại học Ngoại Thương Hà Nội và đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của PGS .TS . VŨ CHÍ LỘC đã giúp em hoàn thành tốt KHOÁ LUẬN
TỐT NGHIỆP này.
Hà Nội, tháng 03 năm 2003
Sinh viên thực hiện
Vũ Ngọc Toàn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ
về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2001 - 2005
Tiếng Việt
1. Nguyễn Trớ Dĩnh, Giỏo trỡnh Lịch sử kinh tế quốc dõn, NXB Giỏo dục,
1996
2. Phạm Thị Mai Khanh, “Quan hệ đầu tư trực tiếp Việt Nam - Hoa Kỳ: Thực trạng và triển vọng”, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội, 2001
3. Vũ Chớ Lộc, Giỏo trỡnh Đầu tư nước ngoài, NXB Giỏo dục, 1997
4. Vũ Chớ Lộc, Tụ Xuõn Dõn, Giỏo trỡnh Quan hệ kinh tế quốc tế, NXB Hà
Nội, 1997
5. Lờ Kim Sa, “Đầu tư nước ngoài của Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bỡnh
Dương trong những năm cuối thế kỷ XX”, Tạp chớ “Chõu Mỹ ngày nay”, số
4, 2002
6. Bỏo cỏo “Tổng hợp đầu tư trực tiếp của Nhật vào Việt Nam giai đoạn 1988
- 2002”, Vụ quản lý dự án đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngày
20/10/2002
7. Bỏo cỏo “Tỡnh hỡnh và giải phỏp tăng cường, đổi mới công tác xúc tiến
đầu tư nước ngoài”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngày 7/5/2002
8. Bỏo cỏo “Tổng hợp đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ theo địa phương từ ngày
01/01/1988 đến 10/10/2002”, Vụ quản lý dự án đầu tư nước ngoài, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, ngày 10/10/2002
9. Bỏo “Đầu tư”, số ra ngày 21/11/2002
10. Đề tài 97 - 78 - 060: “Phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ”, Trung tâm tư vấn và đào tạo kinh tế thương mại, Bộ Thương mại, tháng 8/1997
11. Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, ký ngày 13/7/2000
12. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, NXB Chớnh trị quốc gia, 1996
13. Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam, NXB Chớnh trị quốc gia, 2000
14. Nghị định số 24/2000/NĐ-CP, Hà Nội, ngày 31/7/2000
15. Nghị quyết số 01/1996/NQ-TW, Hà Nội, ngày 18/11/1996
16. Nghị quyết số 09/2001/NQ-CP, Hà Nội, ngày 28/8/2001
Tiếng Anh
1. Le Dang Doanh, “Foreign direct investment in Vietnam: Results, challenges and prospect”, Vietnam’s Socio-economic Development, No.
31, Autumn 2002
2. Gordon H. Hanson, Raymond J. Mataloni, Matthew J. Slaughter, “Expansion Strategies of US Multinational Firms”, Bureau of Economic Analysis, US Department of Commerce, 2001, địa chỉ trang web: www.bea.gov/bea/papers.htm
3. G. Heriff, “America’s longest war - The US and Vietnam 1950 - 1975”, third edition, University of Kentucky, Mc. Graw - Hill Inc., New York, 1996
4. John J. Wild, Kenneth L. Wild, Jercy C. Y. Han, “International business - An integrated approach”, Prentice Hall International Inc., 2001
5. Le Duc Tan, “Proceed with caution”, Vietnam Economic Times, November 2000
6. “US Direct Investment Abroad: Capital Outflows”, Bureau of Economic Analysis, US Department of Commerce, 2002, địa chỉ trang web: www.bea.gov/bea/di/usdiacap.htm
7. Vietnam Economic Times, Issue 105, November 2002
8. Vietnam Investment Review, No. 553, 31 Dec 2001- 6 Jan 2002
9. “World Investment Report 2001: Promoting Linkages”, UNCTAD, 2001 “World Factbook 2002”, Central Intelligence Agency (CIA), 2002, địa chỉ trang web: www.cia.gov/cia/publications/factbook/
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8358.doc