Thu hút đầu tư vào các Khu công nghiệp trên địa bàn Hà Nội - Thực trạng & Một số giải pháp

Lời nói đầu Khu công nghiệp là một mô hình hiện đại để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Một trong số những kinh nghiệm để thành công trong công cuộc CNH-HĐH của các nước trong khu vực là xây dựng và phát triển các KCN, KCX. Nhận thức được tầm quan trọng của khu công nghiệp trong sự nghiệp phát triển kinh tế ở Việt Nam, Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII năm 1994 và đại hội VIII năm 1996 của Đảng đã coi việc xây dựng, hình thành và phát triển các khu công nghiệp là một nội dung cơ bản của qu

doc93 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1286 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thu hút đầu tư vào các Khu công nghiệp trên địa bàn Hà Nội - Thực trạng & Một số giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yết sách CNH-HĐH. Tiếp theo đó, chiến lược phát triển kinh tế- xã hội năm 2001-2010 cũng đưa ra chủ trương “ Hoàn chỉnh và nâng cấp các khu công nghiệp, khu chế xuất hiện có, xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu kinh tế mở...”. Đây là một định hướng và quyết định cực kỳ quan trọng nhằm mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Thực hiện theo đường lối, định hướng của Đảng và nhà nước, nhận thức được tầm quan trọng của khu công nghiệp đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và Hà nội nói riêng, Hà nội trong thời gian qua cũng đã xây dựng thêm 5 khu công nghiệp tập trung và dự kiến xây dựng 13 khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Kết quả hoạt động của các khu công nghiệp tập trung và các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ ở khẳng định sự lựa chọn của Thành phố là đúng hướng. Các khu công nghiệp Hà nội đã đóng góp rất lớn cho sự tăng trưởng kinh tế của thủ đô như góp phần tăng trưởng GDP, tạo việc làm, giải quyết ô nhiễm môi trường... Tuy nhiên, phần đóng góp của các khu công nghiệp cho sự phát triển của thủ đô chưa nhiều, việc thu hút các dự án đầu tư cả trong và ngoài nước vào các khu công nghiệp Hà nội vẫn còn hạn chế, chưa xứng với tiềm năng và vị trí của thủ đô hiện nay. Chủ trương xây dựng các khu công nghiệp, khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ cũng đang được xây dựng ở các địa phương khác trong toàn quốc và các khu công nghiệp này cũng đã thu hút mạnh đầu tư vào các khu công nghiệp của mình, các địa phương cũng đưa ra nhiều cơ chế, chính sách hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư. Trong cuộc cạnh tranh này, Hà nội phải làm gì để xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn cho các khu công nghiệp trên địa bàn, trở thành một mô hình kinh tế, hiện đại, xứng đáng với tầm vóc và nhiệm vụ chính trị của thủ đô? Thành phố phải có những biện pháp gì để giải quyết các vướng mắc trong môi trường đầu tư tại các khu công nghiệp Hà nội, để từ đó có thể xây dựng và phát triển các khu công nghiệp Hà nội thật sự trở thành một điểm đến an toàn cho các nhà đầu tư. Đó cũng là lý do để em chọn đề tài: "Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn Hà Nội - thực trạng và một số giải pháp", với mục đích tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng thu hút đầu tư của các khu công nghiệp Hà nội, từ đó có thể xem xét, kiến nghị và đưa ra một số giải pháp để tăng cường hơn nữa đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội. Đề tài của em kết cấu gồm 3 chương trong đó: Chương I: Những vấn đề lý luận chung. Chương II: Thực trạng thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội. Chương III: Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội. Trong quá trình thực hiện đề tài, do có hạn chế về thời gian và trình độ, đề tài của em hẳn còn nhiều sai sót, em mong được sự hướng dẫn, góp ý của thầy cô và bè bạn để em có kinh nghiệm trong các đề tài tiếp theo. Em xin chân thành cám ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Nguyễn Hồng Minh đã giúp em hoàn thành tốt đề tài này. Chương 1 Những vấn đề lý luận chung 1.1. Những lý luận chung về đầu tư 1.1.1. Khái niệm đầu tư: Xét theo nghĩa rộng: Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết qủa đó. Nguồn lực có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Xét theo nghĩa hẹp: Đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. 1.1.2. Khái niệm vốn đầu tư: Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. 1.1.3. Nguồn vốn đầu tư: 1.1.3.1. Nguồn hình thành: Nguồn vốn đầu tư của đất nước nói chung được hình thành từ 2 nguồn cơ bản. Đó là vốn huy động từ trong nước và vốn huy động từ nước ngoài. Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các nguồn vốn sau đây: Vốn tích luỹ từ ngân sách Vốn tích luỹ của các doanh nghiệp Vốn tiết kiệm của dân cư Vốn huy động từ nước ngoài bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp Vốn đầu tư trực tiếp: Là vốn của các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài đầu tư sang nước khác và trực tiếp quản lý kinh doanh hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi vốn bỏ ra. Vốn đầu tư gián tiếp: Là vốn của các Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức viện trợ không hoàn lại, có hoàn lại, cho vay ưu đãi trong thời gian dài và lãi xuất thấp, vốn viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển (ODA). 1.1.3.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài: Các hình thức phổ biến của FDI là: Hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và BOT. a) Hợp đồng hợp tác kinh doanh: Định nghĩa: Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên( gọi tắt là các bên hợp doanh) quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên( nước ngoài và sở tại) để tiến hành đầu tư kinh doanh ở nước chủ nhà mà không thành lập pháp nhân mới. Đặc trưng: Các bên cùng nhau hợp tác kinh doanh trên cơ sở phân định trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ rõ ràng, không thành lập pháp nhân mới, mỗi bên làm nghĩa vụ tài chính đối với nước chủ nhà theo những quy định riêng. b) Doanh nghiệp liên doanh: Định nghĩa: Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa bên hoặc các bên nước chủ nhà với bên và các bên nước ngoài để đầu tư, kinh doanh tại nước chủ nhà. Đặc trưng: Dạng công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước chủ nhà, mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với liên doanh trong phạm vi phần vốn góp của mình với liên doanh. c) Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Định nghĩa: Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của mình. Đặc trưng: Dạng công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật nước chủ nhà, sở hữu hoàn toàn của nước ngoài, chủ đầu tư nước ngoài tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. d) Hợp đồng BOT: Định nghĩa: Hợp đồng BOT là văn bản ký kết giữa nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng, mở rộng , nâng cấp, khai thác công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định( thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý) sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà. Đặc trưng: Cơ sở pháp lý là hợp đồng, vốn đầu tư của nước ngoài, hoạt động dưới hình thức các doanh nghiệp liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài, chuyển giao không bồi hoàn cho bên Việt Nam, đối tượng của hợp đồng là các công trình cơ sở hạ tầng. 1.1.4. Vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế: 1.1.4.1. Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. Đối với tổng cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm tổng cầu tăng. Đối với tổng cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên làm cho sản lượng tiềm năng tăng, do đó giá giảm, cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế- xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. 1.1.4.2. Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm giá cả của các hàng hoá có liên quan tăng, đến một mức độ nào đó dẫn đến lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất trì trệ, đời sống của người nông dân gặp nhiều khó khăn do tiền lương thấp, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm. Mặt khác tăng đầu tư làm cho cầu các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm nhiều lao động, giảm tình trạng thất nghiệp nâng cao đời sống của người lao động, giảm tệ nạn xã hội, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. 1.1.4.3. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Điều này được thể hiện thông qua hệ số ICOR. DI DGDP ICOR= Như vậy nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. ICOR phụ thuộc mạnh vào: Cơ cấu kinh tế. Hiệu quả đầu tư trong các ngành, vùng lãnh thổ. Hiệu quả của các chính sách kinh tế nói chung. 1.1.4.4. Đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia. Để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thì phải tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Vì đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do có những hạn chế về đất đai, khă năng sinh học nên để đạt được tốc độ tăng trưởng cao là rất khó khăn Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị.. của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy các vùng khác phát triển 1.1.4.5. Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Chúng ta biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là: Tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ Nhập công nghệ từ nước ngoài. Cả hai con đường trên đều cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. 1.1.5. Môi trường đầu tư. 1.1.5.1. Khái niệm môi trường đầu tư. Khi tiến hành các hoạt động đầu tư, các nhà đầu tư phải hoạt động trong một không gian, thời gian và địa điểm cụ thể, mà ở đó có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của họ. Chính các yếu tố này có thể làm tăng khả năng sinh lãi hoặc rủi ro cho các nhà đầu tư. Vì vậy nói đến đầu tư không thể không nói đến môi trường đầu tư. Môi trường đầu sẽ quyết định thành công hay thất bại của đầu tư. Môi trường đầu tư là tổng hoà các yếu tố có ảnh hưởng đến công cuộc đầu tư của nhà đầu tư. Nó bao gồm các nhóm yếu tố: Tình hình chính trị, chính sách- pháp luật, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế. 1.1.5.2. Các nhóm yếu tố của môi trường đầu tư. a) Tình hình chính trị. Có thể nói, ổn định chính trị là yếu tố hấp dẫn hàng đầu đối với các nhà đầu tư. Vì tình hình chính trị ổn định là điều kiện đảm bảo: An toàn vốn đầu tư: Như chúng ta đã biết, đầu tư là hoạt động đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn thường dài. Cái chúng ta bỏ ra để đầu tư ở hiện tại là tiền, là vốn nhưng cái lợi mà chúng ta dự tính thu được lại ở tương lai, vì thế khi bỏ vốn ra nhà đầu tư không hề muốn rủi ro xảy ra với đồng vốn của họ. Tính nhất quán của đường lối phát triển kinh tế: ổn định chính trị đảm bảo cho đường lối phát triển kinh tế nhất quán. Khi tiến hành hoạt động đầu tư, nhà đầu tư phải tuân theo định hướng đầu tư của nhà nước. Định hướng đầu tư của nhà nứơc là những quy định của nhà nước về cơ cấu đầu tư( theo vùng, theo thành phần kinh tế, theo ngành...) và qua đó nhà nước cũng sẽ có những chính sách ưu đãi đầu tư đối với những nhà đầu tư đầu tư vào những vùng, những lĩnh vực được khuyến khích đầu tư. Do đó, tăng được sự chủ động cho các nhà đầu tư trong việc tính toán các chương trình, chiến lược đầu tư của họ. ổn định kinh tế xã hội: Tình hình ổn định chính trị có liên quan chặt chẽ với sự ổn định của kinh tế xã hội. Đây là yếu tố tác động trực tiếp và có tính toàn diện làm tăng hoặc giảm khả năng rủi ro trong đầu tư. Các nhà đầu tư không thể quyết định rót vốn đầu tư vào nơi mà nền kinh tế bị khủng hoảng hoặc đang chứa đựng nhiều tiềm năng bùng phát khủng hoảng vì ở đó có độ mạo hiểm cao. Đồng vốn bao giờ cũng tự nó biết tìm đến những nơi thuận lợi cho sự sinh sôi nảy nở, do đó mà nơi nào ổn định, an toàn, nhất quán thì nơi đó sẽ thu hút được vốn đầu tư. b) Chính sách pháp luật Môi trường pháp lý đối với hoạt động đầu tư bao gồm toàn bộ các văn bản pháp lý quy có liên quan đến hoạt động này từ hiến pháp cơ bản đến các đạo luật cụ thể. Các hoạt động đầu tư chịu tác động bởi nhiều chính sách của nhà nước trong đó có các chính sách tác động trực tiếp như quy định về lĩnh vực được đầu tư, mức vốn tối thiểu cần có khi thành lập doanh nghiệp, các nghĩa vụ tài chính phải thực hiện với nhà nước( thuế, phí...), mức ưu đãi về thuế được hưởng... và các chính sách có ảnh hưởng gián tiếp như các chính sách về tài chính- tiền tệ, thương mại, văn hoá- xã hội... Nhà nước quản lý hoạt động đầu tư bằng pháp luật. Tuy nhiên nếu nhà nước đưa ra quá nhiều quy định, thủ tục hành chính rườm rà thường sẽ dẫn đến tình trạng cửa quyền, sách nhiễu của các cơ quan quản lý đầu tư, gây nản lòng đối với nhà đầu tư và tăng rủi ro trong công cuộc đầu tư của họ. Một vấn đề nữa là các chính sách, quy định đầu tư nếu không thống nhất với nhau thì các nhà đầu tư không biết phải theo chính sách, quy định nào là đúng, từ đó lúng túng trong thực hiện, dễ dẫn đến vi phạm pháp luật hoặc lợi dụng khẽ hở của luật. Tính hiệu lực trong thực hiện chính sách pháp luật của nhà nước cũng là mối quan tâm của nhà đầu tư. Đối với nhà đầu tư chân chính họ cần phải dựa vào pháp luật của nhà nước để đảm bảo quyền lợi cuả họ. Vì vậy nếu việc thực hiện pháp luật không nghiêm, kém hiệu lực thì quyền lợi của họ sẽ bị đe doạ. Nếu vậy, các nhà đầu tư rất lo sợ đầu tư nếu môi trường pháp lý gặp nhiều rủi ro. c) Vị trí địa lý- điều kiện tự nhiên. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên bao gồm các yếu tố về khoảng cách, địa điểm, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, dân số... Các nhà đầu tư đều phải tiến hành chuyên chở hàng hoá và dịch vụ giữa các địa điểm sản xuất và tiêu thụ nên nếu vị trí thuận lợi, không cách trở thì chi phí vận chuyển thấp, giảm được giá thành và hạn chế rủi ro. Khí hậu cũng là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư. Yếu tố này bao gồm các địa điểm về thời tiết, độ ẩm, bão lũ... những yếu tố này sẽ tác động đến quyết định của các nhà đầu tư như đầu tư vào lĩnh vực gì thì phù hợp, công nghệ như thế nào... Mặt khác nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ cung cấp được các yếu tố đầu vào phong phú và giá rẻ cho hoạt động đầu tư. Những điều này sẽ làm giảm đáng kể chi phí, một trong những mục tiêu chủ yếu của nhà đầu tư. d) Trình độ phát triển của nền kinh tế. Trình độ phát triển của nền kinh tế là mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ mô, cơ sở hạ tầng, chất lượng cung cấp dịch vụ cho các hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư. Trình độ quản lý kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng lớn đến sự ổn định của kinh tế vĩ mô, các thủ tục hành chính và tham nhũng. Nếu trình độ quản lý kinh tế vĩ mô thấp thường dẫn đến tình trạng lạm phát cao, nợ nước ngoài lớn, tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, các thủ tục hành chính rườm rà, nạn tham nhũng.. Đây là những nguyên nhân tiềm ẩn cao dẫn đến khủng hoảng. Mặt khác sự phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ sẽ tạo những điều kiện thuận lợi và giảm những chi phí phát sinh cho đầu tư. Cơ sở hạ tầng( cứng) bao gồm các yếu tố như hệ thống đường giao thông, sân bay, bến cảng, điện lực, viễn thông.. đây là các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc vận hành các hoạt động kinh doanh và hiệu quả đầu tư. Thêm nữa, chất lượng các dịch vụ về lao động, tài chính, công nghệ....và sinh hoạt cho các nhà đầu tư luôn là yếu tố cũng gây tác động đến nhà đầu tư. e) Đặc điểm phát triển văn hoá- xã hội. Văn hoá- xã hội bao gồm các yếu tố về ngôn ngữ, tôn giáo, giá trị đạo đức và tinh thần dân tộc, phong tục tập quán, thị hiếu thẩm mỹ và giáo dục. Những yếu tố này ảnh hưởng đến thái độ, quan điểm của nhà đầu tư trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến yếu tố giáo dục. Một đất nước có trình độ giáo dục tốt và cơ cấu đào taọ hợp lý sẽ là cơ sở quan trọng để cung cấp cho nhà đầu tư đội ngũ lao động có tay nghề cao- thích ứng với tác phong làm việc có kỷ luật. Nhờ đó, giảm được chi phí đào tạo nhân lực và đáp ứng yêu cầu sản xuất của họ. 1.2. Những lý luận chung về khu công nghiệp 1.2.1. Khu công nghiệp 1.2.1.1. Định nghĩa: Theo định nghĩa trong luật Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì: “khu công nghiệp là một lãnh địa được phân chia và phát triển có hệ thống theo một kế hoạch tổng thể nhằm cung ứng các thiết bị kỹ thuật cần thiết, cơ sở hạ tầng, phương tiện công cộng phù hợp sự phát triển của một liên hiệp các ngành công nghiệp. Theo định nghĩa trong NĐ36-CP: Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất. 1.2.1.2. Đặc điểm của khu công nghiệp. Là nơi hoạt động của các doanh nghiệp khu công nghiệp Có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống. Không bị tách biệt với quy chế thương mại và thuế của nhà nước. Sản phẩm của các ngành công nghiệp không nhất thiết phải xuất khẩu. Quy mô thường rộng. 1.2.2. Doanh nghiệp khu công nghiệp. Là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong khu công nghiệp , gồm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ. Doanh nghiệp sản xuất khu công nghiệp là doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp được thành lập và hoạt động trong khu công nghiệp, Doanh nghiệp dịch vụ khu công nghiệp là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong khu công nghiệp , thực hiện các dịch vụ công trình kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, dịch vụ sản xuất công nghiệp. Thời gian hoạt động của doanh nghiệp khu công nghiệp là 50 năm không vượt quá thời gian hoạt động của công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp , được tính từ ngày doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền ra quyết định chấp thuận đầu tư hoặc cấp giấy phép đầu tư vào khu công nghiệp. 1.2.3. Doanh nghiệp chế xuất. Là doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu được thành lập và hoạt động theo NĐ 36- CP. 1.2.4. Các loại hình doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Doanh nghiệp Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 1.2.5. Các lĩnh vực được đầu tư vào khu công nghiệp. Xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng. Sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghiệp để xuất khẩu và tiêu thụ tại thị trường trong nước, phát triển và kinh doanh bằng sáng chế, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ. Nghiên cứu triển khai khoa học- công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra sản phẩm mới. Dịch vụ hỗ trợ sản xuất hàng công nghiệp. 1.2.6. Công ty xây dựng và kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng khu công nghiệp. Công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp có các quyền: Vận động đầu tư vào khu công nghiệp trên cơ sở quy hoạch phát triển chi tiết đã được duyệt. Cho các doanh nghiệp ( được quy định tại 1.5 ) thuê lại đất gắn liền với công trình kết cấu hạ tầng đã xây dựng trong khu công nghiệp hoặc bán nhà xưởng do công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp xây dựng trong khu công nghiệp. Kinh doanh các dịch vụ trong khu công nghiệp phù hợp với quyết định chấp thuận đầu tư hoặc giấy phép đầu tư. ấn định giá cho thuê lại đất đã xây dựng kết cấu hạ tầng, giá cho thuê hoặc bán nhà xưởng và phí dịch vụ với sự thoả thuận của Ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh. 1.2.7. Ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh. Là cơ quan quản lý trực tiếp các khu công nghiệp, khu chế xuất trong phạm vi địa lý hành chính của một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc Ban quản lý khu công nghiệp trên địa bàn liên tỉnh hoặc Ban quản lý một khu công nghiệp hoặc Ban quản lý khu công nghệ cao, do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. 1.2.8. Điều kiện để xây dựng một khu công nghiệp thành công. 1.2.8.1. Phải xác định rõ nhu cầu, mục tiêu của khu công nghiệp được thành lập. Xây dựng khu công nghiệp phải là kết quả của nhu cầu hết sức cần thiết vì việc tìm một khu đất, khai thác nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng cho một khu công nghiệp là điều rất khó khăn. Mỗi khu công nghiệp được xây dựng với mục tiêu trước mắt và lâu dài khác nhau. Vì thế cần xác định rõ mục tiêu để có những quy định thích hợp. Mục tiêu ban đầu ngắn hạn của các khu công nghiệp là thu hút vốn đầu tư và tạo việc làm thì trước tiên phải khuyếch trương cho việc xây dựng khu công nghiệp để các nhà đầu tư biết đến, từ đó cho họ cơ hội tìm hiểu về khu công nghiệp để có quyết định đầu tư. 1.2.8.2. Xác định địa điểm xây dựng khu công nghiệp. Khu công nghiệp có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống. Vì vậy tìm địa điểm phù hợp để xây dựng khu công nghiệp là điều rất quan trọng. Thông thường các khu công nghiệp thường được xây dựng ở ngoại ô nhưng đồng thời cũng phải thuận tiện về giao thông, cơ sở hạ tầng để có thể tiết kiệm chi phí triển khai. 1.2.8.3. Phải xây dựng được hệ thống dịch vụ thuận lợi. Hệ thống dịch vụ như dịch vụ hải quan, bưu điện, y tế, khách sạn, vui chơi giải trí... để cho việc ra vào khu công nghiệp được dễ dàng, không gây phiền hà cho nhà đầu tư. Đồng thời phải đảm bảo an ninh trật tự, đảm bảo về an toàn về người và tài sản trong khu công nghiệp , không để xảy ra các hiện tượng mất cắp tài sản trong khu công nghiệp. 1.2.8.4. Phải xây dựng được hệ thống kết cấu hạ tầng đầy đủ. Hệ thống kết cấu hạ tầng như hệ thống xử lý chất thải, hệ thống điện, nước, thông tin liên lạc, phòng làm việc của Ban quản lý khu công nghiệp,... chính hệ thống hạ tầng phần cứng này sẽ quyết định chủ yếu hiệu quả sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp. 1.2.8.5. Các yêu cầu về hoạt động của bộ máy quản lý. Bộ máy quản lý khu công nghiệp phải hoạt động tích cực và tránh các thủ tục phiền hà. Cần phải cố gắng thực hiện cơ chế một cửa, tại chỗ để tạo thuận lợi cho nhà đầu tư tiết kiệm được cả thời gian và chi phí. 1.2.8.6. Cần thiết phải xây dựng một hệ thống các chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các nhà đầu tư vào khu công nghiệp. Việc xây dựng hệ thống dịch vụ thuận lợi và hệ thống kết cấu hạ tầng đầy đủ là một trong những yếu tố để thu hút các nhà đầu tư. Nhưng nếu chỉ có như vậy thì chưa đủ mạnh để hấp dẫn họ. Bên cạnh đó cũng cần phải có những ưu đãi hỗ trợ đối với các nhà đầu tư vào khu công nghiệp. Điều này là rất cần thiết vì việc xây dựng một khu công nghiệp đã khó nhưng thu hút đủ các công ty trong và ngoài nước vào xây dựng xí nghiệp để hoạt động trong khu công nghiệp còn khó khăn hơn nhiều và đó mới chính là điều quyết định sự thành bại của khu công nghiệp. 1.2.9. Vai trò của khu công nghiệp đối với nền kinh tế. 1.2.9.1. Đối với nền kinh tế Việt Nam. Qua thực tế, chúng ta đã từng bước làm rõ việc phát triển khu công nghiệp mang lại nhiều lợi ích cho đất nước. Trước hết: Khu công nghiệp tác động đến đầu tư, đến sản xuất công nghiệp để xuất khẩu và phục vụ tiêu dùng trong nước, góp phần làm tăng trưởng GDP. Trong điều kiện môi trường đầu tư chưa tốt như ở Việt Nam hiện nay thì với môi trường đầu tư hấp dẫn hơn (ví dụ được ưu đãi về thuế, các hỗ trợ của Chính phủ, không phải bận tâm đến vấn đề ô nhiễm môi trường...) như ở trong khu công nghiệp sẽ là cục nam châm thu hút các nhà đầu tư (cả trong nước và nước ngoài). Các sản phẩm công nghiệp không bắt buộc phải xuất khẩu do đó các sản phẩm của khu công nghiệp sẽ phục vụ nhu cầu tiêu dùng đa dạng trong nước, hạn chế việc chúng ta phải nhập khẩu sản phẩm công nghiệp của nước ngoài. Với đầu tư tăng và tiêu dùng tăng như vậy sẽ góp phần làm tăng GDP, nghĩa là góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hai là: Việc bảo vệ môi sinh, môi trường có điều kiện thực hiện tốt hơn. Hoạt động sản xuất công nghiệp thường gây ra những tiêu cực đối với môi trường. Các doanh nghiệp muốn đầu tư vào khu công nghiệp phải tuân thủ theo quy định về bảo vệ môi trường của Ban quản lý khu công nghiệp và của Bộ khoa học - công nghệ và môi trường, phải được cấp có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt đánh giá tác động môi trường của dự án. Các doanh nghiệp khu công nghiệp sẽ dùng chung hệ thống xử lý chất thải do công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp cung cấp, từ đó chi phí bảo vệ môi trường sẽ bị giảm thiểu. Vai trò này của khu công nghiệp là lợi ích lâu dài và cơ bản đối với một nước đang phát triển như nước ta. Ba là: Trình độ tay nghề của người lao động công nghiệp được tăng lên, sự chuyển giao công nghệ tiên tiến cũng được diễn ra từ đây. Đối với các doanh nghiệp công nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp kỹ thuật cao, lao động được đòi hỏi là lao động có trình độ tay nghề cao. Các lao động này do doanh nghiệp tự đào tạo hoặc do Ban quản lý khu công nghiệp đào tạo rồi sau đó cung cấp cho các doanh nghiệp. Qua đào tạo mà trình độ chuyên môn của người lao động được nâng lên. Không những thế, việc hình thành khu công nghiệp còn gia tăng quá trình chuyển giao công nghệ và đổi mới công nghệ ( được thực hiện thông qua các dự án của các công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài và bản thân sự đổi mới máy móc thiết bị của doanh nghiệp trong nước...), truyền thụ phương thức quản lý kinh doanh mới cũng như tạo một tác phong làm ăn công nghiệp hiện đại cho người lao động Việt Nam. Bốn là: Từng bước hoàn thiện cơ sở hạ tầng trên toàn quốc. Việc xây dựng khu công nghiệp ở các địa phương trong cả nước cùng với việc hình thành kết cấu hạ tầng sẽ góp phần hình thành nhanh chóng các thành phố mới, giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa các vùng. Chính các khu công nghiệp sẽ trở thành hạt nhân phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở từng địa phận cũng như trên toàn quốc. Vai trò này đối với nền kinh tế Việt Nam là rất quan trọng và cần thiết vì xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, hoàn chỉnh ở phạm vi cả nước là một việc rất khó khăn vì đòi hỏi chi phí lớn và thời gian dài, chúng ta sẽ xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng như vậy ở một phạm vi nhỏ hơn là các khu công nghiệp để từng bước hoàn thiện cơ sở hạ tầng của đất nước. Năm là: Xây dựng khu công nghiệp là một trong các biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài. Thu hút đầu tư nước ngoài là một trong những chiến lược quan trọng của nước ta. Trong văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: nguồn vốn trong nước là quan trọng, nguồn vốn bên ngoài là quan trọng. Trong giai đoạn 2001-2005 chúng ta dự tính cần thực hiện đầu tư 840000 tỷ đồng. Với số vốn này, trong nước chỉ huy động được 2/3, còn 1/3 chúng ta bắt buộc phải thu hút từ bên ngoài. Nhưng trong giai đoạn cạnh tranh để thu hút đầu tư nước ngoài gay gắt như hiện nay chúng ta không còn cách nào khác là phải tạo được môi trường thật sự hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Một trong những biện pháp để làm được điều đó là xây dựng các khu công nghiệp vì ưu điểm nổi bật của khu công nghiệp là: Đối với nhà đầu tư nước ngoài: họ được cung cấp các dịch vụ kỹ thuật thuận tiện, cơ sở hạ tầng phù hợp và sản phẩm của họ có thể tiêu thụ tại thị trường nội địa. Đối với nước chủ nhà: tập trung được vốn đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng có trọng điểm, phát triển liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp nước ngoài và các doanh nghiệp nội địa, và thuận lợi trong kiểm soát môi trường. Hình thức này mang lại lợi ích cho cả hai phía, vì thế được rất nhiều nước (trong đó có Việt Nam) sử dụng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. 1.2.9.2. Đối với Hà Nội. Góp phần tăng trưởng kinh tế. Các khu công nghiệp Hà nội góp phần tăng trưởng kinh tế nói chung và công nghệ của thủ đô nói riêng, tạo điều kiện cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế,hình thành các ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển các vùng nông thôn ngoại thành Hà nội, đáp ứng nhu cầu an cư lạc nghiệp cho các doanh nghiệp ở Hà nội. Góp phần phát triển ngoại thương . Hàng hoá được sản xuất tại các khu công nghiệp không chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà sẽ thâm nhập sang các thị trường nước ngoài như EU, Nhật Bản, Mỹ... do đó các khu công nghiệp sẽ góp phần phát triển mặt hàng, mở rộng thị trường, phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu. Góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực nông thôn. Do hầu hết các khu công nghiệp đều nằm ở ngoại thành nên nó không chỉ góp phần thúc đẩy kinh tế ở khu vực này, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của người lao động mà còn phá vỡ tính khép kín của làng, xã, nâng cao trình độ dân trí cho người lao động địa phương và làm giảm bớt khoảng cách của sự cách biệt với các khu vực khác. Phát huy nội lực của các thành phần kinh tế. Việc hình thành các khu công nghiệp Hà nội đã tạo mặt bằng sản xuất, kích thích sự tham gia của các doanh nghiệp (kể cả trong nước và nước ngoài) vào hoạt động trong các khu công nghiệp. Bên cạnh các khu công nghiệp tập trung, các khu công nghiệp vừa và nhỏ đã thu hút được rất nhiều các doanh nghiệp vừa và nhỏ, góp phần phát huy nội lực của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường. Các khu công nghiệp ra đời với hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, hệ thống xử lý chất thải được trang bị đồng bộ vưà thuận lợi cho các nhà máy mới hoạt động có hiệu quả, vừa t._.ạo điều kiện di dời các nhà maý cũ, góp phần bảo vệ môi trường nhất là các khu vực có đông dân cư sinh sống. 1.2.10. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư vào khu công nghiệp Việc xây dựng môi trường đầu tư thông thoáng, cởi mở để thu hút đầu tư cả trong nước và nước ngoài là vấn đề hết sức cấp bách đối với nước ta hiện nay. Với chủ trương nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng chúng ta tìm mọi cách để huy động được các nguồn vốn hiện còn đang nằm rải rác, nhàn rỗi trong dân cư, trong các doanh nghiệp. Mặt khác với xu thế hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ, việc thu hút nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài cũng là một trong những chiến lược quan trọng của nước ta. Với mục tiêu như vậy, câu hỏi đặt ra là làm sao thu hút được vốn đầu tư trong nước? Làm sao để có thể thu hút được nguồn vốn từ nước ngoài? Không còn cách nào khác là chúng ta phải xây dựng một môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn. Việc làm này không thể một sáng, một chiều nhưng chúng ta có thể xây dựng môi trường đầu tư đủ thuyết phục để thu hút đầu tư trong một thời gian tương đối ngắn đó là xây dựng các khu công nghiệp. Trên một phạm vi nhỏ hơn, chúng ta hoàn toàn có thể xây dựng một môi trường đầu tư đủ sức cạnh tranh. Đối tượng thu hút đầu tư vào khu công nghiệp bao gồm công ty kinh doanh và phát triển hạ tầng khu công nghiệp và các nhà đầu tư thuê lại đất trong khu công nghiệp để tiến hành sản xuất kinh doanh. Trong phạm vi đề tài này, em tập trung nghiên cứu thực trạng thu hút các nhà đầu tư vào thuê lại đất trong khu công nghiệp trên địa bàn Hà nội. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút các nhà đầu tư vào các khu công nghiệp. 1.2.10.1.Nhóm các yếu tố về khung pháp lý. Hoạt động của doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, Ban quản lý khu công nghiệp, các doanh nghiệp khu công nghiệp đều phải tuân thủ theo quy định của pháp luật như: Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, Luật đầu tư nước ngoài, luật lao động, luật đất đai, luật môi trường...Nếu các luật này được ban hành với nội dung cụ thể, đồng bộ và được sử dụng có hiệu lực thống nhất giữa các cơ quan thi hành luật thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động trong khu công nghiệp, tránh được những khiếu kiện không cần thiết, hay những vi phạm pháp luật không đáng có. 1.2.10.2. Nhóm các yếu tố liên quan đến đất đai và cơ sở hạ tầng. Về giá đất: Để tiến hành sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp, các nhà đầu tư phải thuê lại đất từ công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp. Như vậy giá thuê đất trong khu công nghiệp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư( nhất là các nhà đầu tư trong nước). Với mục tiêu lấp đầy các khu công nghiệp, các khu công nghiệp không chỉ được phép chỉ chú ý tới nguồn vốn đầu tư nước ngoài mà bên cạnh đó còn phải quan tâm tới việc thu hút các nguồn đầu tư trong nước. Do đó nếu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, xem xét hỗ trợ các doanh nghiệp khi thuê đất trong khu công nghiệp để đảm bảo giá thuê đất hợp lý thì cũng là một cách tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư. Về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: cũng là một yếu tố tạo nên tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Nếu có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các doanh nghiệp có thể dùng nó để huy động vốn, thế chấp khi cần vay tín dụng. Về quy hoạch: Quy hoạch là vấn đề nổi cộm ở nhiều địa phương trong cả nước. Quy hoạch rồi lại điều chỉnh quy hoạch sẽ gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng trong việc tạo mặt bằng sản xuất. Do đó quá trình quy hoạch nếu được thực hiện công khai, dân chủ và nhất quán thì thuận lợi cho quá trình giải phóng mặt bằng và thu hút đầu tư. Về cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp bao gồm cơ sở hạ tầng trong và ngoài hàng rào. Cơ sở hạ tầng trong hàng rào bao gồm: hệ thống cấp thoát nước, hệ thống điện, hệ thống xử lý chất thải, hệ thống thông tin... tất cả các yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khu công nghiệp. Cơ sở hạ tầng ngoài khu công nghiệp liên quan đến quá trình vận chuyển, tiêu thụ, cung cấp nguyên vật liệu, ... cho các doanh nghiệp khu công nghiệp. Vấn đề đặt ra là cơ sở hạ tầng trong và ngoài hàng rào phải đồng bộ với nhau, điều đó thúc đẩy tiến độ triển khai khu công nghiệp và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp cả sản xuất và tiêu thụ.. Chất lượng cơ sở hạ tầng cũng là một yếu tố quan trọng( nếu không muốn nói là quan trọng nhất) đối với quyết định của nhà đầu tư. Chất lượng cơ sở hạ tầng thể hiện ở chỗ: các công trình trong và ngoài hàng rào có hiện đại, đồng bộ, thuận tiện và ổn định hay không? Nó phục vụ cho hoạt động của các doanh nghiệp có tốt hay không? Ví dụ như trong việc cung cấp điện, nếu không ổn định cũng sẽ là một nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp ( đặc biệt là doanh nghiệp kỹ thuật cao). 1.2.10.3. Nhóm các yếu tố liên quan đến quản lý nhà nước và thủ tục hành chính. Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất được uỷ quyền cấp giấy phép đầu tư cho các loại dự án: Phù hợp với quy hoạch của khu công nghiệp. Doanh nghiệp chế xuất có quy mô vốn đến 40 triệu USD. Các dự án sản xuất có quy mô vốn đến 10 triệu USD. Các dự án dịch vụ công nghiệp có quy mô vốn đến 5 triệu USD. Không thuộc danh mục các dự án có tiềm năng gây ảnh hưởng đến môi trường. Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất phải cố gắng hoạt động theo cơ chế một cửa, tại chỗ, giải quyết nhanh các thủ tục hành chính cho các nhà đầu tư vào khu công nghiệp. Thời gian giải quyết các thủ tục hành chính là rất quan trọng. Để doanh nghiệp nhanh chóng tiến hành sản xuất kinh doanh thì thời gian phê duyệt, quyết định cấp giấy phép đầu tư, cũng như thời gian thẩm định thiết kế kỹ thuật, thẩm định môi trường cho các dự án trong khu công nghiệp phải nhanh chóng. Cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian phê duyệt, sẽ là một yếu tố giúp cho doanh nghiệp giảm thiểu được chi phí giao dịch trong quá trình sản xuất kinh doanh. 1.2.10.4. Nhóm các vấn đề liên quan đến dịch vụ. Các dịch vụ cho khu công nghiệp: Một trong những yếu tố quan trọng làm hấp dẫn môi trường đầu tư của khu công nghiệp là điều kiện cung cấp dịch vụ ở khu công nghiệp. Vị trí của các khu công nghiệp hầu như ở vùng ngoại ô thành phố, vì vậy muốn thu hút lao động( đặc biệt là các lao động tay nghề cao ở nội thành) thì dịch vụ ở khu công nghiệp phải đầy đủ như dịch vụ nhà ở, trường học, chợ, ngân hàng... Giá dịch vụ: Bên cạnh phí quản lý khu công nghiệp, các doanh nghiệp trong khu công nghiệp còn phải chịu cước dịch vụ( điện, nước, viễn thông, phí vận chuyển...). Chi phí quản lý khu công nghiệp và cước dịch vụ này là một trong những yếu tố tạo nên ưu thế cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp. Vấn đề tuyển dụng lao động: Lao động là một trong những yếu tố đầu vào của sản xuất, như vậy chất lượng lao động và giá cả lao động cũng sẽ quyết định hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp. Lao động ở Việt Nam nói chung dồi dào, nhưng lao động tay nghề thấp chiếm tỷ trọng cao. Khả năng đáp ứng nhu cầu về lao động có tay nghề cao ở một số lĩnh vực, đặc biệt là các ngành công nghệ cao ở Việt Nam còn hạn chế, nên hầu hết các doanh nghiệp ( kể cả doanh nghiệp trong khu công nghiệp ) đều phải tự đào tạo lao động cho mình, như vậy sẽ làm chậm quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì thời gian đào tạo thường dài và chi phí đào tạo khá lớn. Nếu trong các khu công nghiệp có dịch vụ cung cấp lao động thoả mãn nhu cầu của doanh nghiệp được thực hiện tốt thì sẽ đem lại hiệu quả cho cả doanh nghiệp, công ty phát triển cơ sở hạ tầng khu công nghiệp và Ban quản lý khu công nghiệp. Dịch vụ cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp: Thông tin ngày càng trở nên là một yếu tố quan trọng trong việc củng cố và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tại các khu công nghiệp cũng không đứng ngoài nhu cầu quản lý và trao đổi thông tin. Là một doanh nghiệp sản xuất trực tiếp việc quản lý nhân sự, tiền lương, vật tư sản xuất chiếm một vị trí quan trọng trong việc quản trị doanh nghiệp. Hệ thống công nghệ thông tin tại doanh nghiệp sẽ hỗ trợ rất tích cực cho công tác quản lý này, giúp nhà quản lý có thể đạt hiệu quả tối đa. Có một hệ thống công nghệ thông tin tốt, hiệu quả, doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với khách hàng ở mọi nơi, mọi lúc. Ngày nay với thời đại internet doanh nghiệp càng có nhiều cơ hội kinh doanh hơn, mở rộng tầm hoạt động của mình hơn và với chi phí thấp hơn nhiều. Như vậy internet là một dịch vụ và là nhu cầu không thể thiếu được, nó là cánh cửa mở ra thế giới bên ngoài một cách hiệu quả và tiết kiệm nhất. Cung cấp được cho doanh nghiệp khu công nghiệp các dịch vụ internet được coi là một ưu đãi của Ban quả lý khu công nghiệp đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động trong khu công nghiệp. 1.2.10.5. Các chính sách hỗ trợ. Hệ thống các chính sách hỗ trợ là một trong những yếu tố rất quan trọng để thu hút các nhà đầu tư. Đó là những ưu đãi về thuế, về tiền thuê đất, về phương thức trả tiền thuê đất, về tín dụng... chính sách hỗ trợ ở khu công nghiệp nào càng nhiều thì ở đó khả năng mời chào các nhà đầu tư càng lớn. 1.3. Kinh nghiệm thành công trong thu hút đầu tư vào một số khu công nghiệp. 1.3.1. Kinh nghiệm của các nước trong khu vực. 1.3.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc. Các đặc khu kinh tế của Trung Quốc rất thành công trong việc thu hút các nhà đầu tư vào khu công nghiệp. Sở dĩ làm được điều đó là vì: Các đặc khu luôn được xây dựng ở những nơi có sẵn điều kiện hạ tầng thuận lợi như: cửa khẩu, bến cảng.. Xây dựng môi trường đầu tư cứng phải đi liền với hoàn thiện môi trường đầu tư mềm tức là bên cạnh việc xây dựng các tiện ích cơ bản phải tiến hành thành lập và hoàn thiện cơ cấu thị trường( thị trường lao động, thị trường vật tư và thị trường tiền tệ...) Đơn giản triệt để các thủ tục đầu tư, Trung Quốc coi đặc khu là một thể chế kinh tế do vậy chính quyền địa phương có đầy đủ thẩm quyền để giải quyết mọi vấn đề phát sinh trong mỗi đặc khu. Bên cạnh đó các đặc khu kinh tế còn hình thành các công ty tư vấn, dịch vụ cung cấp cho các xí nghiệp các thông tin liên quan, các thủ tục xuất nhập khẩu, các dịch vụ vận chuyển lưu kho. Nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào đặc khu kinh tế được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, thuế xuất nhập khẩu... hơn hẳn so với đầu tư vào các nơi khác trên lãnh thổ Trung Quốc. Đối với đất đai, mặc dù theo luật Trung Quốc đất đai thuộc sở hữu của nhà nước nhưng nhà đầu tư có thể bán, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp đất theo quy định. Các chính sách về tiền tệ, ngân hàng, ngoại hối trong các đặc khu cũng được nới lỏng, linh hoạt thuận lợi hơn so với những quy định trong lãnh thổ nội địa. 1.3.1.2. Kinh nghiệm của Thái Lan. Chủ trương xây dựng khu công nghiệp ở Thái Lan đã được hình thành từ những năm 60 nhưng khi luật khu công nghiệp được ban hành thì các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Thái Lan mới thực sự phát triển. Điểm thành công nổi bật trong việc thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp Thái Lan đó là: Thống nhất quản lý từ trên xuống dưới, các thủ tục hành chính đều được uỷ quyền cho một cơ quan duy nhất, thực hiện triệt để dịch vụ “một cửa” nhằm giải quyết nhanh chóng mọi thắc mắc của chủ đầu tư. Cục quản lý các khu công nghiệp Thái Lan được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước thống nhất về phát triển khu công nghiệp. Đây là cơ quan duy nhất có thể cung cấp đầy đủ thông tin cho các nhà đầu tư. Nhiệm vụ của cục này là: Điều tra, kiểm soát, xây dựng chiến lược phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn cả nước. Thiết kế xây dựng các khu công nghiệp. Cấp giấy phép đầu tư. Quy định ngành nghề và quy mô của cơ sở công nghiệp sẽ được cấp giấy phép đầu tư vào khu công nghiệp. Quy định giá mua, bán và cho thuê đất, bất động sản. Quản lý nhà đầu tư trong khu công nghiệp. Điều này đã giúp cho môi trường đầu tư ở các khu công nghiệp Thái Lan hấp dẫn hơn so với các quốc gia khác trong khu vực. Chính phủ còn tạo một số điều kiện thuận lợi cho phát triển khu công nghiệp như: Diện tích khu công nghiệp có thể được mở rộng hơn so với diện tích đã cho thuê đất, doanh nghiệp muốn mở rộng mặt bằng sản xuất thì họ có thể thoả thuận với chủ sở hữu đất đai ngoài hàng raò khu công nghiệp. 1.3.1.3. Kinh nghiệm của Đài Loan. Đài Loan là quốc gia đi đầu trong phát triển các khu công nghiệp ở Châu á và đã đạt được những thành công lớn. Trong hơn 30 năm qua, hoạt động của các khu công nghiệp, khu chế xuất Đài Loan đã đóng vai trò rất quan trọng đối với tiến trình CNH- HĐH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Đài Loan. Bài học chính có thể rút ra từ kinh nghiệm phát triển của Đài Loan. Muốn CNH- HĐH với tốc độ cao cần phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất trên một diện rộng tuỳ thuộc vào khả năng, tiềm lực phát triển của mỗi tỉnh, thành phố. Phát triển các khu công nghiệp phải tuân theo một quy hoạch thống nhất trên cả nước, đảm bảo tính liên hoàn, tương hỗ trong phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, đồng thời đảm bảo mục tiêu của mỗi khu công nghiệp là một tác nhân thúc đẩy mọi hoạt động kinh tế của mỗi vùng. 1.3.1.4. Kinh nghiệm của Malaixia. Khu mậu dịch tự do Penang ngày nay nổi lên như một sự thành công nhất của việc mở cửa nền kinh tế của Malaixia. Có nhiều ý kiến đánh giá nguyên nhân của sự thành công này, nhưng tập trung lại như sau: Penang có môi trường đầu tư tương đối tốt, ở đây có sẵn vùng đất công nghiệp đã được chuẩn bị cùng với các tiện nghi hạ tầng đầy đủ và tốt. Vì vậy chi phí cho đầu tư xây dựng là thấp so với các nơi khác. Các khu công nghiệp ở Penang được xây dựng ở những vị trí thuận lợi như gần sân bay, gần bến cảng. Đồng thời ở đây có được hệ thống giao thông phát triển mạnh cả về đường không, đường biển, đường bộ và đường sắt. Đội ngũ lao động ở đây được đào tạo, có kỹ thuật, kỷ luật, có tinh thần cần cù, hợp tác, thông minh và khiêm tốn. Sự nghiệp phát triển của khu Penang diễn ra trong bối cảnh bùng nổ của ngành công nghiệp điện tử đầu những năm 70 của thế kỷ. Chính phủ Malaixia đưa ra được những khuyến khích tài chính rộng rãi, tổ chức tố các hoạt động dịch vụ thương mại. 1.3.2. Kinh nghiệm của các khu công nghiệp trong nước. 1.3.2.1. Kinh nghiệm của khu công nghiệp Tân Tạo ( Thành phố Hồ Chí Minh) Khu công nghiệp do công ty Tân Tạo đầu tư hạ tầng cơ sở và quản lý hiện đang là khu công nghiệp dẫn đầu về thu hút đầu tư tại thành phố Hồ Chí Minh với 2000 tỷ đ vốn đầu tư trong nước( đứng đầu cả nước trong việc huy động vốn đầu tư trong nước) và 97 triệu USD đầu tư nước ngoài, dẫn đầu về số lượng nhà máy đã hoạt động( 80 nhà máy) và là khu công nghiệp đầu tiên của cả nước được nhận chứng chỉ ISO 9001:2000 đánh giá về chất lượng dịch vụ cho các nhà đầu tư. Để đạt được thành tích đó, khu công nghiệp Tân Tạo đã phải nỗ lực rất lớn từ công tác xây dựng hạ tầng cơ sở đến công tác Marketing giỏi. Xét về vị trí khu công nghiệp: Khu công nghiệp Tân Tạo nằm ở quận Bình Chánh, có vị trí thuận lợi, cách trung tâm thành phố 12 km, cách sân bay Tân Sơn Nhất 12 km, cách cảng Sài gòn 15 km, và nằm dọc quốc lộ 1A. Về cơ sở hạ tầng khu công nghiệp: Công ty Tân Tạo đã coi hạ tầng là khâu hàng đầu, lo đủ hết các hạng mục của tiện ích hạ tầng như điện, nước, thông tin liên lạc, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, hệ thống đường nội bộ, kho ngoại quan cũng như lợi ích công cộng khác, tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư khi đến khu công nghiệp. Hệ thống điện của khu công nghiệp: được cấp từ trạm biến áp 110/15 KV trạm biến áp Phú Lâm và hệ thống điện cấp riêng cho khu công nghiệp. Hệ thống nước: Tân Tạo là khu công nghiệp đầu tiên của Tp HCM được cấp nước từ hệ thống nước máy của thành phố, đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng của các doanh nghiệp. Hệ thống đường nội bộ: có các đường chính và phụ riêng biệt, quy hoạch theo tiêu chuẩn quốc tế, xây dựng hoàn chỉnh với tải trọng lớn, nối trực tiếp với quốc lộ 1A. Mạng lưới viễn thông: hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Nếu chỉ là những điều kiện trên thì không đủ tạo ra sự khác biệt lớn đối với các khu công nghiệp khác trong cùng khu vực. Cái khác của Tân Tạo là có những sáng tạo và cố gắng mới. Đó là: Trong khu công nghiệp có hệ thống CNTT hiện đại phục vụ nhu cầu truyền thông đa dịch vụ từ truyền dữ liệu, internet, truyền hình cáp, video hội nghị, điện thoại và fax qua IP/ Khu công nghiệp có kho ngoại quan lớn 64.000m2 chuyên phục vụ các doanh nghiệp trong khu công nghiệp cần xuất nhập khẩu hàng hoá cùng các thủ tục hải quan tại chỗ, giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và tiền bạc. Bãi thu mua vật liệu phế thải, phòng cháy chữa cháy, trạm y tế, trung tâm kho vận, trạm xử lý chất thải công nghiệp. Công ty Tân Tạo còn tư vấn miễn phí cho các doanh nghiệp tìm đến đầu tư trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và thuế. Công ty Tân Tạo còn liên kết với các ngân hàng và các quỹ đầu tư trong xây dựng nhà xưởng theo yêu câù của các nhà đầu tư để họ trả góp hay giúp chủ đầu tư vay vốn ngân hàng xây dựng nhà xưởng theo hình thức nhà đầu tư bỏ 30% vốn, Tân Tạo vay 70% phần còn lại từ ngân hàng cho nhà đầu tư xây dựng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư sẽ thế chấp nhà xưởng này và thanh toán lại cho Tân Tạo. Vì môi trường đầu tư hấp dẫn như vậy, nhiều nhà đầu tư đã chọn Tân Tạo như một vùng đất thuận lợi để làm ăn và ổn định nên nhiều nhà đầu tư đã mạnh dạn đầu tư vào đây và coi khu công nghiệp như một điểm đến đúng đắn và hiệu quả. 1.3.2.2. Kinh nghiệm của khu công nghiệp Dung Quất. Cho phép các doanh nghiệp Việt Nam được dùng giá trì quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh với các đối tác trong nước và nước ngoài. Các doanh nghiệp này khi thuê đất để thực hiện dự án đầu tư vào các lĩnh vực khuyến khích được xem xét cho phép nộp chậm tiền thuê đất một thời gian tối thiểu là 3 năm. Ban quản lý khu công nghiệp Dung Quất cùng UBND các tỉnh liên quan đảm bảo tổ chức đền bù, giải phóng mặt bằng đúng tiến độ trong cùng một khu vực đất đai và cùng thời điểm, Ban quản lý cũng thực hiện chính sách một gía tức là các nhà đầu tư trong và ngoài nước hưởng mức giá đầu vào một số dịch vụ tiện ích như điện, nước, bưu chính viễn thông... điều này tạo sân chơi công bằng cho tất cả các nhà đầu tư. Vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng ở khu công nghiệp Dung Quất cũng thuận lợi hơn nhiều so với các khu công nghiệp khác. Nguồn điện: có hai nguồn riêng 220 KV. Cấp nước: 2 nguồn riêng( 100.000m3 và 15000m3 ). Viễn thông: nguồn riêng (10 triệu USD vốn ODA). Đường bộ: ngân sách nhà nước đầu tư các trục chính. Đường sắt: có tuyến riêng ra cảng. Đường biển: có hệ thống cảng riêng bên trong. Đường không: có sân bay riêng bên trong. Công tác xúc tiến đầu tư: hoạt động này khu công nghiệp Dung Quất làm rất tốt. Dung Quất đã quảng bá tiềm năng, cơ hội đầu tư vào khu công nghiệp của mình, đó là đã lập và đưa lên mạng trang Web về khu công nghiệp và ghi vào đĩa CD đầy đủ những nội dung về khu công nghiệp, giúp cho nhà đầu tư có được thông tin chính xác và cập nhật nhất về môi trường đầu tư tại khu công nghiệp; in cataloge, xuất bản tập tin khu công nghiệp; về hoạt động tiếp xúc, vận động đầu tư vào khu công nghiệp: Dung Quất đã kết hợp với phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và các tổ chức tư vấn có uy tín để tổ chức kêu gọi đầu tư tại một số nước phát triển có quan hệ đầu tư với Việt Nam; chủ động và sẵn sàng gặp gỡ, tiếp xúc các nhà đầu tư trong và ngoài nước khi họ có ý định đầu tư vào khu công nghiệp, qua đó trực tiếp đàm phán, thảo luận và cung cấp cho họ những thông tin, tài liệu cần thiết cho việc quyết định đầu tư.... Tuy nhiên, bên cạnh những khu công nghiệp thành công trên cũng có nhiều khu công nghiệp thất bại. Những khu công nghiệp thất bại thường là do chọn vị trí không thích hợp; môi trường kinh doanh không thuận lợi hoặc cơ sở hạ tầng không đầy đủ và hiện đại; quản lý kém và triển khai không phù hợp... Nghiên cứu thành công của các khu công nghiệp ta có thể rút ra bài học: Phải có một kế hoạch tốt, bao gồm từ kế hoạch mục tiêu đến kế hoạch khuyếch trương xây dựng, vận động quảng cáo thu hút đối tác đầu tư. Phải mạnh dạn đầu tư xây dựng và bảo đảm cung cấp đủ các cơ sở hạ tầng cho triển khai các hoạt động kinh doanh và sinh hoạt của khu, mặt khác phải giữ sao cho những chi phí xây dựng đầu tiên thật cần thiết và ít tốn kém nhất. Điều này còn tuỳ thuộc vào địa điểm lựa chọn xây dựng khu công nghiệp. Một môi trường đầu tư có sức hấp dẫn mạnh các nhà đầu tư là nhân tố quan trọng bậc nhất để làm sống động một khu công nghiệp vừa xây dựng xong, mục tiêu đặt ra như thế nào thì chính sách, biện pháp ưu đãi phải tương xứng như vậy. Mục tiêu có giới hạn, thì chính sách, biện pháp ưu đãi có giới hạn. Mục tiêu có nhiều tham vọng đòi hỏi các ưu đãi càng phải rộng rãi, nhiều và dài hạn hơn. Thủ tục hành chính đơn giản, dễ hiểu, hoạt động tư vấn tốt và thực hiện dịch vụ một cửa. Điều đáng lưu ý là đối với các nhà đầu tư nước ngoài hiện nay, các sức hấp dẫn của khu công nghiệp không còn chỉ là giá nhân công và ưu đãi thuế, mà ngày càng tập trung vào những khía cạnh “ chất lượng” khác như: Điều kiện kinh tế tổng thể ổn định. Chính trị, xã hội ổn định. Cơ sở hạ tầng phát triển. Bảo đảm về pháp luật. Sự khác biệt về văn hoá. Trình độ giáo dục, chất lượng nguồn lao động và luật lệ lao động. Các quy trình quản lý hành chính gọn rẻ và hiệu quả. Tốc độ thu hồi vốn và lợi nhuận. Cuộc cạnh tranh trên thế giới để thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang ngày càng gay gắt. Các nước, các khu công nghiệp luôn phải cải thiện chính sách để tạo lập một môi trường đầu tư ngày càng thông thoáng hơn. Chương 2 Thực trạng thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn Hà nội 2.1. Tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hà nội giai đoạn 1998-2002. Trong giai đoạn 1998-2001, GDP Hà nội tăng bình quân hàng năm 9.48%, năm 2002 tăng so với 2001là 10.16%. 2.1.1. Những thành tựu đạt được. a) Cơ cấu của nền kinh tế đã chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH: Cơ cấu ngành: ( tính theo GDP và giá thực tế). Tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng từ 36.4%(1998) lên 37.3%(2001) và 38.8%(2002). Tỷ trọng ngành dịch vụ tăng từ 59.6%(98) lên 60%(2001) và 58.8%(02). Tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm từ 4%(98) xuống 2.7%(01) và 2.4%( 02). Cơ cấu thành phần kinh tế: Tỷ trọng khu vực kinh tế trong nước trong GDP giảm 85.3%(98) xuống 81.6%(01). Tỷ trọng khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng tăng từ 14.7%(98) lên 18.4%(01). Đối với khu vực kinh tế trong nước, tỷ trọng kinh tế nhà nước TW giảm từ 56.1%(98) xuống 53.1%(01); tỷ trọng kinh tế nhà nước địa phương giảm từ 9.1%(98) xuống 7.8%(01). b) Vốn đầu tư. Vốn đầu tư xã hội trên địa bàn tăng mạnh từ 13.326 tỷ đ(98) lên 18.120 tỷ đ(01) và 21.167 tỷ đ(02). Vốn đầu tư trong nước tăng mạnh từ 6.095 tỷ đ(98) lên 15.870(01) và 21.167 tỷ đ(02). Trong cơ cấu vốn đầu tư xã hội, tình hình huy động vốn trong nước tăng nhanh từ 46.08%(98) lên 88%(01). Như vậy vốn đầu tư trong nước ngày càng có xu hướng tăng, bước đầu thực hiện chủ trương của Đảng khơi dậy và phát huy tối đa nội lực. Quy mô vốn đầu tư cho ngành dịch vụ 42.2%( tổng vốn đầu tư toàn xã hội) năm 98 lên 65.1%(02); nông nghiệp 1.2% lên 2%; công nghiệp từ 56.4% lên 32.9%. c) Xây dựng và quản lý đô thị: Hoạt động này ngày càng được tăng cường, các vấn đề dân sinh búc xúc như nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường được quan tâm giải quyết. d) Văn hoá xã hội có nhiều tiến bộ. Thành phố tập trung chỉ đạo triển khai nhiều hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Công tác phòng chống tệ nạn xã hội được đẩy mạnh. Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. e) Hoạt động đối ngoại. Hoạt động đối ngoại được mở rộng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được tăng cường, đảm bảo giữ vững ổn định chính trị xã hội trong điều kiện quốc tế và một số địa phương trong nước có những vấn đề phức tạp. 2.1.2. Những khó khăn, hạn chế. Kinh tế tăng trưởng tốt nhưng chưa xứng với vị trí và tiềm năng của thủ đô, hoạt động xuất khẩu gặp nhiều khó khăn do giá xuất khẩu giảm, thị trường bị thu hẹp, cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, nhiều doanh nghiệp chưa chủ động cho hội nhập kinh tế quốc tế. Chi phí trung gian ở các ngành còn cao nhất là sản xuất công nghiệp nên giá trị sản xuất tăng cao nhưng GDP không tăng tương ứng làm hạn chế hiệu quả sản xuất. Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi có chất lượng cao còn chậm, chưa có biện pháp đồng bộ kiểm soát sản xuất và tiêu thụ an toàn. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật tuy được cải thiện song còn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của thủ đô, ùn tắc và tai nạn giao thông không giảm. ý thức chấp hành kỷ cương, pháp luật của một số cán bộ, nhân dân chưa tốt. Thất thu ngân sách còn nhiều, tiến độ cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước chậm, kinh tế hợp tác còn khó khăn. Bộ máy hành chính các cấp còn cồng kềnh, kém hiệu quả, giấy tờ hội họp còn nhiều. Quản lý di dân tự phát còn khó khăn. Một số vấn đề xã hội búc xúc như mại dâm, ma tuý, văn hoá độc hại vẫn diễn biến phức tạp. 2.2. Hiện trạng phát triển công nghiệp trên địa bàn Hà nội. 2.2.1. Những thành tựu đạt được. Trong những năm qua, công nghiệp thủ đô đã có mức tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp khá cao. Giai đoạn 1996-2000 tăng trưởng bình quân đạt 15.36%/ năm so với 13.9%/năm của cả nước. Bình quân 2 năm 2001-2002, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 18.85%/năm, nếu tính riêng năm2002 so với năm 2001 thì tăng 24.3%. Vị thế của công nghiệp Hà nội so với cả nước ngày càng tăng. Nếu như năm 1995 công nghiệp Hà nội chiếm 8.19% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước thì năm 2000 chiếm 8.72%, năm2002 chiếm 9.39%. Tăng trưởng công nghiệp đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hà nội. Nếu như năm 1995 GDP công nghiệp chiếm 24.06% tổng GDP của thành phố thì 2000 tăng lên đến 27.19% và 2001 là 27.25%. Ngành công nghiệp đã góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu của thành phố. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của thành phố giai đoạn 1996-2000 là 30.35%/năm. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến của thành phố tăng từ 47.36% tổng kim ngạch xuất khẩu năm1995 lên 70.67% năm 2000 và 68.97% năm 2001. Ngành công nghiệp đã sản xuất được một số loại sản phẩm góp phần trang bị lại cho nền kinh tế cả nước và đáp ứng phần đáng kể nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Trong điều kiện KTTTm, một số doanh nghiệp công nghiệp của Hà nội đã mạnh dạn đầu tư, đổi mới trang thiết bị công nghệ, vì vậy nhiều sản phẩm làm ra đạt chất lượng được thị trường trong và ngoài nước chấp nhận. Cơ cấu công nghiệp đã có những chuyển biến đúng hướng gắn với thị trường: Phát triển tương đối đa dạng, mặt khác đã bước đầu tập trung hình thành một số nhóm ngành và sản phẩm mũi nhọn: Cơ kim khí, may, da, giày, chế biến lương thực, thực phẩm và công nghiệp điện tử. Nhóm ngành công nghiệp hoá chất đang và sẽ có chiều hướng giảm( trừ hoá dược) vì không phù hợp với tính chất công nghiệp của thủ đô. Cơ cấu các thành phần kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng củng cố và phát triển tương đối đồng đều ở các thành phần kinh tế . Công nghiệp thủ đô đã đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm công nghiệp so với tổng kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế đã tăng lên. Tổ chức sản xuất, quản lý đã bước đầu đổi mới phù hợp hơn với nền sản xuất, hoạt động theo cơ chế thị trường. Nhìn chung các dự án đầu tư nước ngoài vào công nghiệp thủ đô đã đi đúng hướng, khai thác các thế mạnh của Hà nội là kỹ thuật điện, điện tử, công nghiệp sản xuất thiết bị, máy móc, công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp may, da, giày. Từ 1996 đến nay, thành phố đã tập trung chỉ đạo, quy hoạch, xây dựng các khu công nghiệp tập trung. Đến nay, ngoài 9 khu công nghiệp tập trung đã có từ trước, đã quy hoạch và xây dựng được 5 khu công nghiệp tập trung mới có hạ tầng đồng bộ, hiện đại và 13 khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ, bước đầu đáp ứng được nhu cầu mặt bằng cho phát triển công nghiệp trên địa bàn thủ đô. 2.2.2. Những khó khăn, hạn chế. Vị trí và vai trò của ngành công nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng và nguồn lực của Hà nội. Tỷ trọng GDP công nghiệp của Hà nội so với GDP công nghiệp của cả nước mới đạt 6.8% ( năm2000) trong khi đó tỷ trọng này của thành phố HCM là 35.8%. Nhịp độ tăng trưởng GDP công nghiệp của Hà nội còn thấp so với mức tăng trung bình của các trung tâm công nghiệp lớn khác. Một số sản phẩm công nghiệp của Hà nội đã bị mất dần vị trí đối với cả nước như: Động cơ điezen, quần áo dệt kim, thuốc lá điếu... sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp nhìn chung còn yếu. Trên địa bàn thủ đô, nhiều mặt hàng từ thành phố HCM, Trung Quốc ...đang lấn át hàng công nghiệp của thủ đô. Phần lớn các sản phẩm hàng hoá công nghiệp của Hà nội không vươn ra khỏi các tỉnh Bắc Bộ. Việc di dời các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường ra ngoại thành còn chậm. Tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp tập trung còn thấp, công tác xúc tiến đầu tư công nghiệp trên địa bàn còn yếu nên số lượng các dự án đầu tư vào Hà nội trong thời gian qua còn ít, chưa tương xứng với tiềm năng của thành phố. 2.3. Các khu công nghiệp trên địa bàn Hà nội. 2.3.1. Các khu công nghiệp tập trung cũ. Trên địa bàn Hà nội hiện có 9 khu công nghiệp tập trung cũ, các khu công nghiệp này được xây dựng trước thời kỳ đổi mới. Đó là các khu: 2.3.1.1. Khu công nghiệp Minh Khai- Vĩnh Tuy- Mai Động. Diện tích: 81 ha Ngành công nghiệp chính: dệt, chế biến thực phẩm. Đặc điểm: nằm xen kẽ dân cư, trong quá trình đô thị bố trí xí nghiệp tuỳ tiện. 2.3.1.2. Khu công nghiệp Giáp Bát- Trương Định. Diện tích: 32 ha. Ngành công nghiệp chính: chế biến thực phẩm. Đặc điểm: xí nghiệp bố trí xen kẽ dân cư, cơ sở hạ tầng kém, mức độ ô nhiễm cao. 2.3.1.3. Khu công nghiệp Văn Điển- Pháp Vân. Diện tích:39 ha Ngành công nghiệp chính: vật liệu xây dựng Đặc điểm: xí nghiệp xây dựng lâu, thiết bị lạc hậu, ô nhiễm môi trường do chất thải như phân lân, hoá chất. 2.3.1.4. Khu công nghiệp Thượng Đình. Diện tích: 76 ha. Ngành công nghiệp chính: cơ khí, hoá chất, chế ._.doanh nghiệp vừa và nhỏ( mà thành phố đã dành để đầu tư và hỗ trợ trong các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ) để các doanh nghiệp này có thể vào được các khu công nghiệp tập trung. 3.2.3. Mối quan hệ giữa phát triển các khu công nghiệp với các khu đô thị và dân cư. Do nhiều lý do, trong thời gian qua việc phát triển các khu công nghiệp chưa gắn chặt và triển khai đồng bộ với các khu đô thị và dân cư theo đúng phương án quy hoạch( thí dụ như khu công nghiệp Thăng Long, Sóc Sơn). Tình hình đó đã gây một số khó khăn, giảm sức hấp dẫn đối với một số khu công nghiệp. Việc xử lý mối quan hệ này trong thời gian tới nên như thế nào là phù hợp? 3.2.4. Vấn đề về ưu đãi của nhà nước đối với các doanh nghiệp. Các khu công nghiệp tập trung đã có trên địa bàn đều thực hiện thông qua công ty đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng theo quy định tại quy chế quản lý khu công nghiệp ban hành kèm theo Nghị định 36/CP. Các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ thì không theo mô hình công ty đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng mà hầu hết tổ chức theo dạng Cụm công nghiệp, chỉ thành lập Ban quản lý khu công nghiệp để làm nhiệm vụ quản lý nhà nước trong đầu tư và điều hành chung các hoạt động sau đầu tư. Thực ra, mô hình thí điểm tổ chức quản lý khu- cụm công nghiệp thông qua 2 khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ Vĩnh Tuy và Phú Thị không theo quy định tại Nghị định 36/CP chưa được tổng kết, đánh giá một cách nghiêm túc. Còn nhiều ý kiến đặt vấn đề: Mô hình tổ chức các cụm công nghiệp như hiện nay đã phù hợp chưa? Quản lý hoạt động đối với các doanh nghiệp trong các cụm công nghiệp sau khi đầu tư như thế nào? Hà nội có nên mở thêm các khu công nghiệp nữa hay không và nếu có thì nên theo hướng mở thêm các khu công nghiệp tập trung hay các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ? Mô hình tổ chức và cơ chế quản lý các khu công nghiệp như thế nào là phù hợp? Những vấn đề nêu trên có liên quan đến quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố cần được làm rõ trước kia xem xét các cơ chế chính sách cụ thể nhằm khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư vào các khu công nghiệp. 3.2.5. Về các cơ chế chính sách khuyến khích phát triển khu công nghiệp ở Hà nội còn một số vấn đề rất đáng quan tâm, cụ thể là: Hiện nay chưa có được một quy chế quản lý chung đối với các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố. Nhiều cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp theo Nghị định số 36/NĐ-CP, quyết định 53/TTg của Thủ tướng Chính phủ chưa được triển khai thực hiện đầy đủ và nghiêm túc trên địa bàn. Một số cơ chế chính sách hỗ trợ của nhà nước được thực hiện thì lại không đến được với doanh nghiệp mà dừng lại ở nhà đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng. Thành phố mới có một số cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ thu hút các doanh nghiệp trong nước vào các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ (như hỗ trợ 30% kinh phí GPMB, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng trong hàng rào, giao đất trực tiếp và cấp ngay giấy chứng nhận quyền sử dụng với thời gian là 50 năm cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cung cấp điện nước...) mà chưa chú ý đến việc xây dựng các cơ chế, chính sách và giải pháp cụ thể thu hút các doanh nghiệp vào khu công nghiệp tập trung. 3.3. Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn Hà nội. 3.3.1. Các giải pháp đối với các khu công nghiệp xây dựng trước thời kỳ đổi mới. Đối với các khu công nghiệp cũ này mục tiêu bây giờ không phải là thu hút đầu tư mà phải nâng cao hiệu quả hoạt động. 9 khu công nghiệp cũ đều có đặc điểm là thiếu quy hoạch, gây ô nhiễm...Để khắc phục tình trạng này, thành phố có thể áp dụng một số giải pháp sau: Cần đầu tư chiều sâu, thay thế các thiết bị cũ. Nghiên cứu đổi mới công nghệ và xem xét việc chuyển đổi dần những xí nghiệp gây ô nhiễm, ưu tiên sử dụng công nghệ sạch trong sản xuất. Xây dựng từng bước hệ thống xử lý chất thải, tiến tới giảm dần ô nhiễm. 3.3.2. Các giải pháp đối với các khu công nghiệp tập trung mới. “Lấp đầy” các khu công nghiệp tập trung mới trên địa bàn Hà nội đang là vấn đề đối với không chỉ thành phố mà còn đối với các chủ đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng. Tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp trên địa bàn hiện mới đạt khoảng 17% tổng diện tích đã quy hoạch và khoảng 40% diện tích đất đã xây dựng cơ sở hạ tầng, như vậy là quá thấp và tạo nghịch lý “thừa đất công nghiệp” trong cảnh “ tấc đất, tấc vàng” ở Hà nội hiện nay. Tỷ lệ lấp đầy khu công nghiệp thấp như vậy do nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan đã được nêu lên ở chương II. Sau đây là một số giải pháp để có thể cải thiện môi trường đầu tư trong các khu công nghiệp Hà nội, nhằm đạt được mục tiêu “lấp đầy” các khu công nghiệp trong thời gian tới. 3.3.2.1. Nhóm các giải pháp về khung pháp lý. Tất cả các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp khu công nghiệp nói riêng khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải tuân thủ các quy định và hướng dẫn của luật. Như vậy, có thể nói luật pháp là người dẫn đường cho hoạt động của doanh nghiệp. Do đó để có thể thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư vào khu công nghiệp đòi hỏi luật pháp có liên quan phải được ban hành cụ thể, thống nhất. Nội dung các quy định phải rõ ràng, đơn nghĩa. Việc ban hành các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành phải nhanh chóng và phù hợp. Bên cạnh việc ban hành hệ thống pháp luật có liên quan đến khu công nghiệp hoàn chỉnh, nhất quán cũng phải nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật. Các nhà đầu tư chân chính họ rất muốn dựa vào pháp luật để bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ. Do đó, nếu luật được thi hành một cách nghiêm minh thì sẽ tạo tâm lý yên tâm cho nhà đầu tư. 3.3.2.2. Nhóm các giải pháp liên quan đến đất đai và cơ sở hạ tầng. Nếu Hà nội không nhanh chóng đổi mới chính sách về đất đai thì luồng đầu tư sẽ dễ dàng chảy vào các địa phương lân cận. Những địa phương này có khả năng tận dụng cơ sở hạ tầng của Hà nội, xây dựng các khu công nghiệp ở giáp với địa bàn thủ đô với giá rẻ hơn hẳn so với Hà nội đồng thời sẵn sàng “rải thảm” mời các nhà đầu tư. Khung giá đất: Do giá thuê đất tại các khu công nghiệp Hà nội còn cao hơn các địa phương khác nên chưa nhận được sự hưởng ứng cuả các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư trong nước. Do đó nếu áp dụng mức giá cho thuê đất thấp nhất trong khung giá đất do Chính phủ quy định, có thể đề đạt Chính phủ xem xét, xác định lại khung gía đất của Hà nội trong mối tương quan với giá đất các địa phương khác, đặc biệt là các địa phương lân cận. Đồng thời việc ưu đãi về giá thuê đất trong khu công nghiệp nên theo hướng ưu đãi trực tiếp cho các nhà đầu tư mà không thông qua các đơn vị kinh doanh hạ tầng. Tuy nhiên nếu áp dụng giá thuê đất thấp thì doanh nghiệp phát triển cơ sở hạ tầng khu công nghiệp có thể bị thiệt thòi, như vậy thành phố nên hỗ trợ các doanh nghiệp này bằng cách miễn giảm thuế, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng trong hàng rào hoặc cho doanh nghiệp vay vốn tín dụng ưu đãi hoặc trích một phần ngân sách thành phố. Các hỗ trợ của thành phố: Thành phố cần có biện pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp khi thuê đất tại khu công nghiệp: Hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất có gây ô nhiễm hiện đang đóng ở nội thành và các khu dân cư hoặc các doanh nghiệp sẵn sàng hoán đổi diện tích ở nội đô lấy diện tích rộng hơn ở khu công nghiệp di dời đến các khu công nghiệp thông qua việc hỗ trợ một phần chi phí di dời và cho phép hưởng một phần hoặc toàn bộ giá trị quyền sử dụng đất( ở địa điểm cũ). Nguồn vốn cho việc này có thể khai thác từ nguồn tài trợ nước ngoài ( ODA) hoặc từ ngân sách thành phố hoặc từ chính giá trị quyền sử dụng đất mà thành phố thu được. Để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các khu công nghiệp thành phố có thể tập trung phần lớn nguồn vốn tín dụng đầu tư ưu đãi cho các doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp để hỗ trợ xây dựng nhà xưởng cho các doanh nghiệp này và cho phép họ trả dần với lãi suất thấp. Tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tận dụng tất cả các điều kiện để miễn giảm thuế( đặc biệt các biện pháp miễn giảm thuế trong khuôn khổ luật khuyến khích đầu tư trong nước). Giảm, miễn hoặc chậm thu một phần hay toàn bộ các sắc thuế mà thành phố được thu. Xem xét việc giảm thuế VAT và thu nhập doanh nghiệp ( hoàn lại cho doanh nghiệp một phần hoặc toàn bộ phần thuế VAT và thu nhập doanh nghiệp mà thành phố được hưởng). Dùng nguồn vốn ngân sách hoặc tín dụng ưu đãi hỗ trợ cho các doanh nghiệp xây dựng nhà xưởng tại các khu công nghiệp theo thiết kế của chủ đầu tư, sau đó bán trả dần hoặc cho doanh nghiệp thuê( kinh nghiẹm của khu công nghiệp Tân Tạo) sẽ là một giải pháp làm hài lòng nhiều nhà đầu tư, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Ngân hàng nên phối hợp với Tổng cục địa chính để nỗ lực giải quyết vấn đề này thì có thể chỉ trong một thời gian ngắn họ sẽ gỡ được một vướng mắc quan trọng cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp là cần thiết vì giúp doanh nghiệp sử dụng là công cụ thế chấp khi vay tín dụng. Hơn nữa một khi các khu công nghiệp mới hình thành, thành phố có thể đặt một văn phòng cho ngân hàng thương mại đặt chi nhánh ngay trong khu công nghiệp. Thông qua đó, các ngân hàng sẽ có nhiều điều kiện để tiếp cận và giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và trên cơ sở đó thủ tục cho vay tín dụng có thể sẽ được đơn giản và thông thoáng hơn so với hiện nay. Nâng cao chất lượng hoạt động của cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp: Cơ sở hạ tầng là yếu tố quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ sở hạ tầng thì sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Điều này được thể hiện qua việc cung cấp đầy đủ và thường xuyên điện, nước, thông tin cho doanh nghiệp. Cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp phải được xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ với cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp. Thành phố có thể hỗ trợ chủ đầu tư cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển hệ thống dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động của các khu công nghiệp. Nguồn vốn để thực hiện các hỗ trợ này có thể huy động từ các khoản tài trợ của nước ngoài hoặc từ ngan sách thành phố. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn: Nên đa dạng hoá các hình thức để huy động vốn để xây dựng và hoạt động khu công nghiệp. Phải kết hợp giữa nguồn vốn trong và ngoài nước để xây dựng cơ sở hạ tầng cho khu công nghiệp. Không nên có quan điểm sai lầm là nhất thiết phải có nguồn vốn của nước ngoài thì dự án mới hiêụ quả và khả thi cao hơn. Ví dụ như trường hợp của khu công nghiệp Sài Đồng B hoàn toàn sử dụng vốn trong nước do công ty Hanel đầu tư nhưng lại đạt hiệu quả cao. Trong khi đó khu công nghiệp Hà nội - Đài Tư được đầu tư theo hình thức 100% vốn của Đài Loan nhưng tốc độ triển khai lại chậm và đến nay mới chỉ thu hút được 4 dự án. 3.3.2.3. Nhóm các giải pháp liên quan đến quản lý nhà nước và thủ tục hành chính. Thành công của các địa phương trong việc thu hút các nhà đầu tư đòi hỏi trước hết là sự quan tâm chỉ đạo của các cấp lãnh đạo Đảng và chính quyền. Thành công này đòi hỏi không chỉ sự đổi mới trong tư duy lãnh đạo kinh tế mà đòi hỏi cả đổi mới trong phương thức ứng xử của từng công chức trong các cơ quan công quyền theo hướng chuyển từ tư duy “ra lệnh, cho phép” sang “tạo điều kiện hỗ trợ và giám sát” Các thủ tục hành chính nên được cải thiện theo hướng tinh gọn một cửa, một dấu, giảm thiểu phiền hà cho nhà đầu tư. Thời gian cấp phép cho một dự án vào khu công nghiệp càng rút ngắn càng tốt, chỉ từ 2- 3 ngày. Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động, Ban quản lý khu công nghiệp cũng nên tạo mọi điều kiện thuận lợi và cùng tháo gỡ khó khăn, ách tắc cho doanh nghiệp. Đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước khi đầu tư vào khu công nghiệp, cho phép hưởng những quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Có như thế mới thu hút được nhiều nhà đầu tư trong nước vào khu công nghiệp. Tăng cường sự phân cấp quản lý nhà nước cho Ban quản lý các khu công nghiệp. Sự phân cấp ở đây nên tiến hành đồng bộ và toàn diện hơn, cụ thể có thể giao toàn bộ chức năng quản lý nhà nước về FDI cho Ban quản lý các khu công nghiệp, đồng thời đây là đầu mối giải quyết mọi vấn đề liên quan đến đầu tư trong và ngoài nước vào khu công nghiệp. 3.3.2.4. Nhóm các giải pháp về tổ chức bộ máy của Ban quản lý. Trang bị cơ sở vật chất cho Ban quản lý: Để nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban quản lý phải đầu tư hơn nữa cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động của các cán bộ nhân viên trong Ban. Tổ chức bộ máy của Ban: Không ngừng hoàn thiện bộ máy Ban quản lý khu công nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý. Có thể cử cán bộ quản lý sang các địa phương khác, thậm chí ra nước ngoài để học tập và tích luỹ kinh nghiệm. 3.3.2.5. Nhóm các giải pháp liên quan đến dịch vụ. Phát triển các dịch vụ cho khu công nghiệp: Thành phố có nhiệm vụ phát triển các khu dân cư, khu đô thị, các cơ sở hạ tầng xã hội như các trung tâm thương mại, trường học, bệnh viện... xung quanh các khu công nghiệp. Trong các cơ sở hạ tầng xã hội bao quanh các khu công nghiệp đặc biệt quan trọng là khu nhà ở cho công nhân. Để tiến hành hoạt động, khu công nghiệp hàng năm thu hút thêm rất nhiều lao động, các lao động ở địa phương và các lao động ở nơi khác đến. Vì thế nhu cầu về nhà ở của công nhân là rất lớn và sẽ không ngừng tăng lên trong những năm tới. Song việc xây dựng nhà lưu trú cho công nhân thuê cần có số vốn rất lớn và thời gian thu hồi vốn rất dài nên vừa qua tại các khu công nghiệp Việt Nam nói chung và các khu công nghiệp Hà nội nói riêng chưa có đơn vị kinh doanh nhà đầu tư vào xây dựng nhà. Do đó khi quy hoạch các khu công nghiệp nên nhất thiết quy hoạch khu dân cư bao gồm khu tái định cư, khu nhà ở công nhân và khu nhà ở cho chuyên gia. Khu nhà ở công nhân cũng nên có phân loại hợp lý với từng khu lưu trú cho từng đối tượng. Bên cạnh khu nhà ở còn phải quy hoạch các khu dịch vụ phục vụ cho sinh hoạt như trường học, chợ, ngân hàng, các khu vui chơi, giải trí.. có như vậy các khu công nghiệp( đặc biệt là các khu công nghiệp ở xa trung tâm) mới có thể thu hút được nhiều lao động ( đặc biệt là lao động tay nghề cao). Giảm giá dịch vụ: Các nhà đầu tư (đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài) đều phàn nàn giá cả các loại dịch vụ ở Hà nội rất đắt đỏ. Đây là một thiệt thòi cho các khu công nghiệp Hà nội trong thu hút các nhà đầu tư so với các địa phương khác. Việc tiến tới áp dụng một giá đối với nhà đầu tư trong nước và nước ngoài không thuộc thẩm quyền của thành phố, thành phố có thể kiến nghị lên Chính phủ giải quyết trên phương diện quốc gia. Trong phạm vi thẩm quyền của mình, thành phố có thể tổ chức các buổi làm việc với một số chủ hãng xe taxi, công ty bưu chính viễn thông, điện lực, cấp thoát nước... của thành phố tìm một cách thức áp dụng giá cả thống nhất và đảm bảo cho nhà đầu tư được cung cấp dịch vụ có chất lượng cao và giá cả phải chăng. Vấn đề tuyển dụng lao động: Hiện nay mặc dù thành phố có nhiều trung tâm đào tạo nhưng các trung tâm này chưa đảm bảo chất lượng về lao động cho nhu cầu của các khu công nghiệp. Để khắc phục tình trạng thành phố có thể hình thành và khuyến khích hình thành các trung tâm đào tạo dạy nghề với sự phối hợp giữa doanh nghiệp và các trường dạy nghề phục vụ trực tiếp cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Có như vậy doanh nghiệp mới có thể đưa ra các yêu cầu về đào tạo lao động phù hợp với nhu cầu tuyển dụng của mình. Trong các khu công nghiệp cũng có thể xây dựng các trung tâm đào tạo lao động để cung cấp lao động cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp( như khu công nghiệp Sài Đồng B). Thành phố có thể hỗ trợ một phần chi phí cho việc học nghề của người lao động của các doanh nghiệp khu công nghiệp. Song biện pháp này chưa phải là hiệu quả nhất và mang tính bền vững. Trên cơ sở lợi thế của Hà nội -Trung tâm văn hoá, KHKT của cả nước, Hà nội cần khai thác nhiều hơn nữa thế mạnh của một địa bàn có nhiều Viện nghiên cứu, nhiều trường đại học và nhiều cơ sở dạy nghề. Hà nội cần tạo ra một cơ chế khuyến khích hợp tác giữa cơ sở nghiên cứu với cơ sở kinh doanh, phối hợp giữa trường dạy nghề và các doanh nghiệp. Các trung tâm đào tạo lao động cho doanh nghiệp trong khu công nghiệp do thành phố thành lập hoặc do khu công nghiệp thành lập phải đảm bảo cung cấp lao động có chất lượng với giá cả hợp lý thì các doanh nghiệp sẽ yên tâm đầu tư vào khu công nghiệp. Tăng cường dịch vụ cung cấp thông tin cho doanh nghiệp: Theo kinh nghiệm để thành công của các khu công nghiệp trên thế giới cũng như các khu công nghiệp trong nước là đều có cơ sở hạ tầng rất tốt về hệ thống thông tin để phục vụ cho nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư. Chẳng hạn như các khu công nghiệp ở Trung Quốc, Đài Loan, Malaixia, ... còn ở Việt Nam như khu công nghiệp Tân Tạo, ngoài hệ thống telephone thông thường trong nước và quốc tế họ còn trang bị các hệ thống truyền thông tin hiện đại như: Hệ thống mạng DDN, ISDN phục vụ cho việc truy cập Internet tốc độ cao. Các dịch vụ VoIP, Faxo IP, VoATM... phục vụ cho các cuộc hội thảo từ xa; Hệ thống cáp quang, viba số phục vụ cho truyền số liệu;...và các dịch vụ cho thuê phần mềm quản lý nhân sự, tiền lương, sản xuất, lập kế hoach... được cung cấp bởi chính Ban quản lý các khu công nghiệp. Điều này giúp cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp không cần phải đầu tư nhiều về nhân lực và thiết bị ban đầu như nhân viên quản trị mạng, máy chủ.. các dịch vụ trên rất thích hợp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp có nhiều văn phòng, chi nhánh ở khắp nơi. Với cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin hiện đại như vậy, các khu công nghiệp càng nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, thu hút được sự chú ý của nhiều nhà đầu tư, tạo nên hình ảnh một khu công nghiệp hiện đại, năng động của thế kỷ 21, kỷ nguyên của thời đại thông tin. Tại Việt Nam, hầu hết các khu công nghiệp chưa chú trọng đến lĩnh vực này. Hiện tại các khu công nghiệp ở Việt Nam nói chung và ở Hà nội nói riêng, các nhà đầu tư chưa được hưởng dịch vụ nào về CNTT của khu công nghiệp ngoài các cơ sở hạ tầng cơ bản khác như điện, nước, giao thông, điện thoại...Một khi các doanh nghiệp có nhu cầu dịch vụ về CNTT thì các khu công nghiệp không có sẵn để đáp ứng. Như vậy các dịch vụ thông tin không chỉ đơn thuần đáp ứng nhu cầu cho hoạt động của Ban quản lý mà còn là một tiện ích nhằm đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh cũng như thu hút các nhà đầu tư vào khu công nghiệp. Các loại hình dịch vụ cần thiết phải xây dựng trong thời điểm hiện nay và để phát triển về sau gồm: E-commerce/ Thương mại điện tử. ASP( Application Services Provide)/ Nhà cung cấp dịch vụ ứng dụng. Voice/ Video: phục vụ cho các cuộc hội thảo. ISP( Internet Services Provider)/ Nhà cung cấp dịch vụ Internet. Nếu tạo được cho khu công nghiệp Hà nội một hình ảnh nổi bật như vậy thì khu công nghiệp Hà nội sẽ có hệ thống thông tin hoàn chỉnh, phù hợp với xu thế phát triển của công nghệ và tạo ra lợi ích cho người dùng thì sự đầu tư ngày hôm nay của khu công nghiệp sẽ là sự ấn định đảm bảo cho sự vượt trội và thành công của các khu công nghiệp Hà nội so với các khu công nghiệp khác trong tương lai. 3.3.2.6. Các giải pháp về công tác xúc tiến đầu tư. Xúc tiến đầu tư là một hoạt động giữ vai trò quyết định đối với sự thành công của khu công nghiệp. Nhưng trong thời gian qua, công tác xúc tiến đầu tư lấp đầy các khu công nghiệp Hà nội chưa được quan tâm thích đáng. Để lấp đầy các khu công nghiệp Hà nội hiện nay, buộc chúng ta phải có cái nhìn nghiêm túc về vấn đề này. Việc xúc tiến đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội hiện nay đang là một vấn đề rất cấp bách. Để các nhà đầu tư biết được tiềm năng, cơ hội của các khu công nghiệp Hà nội chúng ta phải: Quảng bá tiềm năng, cơ hội đầu tư vào khu công nghiệp: Lập và đưa lên mạng trang web về khu công nghiệp và ghi vào đĩa CD với đầy đủ những nội dung về khu công nghiệp giúp cho nhà đầu tư có được thông tin chính xác và cập nhật nhất về môi trường đầu tư tại khu công nghiệp. In cataloge, xuất bản tập tin khu công nghiệp, tạp chí và đăng ký chế độ phát thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình TW, đài truyền hình Hà nội và một số tờ báo có uy tín. Lập các đề án định hướng đầu tư vào khu công nghiệp ( có tính chất tiền khả thi) nhất là những lĩnh vực đầu tư được ưu tiên, khuyến khích để nhà đầu tư có được những thông tin ban đầu về cơ hội, tiềm năng cho các nhà đầu tư khi tiếp cận, tìm hiểu đầu tư vào khu công nghiệp. Tổ chức tiếp xúc,vận động đầu tư vào khu công nghiệp: Thường xuyên liên hệ trực tiếp làm việc với lãnh đạo thành phố để thu hút các dự án quan trọng có vai trò đột phá đối với khu công nghiệp. Tổ chức hội thảo trong nước tại các thành phố lớn và mời tham gia dự là các doanh nghiệp có quan tâm đến khu công nghiệp, các công ty, tổ chức tư vấn đầu tư có uy tín, các tổ chức ngoại giao của các quốc gia có quan hệ đầu tư với Việt Nam. Chủ động và sẵn sàng gặp gỡ với các nhà đầu tư trong và ngoài nước khi họ có ý định đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội, qua đó trực tiếp đàm phán, thảo luận và cung cấp cho họ những thông tin, tài liệu cần thiết cho việc quyết định đầu tư. Phối kết hợp hoặc thuê các tổ chức tư vấn, tổ chức xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước nhất là các tổ chức có kinh nghiệm trong thu hút đầu tư nước ngoài xây dựng cơ sở dữ liệu và tài liệu kêu gọi đầu tư, tổ chức các cuộc hội thảo tại nước ngoài, để tiếp thị các dự án định hướng đầu tư ( đặc biệt là các dự án công nghệ cao) vào các khu công nghiệp Hà nội. Xây dựng xong khu công nghiệp, nếu không quảng cáo hình ảnh của khu công nghiệp với môi trường đầu tư thuận lợi của mình thì các nhà đầu tư không bao giờ biết đến sự tồn tại của khu công nghiệp đó, và khi đó ý định đầu tư vào khu công nghiệp cũng sẽ không bao giờ tồn tại. 3.3.2.7. Những giải pháp về phía công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp. Thành phố và Chính phủ trong giấy phép đầu tư cấp cho các công ty kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp phải ghi rõ các điều khoản quy định và các chế tài đủ hiệu lực kèm theo buộc các đối tác kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp tập trung phải đảm bảo tiến độ và mức độ hoàn tất là lấp đầy khu công nghiệp tập trung. Có như vậy mới ràng buộc trách nhiệm đối với công ty kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp. Thành phố có thể mạnh dạn tập trung vốn lập công ty đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của thành phố để triển khai đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong những khu công nghiệp tập trung nào mà đối tác nước ngoài không có đủ khả năng tài chính hay thiếu động lực đầu tư. Trong bối cảnh tình hình đầu tư chung và đặc thù của ngành kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp cả nước thì vấn đề hiệu quả kinh tế cụ thể là con số lợi nhuận hàng năm của công ty không cao, từ đó cũng làm hạn chế một số mặt hoạt động của công ty. Còn để đảm bảo hiệu quả kinh tế và các khoản đóng góp vào ngân sách như các doanh nghiệp nhà nước khác, các công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp phải tính đúng, tính đủ các thành phần chi phí vào giá thành, làm cho giá thuê đất lại tăng cao, không thu hút được các nhà đầu tư. Điều này hầu hết các doanh nghiệp đầu tư xây dựng, phát triển và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp trong cả nước( cũng như ở Hà nội) đều gặp phải và tại nhiều địa phương đã nhanh chóng đưa ra các giải pháp tích cực , ví dụ như chi từ nguồn vốn ngân sách cho việc đầu tư hạ tầng đến chân hàng rào khu công nghiệp, hỗ trợ cụ thể cho từng dự án hạ tầng bên trong hàng rào khu công nghiệp. Một giải pháp cũng được các chuyên gia đồng tình là nhanh chóng chuyển đổi các công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp từ mô hình doanh nghiệp nhà nước sang mô hình đơn vị sự nghiệp có thu. 3.3.3. Các giải pháp đối với khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Hiện chưa có quy chế chính thức quy định về hoạt động của các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Sau khi hoàn thành xây dựng thí điểm 2 khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ Vĩnh Tuy- Thanh Trì, Phú Thị- Gia Lâm, các khu -cụm này đã được các doanh nghiệp đăng ký lấp đầy. Thành phố đã chỉ đạo, sơ kết, rút kinh nghiệm để có thể phát triển các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ đồng thời thu hút đầu tư lấp đầy các khu cụm công nghiệp này 3.3.3.1. Các giải pháp để đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Trong tổ chức thực hiện chỉ nên có một chủ đầu tư trong một dự án. Nên thành lập Ban quản lý dự án khu -cụm riêng (như ở Gia Lâm và Thanh Trì) để tập trung giải quyết công việc và quản lý sau đầu tư. Đồng thời kiện toàn và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý. Cần cải tiến các bước tiến hành các thủ tục đầu tư XDCB( tạm giao đất GPMB, xét duyệt các dự án vào khu công nghiệp trong khi xây dựng hạ tầng kỹ thuật...) cho nhanh gọn. Xây dựng hạ tầng kỹ thuật đến đâu, giao đất cho doanh nghiệp xây dựng nhà xưởng đến đó để đẩy nhanh tiến độ xây dựng khu công nghiệp. Cần đa dạng hoá hình thức huy động vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, khuyến khích hình thức BOT trong nước. 3.3.3.2. Các giải pháp về các chính sách hỗ trợ đầu tư. Ngân sách hỗ trợ 100% kinh phí xây dựng đường trục chính trong khu - cụm công nghiệp; ngành điện đầu tư bán điện đến từng doanh nghiệp. Ngành nước cấp nước đến khu- cụm công nghiệp theo hợp đồng kinh doanh, kêu gọi các doanh nghiệp thực hiện dự án theo hình thức BOT đối với lĩnh vực cấp thoát nước, xử lý, thu gom rác thải công nghiệp. Khuyến khích các nhà đầu tư vào các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ tại các huyện xa nội đô như tại huyện Đông Anh, doanh nghiệp được miễn tiền thuê đất trong 5 năm đầu và giảm 50% trong 5 năm tiếp theo, miễn tiền thuê đất 10 năm nếu đầu tư vào huyện Sóc Sơn. Doanh nghiệp được hỗ trợ 50%kinh phí đào tạo theo dự án được duyệt. Công ty xây dựng đầu tư hạ tầng trong các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ được miễn tiền thuê đất trong suốt quá trình thực hiện dự án, được vay vốn tín dụng ưu đãi. Đối với các doanh nghiệp di dời ra khỏi nội đô được hỗ trợ 100% tiền san lấp và GPMB, đường vào nhà máy. Tổ chức bộ máy đầu tư và quản lý sau đầu tư các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Ban quản lý KCN, KCX sẽ tham mưu cho thành phố ban hành quy chế quản lý khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ sau đầu tư. 3.4. Mối quan hệ giữa khu công nghiệp tập trung và khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Về quan hệ giữa khu công nghiệp tập trung và các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ cần nhận thức rằng cả 2 loại hình khu công nghiệp này đều quan trọng như nhau vì đều đáp ứng định hướng, mục tiêu phát triển công nghiệp nói riêng, kinh tế- xã hội nói chung của thành phố. Hơn nữa, cần xuất phát từ thực tế đã, đang và sẽ tiếp tục còn tồn tại trên địa bàn thủ đô mô hình “cơ cấu kinh tế 2 tầng”. Tầng trên là các công ty, doanh nghiệp lớn ( thường là của nhà nước và nước ngoài) và tầng dưới là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vấn đề là phải xác định mối quan hệ giữa chúng như thế nào? Thực tế đã cho thấy các doanh nghiệp hoạt động trong khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ sẽ phát sinh nhiều vấn đề về môi trường và quản lý trật tự đô thị. Vì vậy, trừ những khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ đã và đang xây dựng còn những khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ trong tương lai nên: Hoặc được gắn kết bao quanh các khu công nghiệp tập trung( với tư cách là các cơ sở vệ tinh hoặc để tiện xử lý tập trung các yêu cầu về môi trường do chất thải công nghiệp gây ra). Hoặc nên được đưa ra xa khỏi các khu dân cư, tốt nhất là nằm sát ranh giới với các địa phương quanh Hà nội ( để có thể biến chúng thành đầu cầu giao lưu kinh tế giữa Hà nội và các địa phương này. Về quan hệ giữa khu công nghiệp tập trung và các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ với khu dân cư: Một mặt cần có cái nhìn dài hạn trong việc “cách ly” từ đầu các khu công nghiệp tập trung và khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ khỏi các khu dân cư, nhất là các khu hành chính, chính trị, văn hoá lịch sử lâu đời của thủ đô để tránh và giảm thiểu các chi phí và tổn hại do phải di dời về sau, mặt khác nên chấp nhận tất yếu lịch sử sẽ có sự hình thành các khu, cụm “dân cư công nghiệp” mới bao quanh hoặc đan xen trong các khu công nghiệp tập trung và khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ trong tương lai. Kết luận Qua nghiên cứu thực trạng thu hút đầu tư của các khu công nghiệp trên địa bàn Hà nội chúng ta có thể thấy bên cạnh những thuận lợi như những lợi thế sẵn có của Hà nội về con người, cơ sở vật chất...và cả những cơ chế, chính sách ưu đãi của thành phố dành cho các khu công nghiệp thì các khu công nghiệp Hà nội cũng còn có những khó khăn trong môi trường đầu tư như những vấn đề về pháp lý, đất đai, các vấn đề liên quan đến cung cấp dịch vụ...chính những điều này làm hạn chế dòng đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội, làm cho khả năng thu hút đầu tư của các khu công nghiệp Hà nội còn thua kém một số tỉnh và thành phố khác. Nhưng với mục tiêu đưa Hà nội trở thành trung tâm công nghiệp của cả nước, chúng ta phải tháogỡ những khó khăn trên, phải không ngừng tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm để xây dựng, phát triển các khu công nghiệp Hà nội trở thành hạt nhân phát triển kinh tế của thủ đô. Chúng ta phải biết tận dụng lợi thế của Hà nội - trung tâm kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật... của cả nước để xây dựng các khu công nghiệp Hà nội đúng theo quy hoạch, có cơ sở hạ tầng kỹ thuật đầy đủ, cơ chế quản lý thống nhất và hệ thống các chính sách ưu đãi về tài chính và thuế đủ hấp dẫn. Có như thế khu công nghiệp Hà nội mới trở thành một mô hình kinh tế năng động, bền vững, xứng đáng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của thủ đô. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Lập và quản lý dự án - NXB. Thống kê Hà nội 2. Giáo trình Đầu tư quốc tế - NXB Đại học quốc gia Hà nội 3. Giáo trình Các khu chế xuất, châu á Thái Bình Dương - NXB. Thống kê Hà Nội 4. Nghị định NĐ-36/CP về ban hành quy chế KCN, KCX, KCNC 5. Tạp chí công nghiệp Việt Nam -Số 16/2000; Số 3, 13, 29, 22 năm 2001; Số 4, 6 năm 2002 6. Tạp chí Thông tin khu công nghiệp - Số 1/2001; Số 1/2002; Số 24/2003 7. Thời báo Kinh tế Việt Nam - Số 25/2002; Số 2/2002 8. Các báo cáo chuyên đề hàng tháng của HĐND,UBND, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Công nghiệp. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0041.doc
Tài liệu liên quan