lời mở đầu
Cùng với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế – xã hội, đầu tư trực tiếp nước ngoài đang có xu hướng ngày càng gia tăng mạnh mẽ và có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế nước ta.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong những nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, có tác dụng thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, tạo điều kiện khai thác các lợi thế so sánh, mở ra nhiều nghành nghề,sản phẩm mới, nâng cao năng lực quản lý
32 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1413 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thu hút FDI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và trình độ công nghệ, mở rộng thị trường xuất khẩu,tạo thêm nhiều việc làm và chủ động tham gia vao quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chính vì vậy , việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như thế nào đóng vai trò rất quan trọng.
Xuất phát từ thực tiễn của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, nền kinh tế đang chuyển sang giai đoạn phát triển tăng tốc, vấn đề đặt ra là cần thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho đầu tư phát triển. Với đề án “Giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam “- nghiên cứu đối tượng chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam- em sẽ trình bày những thực trạng và giải pháp để thu hút nguồn vốn này .
Phần 1: Một số vấn đề về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1. Thực chất của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. 1. Thực chất
Khái niệm đầu tư (Investement):
Đầu tư, nói chung là sự bỏ ra những nguồn lực vào một công việc nào đó nhằm thu lợi lớn trong tương lai.
Đặc trưng cơ bản của đầu tư đó là tính sinh lãi và rủi ro trong đầu tư. Hai thuộc tính này đã phân hóa sàng lọc các nhà đầu tư và thúc đẩy xã hội phát triển.
Đầu tư nước ngoài:
Đầu tư nước ngoài mang đầy đủ những đặc trưng của đầu tư nói chung nhưng có một số đặc trưng khác với đầu tư trong nước đó là:
. Chủ đầu tư có quốc tịch nước ngoài.
. Các yếu tố đầu tư được di chuyển ra khỏi biên giới.
. Vốn đầu tư có thể là tiền tệ, vật tư hàng hóa , tư liệu sản xuất, tài nguyên thiên nhiên nhưng được tính bằng ngoại tệ.
Các hình thức biểu hiện của đầu tư nước ngoài thường là.
- Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức, gọi tắt là ODA.
- Nguồn vốn tín dụng thương mại
- Nguồn vốn đầu tư từ việc bán cổ phiếu, trái phiếu... cho người nước ngoài, gọi tắt là FPI.
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, gọi tắt là FDI. Đây là nguồn vốn đầu tư khá phổ biến hiện nay của nước ngoài đầu tư vào một quốc gia nào đó nhằm mục đích kiếm lợi nhuận là chủ yếu .Trong thực tế, nguồn vốn ODA và FDI là khá phổ biến, hai nguồn này đều có vị trí khá quan trọng.
Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn quốc tế dưới hình thức vốn sản xuất thông qua việc nhà đầu tư ở 1 nước đưa vốn vào một nước khác để đầu tư, đồng thời trực tiếp tham gia quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất, tận dụng ưu thế về vốn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý... nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Các đặc trưng:
. Về vốn góp: Các chủ đầu tư nước ngoài đóng một lượng vốn tối thiểu theo quy định của nước nhận đầu tư để họ có quỳên trực tiếp tham gia điều phối, quản lý quá trình sản xuất kinh doanh. ở Việt Nam luật đầu tư nước ngoài đưa ra điều kiện: phần vốn góp của bên nước ngoài không dưới 30% vốn pháp định, trừ những trường hợp do chính phủ quy định.
. Về quyền điều hành quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào mức vốn góp. Nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thì quyền điều hành hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư nước ngoài, có thể trực tiếp hoặc thuê người quản lý.
. Về phân chia lợi nhuận: dựa trên kết quả sản xuất kinh doanh, lãi lỗ đều được phân chia theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định.
1. 2. Đặc điểm:
Với nước tiếp nhận đầu tư , đặc điểm của FDI có nhiều mặt tích cực, đồng thời cũng có những mặt hạn chế, bất lợi riêng.
1. 2. 1. Những mặt tích cực:
So với những hình thức đầu tư nước ngoài khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài có những ưu điểm:
FDI không để lại gánh nặng nợ cho Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư như ODA hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài khác như vay thương mại, phát hành trái phiếu ra nước ngoài…
Các nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn ra kinh doanh, trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh, hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư. Nước tiếp nhận FDI ít phải chịu những điều kiện ràng buộc kèm theo của người cung ứng vốn như của ODA.
Thực hiện liên doanh với nước ngoài, việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong nước có thể giảm được rủi ro về tài chính, trong tình huống xấu nhất khi gặp rủi ro thì các đối tác nước ngoài sẽ là người cùng chia sẻ rủi ro với các công ty của nước sở tại.
Do vậy, FDI là hình thức thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tương đối ít rủi ro cho nước tiếp nhận đầu tư .
FDI không đơn thuần chỉ là vốn, mà kèm theo đó là công nghệ, kỹ thuật, phương thức quản lý tiên tiến, cho phép tạo ra những sản phẩm mới, mở ra thị trường mới… cho nước tiếp nhận đầu tư .
Đây là điểm hấp dẫn quan trọng của FDI, bởi vì hầu hết các nước đang phát triển có trình độ khoa học và công nghệ thấp, trong khi phần lớn những kỹ thuật mới xuất phát chủ yếu từ các nước công nghiệp phát triển, do đó để rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước công nghiệp phát triển, các nước này rất cần nhanh chóng tiếp cận với các kỹ thuật mới. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể của mình, mỗi nước có cách đi riêng để nâng cao trình độ công nghệ, nhưng thông qua FDI là cách tiếp cận nhanh, trực tiếp và thuận lợi. Thực tế đã cho thâý FDI là 1 kênh quan trọng đối với việc chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận, thúc đẩy quá trình này trên nhiều phương diện: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư, cơ cấu công nghệ, cơ cấu lao động….
Thông qua tiếp nhận FDI, nước tiễp nhận đầu tư có điều kiện thuận lợi để gắn kết nền kinh tế trong nước với hệ thống sản xuất, phân phối, trao đổi quốc tế, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước này.
Thông qua tiếp nhận đầu tư , các nước sở tại có điều kiện thuận lợi để tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, thích nghi nhanh hơn với các thay đổi trên thị trường thế giới… FDI có vai trò làm cầu nối và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, một nhân tố đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới.
FDI có lợi thế là có thể được duy trì sử dụng lâu dài, từ khi một nền kinh tế còn ở mức phát triển thấp cho đến khi đạt được trình độ phát triển rất cao. Vốn ODA thường được dành chủ yếu cho những nước kém phát triển, sẽ giảm đi và chấm dứt khi nước đó trở thành nước công nghiệp, tức là bị giới hạn trong một thời kỳ nhất định. FDI không phải chịu giới hạn này, nó có thể được sử dụng rất lâu dài trong suốt quá trình phát triển của mỗi nền kinh tế.
Với những ưu thế quan trọng như trên ngày càng có nhiều nước coi trọng FDI hoặc ưu tiên, khuyến khích tiếp nhận FDI hơn các hình thức đầu tư nước ngoài khác.
1. 2. 2. Một số hạn chế:
Bên cạnh những mặt tích cực, FDI có thể gây ra những bất lợi cho nước tiếp nhận:
Việc sử dụng nhiều vốn đầu tư FDI có thể dẫn đến việc thiếu chú trọng huy động tối đa vốn trong nước, gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư , có thể gây nên sự phụ thuộc của nền kinh tế vào vốn đầu tư nước ngoài .Do đó, nếu tỷ trọng FDI chiếm quá lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển thì tính độc lập tự chủ có thể bị ảnh hưởng, nền kinh tế phát triển có tính lệ thuộc bên ngoài, thiếu vững chắc.
Đôi khi doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thực hiện chính sách cạnh tranh bằng con đường bán phá giá, loại trừ đối thủ cạnh tranh khác, độc chiếm hoặc khống chế thị trường, lấn áp các doanh nghiệp trong nước.
Thực tế đã cho thấy khi thực hiện các dự án liên doanh, các đối tác nước ngoài đã tranh thủ góp vốn bằng các thiết bị và vật tư đã lạc hậu, đã qua sử dụng, hoặc nhiều khi đã đến thời hạn thanh lý, gây ra thiệt hại to lớn cho nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư.
Thông qua sức mạnh hơn hẳn về tiềm lực tài chính, sự có mặt của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài gây ra một số ảnh hưởng bất lợi về kinh tế- xã hội như làm tăng chênh lệch về thu nhập, làm gia tăng sự phân hóa trong các tầng lớp nhân dân, tăng mức độ chênh lệch phát triển giữa các vùng.
Với những mặt bất lợi của FDI, nếu có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đầy đủ và có các biện pháp phù hợp, nước tiếp nhận FDI có thể hạn chế, giảm thiểu những tác động tiêu cực này và sử lý hài hòa mối quan hệ của nhà đầu tư nước ngoài với lợi ích quốc gia để tạo nên lợi ích tổng thể tích cực.
2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Xét theo mục đích đầu tư FDI đựơc phân thành 2 loại: đầu tư theo chiều ngang và đầu tư theo chiều dọc:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang: là việc 1 công ty tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chính ngành sản xuất mà họ đang có lợi thế cạnh tranh. Với lợi thế này họ muốn tìm kiếm lợi nhuận cao hơn ở nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc: khác với hình thức đầu tư theo chiều ngang, hình thức đầu tư theo chiều dọc với mục đích khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố đầu vào rẻ như lao động, đất đai của nước nhận đầu tư . Đây là hình thức khá phổ biến của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các nước đang phát triển.
Xét về hình thức sở hữu, đầu tư trực tiếp nước ngoài thường có các hình thức sau:
Hình thức doanh nghiệp liên doanh: đây là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, hình thức này có đặc trưng là mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là 1 pháp nhân riêng, nhưng doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn quy định vào liên doanh thì dù 1 bên có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài: đây là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, được hình thành bằng toàn bộ vốn nước ngoài và do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự quản lý, điều hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp này được thành lập dưới dạng các công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp nhân Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Vốn pháp định cũng như vốn đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài đóng góp, vốn pháp định ít nhất bằng 30% vốn đầu tư của doanh nghiệp.
Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh: đây là hình thức đầu tư trực tiếp trong đó hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa hai hay nhiều bên(gọi là các bên hợp tác kinh doanh)để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh ở nước nhận đầu tư trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia mà không cần thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc pháp nhân mới. Hình thức này không làm hình thành một công ty hay một xí nghiệp mới. Mỗi bên vẫn hoạt động với tư cách pháp nhân độc lập của mình và thực hiện các nghĩa vụ của mình trước nước nhà.
Ngoài ba hình thức cơ bản trên, theo nhu cầu đầu tư về hạ tầng, các công trình xây dựng còn có hình thức:
. Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BOT) : là một phương thức đầu tư trực tiếp được thực hiện trên cơ sở văn bản được ký kết giữa nhà đầu tư nước ngoài(có thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài)với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao cho nước chủ nhà.
. Hợp đồng xây dựng- chuyển giao- kinh doanh : là phương thức đầu tư dựa trên văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình cho nước chủ nhà. Nước chủ nhà có thể dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
. Hợp đồng xây dựng- chuyển giao (BT) : là một phương thức đầu tư nước ngoài trên cơ sở văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
3.Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài
Ôn định chính trị: đây là yếu tố hấp dẫn hàng đầu đối với nhà đầu tư nước ngoài, vì có ổn định chính trị thì các cam kết của chính phủ nước chủ nhà đối với các nhà đầu tư về sở hữu vốn đầu tư, các chính sách ưu tiên, định hướng phát triển mới được đảm bảo. Đây là những vấn đề có thể nói là được nhà đầu tư quan tâm nhất vì nó tác động rất mạnh đến yếu tố rủi ro trong đầu tư. Nếu nước chủ nhà có một hệ thống chính sách đầy đủ và hợp lý, đảm bảo sự nhất quán về chủ trương thu hút đầu tư cũng sẽ là những yếu tố quan trọng, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên: đó là đặc điểm khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, dân số, vị trí địa lý gần… Đây cũng là những yếu tố tác động nhiều đến tính sinh lãi hoặc rủi ro trong đầu tư.
Trình độ phát triển của nền kinh tế và đặc điểm phát triển của nền văn hóa xã hội: đây được coi là các yếu tố quản lý vĩ mô, điều kiện cơ sở hạ tầng, chất lượng cung cấp các dịch vụ. Sự thuận lợi hay không thuận lợi về ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán đều có thể trở thành sự khuyến khích hay kìm hãm việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài những nhân tố trên còn những nhân tố có tác dụng tăng khả năng thu lợi nhuận cho các nhà đầu tư, đó là:
Nhân tố lãi suất: do một dự án đầu tư, chi phí và doanh thu được thực hiện ở những thời điểm khác nhau. Để so sánh doanh thu và chi phí trong điều kiện tiền có giá trị biến đổi theo thời gian, các nhà đầu tư đã sử dụng lãi suất để tính chuyển các dòng tiền về mặt bằng thời gian hiện tại. Như vậy, nếu lãi suất càng tăng thì lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư càng giảm. Do đó mức lãi suất thấp là một trong những yếu tố khuyến khích người có tiền đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh hơn là gửi tiền vào ngân hàng.
Chi phí sản xuất cũng là những yếu tố mà các nhà đầu tư quan tâm, bao gồm: chi phí nguyên nhiên vật liệu, chi phí nhân công và chi phí cho các dịch vụ hỗ trợ sản xuất của doanh nghiệp. Chi phí sản xuất giảm thì lợi nhuận sẽ tăng tại mọi mức lãi suất. Trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, có một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến chi phí sản xuất tại nước nhận đầu tư, đó là tỷ giá hối đoái. Nếu đồng tiền của nước nhận đầu tư tăng giá, chi phí sản xuất ở đây sẽ tăng, chi phí tăng thì lợi nhuận giảm, đó là nhân tố làm giảm quy mô đầu tư trực tiếp nước ngoài.
4. Sự cần thiết phải thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Kể từ khi giành được độc lập, sự phát triển của nền kinh tế ở miền Bắc nước ta gắn với sự hỗ trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Sau nhiều thập kỷ chiến tranh đồng thời giữ vững độc lập, tự chủ, việc tìm đến nguồn lực bên ngoài cho phát triển cả về vốn và công nghệ dưới hình thức FDI là hết sức cần thiết. Đối với nền kinh tế nước ta, việc vay thương mại để nhập khẩu công nghệ là quá sức chịu đựng của nền kinh tế. Xuất phát tự bối cảnh trên, để thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế-xã hội nguồn vốn nước ngoài mà chúng ta có thể sử dụng được chính là vốn FDI. Thực tế đến nay đã chứng tỏ sự lựa chọn của chúng ta là đúng đắn, đồng thời cũng nói lên sự cần thiết có tính lịch sử và khách quan của FDI đối với công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước. Bước vào thập kỷ 1990, Đảng và Nhà nước ta thông qua Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000.Chiến lược đã xác định những yêu cầu và nhiệm vụ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong điều kiện tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn nhỏ bé, vấn đề tăng vốn đầu tư xã hội nói chung, trong đó có nguồn vốn từ bên ngoài (thông qua việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài) đang nổi lên như một yêu cầu cấp bách. Sự cần thiết của FDI trong giai đoạn này đã thể hiện qua tất cả các đặc điểm và ưu thế của nó: vừa là sự bổ xung đáng kể về vốn đầu tư phát triển , vừa là kênh dẫn chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm và phương thức quản lý tiên tiến, tăng năng lực và trình độ sản xuất của nền kinh tế, vừa giúp cho nền kinh tế dần mở cửa hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Khẳng định sự cần thiết phải tiếp tục thu hút nhiều hơn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 7 xác định: “có chính sách thu hút tư bản nước ngoài đầu tư vào nước ta, trước hết vào lĩnh vực sản xuất, dưới nhiều hình thức”. Như vậy Đảng ta đã khẳng định đầu tư nước ngoài như là một bộ phận của kinh tế tư bản nhà nước .
Để phát huy cao nhất nội lực, đồng thời nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, chúng ta đã tập trung cải thiện môi trường đầu tư để thu hút nhiều hơn nguồn vốn FDI.
Hiện nay, để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội bền vững, thu hẹp dần khoảng cách tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực, Đảng và Nhà nước đã đề ra định hướng cơ bản cho việc thu hút, sử dụng và quản lý FDI một cách có hiệu quả.Chúng ta cần một lượng vốn lớn, phải huy động cả trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một thành phần kinh tế mới xuất hiện và hình thành ngày càng rõ nét trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thu hút nhiều hơn và sử dụng hiệu quả cao FDI là một nội dung quan trọng của việc thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế.
Thông qua việc đẩy mạnh thu hút FDI sẽ tranh thủ công nghệ của các nước có nền khoa học tiên tiến, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường…
Tóm lại, đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện đang được xem là một trong những động lực quan trọng để thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa của nước ta.
Phần 2:Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Kết quả thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Bảng 01: Đầu tư nước ngoài qua các thời kì
Đơn vị: Triệu $
Năm
Chỉ tiêu
1988-1990
1991-1995
1996-2000
2001
2002
2003
2004
1. Số dự án ĐT
- Cấp mới
- Lượng tăng vốn
214
1
1397
262
1678
852
550
214
802
366
752
374
679
458
2. Vốn đăng kí
- Vốn đăng kí mới
- Tăng vốn
1582
0.3
16244
2162
20772
33951
2592
632
1621
1136
1941
1150
2084
1935
3. Đóng góp của khu vực FDI
- Tỷ trọng trong
GDP (%)
- Nộp ngân sách
7.4
0.3
10.9
1490
13.1
373
13.9
459
14.3
470
800
4. Giải quyết việc làm ( nghìn người)
1415
450
590
665
739
1. 1. Giai đoạn 1988-2002
Biểu đồ 01: FDI theo giai đoạn
Giai đoạn 1988-2002
Đây là thời kỳ đầu tiên FDI chính thức xuất hiện trong nền kinh tế của nước ta. Thời kỳ này hoạt động thu hút FDI được khởi đầu bằng liên doanh dầu khí Việt-Xô. Năm đầu tiên thực hiện luật đầu tư nước ngoài, chúng ta mới thu hút được 37 dự án với 371 triệu USD, hai năm sau số vốn đăng kí lên tới 1,793 triệu USD.
Giai đoạn 1991-1995:
Cùng với việc bổ sung và sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,Chính phủ đã quyết định thành lập hàng loạt các khu công nghiệp ở các địa phương nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư. Qua 5 năm thực hiện, tổng số vốn đăng kí đầu tư đã gấp 9,3 lần thời kì 1988-1990. Riêng năm 1995, số vốn thu hút được là cao nhất, đạt gấp 3,64 lần về vốn của 3 năm 1988-1990 cộng lại. Quy mô dự án và tốc độ phát triển thời kì này đạt mức cao so với mức bình quân chung.
Giai đoạn 1996-2000
Trong giai đoạn này, năm 1996 là năm có số vốn đăng kí được cấp phép cao nhất so với các năm từ 1988 đến 2002. Tuy nhiên, từ năm 1997 trở đi số lượng vốn đã giảm thấp, nhất là năm 1999 giảm 60% vốn đăng kí so với năm 1998. Việc lượng vốn đầu tư đã giảm rất thấp là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nên nhiều nhà đầu tư nước ngoài ở những nước bị khủng hoảng đã giảm đầu tư vào nước ta. Nhưng do kết quả của việc xúc tiến, vận động đầu tư từ giai đoạn trước, nên thời kì này tổng số vốn đầu tư vẫn đạt khá cao, với 20,6 tỷ USD vốn đăng kí, tăng 1,23 lần về vốn so với thời kì 1991-1995.
Giai đoạn năm 2001-2002:
Đây là hai năm có dấu hiệu phục hồi về số vốn đăng kí sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, nhưng số vốn đầu tư vẫn còn thấp,năm 2001 lượng vốn đầu tư là 3224 triệu USD, năm 2002 lượng vốn đầu tư là 2757 triệu USD.
Trong năm 2002, mặc dù số dự án được cấp phép là 669 dự án, cao hơn năm 2001 và thậm chí cao hơn cả những năm trước đây, nhưng số vốn giảm đi 46,8% so với năm 2001.
Xu hướng tăng thêm vốn đầu tư vào những dự án cũ là một điểm mới trong thu hút đầu tư nước ngoài trong năm 2002. Lượng tăng vốn trong năm 2002 là 1136 triệu USD, bằng 70% vốn đăng kí cấp mới. Điều này chứng tỏ nhiều dự án triển khai có hiệu quả nên đã đăng kí tăng vốn để mở rộng qui mô sản xuất.
1. 2. Giai đoạn 2003-2005
1. 2. 1. Năm 2003
Trong thành tựu chung của nền kinh tế, năm 2003 đánh dấu sự chuyển biến tích cực trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Trong năm 2003, cả nước thu hút 3,1 tỷ USD vốn đầu tư với 752 dự án đầu tư mới. Lượng vốn đầu tư tăng 11% so với năm 2002, trong đó vốn cấp mới đạt 1,95 tỷ USD và vốn bổ xung đạt 1,15 tỷ USD. Năm 2003 khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp khoảng 14,3% tổng GDP của cả nước , so với mức 13,9% của năm 2002. Đóng góp cho ngân sách của khu vực này tiếp tục tăng nhanh, tăng 8,9% so với năm 2002. Khu vực này cũng góp phần quan trọng trong việc tạo thêm việc làm(khoảng 45 nghìn người)
Kết quả trên chưa lớn nhưng rất đáng khích lệ trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều những yếu tố bất lợi đối với việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1. 2. 2. Năm 2004
Cả năm 2004 đã có 679 dự án được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng kí đạt 2084 triệu USD, tăng 4,6% so với năm 2003. Cũng trong năm 2004, có 458 lượt dự án đầu tư tăng vốn với tổng số vốn đăng kí tăng thêm là 1935 triệu USD tăng tới 70,5% so với năm 2003, đưa tổng số vốn đăng kí đầu tư năm 2004 vượt ngưỡng 4 tỷ USD- mức cao nhất kể từ năm 1999 trở lại đây. Như vậy, lượng đầu tư tăng vốn ở những dự án cũ có tốc độ gia tăng khá nhanh, trong bối cảnh vốn đăng kí cấp mới trong những năm gần đây đạt thấp,việc gia tăng đầu tư tăng vốn là rất cần thiết và nó đã thể hiện nhiều dự án đã đầu tư có hiệu quả.
Ngoài ra trong năm 2004, doanh thu của các doanh nghiệp FDI đạt 18.600 triệu USD, xuất khẩu từ khu vực FDI đạt 8.600 triệu USD, nộp ngân sách 800 triệu USD, và đã tạo việc làm cho 739 nghìn người… Các chỉ tiêu kinh tế xã hội này đều tăng trưởng cao hơn những năm trước, thể hiện môi trường đầu tư và kinh doanh ở nước ta đã ngày càng được cải thiện và ngày càng hấp dẫn.
Kết quả trên cho thấy xu hướng phục hồi dòng đầu tư nước ngoài năm 2004 rõ rệt hơn so với những năm trước kể từ sau khủng hoảng tài chính khu vực.
1. 2. 3. Năm 2005
Trong 10 tháng đầu năm 2005, doanh thu của các doanh nghiệp FDI đạt 19 tỷ USD, vượt trội so với năm 2004. Kim nghạch xuất khẩu cũng ra tăng, đạt 9 tỷ USD. Tiền nộp ngân sách Nhà nước đạt 895 triệu USD, tăng 35,8% so với cùng kì năm 2004, do có thêm nhiều dự án đi vào hoạt động và đạt hiệu quả cao. Cũng nhờ vậy, từ đầu năm đến nay, khu vực kinh tế này đã thu hút thêm gần 120.000 lao động trực tiếp, nâng tổng số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp FDI lên 858.000 người.
Riêng 10 tháng đầu năm nay, cả số dự án và số vốn đăng kí bổ sung đều đạt cao hơn cùng kì năm trước, với 403 dự án và 1,603 tỷ USD, bằng 53,7% tổng vốn đầu tư dự án mới được cấp phép (2,984 tỷ USD ). Như vậy nguồn vốn bổ sung cũng rất quan trọng vì tính khả thi của vốn bổ sung cao hơn nhiều so với vốn cấp phép mới.
Nguồn vốn FDI từ năm 1988 trở lại đây liên tục gia tăng cả về mặt chất và mặt lượng ,đây là một nguồn vốn rất cần thiết và vô cùng quan trọng trong đầu tư phát triển ở nước ta.
2. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
2. 1. Cơ cấu ngành, sản phẩm
Bảng 02: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành (1988-2005)
Đơn vị: Triệu $
Ngành
Từ năm 1988 đến 2004
Từ 01/01/05 đến 25/10/05
Số dự án
TVĐT
Số dự án
TVĐT
1. Công nghiệp
- Dầu khí
- Xây dựng
2. Nông, lâm nghiệp
Thủy sản
3. Dịch vụ
- VH- Y tế- Giáo dục
- XD văn phòng- căn hộ
- XD khu đô thị mới
- GTVT- Bưu điện
- Khách sạn- du lịch
- Khác
3338
26
293
680
104
956
172
103
3
140
162
300
25950
1886,6
3622
3332,4
282,6
15532,6
656,5
3556,5
2466,7
2567,7
2197,6
1029,7
433
1
18
58
7
143
24
9
1
16
18
111
1350
20
22,9
100,354
14,350
1720,6
428,5
238,4
85
428,2
37,9
540,2
Vốn đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng và có xu hướng tăng lên theo thời gian. Giai đoạn 1988-1990, đây là giai đoạn Việt Nam bắt đầu thực hiện chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Trong 3 năm này, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng thu hút được 89 dự án với số vốn đăng kí 1400 triệu USD, chiếm 39,7% tổng vốn đầu tư đăng kí. Nếu như trong 5 năm 1991-1995 lĩnh vực công nghiệp xây dựng chiếm 48% tổng vốn đăng kí thì tỷ trọng này đã tăng lên 51% trong thời kì 1996- 2000 và gần 70% trong giai đoạn 2001-2004. Riêng năm 2005 (tính tới 25/10/05), lĩnh vực công nghiệp-xây dựng chiếm 46% tổng vốn đầu tư.
Biểu đồ 02: ĐTTTNN vào lĩnh vực CN- XD qua các thời kì
Tính từ năm 1988 đến 25/10/2005 tổng vốn đầu tư nước ngoài trong ngành CN- XD đạt 31,95 tỷ USD, chiếm trên 50% tổng vốn đầu tư của cả nước. Như vậy, việc thu hút nguồn vốn FDI trong lĩnh vực CN-XD chiếm vị trí quan trọng và nó có vai trò đầu tầu thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp Việt Nam.
Lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp chiếm 8% tổng vốn đăng kí trong 5 năm giai đoạn1991-1995, giảm còn 5% trong năm 1996-2000 và trong thời kì 2001-2005 tỷ trọng này lại tăng lên ở mức 8%. Tính chung từ 1988 đến 25/10/2005 lĩnh vực nông- lâm- thủy sản đạt 3,374 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và đạt xấp xỉ 7% vốn đăng kí của cả nước. Cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp từ năm 1988 đến nay đã thay đổi theo hướng tích cực, phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu ngành. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn 2001 đến nay có tăng so với những năm trước nhưng mức tăng chưa đáng kể.
Biểu đồ 03: Vốn FDI trong các lĩnh vực trong thời kì 1988-2005
Trong lĩnh vực dịch vụ, vốn đầu tư đăng kí trong giai đoạn 1991-1995 đạt 7,5 tỷ USD, chiếm 43% tổng vốn đầu tư , trong thời kì 1996-2000, tỷ trọng này là 45%. Tuy nhiên, từ năm 2001 đến nay, tỷ trọng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nghành dịch vụ giảm, chỉ chiếm khoảng 23%. Tính chung từ năm 1988 đến 25/10/2005 lĩnh vực dịch vụ chiếm 36% tổng vốn đăng kí của cả nước. Như vậy, tỉ trọng vốn đăng kí vào lĩnh vực dịch vụ có xu hướng giảm dần trong khi dòng vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới có xu hướng tập trung vào lĩnh vực này. Nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm tỷ trọng ngành dịch vụ trong những năm gần đây do các dự án kinh doanh bất động sản ít đi và các dự án cấp mới có qui mô nhỏ đi. Ngoài ra, đối với một số nghành dịch vụ khác, cánh cửa đầu tư nước ngoài vẫn chưa được mở rộng như : vận tải hàng không, vận tải đường biển, bưu chính viễn thông, y tế- giáo dục, du lịch lữ hành, dịch vụ tư vấn, quảng cáo, dịch vụ xuất nhập khẩu...
2. 2. Cơ cấu vùng, lãnh thổ
Bảng 03: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo địa phương
Địa phương
Từ 1988 đến 25/10/05
Từ 01/01/50 đến 25/10/05
Số dự án
TVĐT
(triệu $)
Số dự án
TVĐT
(triệu $)
TP Hồ Chí Minh
Hà Nội
Đồng Nai
Bình Dương
Bà Rịa Vũng Tàu
Hải Phòng
Vĩnh Phúc
Long An
Tây Ninh
Lâm Đồng
1733
596
596
1011
118
176
82
92
93
67
11811,1
8794,7
8228,8
4747,3
2176,4
1941,2
708,7
674,6
353,1
187,8
148
51
57
91
10
12
13
5
14
1
193,3
902,4
343,9
212,5
12,51
112,4
45,38
29,05
27,61
1,00
Đầu tư nước ngoài phân bố không đồng đều giữa các vùng lãnh thổ, các thành phố lớn và các tỉnh- những nơi có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi thuộc các vùng kinh tế trọng điểm- vẫn là những địa phương dẫn đầu về thu hút FDI như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu...
Riêng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chiếm tới 58,6% tổng vốn đăng kí của cả nước giai đoạn1991-1995, chiếm 46,7% giai đoạn 1996-2000 và chiếm 63% trong thời kì 2001 đến nay.Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc chiếm 25,8% tổng vốn đăng kí của cả nước trông thời kì 1991-1995, chiếm 30,87% trong giai đoạn 1996-2000, và chiếm khoảng 17,5% trong thời kì từ năm 2001 đến nay.
Tính chung từ năm 1988 đến nay, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chiếm tới 59% tổng vốn đăng kí, vùng kinh tế phía Bắc chiếm 27,8% tổng vốn đăng kí, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung chỉ chiếm 2% tổng vốn đăng kí của cả nước.
Khu vực kinh tế có vốn FDI chiếm tỉ trọng khá lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển của các địa phương vùng kinh tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tại các địa phương này. Tuy nhiên, chúng ta cần có chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn.
2. 3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo quốc gia
Bảng 04: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo nước theo quốc gia 1988-2005
Quốc gia, vùng lãnh thổ
Số dự án
TVĐT
(triệu $)
Đài Loan
Singapore
Nhật Bản
Hàn Quốc
Hồng Kông
British ViginIsland
Pháp
Hà Lan
Malaysia
Thái Lan
363
366
546
959
345
237
151
57
171
123
7642,8
7443,1
5938,3
4879,1
3642,8
2553,1
2146,3
1885,7
1453,8
1435,6
Đã có 66 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, nhưng chủ yếu vốn đầu tư đến từ Châu á. Trong thời kì 1991-1995, các nước Châu á chiếm 61% tổng vốn đăng kí, các nước Châu âu chiếm 20%, Hoa Kỳ chiếm 4%. Trong thời kì 1996-2000, các nước Châu á chiếm 63%, Châu âu chiếm 32% tổng vốn đăng kí, Koa Kỳ chiếm 3%. Giai đoạn 2001 đến nay, các nước Châu á chiếm 62%, Châu âu chiếm 23% tổng vốn đăng kí.
Hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ có hiệu lực từ năm 2002 đã tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế giữa hai nước . Hoa Kỳ đã vượt Nhật Bản trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, thế nhưng đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam chưa tăng đáng kể. Từ năm 2001 đến nay, Hoa Kỳ chỉ có thêm 36 dự án đầu tư tại Việt Nam và với tổng vốn đăng kí là 0,37 tỷ USD. Đây vẫn chỉ là một con số rất khiêm tốn, đòi hỏi chúng ta phải có những chính sách phù hợp để thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn từ thị trường này.
3. Thuận lợi và khó khăn trong việc thu hút vốn FDI tại Việt Nam
Bước vào thời kỳ phát triển mới, nước ta có những thời cơ, thuận lợi lớn, đồng thời cũng phải đối mặt vớ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0618.doc