Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khu công nghiệp giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng khu công nghiệp chính là thực hiện ý tưởng "đi tắt, đón đầu" trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Điểm mạnh của khu công nghiệp là thu hút mạnh mẽ đầu tư trong và ngoài nước.
Nhận thức được điều đó, hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994) đã đặt ra vấn đề "quy hoạch các vùng, trước hết là các địa bàn trọng điểm, các khu ch
99 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1411 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế xuất, khu kinh tế đặc biệt, khu công nghiệp tập trung". Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII nêu rõ "cải tạo các khu công nghiệp hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất, xây dựng mới một số khu công nghiệp phân bố rộng trên các vùng". Ngày 24/4/1997 chính phủ đã ban hành nghị định 36/CP tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và vận hành khu công nghiệp tập trung trên phạm vi cả nước.
Nghệ An là một tỉnh lớn cả về diện tích và dân số, điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi để phát triển công nghiệp, nhưng hiện nay vẫn là một tỉnh nghèo. Để đưa Nghệ An thoát khỏi tình trạng tỉnh nghèo và kém phát triển vào năm 2010, cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020 đòi hỏi phải đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghiệp và dịch vụ. Đại hội đại biểu lần thứ XVI Đảng bộ tỉnh Nghệ An (12/2005) đã khẳng định "từ nay đến 2010 khuyến khích các nhà đầu tư lấp đầy các khu công nghiệp Bắc Vinh, Nam Cấm, Cửa Lò theo quy hoạch đã được duyệt..."
Cùng với sự phát triển các khu công nghiệp cả nước, các khu công nghiệp ở Nghệ An ra đời đã trở thành một trong những địa điểm thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, tạo động lực lớn cho quá trình tiếp thu khoa học công nghệ, phân công lại lao động phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, việc thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Các dự án đầu tư vào khu công nghiệp triển khai chậm, tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp rất thấp. Hầu hết các dự án đầu tư có quy mô nhỏ, nguồn vốn đầu tư chủ yếu là nguồn vốn trong nước, vốn FDI rất hạn chế. Nhu cầu đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển dịch vụ, các ngành phụ trợ ở các khu công nghiệp rất lớn nhưng vốn huy động được quá ít...
Làm thế nào để thu hút được nhiều vốn đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An trong thời gian tới vẫn là một nhiệm vụ cần thiết, cấp bách. Xuất phát từ yêu cầu đó tác giả chọn vấn đề "Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu
Thu hút đầu tư nói chung và thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp nói riêng là một vấn đề mang tính chiến lược đã được Đảng và nhà nước ta quan tâm thể hiện qua đường lối, chủ trương chính sách phát triển kinh tế- xã hội. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập vấn đề này, trong đó đáng chú ý một số công trình như:
Trần Xuân Kiên,"Chiến lược huy động và sử dụng vốn trong nước cho phát triển nền công nghiệp Việt Nam", Nxb lao động 1998.
PGS .TS Vũ Văn Phúc- TS Trần Thị Minh Châu, "Các khu công nghiệp tập trung và vai trò của nó trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam", Tạp chí Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương số 12,13 và 14 năm 2004.
Bộ kế hoạch và đầu tư, Tạp chí cộng sản, Ban kinh tế trung ương, UBND tỉnh Đồng Nai, Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Đồng Nai tháng 11/ 2004.
Trần Xuân Tùng, "Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp", Nxb Chính trị Quốc gia 2005.
Nguyễn Bá, "Các khu công nghiệp ở Nghệ An sẵn sàng đón nhận các nhà đầu tư", Tạp chí Kinh tế và dự báo số 8 năm 2005.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An một cách có hệ thống và dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng và đưa ra những giải pháp đồng bộ nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An hiện nay là vấn đề rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của việc thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp, phân tích thực trạng, đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư, khu công nghiệp, thu hút đầu tư vào khu công nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An trong những năm qua.
- Xây dựng phương hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Môi trường đầu tư và các hình thức thu hút đầu tư vào khu công nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề thu hút vốn bằng tiền trong và ngoài nước đầu tư trực tiếp vào các khu công nghiệp ở Nghệ An từ năm 1998 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm chỉ đạo, chủ trương, chính sách của Đảng ta về phát triển các khu công nghiệp.
- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, kết hợp các phương pháp hệ thống, thống kê, phân tích- tổng hợp, kết hợp lôgic- lịch sử, khảo sát thực tế, tổng kết thực tiễn. Đồng thời đề tài có kế thừa và sử dụng có chọn lọc những đề xuất và các số liệu trong một số công trình nghiên cứu của các tác giả khác.
6. Những đóng góp của luận văn
Trình bày có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về khu công nghiệp và thu hút đầu tư vào khu công nghiệp.
Đề xuất những giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định những chính sách phát triển các khu công nghiệp ở Nghệ An và cho sinh viên các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Khu công nghiệp và thu hút đầu tư
vào khu công nghiệp
1.1. Khu công nghiệp
1.1.1. Khái niệm khu công nghiệp
Ngày nay, KCN xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mặc dù thuật ngữ KCN được sử dụng khá phổ biến nhưng bản thân nó lại bao hàm nhiều loại hình, nhiều mô hình tổ chức và tính chất hoạt động khác nhau. Một số nước KCN được hiểu là các công viên công nghiệp (Industrial Parks). Có những KCN được gọi là cụm công nghiệp (Industrial Clusters). Những KCN hoạt động chuyên về sản xuất hàng xuất khẩu với quy chế miễn thuế nhập khẩu được gọi là khu chế xuất (KCX) (Export Processing Zones). Khu công nghiệp cũng có thể là khu công nghệ cao (Hight tech centres) hoặc khu công nghệ cao là một bộ phận của KCN.
Nghị định 36- CP ngày 24/4/1997 của chính phủ nêu rõ:
KCX là KCN tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ quyết định thành lập .
Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên cứu- triển khai khoa học- công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan, có ranh giới địa lý xác định; do chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghệ cao có thể có doanh nghiệp chế xuất [24].
Ngoài ra, KCN còn có những hình thái biến tướng như khu công nghệ sinh học (Bio Technology Park), khu công nghệ sinh thái (Eco Industrial Park)...
Như vậy, KCN là một thuật ngữ để chỉ một vùng lãnh thổ quốc gia được xác định ranh giới địa lý rõ ràng. Trong đó các doanh nghiệp công nghiệp tập trung đầu tư, hoạt động, phát triển do có kết cấu hạ tầng tốt, có môi trường kinh doanh tốt (ưu đãi của nhà nước về đất đai, tài chính) và có thị trường tốt (thị trường đầu vào, đầu ra và dịch vụ). Đây là kết quả của quá trình tích tụ, tập trung, chuyên môn hoá sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ, là hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp phù hợp với yêu cầu của quá trình CNH, HĐH nền kinh tế.
* Quy chế KCN (Ban hành kèm theo nghị định số 192-CP ngày 28/12/1994 của chính phủ) đã đưa ra quan niệm: "KCN quy định trong quy chế này là KCN tập trung do chính phủ quyết định thành lập, có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sống" [25, tr.1].
* Theo luật đầu tư được quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 có hiệu lực thi hành từ 01/7/2006 thì: "Khu công nghiệp là khu sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của chính phủ" [34, tr.16].
Nhìn chung, các tiêu chí để hình thành một khu công nghiệp bao gồm:
Thứ nhất, KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp nghiệp có đủ cơ sở pháp lý, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
Thứ hai, KCN là khu vực có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, xây dựng theo quy hoạch tổng thể đã được chính phủ phê duyệt.
Thứ ba, KCN phải do chính phủ hoặc do thủ tướng chính phủ quyết định thành lập. Khi muốn hình thành KCN đã có trong quy hoạch tổng thể thì UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo việc lập báo cáo nghiên cứu khả thi thành lập KCN và trình thủ tướng chính phủ xem xét quyết định thành lập.
Thứ tư, trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất. Đó là các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu.
Trên cơ sở 4 tiêu chí trên, chúng tôi thống nhất với khái niệm về KCN đã được nêu ra trong nghị định 36-CP ngày 24/4/1997 của chính phủ về quy chế KCN, KCX và khu công nghệ cao:
Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất [24].
Với khái niệm như vậy, KCN của Việt Nam được hiểu là khu công nghiệp tập trung, không có dân cư sinh sống nhằm giải quyết tốt hơn vấn đề hạ tầng và ô nhiễm môi trường, có phân biệt với các vùng công nghiệp (bao gồm nhiều KCN), với các đặc khu kinh tế (có bộ máy quản lý hành chính độc lập). Theo quan niệm của Việt Nam, các KCX (chuyên sản xuất hàng hoá xuất khẩu và dịch vụ cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu), khu công nghệ cao (tập trung các doanh nghiệp có công nghệ cao hoặc doanh nghiệp dịch vụ cho các doanh nghiệp có công nghệ cao) chỉ là hình thái đặc thù của KCN tập trung.
1.1.2. Vai trò của khu công nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam
Trải qua một thời gian xây dựng và phát triển, các KCN nước ta từng bước khẳng định vị trí, tầm quan trọng, trở thành một động lực to lớn trong tiến trình CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Vai trò của KCN thể hiện ở những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, KCN tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư. Giống như các nước đang phát triển khác, Việt Nam rất cần vốn, kỹ thuật, thị trường và kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp công nghiệp. Song, môi trường kinh doanh tổng thể của đất nước chưa đáp ứng yêu cầu của đầu tư nước ngoài như điều kiện kết cấu hạ tầng, lao động có tay nghề cao, chất lượng quản lý hành chính. Nếu chờ đầu tư để cải thiện môi trường chung thì vừa lâu vừa không khả thi vì nguồn lực trong nước cũng như khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế đang ở mức thấp. Chính vì thế, việc xây dựng các KCN là con đường thu hút đầu tư nhanh nhất. Bởi vì, trong những ranh giới xác định của KCN, nhà nước có thể tập trung nguồn lực của mình nhằm tạo ra kết cấu hạ tầng hiện đại, tạo điều kiện giảm bớt chi phí, rủi ro ban đầu cho nhà đầu tư, từ đó khuyến khích họ bỏ vốn đầu tư vào KCN. Nhà nước có thể thi hành những hệ thống ưu đãi có chọn lựa khác nhau để thu hút các nhà đầu tư trong khi chưa cải cách ngay được hệ chính sách chung.
Xây dựng các KCN tập trung không những thu hút đầu tư mới mà còn có điều kiện để di dời các cơ sở công nghiệp xây dựng ở các vị trí không thích hợp. Nhiều doanh nghiệp công nghiệp được xây dựng trước đây do không được quy hoạch dài hạn, nên khi có nhu cầu đẩy mạnh phát triển công nghiệp thì các doanh nghiệp này không có địa bàn mở rộng quy mô. Có những doanh nghiệp còn bố trí xen lẫn với khu dân cư, khu hành chính, trường học... gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường đô thị. Việc đưa những doanh nghiệp công nghiệp này vào các KCN vừa tạo điều kiện mở rộng đầu tư vừa đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Xây dựng các KCN cũng chính là chủ trương huy động nguồn vốn trong nước và nước ngoài vào phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại ngang tầm với các nước trong khu vực. Việc cho phép thực thi đa dạng các mô hình kinh doanh hạ tầng KCN (doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp nhà nước), Việt Nam muốn tận dụng mối quan hệ quốc tế của chủ đầu tư nước ngoài trong việc kêu gọi đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước sử dụng có hiệu quả nguồn vốn từ ngân sách để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đất nước.
Kết cấu hạ tầng trong KCN sẵn có và những chính sách ưu đãi cùng với cơ chế quản lý đặc biệt, thủ tục đầu tư ngày càng đơn giản, thuận tiện hơn so với bên ngoài KCN sẽ giúp nhà đầu tư nhanh chóng triển khai dự án, tránh bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp tìm mọi cách tối thiểu hoá chi phí để đạt được giá thành rẻ nhất. KCN là địa bàn mà doanh nghiệp có thể thực hiện được điều đó. KCN được xây dựng tập trung theo chiều dọc, là nơi có nhiều đất trống, gần cảng, giao thông thuận lợi cho xe trọng tải lớn ra vào, mạng lưới điện để cho nhà đầu tư có thể xây dựng và vận hành các nhà máy. KCN còn được trang bị kết cấu hạ tầng đầy đủ nên khi đầu tư vào thì các nhà đầu tư sản xuất sẽ giảm được rất nhiều chi phí như chi phí mua đất xây dựng nhà máy với giá cao, chi phí xây dựng hệ thống đường dây tải điện, đường giao thông vận tải vào nhà máy, thiết lập hệ thống thông tin liên lạc... Việc bố trí các nhà máy theo chiều dọc (sản phẩm của nhà máy này là nguyên liệu của nhà máy khác) và tập trung vào một khu vực nên các doanh nghiệp dễ dàng giải quyết đầu vào và đầu ra với chi phí thấp nhất. Do đó, các doanh nghiệp KCN có điều kiện thuận lợi để đạt mục tiêu lợi nhuận hơn bên ngoài KCN nên KCN hấp dẫn nhà đầu tư hơn.
Thứ hai, KCN góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường trong quá trình phát triển công nghiệp. Những cơ sở công nghiệp ở thành phố và khu vực dân cư không có khả năng xử lý ô nhiễm môi trường sẽ được di dời vào KCN, đồng thời hạn chế xây dựng các cơ sở công nghiệp mới xen lẫn với khu dân cư. KCN tập trung giảm sự tiếp xúc trực tiếp của các khu đô thị với tác động bất lợi của sản xuất công nghiệp (như tiếng ồn, khói bụi, bức xạ...). Mặt khác, với sự tập trung của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp vào một địa điểm xác định, Ban quản lý các KCN có thể kiểm soát tốt hơn mức độ ô nhiễm của các doanh nghiệp để có giải pháp thích hợp. Đồng thời, về phía mình các doanh nghiệp công nghiệp cũng có điều kiện phòng chống ô nhiễm môi trường với chi phí ít nhất do sử dụng lại phế thải của nhau, do có sự liên kết xử lý ô nhiễm và sự hỗ trợ tập trung của nhà nước. Hơn nữa, KCN được sử dụng các biện pháp triệt để trong việc xử lý môi trường ngay từ khâu quy hoạch. Trong KCN, các doanh nghiệp buộc phải có hệ thống xử lý chất thải cục bộ đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra hệ thống chung. Từng KCN phải có nhà máy xử lý nước thải tập trung và được đầu tư xây dựng song song với việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN. Như vậy, việc bảo vệ môi trường trong toàn khu vực KCN được thực hiện tốt hơn các cơ sở công nghiệp nằm rải rác ở nhiều khu vực khác nhau.
Thứ ba, KCN góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Các KCN là nơi thu hút được nhiều lao động hoạt động trong các doanh nghiệp và trong các lĩnh vực xây dựng, cung cấp dịch vụ cho KCN. Nếu căn cứ theo số lao động bình quân thấp nhất và trung bình ở các KCN và tuỳ theo tính chất ngành nghề, số lượng dự án đầu tư thu hút vào trong KCN thì bình quân mỗi KCN với diện tích khoảng 100- 150 ha khi đã lấp đầy toàn bộ diện tích sẽ cần số lượng lao động từ 15.000- 18.000 người làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và đầu tư, tính đến tháng 6/2004, các KCN trên cả nước đã thu hút được trên 60 vạn lao động trực tiếp và hơn 1 triệu lao động gián tiếp. Các KCN phía Nam còn phải tuyển dụng thêm lao động từ tỉnh ngoài mới đáp ứng được nhu cầu. Đây là số lượng lao động chưa phải là nhiều so với nhu cầu phát triển các KCN cũng như nhu cầu việc làm của lao động ở các địa phương. Nhưng điểm quan trọng là nhờ đó giải quyết được việc làm, chất lượng nguồn lao động từng bước được nâng lên thông qua tiếp cận công nghệ sản xuất và phương thức quản lý tiên tiến hiện đại.
Thứ tư, KCN tạo điều kiện cho việc tiếp nhận, chuyển giao và áp dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến. Hình thành các KCN sẽ tạo ra những tiền đề cho phép tiếp nhận những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại nhất của thế giới để vận dụng vào sản xuất những sản phẩm có chất lượng. Tiếp nhận những thành tựu khoa học công nghệ trong các KCN có một sự thuận lợi hơn hẳn với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phân tán, rải rác ở các khu vực dân cư, khu vực xanh, khu vực văn hoá. Bởi vì trong KCN, các nhà đầu tư được hưởng một số quy chế ưu đãi nhất định và đặc biệt là những nhà đầu tư nước ngoài. Muốn nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất, tạo điều kiện cho việc tiếp nhận, chuyển giao và đưa những công nghệ tiên tiến vào nước tiếp nhận đầu tư. Qua con đường này, nước ta có thể tiếp nhận được các thành tựu khoa học công nghệ của nhân loại một cách nhanh nhất, vận dụng chúng thành công nhất vào hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội.
Thứ năm, KCN góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. KCN được sử dụng như một công cụ để điều chỉnh cơ cấu kinh tế vùng, khai thác vùng có giá trị kinh tế cao đồng thời tạo điều kiện cho các vùng khó khăn hơn xây dựng được cơ sở công nghiệp của mình. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII đã nêu rõ cần cải tạo các KCN hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất, xây dựng mới một số KCN phân bố trên các vùng. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và vận hành KCN tập trung trên cả nước, hội đồng bộ trưởng (nay là chính phủ) đã ban hành nghị định số 322/HĐBT ngày 18/10/1991 về quy chế KCN, KCX. Tiếp đến là nghị định số 192/CP ngày 25/12/1994 của chính phủ về quy chế KCN. Sau đó là nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của chính phủ về KCN, KCX, khu công nghệ cao thay thế các nghị định trước đó đã ban hành.
KCN phát triển kéo theo sự phát triển mạnh của các ngành công nghiệp, những vùng đất sản xuất nông nghiệp có hiệu quả thấp sẽ được chuyển sang xây dựng KCN để sản xuất công nghiệp có hiệu quả cao hơn nhiều. Sự phát triển của các KCN góp phần to lớn vào sự hình thành các khu đô thị mới với hàng loạt các ngành dịch vụ phát triển như thông tin liên lạc, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải và thương mại. Từ đó, cơ cấu GDP của nền kinh tế quốc dân có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng giá trị ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá trị ngành nông nghiệp. Đây là xu hướng phù hợp với quá trình CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngoài những vai trò cơ bản trên KCN còn góp phần to lớn trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần tạo ra cơ chế quản lý và mô hình quản lý mới, tạo tiền đề trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế và ổn định thị trường ngoại hối... Đánh giá về vai trò của KCN, nguyên thủ tướng Phan Văn Khải đã nói:
Phát triển KCN là một giải pháp quan trọng nhằm tạo thuận lợi cho đầu tư kinh doanh, tiết kiệm nguồn lực xây dựng kết cấu hạ tầng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm an ninh quốc phòng. Chúng ta cần đa dạng hoá các loại hình KCN, không chỉ quan tâm các KCN lớn và tương đối lớn ở đô thị và ven đô thị mà còn phải chú trọng các KCN quy mô nhỏ ở các vùng nông thôn để thúc đẩy công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Đi đôi với việc tích cực xây dựng các KCN theo quy hoạch, cần đặc biệt chú trọng thu hút đầu tư vào những KCN đã được hình thành, thường xuyên rút kinh nghiệm để không ngừng nâng cao sức hấp dẫn và phát huy hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp [4, tr.51].
1.2. Thu hút đầu tư vào khu công nghiệp
1.2.1. Khái niệm đầu tư
Thuật ngữ "đầu tư" (investment) có thể được hiểu đồng nghĩa với "sự bỏ ra", "sự hy sinh". Từ đó có thể coi đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh những cái gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Tất cả những hành động nhằm mục đích thu được lợi ích nào đó (về tài chính, về cơ sở vật chất, về nâng cao trình độ, về bổ sung kiến thức...) trong tương lai lớn hơn những chi phí đã bỏ ra nếu xem xét trên giác độ từng cá nhân hoặc đơn vị thì các hành động này đều được gọi là đầu tư.
Tuy nhiên, nếu xem xét trên giác độ toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả những hành động trên đều đem lại lợi ích cho nền kinh tế và được coi là đầu tư. Các hoạt động như gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phần, mua hàng tích trữ chờ dịp tết không hề làm tăng tài sản cho nền kinh tế. Các hành động này thực chất chỉ là chuyển giao quyền sử dụng tiền, quyền sở hữu cổ phần và hàng hoá từ người này sang người khác, do đó chỉ làm cho số tiền thu về của người đầu tư lớn hơn số tiền mà họ bỏ ra tuỳ thuộc vào lãi suất tiết kiệm, lợi tức cổ phần hoặc giá hàng vào dịp tết. Giá trị tăng thêm của người đầu tư ở đây lại chính là giá trị mất đi của quỹ tiết kiệm (lãi suất phải trả), của cổ đông đã bán lại cổ phần (lợi tức cổ phần), của người mua hàng vào dịp tết (với giá cao). Tài sản của nền kinh tế trong những trường hợp này không có sự thay đổi một cách trực tiếp.
Các hoạt động như bỏ tiền xây dựng thêm kho chứa nguyên vật liệu, chi tiền học đại học, phát hành chứng khoán để xây dựng thêm một phân xưởng mới, tổ chức báo cáo khoa học... đã làm tăng thêm tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực cho nền kinh tế. Do đó, trên giác độ nền kinh tế "đầu tư được hiểu là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế" [5].
Theo quan điểm tái sản xuất mở rộng, "đầu tư là quá trình chuyển hoá vốn thành các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra năng lực sản xuất, tạo ra những yếu tố cơ bản, tiên quyết cho quá trình phát triển sản xuất" [39].
Luật đầu tư được quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 có hiệu lực từ ngày 01/7/2006 giải thích: "Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật này và pháp luật có liên quan" [34].
Như vậy, đứng trên những giác độ khác nhau, có những khái niệm khác nhau về đầu tư. Trong luận văn này chúng tôi cho rằng: đầu tư là quá trình bỏ vốn (tiền, nguyên liệu, nhân lực, công nghệ...) vào các hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận.
ở giới hạn, phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận văn chúng tôi chỉ nghiên cứu vốn tiền tệ đầu tư vào xây dựng kết cấu hạ tầng, sản xuất công nghiệp và dịch vụ cho sản xuất công nghiệp ở trong KCN.
1.2.2. Vốn đầu tư
Vốn đầu tư là toàn bộ giá trị của tất cả các yếu tố (tiền tệ, máy móc, thiết bị, nhà xưởng, vị trí kinh doanh, bằng phát minh sáng chế...) được bỏ vào đầu tư nhằm đạt được mục tiêu đã dự định.
Đối với tất cả các quốc gia, vốn là yếu tố không thể thiếu được để phát triển kinh tế. Chủ thể kinh doanh nào cũng cần phải có lượng vốn đầu tư ban đầu để chi phí cho việc thuê đất đai, xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị ... Vốn đầu tư còn được dùng để đổi mới công nghệ, xây dựng và nâng cấp nhà xưởng... nhằm mở rộng quy mô, phát triển sản xuất.
Trên thực tế, để đáp ứng yêu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh, vốn đầu tư được phân thành các loại cơ bản như sau:
- Phân loại theo hình thái và nguồn đầu tư, vốn đầu tư gồm 2 loại là vốn hữu hình và vốn vô hình.
+ Vốn hữu hình: đây là loại vốn đầu tư có hình thái vật chất cụ thể gồm tài sản hữu hình, tiền mặt, những giấy tờ có giá trị thanh toán. ở tất cả các chủ thể sản xuất kinh doanh, vốn đầu tư được chuyển hoá phần lớn dưới hình thái vốn hữu hình.
+ Vốn vô hình: Đây là phần vốn tiền tệ đã được chi phí nhằm sử dụng những tài sản vô hình để phục vụ yêu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Phần vốn này bao gồm quyền sở hữu vị trí kinh doanh, chi phí sử dụng bí quyết công nghệ, chi phí cho việc phát minh sáng chế... Trong thực tế, tỷ trọng vốn vô hình ngày càng chiếm phần lớn trong tổng vốn đầu tư.
- Phân loại theo thời gian sử dụng, vốn đầu tư được phân thành 3 loại vốn ngắn hạn, vốn trung hạn và vốn dài hạn.
+ Vốn ngắn hạn: là lượng tiền được sử dụng để đầu tư trong thời hạn 1 năm.
+Vốn trung hạn: là lượng tiền được sử dụng để đầu tư trong thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.
+Vốn dài hạn: là lượng tiền được sử dụng để đầu tư có kỳ hạn từ 5 năm trở lên.
- Phân loại theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, vốn được phân thành 2 loại là vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp.
+ Vốn đầu tư trực tiếp: là loại vốn được đầu tư vào hoạt động kinh tế do nhà đầu tư bỏ ra và tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư này có thể dưới nhiều hình thức khác nhau như hợp đồng, liên doanh, lập công ty cổ phần.
+Vốn đầu tư gián tiếp: là loại vốn được đầu tư vào hoạt động kinh tế nhằm đem lại hiệu quả cho bản thân người có vốn cũng như cho xã hội, nhưng người có vốn không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư gián tiếp được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: mua cổ phiếu, tín phiếu, tín dụng...
Vốn đầu tư phát triển kinh tế được hình thành từ 2 nguồn: vốn trong nước và vốn ngoài nước:
- Nguồn vốn đầu tư trong nước được hình thành từ tiết kiệm trong nước bao gồm tiết kiệm từ ngân sách nhà nước, tiết kiệm của các doanh nghiệp và tiết kiệm của dân cư. Tiết kiệm của ngân sách nhà nước là phần được dành để chi cho đầu tư phát triển, không tính đến các khoản viện trợ không hoàn lại của chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài, các khoản vay trong nước, vay nước ngoài của chính phủ để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. Tiết kiệm của doanh nghiệp là phần lãi sau thuế được các doanh nghiệp trích lại cho đầu tư phát triển. Nguồn vốn dành cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp còn bao gồm cả nguồn vốn thu được từ khấu hao tài sản cố định. Tiết kiệm của dân cư là phần thu nhập để dành chưa tiêu dùng của các hộ gia đình.
- Nguồn vốn đầu tư ngoài nước: bao gồm viện trợ phát triển chính thức (Offcial Development Assistance- ODA), vốn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (Non Goverment Organization- NGO), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment- FDI), vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư vào khu công nghiệp
- Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
+ Vị trí địa lý
Vùng lãnh thổ có diện tích rộng, nhưng địa hình chia cắt, nhiều đồi núi, sông suối sẽ ảnh hướng lớn đến giao lưu kinh tế, hạn chế thu hút đầu tư. Ngược lại, nếu lãnh thổ có vị trí thuận lợi sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư hơn. Chẳng hạn, gần đầu mối giao lưu kinh tế, gần thị trường tiêu thụ,gần các hệ thống giao thông, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của quốc gia, gần các trung tâm kinh tế lớn. Thực tế cho thấy, địa phương có những điều kiện như cảng biển, đường quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt đi qua, nằm trong trung tâm kinh tế lớn hoặc ở gần kề đều thu hút được nhiều dự án đầu tư. ở nước ta, Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là 2 trung tâm kinh tế lớn của đất nước, do vậy thu hút đầu tư vào KCN ở 2 thành phố này cũng như các vùng xung quanh rất mạnh mẽ.
+ Điều kiện tự nhiên
Tài nguyên thiên nhiên giàu có sẽ là điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư hơn là những vùng nghèo tài nguyên. Tài nguyên thiên nhiên là một trong những yếu tố cần thiết để tiến hành hoạt động sản xuất. Vì nó cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp. KCN nằm trong vùng sẵn có nguyên liệu cho sản xuất, các nhà đầu tư sẽ giảm bớt được chi phí vận tải, tránh được gián đoạn sản xuất trong trường hợp khó khăn về giao thông.
Khí hậu thuận lợi cho cây trồng, vật nuôi cũng như đất đai đảm bảo cho việc xây dựng những vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp sẽ tạo điều kiện cho phát triển công nghiệp chế biến những sản phẩm nông nghiệp. KCN nằm trong khu vực này sẽ thu hút các nhà đầu tư vào công nghiệp chế biến như sữa, đường, thịt hộp, hoa quả...Trái lại, khí hậu khắc nghiệt, nắng lắm mưa nhiều, bão lụt thường xuyên sẽ ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng như sản xuất công nghiệp, hạn chế thu hút đầu tư.
Vùng có trữ lượng khoáng sản lớn, phong phú và có giá trị kinh tế cao sẽ tạo điều kiện thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp khai khoáng, công nghiệp năng lượng, công nghiệp chế biến. Tuy nhiên, cần có sự thăm dò, khảo sát, đánh giá đầy đủ, chính xác các nguồn tài nguyên, trên cơ sở đó xây dựng, hoạch định chính sách thu hút đầu tư đảm bảo hiệu quả kinh tế- xã hội, môi trường sinh thái, sự phát triển bền vững không chỉ của cả vùng mà của cả nền kinh tế. Có những điều kiện này, KCN trên địa bàn sẽ có thêm cơ hội thu hút đầu tư.
- Trình độ phát triển kinh tế- xã hội
Tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp sẽ hạn chế sự phát triển của thị trường trong nước. Từ đó, nguồn thu về cho ngân sách cũng hạn hẹp, không có vốn để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Thu nhập của người lao động thấp kéo theo sức cầu thị trường giảm. Do đó, các doang nghiệp khó khăn trong tiêu thụ hàng hoá. Chính sách tiền tệ không ổn định, lạm phát cao sẽ làm các nhà đầu tư rút vốn hoặc thôi đầu tư để tránh thua lỗ trong kinh doanh. Chẳng hạn, trình độ tay nghề thấp của đa số người lao động buộc các doanh nghiệp tốn kém chi phí đầu tư đào tạo. Mặc dù chi phí này được bù đắp một phần bởi mức lương thấp nhưng kết hợp với năng suất lao động thấp, chi phí này có xu hướng làm tăng đơ._.n giá tiền lương trong sản phẩm. Hoặc các dịch vụ ngân hàng, viễn thông với giá cao hơn mức khu vực và thế giới làm tăng chi phí của các nhà đầu tư. Những trở ngại ấy sẽ làm hạn chế thu hút đầu tư. Nói chung, trình độ kinh tế xã hội thấp ảnh hưởng xấu đến khả năng thu hút đầu tư.
Trái lại, với trình độ phát triển kinh tế xã hội cao sẽ là yếu tố thúc đẩy các nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh. Bởi vì với một nền kinh tế phát triển, các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư như quản lý vĩ mô, điều kiện kết cấu hạ tầng, thị trường, chất lượng cung cấp các dịch vụ... sẽ thuận lợi rất nhiều cho các nhà đầu tư. Thực tế cho thấy, những địa phương có trình độ phát triển kinh tế xã hội cao đầu thu hút được nhiều dự án đầu tư hơn là các địa phương mà điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn.
- Môi trường đầu tư
Muốn thu hút được nhiều vốn đầu tư phải có môi trường đầu tư hấp dẫn. Nội dung của môi trường đầu tư theo cách hiểu đầy đủ mà các nhà khoa học đã nêu ra bao gồm luật pháp, kết cấu hạ tầng, thủ tục hành chính và môi trường chính trị xã hội [37, tr.237].
+ Về hệ thống pháp luật: để thu hút được đầu tư, pháp luật phải bảo đảm thực sự rõ ràng, nhất quán, minh bạch, ổn định. Hệ thống pháp luật phải tạo mặt bằng chung về pháp lý cho các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế, xóa bỏ sự phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, phù hợp với luật pháp quốc tế. Việc xây dựng luật đầu tư phải đồng thời phải xây dựng các văn bản dưới luật để đảm bảo sự đồng bộ nhất quán, mang tính khả thi cao. Đồng thời với việc xây dựng luật đầu tư, phải hoàn chỉnh hệ thống pháp luật có liên quan đến các chính sách đầu tư để tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đối với các địa phương, ngoài những chính sách chung của Nhà nước, các địa phương cần có những chính sách, văn bản cụ thể, chi tiết đối với hoạt động đầu tư trên địa phương mình như danh mục dự án kêu gọi đầu tư, lĩnh vực ưu đãi đầu tư, chính sách ưu đãi đầu tư.
+ Về kết cấu hạ tầng: kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, nơi nào có cơ sở vật chất, kỹ thuật tốt thì nơi đó có sức hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư và ngược lại. Vì vậy xây dựng kết cấu hạ tầng là điều kiện tiên quyết, bắt buộc không chỉ với đòi hỏi trước mắt mà cả lâu dài, không chỉ tạo tiền đề để thu hút đầu tư mà còn cho sự phát triển bền vững của sản xuất kinh doanh. Hệ thống giao thông vận tải được đảm bảo an toàn, tiện lợi sẽ góp phần giảm thiểu mức tối đa chi phí lưu thông cho doanh nghiệp. Kho tàng, bến bãi, điện nước, thông tin liên lạc, xử lý chất thải, phòng chống cháy nổ ở các KCN được xây dựng tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, hạ tầng xã hội như bệnh viện, khu vui chơi giải trí, nhà ở cho người lao động và chuyên gia... được chuẩn bị tốt cũng làm tăng sức thu hút đối với các nhà đầu tư.
+ Về thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư: trong hoạt động đầu tư, thủ tục hành chính ảnh hưởng đến thời gian, chi phí và cơ hội đầu tư. Nếu thủ tục hành chính rườm rà sẽ tốn thời gian, tăng chi phí, mất cơ hội của nhà đầu tư làm cho nhà đầu tư nản lòng. Đối với KCN, nếu đơn giản hoá các hình thức và thủ tục cấp phép đầu tư, rút ngắn thời gian cấp phép đầu tư, mở rộng việc cho phép áp dụng hình thức đăng ký đầu tư đối với các danh mục dự án cần khuyến khích đầu tư, loại bỏ những quy định không cần thiết cản trở đến hoạt động đầu tư sẽ thu hút được đầu tư. Nếu không quy định rõ ràng, công khai thủ tục hành chính trên cơ sở đơn giản hoá, không xử lý nghiêm khắc những trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực của những cán bộ có liên quan đến hoạt động đầu tư sẽ làm hạn chế rất lớn đến thu hút đầu tư.
+ Về môi trường chính trị -xã hội: giữ vững ổn định chính trị xã hội có ý nghĩa quan trọng đến việc thu hút đầu tư. Bởi lẽ mỗi khi tình hình chính trị bất ổn, nhất là thể chế chính trị không ổn định cũng có nghĩa là mục tiêu sẽ thay đổi và cả phương thức đạt mục tiêu cũng thay đổi. Giữ vững ổn định chính trị xã hội sẽ tạo tâm lý yên tâm, tin tưởng đối với các nhà đầu tư khi đầu tư vào địa bàn. Yếu tố quyết định trong vấn đề này là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của nhà nước pháp quyền trong việc xử lý kiên quyết và phù hợp với pháp luật những hiện tượng tiêu cực, kịp thời ngăn chặn mọi âm mưu của các thế lực phản động, đảm bảo quốc phòng an ninh.
- Nguồn nhân lực. Từ thực tế hoạt động của các KCN trong và ngoài nước cho thấy nhu cầu lao động làm việc tại các KCN là rất lớn. Tuỳ theo tính chất ngành nghề và số lượng dự án thu hut đầu tư vào trong KCN, bình quân mỗi KCN với diện tích từ 100-150 ha khi đã lấp đầy toàn bộ diện tích sẽ cần số lượng lao động từ 15000-18000 người làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp. Điều đó cho thấy sự thiếu hụt trầm trọng lao động cho các KCN [4, tr. 67]. Sự khan hiếm về lao động địa phương để cung ứng cho các KCN đóng trên địa bàn cũng tác động đến quyết định của các nhà đầu tư.
ở các nước phát triển, cứ 1 cử nhân tốt nghiệp Đại học, cao đẳng có 4 kỹ thuật viên tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp và 10 công nhân kỹ thuật, cơ cấu lao động là 1- 4- 10. Còn ở nước ta, cơ cấu lao động tương ứng là 1- 1,16- 0,95. Trong khi số lượng sinh viên đại học ngày một tăng nhanh còn số lượng công nhân kỹ thuật ngày một giảm, năm 1997 là 70%, hiện nay chỉ còn 20% trong tổng lao động được đào tạo [4, tr.68]. Nhiều chuyên gia nhận xét, Việt Nam đang thiếu thợ giỏi, cơ cấu và chất lượng lao động Việt Nam còn lạc hậu (yếu về trình độ, kỷ luật và tác phong lao động) gây bất lợi cho thu hút đầu tư nói chung và vào KCN nói riêng.
Để có nguồn lao động có khả năng đáp ứng được yêu cầu cho các KCN cần phải phát triển hệ thống đào tạo có khả năng cung cấp cho các KCN một đội ngũ lao động đông đảo, có trình độ cần thiết theo một cơ cấu thích hợp, có khả năng thích ứng với công nghệ mới. Trong đó vai trò của các trường dạy nghề rất quan trọng với việc cung ứng nguồn lao động đã qua đào tạo, có tay nghề cho các KCN.
1.3. Kinh nghiệm thu hút đầu tư vào Một số khu công nghiệp ở việt nam
1.3.1. Kinh nghiệm thu hút đầu tư vào khu công nghiệp của Đồng Nai
Nằm trong vùng trọng điểm kinh tế phía Nam, Đồng Nai đã chọn KCN làm mô hình trọng điểm phát triển kinh tế của địa phương. Tỉnh Đồng Nai là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về xây dựng KCN và thu hút đầu tư.
Đến cuối năm 2005, Đồng Nai đã xây dựng 17 KCN. Tổng diện tích các KCN ở Đồng Nai là trên 5.000 ha, chiếm 21% tổng diện tích các KCN trong cả nước. Tỷ lệ lấp đầy bình quân của các KCN Đồng Nai là 57,72%. Đồng Nai có 568 dự án đầu tư còn hiệu lực, với số vốn đăng ký khoảng 6,9 tỷ USD, tổng số vốn đầu tư thực hiện đạt 3,63 tỷ USD. Vốn đầu tư thu hút vào các KCN tại Đồng Nai từ nhiều nguồn khác nhau cả trong và ngoài nước. Trong đó, xét về tổng số vốn đầu tư thì doanh nghiệp trong nước chiếm 6%, doanh nghiệp liên doanh chiếm 11%, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tỷ trọng cao nhất 83%. Có 31 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào KCN ở Đồng Nai [31, tr.12].
Từ thực tiễn thu hút đầu tư vào KCN ở Đồng Nai trong những năm qua, có thể rút ra một số kinh nghiệm:
Thứ nhất, Đảng bộ tỉnh Đồng Nai sớm đánh giá đúng những tiềm năng, lợi thế phát triển KCN của địa phương. Tỉnh nắm vững quan điểm của trung ương, chủ động xác định chủ trương phát triển KCN là trọng điểm xây dựng và phát triển kinh tế của địa phương trong công cuộc đổi mới. Quá trình chỉ đạo xây dựng KCN từ năm 1986 đến nay, tỉnh uỷ, UBND tỉnh luôn nhất quán khẳng định vai trò to lớn của KCN, linh hoạt, sáng tạo tổ chức thực hiện các biện pháp có hiệu quả để đẩy nhanh tốc độ phát triển KCN tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Từ chỗ có 1 KCN Biên Hoà là KCN lớn nhất cả nước, tỉnh đã chủ động xây dựng thành một mô hình kinh tế hoạt động có hiệu quả và nhân rộng điển hình trong toàn tỉnh.
Thứ hai, quá trình tổ chức thực hiện xây dựng KCN, tỉnh uỷ, UBND tỉnh thường xuyên coi trọng xây dựng quy hoạch, kế hoạch, xác định vị trí, địa điểm xây dựng KCN. Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, các KCN thành công thường nằm ở những vị trí thuận lợi về giao thông như KCN Biên Hoà 1, KCN Biên Hoà 2, KCN Amata... Việc xây dựng quy hoạch KCN của tỉnh Đồng Nai thời gian qua đã khai thác được mọi tiềm năng lợi thế của địa phương, mang lại hiệu quả trong thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, tạo thêm nhiều việc làm mới, tăng thu nhập cho người lao động, tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng phát triển bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái, tạo mỹ quan đô thị, tiết kiệm đất nông nghiệp.
Thứ ba, Đồng Nai thường xuyên quan tâm xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào KCN, hệ thống dịch vụ phục vụ KCN. Hạ tầng ngoài hàng rào KCN bao giờ cũng đi trước một bước. Thực tế cho thấy, có điện mà không có nước hoặc không có đường đi đều gây những ách tắc, cản trở hoạt động của các doanh nghiệp. Các công trình hạ tầng ngoài hàng rào KCN vừa là yếu tố tăng sức hấp dẫn đầu tư, đồng thời còn là giải pháp kinh tế- xã hội bảo đảm phát triển KCN theo mô hình bền vững. Hiện nay, tổng đầu tư cho các công trình hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN Đồng Nai khoảng 100 triệu USD. Chi phí đầu tư trung bình cho các công trình hạ tầng KCN Loteco và KCN Amata do doanh nghiệp trong nước đầu tư khoảng 3-5 USD/m2 [31,tr.14]. Các KCN của Đồng Nai được xây dựng hoàn chỉnh đều có đối tượng thuê đất phù hợp theo nguyên tắc "tiền nào của nấy". Bởi vậy, việc xây dựng hạ tầng KCN đồng bộ, hiện đại, tiết kiệm, đúng tiến độ có ý nghĩa trong việc nâng cao khả năng thu hút đầu tư vào KCN.
Thứ tư, Đồng Nai đã xây dựng được hệ thống cơ chế chính sách quản lý phù hợp, tạo môi trường thông thoáng, hấp dẫn các nhà đầu tư. Việc chăm sóc tốt các nhà đầu tư thông qua cơ chế chính sách sẽ mở ra cơ hội đón các nhà đầu tư mới. Thông thường, các nhà đầu tư có tâm lý tìm đến những nơi có sự quan tâm, tạo điều kiện tốt nhất đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ.
Đồng Nai là một trong những địa phương đầu tiên trong cả nước thực hiện quản lý nhà nước các KCN theo cơ chế quản lý "một cửa, tại chỗ". Cơ chế này đã góp phần giảm chi phí, thực hiện nhanh chóng các thủ tục hành chính của doanh nghiệp, tạo môi trường thông thoáng thu hút các nhà đầu tư. Tỉnh đã thực hiện tốt sự phối hợp với các sở, ban, ngành của tỉnh như sở kế hoạch và đầu tư, thương mại và du lịch, tài nguyên và môi trường, lao động thương binh và xã hội, y tế, công an, cục hải quan, cục thuế, bưu điện... để góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp KCN hoạt động. Việc phối hợp này đảm bảo cơ chế "một cửa, tại chỗ" được thực hiện có hiệu quả.
Với tinh thần "chính quyền đồng hành cùng doanh nghiệp", Ban quản lý các KCN tích cực tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp, xem khó khăn của họ cũng là khó khăn của mình, thường xuyên cải tiến thủ tục hành chính và các dịch vụ theo hướng tận tâm, minh bạch, công khai. Việc thực hiện tốt các cơ chế, chính sách quản lý để tạo điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp đã góp phần đưa đến sự thành công trong thu hút đầu tư vào các KCN ở Đồng Nai.
1.3.2. Kinh nghiệm thu hút đầu tư vào khu công nghiệp của Bình Dương
Những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, Bình Dương vẫn là tỉnh thuần nông, công nghiệp và dịch vụ nhỏ bé, gần như chưa có hạ tầng công nghiệp. Bình Dương nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nhưng nền kinh tế còn yếu kém. Số dân chỉ bằng một quận của thành phố Hồ Chí Minh. Với thế đất cao thoáng và nền xây dựng vững chắc, đất đai của Bình Dương rất thích hợp cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng công nghiệp và đô thị. Khác với thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh công nghiệp liền kề trong vùng, Bình Dương bước vào xây dựng và phát triển KCN với điểm xuất phát thấp, do đó buộc Bình Dương phải có giải pháp và bước đi thích hợp, đi tắt đón đầu, biết tận dụng lợi thế của tỉnh.
Đến cuối năm 2005, ngoài KCN Việt Nam- Singapo thành lập năm 1996 với diện tích 292 ha thuộc trung ương quản lý, Bình Dương đã có 21 KCN với tổng diện tích phê duyệt là 4.921 ha, thu hút được 470 dự án đầu tư sản xuất. Trong đó, 168 dự án đầu tư trong nước với vốn điều lệ là 1.409 tỷ đồng (tương đương gần 100 triệu USD) và 302 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký là 1,35 tỷ USD. Quy mô vốn bình quân dự án đầu tư nước ngoài là 4,4718 triệu USD [14, tr.10].
Từ những thành công và cả những yếu kém tồn tại, Bình Dương có thể cho ta những bài học:
Một là, thường xuyên nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện quy hoạch phát triển KCN.
Việc chọn địa điểm, quy mô hợp lý và loại hình tổ chức không gian sản xuất của từng KCN là những vấn đề có ảnh hưởng nhiều đến kết quả thu hút đầu tư và hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp. Các KCN được phân bố rộng trong tỉnh. Việc thành lập mới KCN được tiến hành theo phương thức "cuốn chiếu, lan toả dần". Diện tích đất KCN được sử dụng cho thuê trên 60% khi đó mới được thành lập KCN khác. Theo quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế đến 2010 và 2020, Bình Dương tiếp tục mở rộng thêm diện tích KCN với những loại hình mới phù hợp nhu cầu phát triển công nghiệp trên địa bàn, tạo tiền đề tăng tốc thu hút đầu tư trong thời kỳ tiếp theo.
Trong công tác tổ chức xây dựng hạ tầng, thực hiện phương thức cuốn chiếu các hạng mục công trình trong từng KCN và theo trình tự hợp lý giữa các KCN trong tỉnh. Lựa chọn các chủ đầu tư của địa phương có tiềm lực, có kinh nghiệm. Đa dạng hoá các loại hình KCN để đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau của các nhà đầu tư. Ngoài các KCN đa ngành nghề đã có, tỉnh hình thành các KCN chuyên ngành hoặc cụm công nghiệp chuyên môn hoá trong KCN. Liên kết giữa các doanh nghiệp, giữa các KCN có quan hệ về tổ chức sản xuất, nhất là giữa các doanh nghiệp sản xuất chính với các doanh nghiệp sản xuất phụ trợ, giữa các tiểu vùng trong tỉnh. Thu hút các dự án đầu tư có chọn lọc theo hướng dự án có trình độ công nghệ cao, vốn đầu tư lớn, tổ chức thành tổ hợp sản xuất hoặc thành cụm công nghiệp chuyên môn hoá trong KCN. Các KCN được xây dựng hài hoà trong khu liên hợp công nghiệp- dịch vụ- đô thị, Bình Dương đang mở ra nhiều khả năng mới nhanh chóng thu hút đầu tư gắn với quá trình hình thành đô thị.
Hai là, xây dựng kết cấu hạ tầng KCN có chất lượng, nhanh chóng hoàn thành đồng bộ các công trình với chi phí hợp lý nhất.
Trong quá trình xây dựng các công trình công cộng, vấn đề giải phóng mặt bằng giao đất cho chủ đầu tư là việc làm phức tạp, dễ cản trở tiến độ xây dựng các bước tiếp sau. Ngay từ khâu quy hoạch KCN cũng như quy hoạch cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, Bình Dương luôn xác định quan điểm KCN nên bố trí vào vùng đất hoang hoá, càng tránh được khu dân cư càng giảm được sự tốn kém, phức tạp của Nhà nước, của dân; quan trọng hơn là biến được vùng đất có giá trị kinh tế thấp thành vùng đất có lợi ích kinh tế cao hơn rất nhiều.
Khi cần phải giải toả, đền bù thì tỉnh áp dụng nhiều chính sách hợp lòng dân, bảo đảm công bằng, công khai. Người dân trong diện giải toả, đền bù được hưởng lợi ích trực tiếp từ KCN. Các hộ dân trong khu tái định cư được chuyển sang nhiều ngành nghề dịch vụ, đại lý bán hàng, sửa chữa xe máy, cho thuê nhà trọ hoặc trở thành công nhân trong KCN, nhờ đó hơn 85% hộ dân sau giải toả đời sống được nâng cao. Ban quản lý có trách nhiệm tham gia việc lựa chọn chủ dự án xây dựng hạ tầng, thẩm định quy hoạch chi tiết, quy hoạch sử dụng đất, theo dõi kết quả xây dựng bên trong và bên ngoài KCN. Quản lý chặt chẽ việc xây dựng các công trình hạ tầng ở từng KCN có tác dụng giảm thấp các chi phí xây dựng, từ đó giảm phí hạ tầng cho doanh nghiệp.
Ba là, điều chỉnh cơ cấu sản xuất theo ngành nghề và đẩy mạnh xúc tiến đầu tư vào các KCN.
Điều chỉnh cơ cấu sản xuất theo ngành nghề các KCN Bình Dương triển khai theo hướng vận động, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, sử dụng nguyên liệu nội địa, đầu tư mới cơ sở sản xuất phụ trợ, cải tiến và tăng thêm mặt hàng để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm.
Trong những KCN mới được thành lập, có thể liên kết các đối tác trong nước (tổng công ty, tập đoàn kinh tế) và nước ngoài đầu tư xây dựng một số cụm công nghiệp chuyên môn hoá hoặc một tổ hợp chuyên môn hoá trong KCN. Hình thức tổ chức mới này có khả năng tạo sự chuyển đổi hợp lý cơ cấu sản xuất của KCN trên địa bàn. Trong cùng một thời gian nhất định có thể khởi công xây dựng một số KCN đáp ứng nhu cầu đầu tư khác nhau.
Tỉnh có nhiều hình thức giới thiệu như mời gọi các tập đoàn lớn đầu tư vào các ngành công nghệ cao, tạo điều kiện cho việc xây dựng và sử dụng kết cấu hạ tầng của các trung tâm công nghệ cao, nghiên cứu và công bố danh mục ưu tiên thu hút các dự án công nghệ cao, cơ khí chính xác, vật liệu mới với dây chuyền sản xuất hiện đại và sử dụng ít lao động.
Bốn là, tiếp tục thực hiện chương trình cải cách hành chính trong các hoạt động thu hút đầu tư vào KCN trên cơ sở hoàn chỉnh cơ chế quản lý "một cửa, tại chỗ", duy trì thường xuyên các quan hệ giao dịch hành chính giữa cơ quan công quyền với các nhà đầu tư, các công dân theo nguyên tắc công khai, minh bạch và lành mạnh.
Quan điểm và cách làm mời gọi đầu tư, mời đón nhân tài của Bình Dương đã trở thành truyền thống, có sự nhất trí từ lãnh đạo đến cán bộ công chức, được các nhà đầu tư đồng tình. Hằng tháng, lãnh đạo tỉnh cùng cán bộ đầu ngành đến với doanh nghiệp để tìm hiểu, giải quyết vướng mắc tại chỗ, coi vướng mắc khó khăn của doanh nghiệp là khó khăn vướng mắc của tỉnh. Tỉnh phân công rõ trách nhiệm cụ thể đồng thời hoàn thiện sự phối hợp công tác giữa Ban quản lý các KCN với các ban ngành có liên quan trong tỉnh. Công tác xúc tiến đầu tư, tổ chức các hình thức cung cấp thông tin hay mời gọi đầu tư trong và ngoài nước là hết sức cần thiết. Song chính những việc làm, cách cư xử có tình có lý đã tạo được niềm tin, sự hài lòng của các nhà đầu tư, từ đó có sức lan toả thu hút thêm các nhà đầu tư mới đến Bình Dương.
1.3.3. Kinh nghiệm thu hút đầu tư vào khu công nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh
Đến đầu năm 2005, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh có 15 KCN được thủ tướng quyết định thành lập với tổng diện tích theo giấy phép là 2.939,30 ha với tổng diện tích dành cho thuê 1.659,24 ha. Trừ 3 KCN là Cát Lái 4, Phong Phú và Tân Phú Trung đang bắt đầu triển khai, hầu hết các KCN đã lấp đầy. Nhiều KCN đã và đang xin mở rộng ở thành phố Hồ Chí Minh hoặc đi các tỉnh gần, thậm chí ở một số tỉnh miền Bắc để thành lập KCN mới.
Hiện nay, thành phố Hồ Chí Minh có 974 dự án đầu tư, trong đó 416 dự án đầu tư nước ngoài và 558 dự án đầu tư trong nước, với tổng vốn đầu tư là 1.663,55 triệu USD và 17.237 tỷ đồng, tương đương 1.114,39 triệu USD. Đã có 969 dự án đi vào hoạt động và 92 dự án đang xây dựng [38, tr.24].
Để thu hút được nhiều vốn đầu tư vào các KCN, thành phố Hồ Chí Minh đã có những hoạt động cụ thể:
Một là, quy hoạch phát triển KCN gắn liền với quy hoạch phát triển đô thị và song song tổ chức thực hiện.
Khi cấp phép cho thành lập KCN cần phải tiến hành đồng thời xây dựng khu dân cư gần kề với khoảng cách 1,5 đến 2,0 km. Trong khu dân cư có nhà cho người thu nhập thấp, thu nhập vừa và thu nhập cao, có khu thương mại, bệnh viện, trường học, khu vui chơi giải trí ... Như vậy sẽ đảm bảo cuộc sống ổn định cho người lao động, giảm thiểu thời gian đi lại, công nhân có điều kiện hưởng thụ văn hoá, vui chơi, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khoẻ. Do đó năng suất lao động tăng lên, thu nhập cao hơn làm cho người lao động gắn bó, tâm huyết với nơi làm việc, nhà đầu tư cũng thuận lợi trong việc tuyển dụng lao động.
Hai là, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN.
KCN thường được bố trí ở những nơi tương đối xa khu trung tâm thành phố và ở vùng hiệu suất đất nông nghiệp thấp nên kết cấu hạ tầng như cầu đường, cấp điện, cấp nước, thông tin liên lạc ... được tính trước và kéo đến hàng rào KCN. Đường đủ rộng và chịu được xe có trọng tải lớn, đặc biệt là tuyến dẫn đến sân bay và bến cảng. Hạ tầng ngoài hàng rào KCN có sự quan tâm của chính quyền địa phương nên việc xây dựng được triển khai nhanh chóng, tạo thuận lợi cho việc thực hiện các dự án đầu tư.
Trên nguyên tắc là công ty phát triển hạ tầng KCN phải lo xây dựng kết cấu hạ tầng trong KCN, bao gồm đường sá nội khu, mạng lưới cấp nước, thoát nước, viễn thông, nhà máy xử lý nước thải tập trung, phòng cháy chữa cháy, bệnh viện, câu lạc bộ công nhân, khu vui chơi giải trí, công viên, khoảng cây xanh, điện thoại và internet, xây dựng trạm điện đảo nguồn để cung cấp điện ổn định và có chất lượng.... Đây là những hạng mục rất quan trọng đối với KCN trong việc thu hút đầu tư nhất là những dự án đầu tư công nghệ cao và công nghệ kỹ thuật cao. Ban quản lý luôn luôn kiểm tra, đôn đốc các công ty phát triển hạ tầng đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án.
Ba là, kiên trì cơ chế quản lý "một cửa, tại chỗ".
Đây là một cơ chế phù hợp với mô hình quản lý KCN đã được các doanh nghiệp KCN thừa nhận. Để hoàn thiện cơ chế "một cửa, tại chỗ" Ban quản lý KCN đã ký nhiều quy chế phối hợp với các sở, ban, ngành có liên quan ở thành phố Hồ Chí Minh như quy chế phối hợp giữa Ban quản lý với công an thành phố, bưu điện thành phố. Bên cạnh đó, UBND thành phố cũng giao một số quyền cho Ban quản lý có liên quan đến thủ tục xây dựng và môi trường. Với cơ chế giao quyền, uỷ quyền và phối hợp này, các bộ phận của Ban quản lý đều công khai hoá quy trình, thủ tục và thời gian giải quyết công việc. Những việc làm trên rất cần thiết để giải quyết công việc, phục vụ các nhà đầu tư. UBND thành phố Hồ Chí Minh đang thể chế hoá các quy chế phối hợp giữa Ban quản lý và các sở, ban, ngành thành văn bản pháp quy.
Bốn là, trân trọng tất cả những nhà đầu tư.
Thành phố Hồ Chí Minh luôn luôn trân trọng, chào đón nhiệt tình tất cả các nhà đầu tư dù lớn hay nhỏ, tận tình giải thích, hướng dẫn giúp đỡ họ và giải đáp mọi thắc mắc để họ yên tâm đầu tư. Điều này góp phần làm cho môi trường đầu tư ngày càng tốt hơn tạo cơ sở để thu hút những dự án đầu tư mới.
Kết luận chương 1
Thu hút đầu tư vào KCN là một trong những yếu tố quan trọng làm tăng tính năng động, hiệu quả của kinh tế từng địa phương và đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước. KCN là đầu mối quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp của nước ngoài, tạo động lực lớn cho quá trình tiếp thu công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời tăng khả năng thu hút đầu tư từ các nguồn lực, đẩy mạnh nguồn hàng xuất khẩu, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước, tạo việc làm và hạn chế ô nhiễm do chất thải công nghiệp gây ra. Thu hút đầu tư vào KCN khác hẳn so với thu hút đầu tư bên ngoài KCN.
Về phía nhà nước, thu hút đầu tư vào KCN làm tăng thêm hiệu quả của vốn đầu tư. Bởi vì, với số vốn không nhiều, nhà nước có thể tập trung vào xây dựng kết cấu hạ tầng trên một quy mô nhỏ nên đảm bảo sự hoàn chỉnh, đồng bộ và hiện đại. Thu hút đầu tư vào KCN còn đảm bảo cho nhà nước thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn bên ngoài KCN vì kết cấu hạ tầng sẵn có, các thủ tục cần thiết cho việc triển khai dự án thuận lợi. Những vướng mắc trong quá trình sản xuất kinh doanh được giải quyết kịp thời. Thu hút đầu tư vào các KCN giúp cho nhà nước quy hoạch được ngành công nghiệp, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Về phía doanh nghiệp, đầu tư vào KCN thuận lợi hơn so với đầu tư bên ngoài KCN. Doanh nghiệp giảm được chi phí do không phải đầu tư vào kết cấu hạ tầng. Doanh nghiệp không phải thực hiện những công việc tốn kém thời gian như đền bù, giải phóng mặt bằng, san lấp, rà phá bom mìn. Doanh nghiệp được tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình thực hiện các thủ tục để được cấp phép đầu tư . Trong sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp còn được giúp đỡ về thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất khẩu, được hưởng các ưu đãi dành riêng cho các doanh nghiệp KCN.
Tóm lại, thu hút đầu tư vào KCN góp phần thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, thu hút đầu tư vào KCN đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Chương 2
Thực trạng thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội Nghệ An ảnh hưởng trực tiếp đến thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
Nghệ An là tỉnh nằm ở trung tâm vùng Bắc trung bộ, trải dài theo hướng Tây Bắc- Đông Nam. Lãnh thổ của Nghệ An nằm trong toạ độ từ 18o35' đến 20o00'10'' vĩ độ Bắc và từ 103o50'25'' đến 105o40'30'' kinh độ Đông. Về phía Bắc, Nghệ An giáp tỉnh Thanh Hoá, phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh. Phía Tây chung biên giới với Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào thuộc phạm vi 3 tỉnh Xiêng Khoảng, Bôli Khămxay và Hủa Phăn, phía Đông trông ra Biển Đông với chiều dài đường bờ biển khoảng 82 km. Thành phố Vinh là trung tâm kinh tế- văn hoá của tỉnh và khu vực Bắc Trung bộ.
Nghệ An nằm trên một số tuyến giao thông huyết mạch của đất nước. Đó là quốc lộ 1 xuyên Việt và các tuyến ngang theo chiều Đông- Tây. Đầu mối giao thông lớn nhất của tỉnh là thành phố Vinh, nơi có khối lượng hàng hoá vận tải lớn đi qua. Mạng lưới đường ôtô, đường sắt ở Nghệ An có thể dễ dàng thiết lập các mối liên hệ kinh tế với các địa phương trong cả nước. Nghệ An có đường biên giới với Lào dài khoảng 419 km vì thế thông qua đường bộ (đặc biệt là các quốc lộ 7; 8) việc trao đổi với Lào và xa hơn nữa với vùng Đông Bắc Thái Lan có nhiều điều kiện để phát triển.
Nghệ An tiếp giáp với vùng biển rộng lớn ở phía Đông, có cảng Cửa Lò là 1 cảng lớn trong cụm cảng Cửa Lò- Hòn Ngư- Cửa Hội- Xuân Hải. Nhờ đó, các mối giao lưu trong nước và quốc tế trở nên thuận tiện.
Nghệ An là một trong những tỉnh có diện tích lớn nhất nước. Toàn tỉnh có diện tích tự nhiên là 16.487,29 km2, chiếm khoảng 5% diện tích cả nước. Dân số của Nghệ An có 3.029.000 người (2005) chiếm khoảng 3,69% dân số Việt Nam [33, tr.163].
Vị trí địa lý của Nghệ An được coi là một trong những nguồn lực quan trọng trong sự phát triển kinh tế. Với vị trí này, Nghệ An có điều kiện hội nhập với thị trường trong nước và quốc tế trên cơ sở khai thác các thế mạnh vốn có của mình.
2.1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên
- Khí hậu:
Nghệ An thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa. Khí hậu có sự phân hoá theo chiều Bắc Nam, chiều Đông Tây và theo độ cao của địa hình. Tháng 1 là tháng lạnh nhất, tháng nóng nhất là tháng 7 khi có gió phơn Tây Nam làm nhiệt độ tăng đột ngột, có lúc lên đến 380C- 390C, gây nên tình trạng khô hạn nghiêm trọng. Chế độ mưa ở Nghệ An cũng chia ra 2 mùa rõ rệt với lượng mưa trung bình năm khoảng 1.800 mm, nhưng phân bố không đều giữa các vùng.
Nghệ An là nơi thường có bão. Chỉ tính riêng những cơn bão đổ bộ trực tiếp thì năm ít nhất có 1- 2 cơn, năm nhiều có 3- 4 cơn. Bão xuất hiện sớm vào tháng 6, nhưng thời kỳ cao điểm là các tháng 8; 9; 10. Nhìn chung bão thường có cường độ lớn, gây thiệt hại nghiêm trong cho đời sống và sản xuất.
- Thuỷ văn:
Mạng lưới sông ngòi trên lãnh thổ Nghệ An phần lớn chảy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, phù hợp với độ nghiêng của địa hình. Các sông lớn gồm có sồng Cả, sông Hiếu, sông Con, sông Giăng. Sông cả lớn nhất với dòng chảy chính dài 390 km.
Sông ngòi có giá trị lớn đối với việc phát triển kinh tế- xã hội. Đối với các KCN, sông sẽ cung cấp và thoát nước phục vụ cho các doanh nghiệp , ở một mức độ nhất định nó là nguồn thuỷ điện phục vụ nội tỉnh. Tuy nhiên, cùng với yếu tố khí hậu, thuỷ chế cũng không đều theo mùa và vùng. Vì thế xảy ra tình trạng lũ lụt, hạn hán ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống.
- Tài nguyên sinh vật:
Nghệ An là tỉnh có tài nguyên rừng tương đối phong phú và đa dạng. Đến nay, tổng diện tích rừng của Nghệ An là 745.537 ha với tổng trữ lượng gỗ là 50 triệu m3. Rừng nguyên sinh vườn quốc gia Pù Mát diện tích 91.113 ha, khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống diện tích 50.000 ha với nhiều động vật và thực vật quý hiếm. Có tiềm năng đầu tư phát triển công nghiệp chế biến lâm sản và nguyên liệu giấy.
Nghệ An có 82 km bờ biển với diện tích 4.230 hải lý vuông, 6 cửa lạch, có trên 3000 ha diện tích nước mặn, lợ, 12.000 ha ao hồ mặt nước ngọt có khả năng phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Trữ lượng hải sản ước tính trên 80.000 tấn. Bờ biển Nghệ An có nhiều bãi tắm đẹp, nổi tiếng là bãi biển Cửa Lò, Nghi Thiết, Diễn Thành, Quỳnh Phương.
- Tài nguyên khoáng sản:
Nghệ An có nhiều loại khoáng sản với trữ lượng lớn. Đá vôi trên 1 tỷ tấn, đá xây dựng trên 1 tỷ m3. Riêng khu đá vôi Hoàng Mai có trữ lượng 350 triệu m3 dễ khai thác, gần quốc lộ 1, đường sắt và cảng Nghi Sơn (Thanh Hoá). ở một số vùng, núi đá vôi tập trung thành một quần thể thuận tiện cho việc hình thành các KCN và vật liệu xây dựng tập trung như Hoàng Mai, Kim Nhan.. Đất sét làm nguyên liệu xi măng có trữ lượng 300 triệu tấn; 982 triệu tấn đá trắng (Quỳ Hợp, Quỳ Châu); đá bazan có trữ lượng 260 triệu m3 (Nam Đàn, Quỳ Hợp); 160 tấn đá granite (Tân Kỳ); sét làm gốm sứ cao cấp trên 300 triệu tấn (Nghi Lộc, Đô Lương, Yên Thành, Tân Kỳ); 5 triệu tấn than (Tương Dương, Con Cuông); than bùn trên 10 triệu tấn (Tân Kỳ, Yên Thành); vàng sa khoáng tập trung nhiều dọc sông Cả, sông Hiếu...
Nguồn tài nguyên của Nghệ An tập trung thành những quần thể, nguyên liệu chính và nguyên liệu phụ ở gần nhau, có chất lượng cao, gần đường giao thông. Vì vậy rất thuận lợi cho sản xuất xi măng, bột đá siêu mịn, gạch lát, sản phẩm thủ công mỹ nghệ, phân vi sinh... Đây là một trong những yếu tố thu hút các nhà đầu tư đến với các KCN Nghệ An.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế- xã hội
2.1.2.1. Đặc điểm kinh tế
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong những năm qua, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn thử thách song kinh tế của tỉnh Nghệ An đã đạt được những thành tựu to lớn. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong 5 năm (2001- 2005) đạt 10,3%. GDP bình quân đầu người hàng năm đạt 5,59 triệu đồng, tăng hơn 2 lần so với năm 2000 [35, tr.12].
Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 44,3% năm 2000 xuống 34,2% năm 2005, tỷ trọng ngành công nghiệp- xây dựng tăng từ 18,6% năm 2000 lên 30,4% năm 2005.
Nông lâm ngư nghiệp có bước phát triển khá: sản lượng lương thực tăng nhanh, vượt 1 triệu tấn. Đã hình thành các vùng cây công nghiệp tập trung gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Chăn nuôi phát ._.c cấp phép cũng như cung cấp thông tin liên quan đến đầu tư vào các KCN. Khi nhà đầu tư đến tìm hiểu cơ hội đàu tư vào KCN, chỉ cần đến Ban quản lý là có được những thông tin từ kinh tế đến kỹ thuật, được trả lời những vấn đề chưa rõ và có sự hướng dẫn cụ thể. Khi nhà đầu tư xin được đầu tư thì thủ tục phải nhanh gọn, từ khâu thẩm định đến cấp phép dự án, cho thuê đất, đền bù giải phóng mặt bằng, thực thi các chính sách ưu đãi. Trong quá trình đầu tư, có những vướng mắc phát sinh thì Ban quản lý cùng với nhà đầu tư bàn bạc và tìm mọi biện pháp để nhanh chóng tháo gỡ, như vậy vừa làm cho các nhà đầu tư có thể mở rộng đầu tư và thu hút các nhà đầu tư mới.
3.2.1.4. Hoàn thiện chính sách liên quan đến thu hút đầu tư
Môi trường đầu tư của Nghệ An còn thiếu sức cạnh tranh, khả năng thu hút đầu tư nước ngoài còn yếu, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Một trong những yêu cầu cần thiết là hoàn thiện các chính sách liên quan đến thu hút đầu tư. Thời gian qua, tỉnh đã ban hành chính sách ưu đãi đầu tư vào KCN, có chính sách cụ thể cho từng KCN. Tuy nhiên, hiện nay cần phải xem xét, bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới. Chính sách đất đai phải hướng tới tạo thuận lợi hơn nữa cho các nhà đầu tư, nhất là việc triển khai các dự án sản xuất kinh doanh. Có thể miễn, giảm tiền thuê đất trong một thời gian nhất định, tiền thuê đất phải rẻ hơn các khu công nghệ cao, có chính sách cho thuê đất dài hạn (20-50 năm). Đặc biệt, cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong giải phóng mặt bằng. Các cấp chính quyền có trách nhiệm đẩy nhanh tốc độ giải phóng mặt bằng, giải quyết dứt điểm việc đền bù để triển khai dự án đúng tiến độ. Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài thuê đất để xây dựng kết cấu hạ tầng các KCN để cho nhà đầu tư thứ cấp thuê lại.
Có chính sách ưu đãi về thuế phù hợp với quy định của pháp luật theo hướng tạo ra sự thông thoáng cho nhà đầu tư. Giảm mức thuế thu nhập cá nhân đối với người lao động Việt Nam và người nước ngoài đang làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có chính sách thuế khuyến khích sản xuất phụ tùng, linh kiện, tiến tới xây dựng được ngành công nghiệp sản xuất nguyên chiếc. Cải tiến hệ thống tín dụng, bảo lãnh đầu tư theo hướng phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế, bảo đảm sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Các chính sách thuế phải khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi hơn để các doanh nghiệp hướng mạnh vào xuất khẩu, áp dụng công nghệ hiện đại. Giảm thuế suất nhập khẩu đối với các bán thành phẩm, linh kiện, chi tiết để sản xuất và lắp ráp nhằm khuyến khích sản phẩm nội địa hoá. Có các quy định cụ thể về thuê và tuyển dụng lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp KCN trực tiếp chủ động tuyển chọn, thuê và sử dụng lao động. Có chính sách, cơ chế phù hợp để các nhà đầu tư có điều kiện vay vốn thuận lợi, đảm bảo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn trong nước và thị trường vốn nước ngoài, khai thông các giao dịch bảo đảm (bảo lãnh, thế chấp...). Để tạo sức hút các thành phần kinh tế đầu tư vào các KCN, cần có chính sách tạo vốn thông qua tín dụng ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận các khoản vay ưu đãi, dài hạn. Tỉnh cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp KCN khi vay vốn ở các ngân hàng thương mại nhà nước trên địa bàn tỉnh, có chính sách hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp KCN trong thời gian đầu mới thành lập. Ưu đãi đầu tư không chỉ đối với các nhà đầu tư vào hạ tầng của KCN, mà còn phải có chính sách ưu đãi đầu tư đối với doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh ở KCN tuỳ vào đặc điểm ngành kinh doanh có được ưu tiên hay không mà có chính sách hỗ trợ ưu đãi phù hợp.
3.2.2. Đẩy mạnh hoạt động vận động xúc tiến đầu tư vào các khu công nghiệp
Hiện nay, nhiệm vụ xúc tiến đầu tư vào các KCN ở các địa phương do địa phương tự đảm nhận. Thực tế cho thấy, tỷ lệ lấp đầy ở các KCN địa phương tỷ lệ thuận với công tác xúc tiến đầu tư vào các KCN ở địa phương đó. ở Nghệ An, vận động xúc tiến đầu tư vào KCN được giao cho trung tâm xúc tiến đầu tư Nghệ An và Ban quản lý các KCN Nghệ An. Thời gian qua, trung tâm xúc tiến đầu tư Nghệ An đã tham mưu cho UBND tỉnh lập danh mục dự án, các lĩnh vực và địa bàn ưu tiên đầu tư để kêu gọi đầu tư. Tổ chức quảng bá giới thiệu tiềm năng, các cơ hội đầu tư và các cơ chế chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư của tỉnh khi đầu tư vào các KCN. Hoạt động này được thực hiện bằng các ấn phẩm, trang tin điện tử và thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức các hội nghị xúc tiến đầu tư trong nước nhằm tiếp cận với các nhà đầu tư, tích cực quan hệ với các công ty tư vấn trong nước để xúc tiến đầu tư. Ban quản lý các KCN Nghệ An đã thông qua các mối quan hệ cá nhân và tổ chức trong tỉnh để mời gọi đầu tư, ban đã thiết lập website với địa chỉ www.naniza.org.vn để cung cấp thông tin về các KCN đến với các nhà đầu tư.
Tuy nhiên, công tác xúc tiến đầu tư vào các KCN Nghệ An hiện nay còn rất hạn chế và kém chuyên nghiệp. Hầu hết các hoạt động xúc tiến đầu tư hiện đang được tiến hành gồm tài liệu giới thiệu chung về đầu tư, chính sách ưu đãi chung và ưu đãi đặc thù của tỉnh, danh mục ngành nghề, dự án kêu gọi đầu tư, trang thông tin điện tử website, tổ chức các cuộc tiếp xúc, tìm hiểu thị trường đối tác đầu tư trong và ngoài nước, tổ chức các cuộc giao ban định kỳ với sự có mặt của các sở, ban, ngành và các nhà đầu tư; các phương tiện xúc tiến đầu tư khác như CD Rom, video... Song những hoạt động này mới chỉ làm được ở mức cho có lệ mang tính hình thức. Công tác xúc tiến đầu tư chưa được xây dựng có hệ thống, chủ yếu mang tính thời vụ và đặc biệt chưa có nguồn kinh phí ổn định, lâu dài để duy trì các hoạt động. Trong khi đó, hoạt động theo dõi, hỗ trợ, cung cấp thông tin cho các đối tác tiềm năng còn nhiều hạn chế. Kinh phí xúc tiến đầu tư vào các KCN hiện nay phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức của UBND tỉnh về tầm quan trọng của công tác này. Hơn nữa đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư chưa thực sự chuyên nghiệp, chưa đủ trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Bên cạnh đó, sự phối hợp trong công tác vận động thu hút đầu tư giữa các cơ quan ban ngành trong tỉnh vẫn chưa được thực hiện đồng bộ. Nghệ An muốn nâng cao vai trò hoạt động vận xúc tiến đầu tư vào KCN cần thực hiện rất nhiều công việc.
Thứ nhất, đổi mới về nội dung và phương thức vận động xúc tiến đầu tư theo một chương trình chủ động, có hiệu quả phù hợp với từng KCN, từng loại hình doanh nghiệp đầu tư vào KCN.
Thứ hai, cần tổ chức xây dựng và thiết lập mạng thông tin từ Ban quản lý KCN Nghệ An với Bộ Kế hoạch và đầu tư, các sở, ban, ngành có liên quan trong tỉnh, các KCN khác trong cả nước, các bộ ngành trung ương để cập nhật, trao đổi thông tin phục vụ hoạt động thu hút đầu tư.
Thứ ba, thường xuyên tổ chức đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư tại Ban quản lý các KCN Nghệ An và trung tâm xúc tiến đầu tư Nghệ An.
Thứ tư, tổ chức các chuyến đi khảo sát, học tập, trao đổi kinh nghiệm xúc tiến đầu tư vào KCN ở các tỉnh và nước ngoài. Trước mắt, tỉnh Nghệ An cần chủ động bố trí kinh phí và tổ chức vận động xúc tiến đầu tư qua trung tâm xúc tiến đầu tư và Ban quản lý các KCN.
3.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp
Nguồn nhân lực cho KCN bao gồm cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân có tay nghề cao. Việc đào tạo nguồn nhân lực giữ vị trí rất quan trọng trong quá trình phát triển các KCN, góp phần vào sự nghiệp CNH, HĐH. Đối với Nghệ An, đào tạo nguồn nhân lực vừa cấp bách vừa lâu dài. Đào tạo nghề phải tăng nhanh cả về quy mô, chất lượng hiệu quả và tạo ra cơ cấu lao động hợp lý cho các thời kỳ phát triển công nghiệp, ưu tiên đào tạo trước mắt cho các ngành then chốt.
Tỉnh cần đẩy mạnh thực hiện xã hội hoá công tác đào tạo nghề nhằm thu hút mọi nguồn lực, đa dạng hoá các loại hình đào tạo nghề, các loại hình trường lớp và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người lao động có cơ hội học nghề, tìm kiếm việc làm tại các KCN.
Cần có sự quan tâm, hỗ trợ bằng chính sách cụ thể của tỉnh để phát hiện, thu hút đội ngũ doanh nhân giỏi, cán bộ kỹ thuật đầu ngành. Hàng năm, tỉnh cần có ngân sách hỗ trợ, gửi con em đi đào tạo ở những trung tâm có chất lượng cao trong và ngoài nước về phục vụ ở các KCN. Phối hợp với các cơ sở đào tạo để khuyến khích con em Nghệ An học lực tốt sau khi ra trường trở về quê hương công tác. Có chính sách tiếp nhận và hỗ trợ người lao động đã được đào tạo một cách thoả đáng. Bên cạnh đó, tỉnh cần có chính sách bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác hoạch định chính sách, am hiểu luật pháp, tinh thông nghiệp vụ, có trình độ tin học, ngoại ngữ tốt để phục vụ cho các dự án đầu tư nước ngoài. Với sự hỗ trợ của ngân sách, nguồn quỹ khuyến công hàng năm cũng cần có các chương trình đào tạo khởi sự doanh nghiệp để giúp đỡ con em trong tỉnh muốn thành lập doanh nghiệp để kinh doanh và làm giàu chính đáng.
Tỉnh cần xây dựng đề án quy hoạch mạng lưới dạy nghề đến năm 2015. Theo đó, đề án cần vạch ra mục tiêu là phấn đấu đến năm 2015 xây dựng được 2 hệ thống dạy nghề hoàn chỉnh: hệ thống dạy nghề đại trà (gồm các trung tâm dịch vụ việc làm, trường dạy nghề dân lập, trung tâm dạy nghề của các đoàn thể, các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp) và hệ thống trường, trung tâm dạy nghề chất lượng cao. Từ 2 hệ thống đào tạo này sẽ tăng cơ hội học nghề cho các mọi đối tượng có nhu cầu, từ đó tỉnh sẽ từng bước phổ cập nghề, đào tạo được nguồn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao cung ứng cho thị trường lao động, chủ yếu là các KCN. Mặc dù những năm gần đây, các KCN Nghệ An chưa có nhu cầu cao về lao động vì số doanh nghiệp KCN ít nhưng về sau này khi các KCN được lấp đầy việc thiếu hụt nguồn lao dộng sẽ xảy ra nếu không có sự chú ý chuẩn bị trước như một số tỉnh đã vấp phải (Đồng Nai, Bình Dương). Để đạt được yêu cầu về lao động cho các KCN trong thời gian tới, Nghệ An cần thực hiện đồng bộ các giải pháp:
- Củng cố và nâng cấp các trường dạy nghề trọng điểm của tỉnh. Nâng cao chất lượng đào tạo của các trường kỹ thuật, dạy nghề của tỉnh như trường kỹ thuật Việt- Hàn, trường kỹ thuật Việt- Đức, trường dạy nghề số 1, trường đại học sư phạm kỹ thuật Nghệ An, các trung tâm dạy nghề và tiếp tục mở rộng các trung tâm đào tạo khác.
- Đa dạng hoá các hình thức đào tạo nghề để đáp ứng mọi nhu cầu của mọi tầng lớp trong xã hội. Khuyến khích các hình thức liên kết, liên doanh trong đào tạo nghề, thiết lập và tăng cường mỗi quan hệ chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo nghề với doanh nghiệp, giữa đào tạo nghề và các cấp học, bậc học khác. Đảm bảo không lãng phí tiền của và sức lực của người học nghề. Thực hiện phương châm "gắn đào tạo nghề theo nhu cầu và địa chỉ sử dụng".
Có thể xây dựng các trường đào tạo nghề chịu sự lãnh đạo của Ban quản lý các KCN, có sự tham gia của các doanh nghiệp KCN dưới dạng góp vốn bằng tiền và cơ sở vật chất kỹ thuật. Các kỹ sư, chuyên viên giỏi của các doanh nghiệp KCN có thể tham gia giảng dạy để đào tạo chuyên gia, công nhân theo địa chỉ, theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp. Ban quản lý các KCN cần chủ động liên kết với các cơ sở đào tạo để giúp đỡ việc tuyển dụng lao động cho các doanh nghiệp. Điều này cho phép nâng cao chất lượng lao động, tạo điều kiện cho công nhân gắn kết hơn với doanh nghiệp. Trong những năm tới, các ngành nghề đào tạo mà các KCN của tỉnh cần là cơ khí chế tạo máy, điện tử, tin học, may mặc, sản xuất giấy, hoá chất, da giày, chế biến nông sản và sản xuất vật liệu xây dựng.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư vào khu công nghiệp
Đây là một giải pháp rất quan trọng nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các KCN. Tỉnh cần thực hiện phân công, phân cấp cho các ngành, các cấp để xử lý trước, trong và sau khi cấp giấy phép đầu tư, tăng cường sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành để kiểm tra, giám sát việc đầu tư các dự án vào các KCN trên địa bàn tỉnh.
Ban quản lý các KCN Nghệ An là cơ quan quản lý trực tiếp các KCN. Ban quản lý KCN Nghệ An được thành lập tại quyết định số 107/1999/QĐ-TTg ngày 23/4/1999 của thủ tướng chính phủ. Với chức năng nhiệm vụ được quy định tại quyết định số 122/2001/UBND ngày 20/12/2001 của UBND tỉnh Nghệ An. Ban quản lý các KCN đảm nhận việc trợ giúp miễn phí các nhà đầu tư trong và ngoài nước hình thành dự án đầu tư vào KCN; tiếp nhận thẩm định hồ sơ, dự án, cấp, điều chỉnh và thu hồi giấy phép đầu tư, quyết định phê duyệt dự án, chấp thuận dự án đầu tư, tổ chức thực hiện dự án đầu tư và quản lý hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN.
Bộ máy tổ chức của Ban quản lý các KCN Nghệ An gồm có 1 trưởng ban, 2 phó ban, 4 phòng và công ty phát triển KCN Nghệ An .
Văn phòng Ban là một bộ phận trong cơ cấu tổ chức bộ máy của Ban quản lý các KCN, giúp trưởng ban điều hành các hoạt động của Ban quản lý đảm bảo đồng bộ, liên tục và hiệu quả. Văn phòng thực hiện các nội dung công tác là tổng hợp, hành chính quản trị, tổ chức cán bộ và tài vụ của cơ quan.
Phòng quản lý đầu tư và xuất khập khẩu có chức năng chủ yếu là tham mưu, giúp trưởng ban trong lĩnh vực vận động thu hút đầu tư, tiếp nhận và thẩm định hồ sơ dự án, cấp điều chỉnh, thu hồi giấy phép đầu tư, quản lý các dự án đầu tư trong quá trình xây dựng cơ bản để hình thành doanh nghiệp, cùng với phòng quy hoạch môi trường đề xuất, lập hồ sơ các dự án ngoài hàng rào KCN.
Phòng quản lý quy hoạch và môi trường có chức năng tham mưu cho lãnh đạo ban trong việc quản lý quy hoạch, xây dựng và môi trường ở các KCN.
Phòng quản lý doanh nghiệp và lao động có chức năng chính là tham mưu cho lãnh đạo ban trong việc quản lý hoạt động của các doanh nghiệp và việc thực hiện bộ luật lao động trong các KCN, theo dõi và quản lý các công ty hạ tầng; đề xuất với lãnh đạo những giải pháp hỗ trợ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp KCN.
Công ty phát triển KCN Nghệ An được thành lập tại quyết định số 297/QĐ.UB- TTCQ ngày 17/01/2003, là đơn vị trực thuộc Ban quản lý các KCN Nghệ An, hoạt động theo hình thức sự nghiệp kinh tế có thu, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng. Nhiệm vụ của công ty phát triển KCN Nghệ An thực hiện theo quy định tại điều 14, nghị định 36/CP ngày 24/7/1997 của chính phủ về việc ban hành quy chế KCN, KCX và khu công nghệ cao. Trọng tâm nhất là nhiệm vụ huy động các nguồn vốn để xây dựng hạ tầng các KCN, thu hút các nhà đầu tư vào thuê đất để xây dựng nhà máy.
Ban quản lý các KCN cần có quan điểm "coi khó khăn của các doanh nghiệp là khó khăn của chính mình", đồng hành, sát cánh cùng doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, giải quyết các vướng mắc. Mọi cơ chế, chính sách hoàn thiện để quản lý hoạt động của ban phải trên tinh thần vì doanh nghiệp. Vì vậy ban có thể xây dựng mạng thông tin nội bộ và nối mạng vi tính với các KCN, thành lập, khuyến khích các tổ chức ngành nghề hoạt động như hiệp hội các doanh nghiệp KCN để sinh hoạt trao đổi, tìm kiếm thị trường. Ban chủ động thay đổi cơ chế hoạt động để phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ban cần bố trí lại cơ cấu nhân sự cho phù hợp với yêu cầu công việc trong điều kiện mới. Bố trí đại diện Ban quản lý ở các KCN nhằm gắn hoạt động của Ban quản lý với cơ sở, tiếp nhận thông tin, theo dõi tình hình, thay mặt Ban quản lý giải quyết những vấn đề đột xuất và cấp bách trong phạm vi cho phép, giảm bớt khối lượng tác nghiệp tại trụ sở chính của Ban quản lý để nâng cao năng lực nghiên cứu, tham mưu của phòng nghiệp vụ và cũng là giúp các nhà đầu tư tiết kiệm thời gian, tiền bạc... Ban quản lý chủ động triển khai các hoạt động xúc tiến đầu tư, phối hợp với các cơ quan quản lý, các tổ chức xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước. Hoàn thiện mối quan hệ Ban quản lý các KCN Nghệ An với các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương. Việc hoàn thiện mối quan hệ này nhằm giúp ban giải quyết nhanh gọn các vấn đề phát sinh trong quá trình hoạt động của các KCN. Ban cần đưa ra những quy chế phối hợp với công an tỉnh, ngân hàng nhà nước tỉnh, cục thuế, công ty điện lực, sở y tế, bưu điện tỉnh, hải quan tỉnh, sở kế hoạch và đầu tư, sở công nghiệp, sở giao thông vận tải, sở khoa học công nghệ, sở tài nguyên và môi trường và chính quyền các địa phương có KCN bao gồm Nghi Lộc, Quỳnh Lưu, Cửa Lò, Nghĩa Đàn. Trong các quy chế này, cần định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ cụ thể trong việc giải quyết những vấn đề phát sinh sao cho không bị chồng chéo mà nhanh gọn, dứt điểm. Sau mỗi năm thực hiện, Ban quản lý cần chủ động tổ chức các hội nghị rút kinh nghiệm, lắng nghe ý kiến đóng góp của các ban, ngành và sửa đổi, bổ sung thường xuyên các quy chế này cho phù hợp với từng thời kỳ.
Trong mối quan hệ với các doanh nghiệp KCN, Ban quản lý cần thực hiện tốt hơn nữa việc theo dõi và kiến nghị với các cấp có thẩm quyền giải quyết dứt điểm việc đền bù, giải phóng mặt bằng, thu hồi đất cho KCN nhằm tạo điều kiện cho các công ty hạ tầng KCN đẩy nhanh tiến độ xây dựng để giao đất cho các dự án. Ban cần xây dựng đề án tổng thể về quản lý môi trường ở các KCN. Có thực hiện tốt những vấn đề ấy, các KCN Nghệ An mới có thể thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư đến kinh doanh.
3.2.5. Quy hoạch các khu công nghiệp
Có thể nói, quy hoạch các KCN có ảnh hưởng lớn đến thu hút đầu tư. Việc điều chỉnh, bổ sung quy hoạch nhằm làm cho các KCN phù hợp hơn với yêu cầu tình hình mới. Định hướng xây dựng các KCN phải phù hợp với quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết của tỉnh.
Trước hết, quy hoạch KCN phải trên cơ sở nhận thức đầy đủ Nghệ An là một tỉnh trung tâm của vùng Bắc Trung bộ. Do đó, ngay từ đầu việc xây dựng quy hoạch và thực hiện quy hoạch phải thể hiện sự nhất quán, có tính khoa học cao. Khi quy hoạch phát triển công nghiệp nói chung và các KCN nói riêng, phải chú ý đến quy hoạch tổng thể và yêu cầu nghiêm ngặt về bảo vệ môi trường.
Quy hoạch phát triển các KCN phải gắn với xu thế đô thị hoá tất yếu của các vùng nông thôn ven thành phố Vinh, thị trấn Hoàng Mai, thị trấn Nghĩa Đàn và thị xã Cửa Lò. Trong tương lai, các thị trấn Hoàng Mai, Nghĩa Đàn sẽ trở thành thị xã. Vì vậy cần có định hướng hoặc đồng thời quy hoạch ưu tiên phát triển trước kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, khu dân cư đô thị mới liền kề ngoài hàng rào KCN. Tạo điều kiện khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ hỗ trợ đời sống vật chất, tinh thần của người lao động và hoạt động của các doanh nghiệp KCN. Cụ thể như cơ sở dạy nghề, nhà ở cho công nhân và chuyên gia, cửa hàng thực phẩm, bách hoá, trạm y tế, nhà trẻ, công trình phúc lợi, vui chơi giải trí và các dịch vụ cần thiết khác.
Như vậy, khi duyệt dự án quy hoạch một KCN cần phải xem xét về nhiều mặt như quy hoạch diện tích đủ để xây dựng kết cấu hạ tầng, khu nhà ở cho chuyên gia, nhà ở cho người lao động có thu nhập thấp, hệ thống xử lý nước thải và các dịch vụ khác kèm theo.
Việc kết hợp chặt chẽ giữa quy hoạch KCN với quy hoạch khu đô thị, khu dân cư và các dịch vụ phục vụ là hết sức cần thiết. Nó cho phép chính quyền địa phương tăng thêm nguồn tài chính do có thể khai thác quỹ đất và các lợi ích khác từ sự phát triển KCN. Quy hoạch khu đô thị, khu dân cư, khu dịch vụ không nhất thiết đi liền với từng KCN mà có thể liên kết phục vụ cho nhiều KCN trên cùng địa bàn.
Việc quy hoạch đầu tư phát triển hạ tầng KCN chủ yếu do công ty kinh doanh hạ tầng KCN thực hiện. Tuy nhiên tỉnh cũng cần xem xét các chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển hạ tầng, nhất là cơ chế tạo vốn. Như việc miễn giảm tiền thuê đất, hỗ trợ vốn vay ưu đãi, nới lỏng điều kiện vay, khuyến khích các công ty chủ động huy động vốn từ nhiều kênh khác nhau. Từ đó, doanh nghiệp giảm tối đa mức phí sử dụng hạ tầng KCN. Khi điều kiện tài chính cho phép, tỉnh trực tiếp tham gia đầu tư hạ tầng KCN bằng vốn ngân sách hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhằm chủ động trong việc gọi vốn và thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư vào KCN.
Song song với việc đầu tư xây dựng hạ tầng KCN, cần phải khuyến khích các thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp đầu tư hạ tầng KCN đầu tư phát triển khu dân cư theo quy hoạch. Chú trọng các dự án phục vụ người thu nhập thấp, nhà ở cho công nhân thuê, các dịch vụ phục vụ KCN. Cần có định hướng xây dựng KCN miền núi và các huyện nông thôn, tránh tình trạng phân bố không đồng đều và sự nhập cư quá đông của lao động ngoại thành vào các khu đô thị. Quy hoạch các KCN cần kết hợp nhiều yếu tố để đảm bảo tính khả thi khi xây dựng. Trong điều kiện ngân sách hạn chế, KCN nên quy hoạch ở những vùng đất hoang hoá, rộng lớn, thưa thớt dân cư để vừa ít tốn ngân sách đền bù, giải phóng mặt bằng, vừa tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Quy hoạch KCN phải gắn chặt với việc bảo vệ môi trường. Thực tế cho thấy, nếu sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm môi trường thì hiệu quả của sản xuất nhiều khi không bù đắp được tác hại do ô nhiễm môi trường gây ra. Bên cạnh đó, cần xây dựng hệ thông giao thông, hệ thống dịch vụ phục vụ KCN một cách khoa học.
KCN Nam Cấm nằm trên vùng đất hoang hoá, sản xuất nông nghiệp không có hiệu quả, dân cư thưa thớt nên việc đền bù, giải phóng mặt bằng có nhiều thuận lợi. KCN Bắc Vinh nằm trong thành phố Vinh nên việc giải phóng mặt bằng, đền bù, giải toả hết sức khó khăn cả về phía nhà đầu tư và người dân trong vùng quy hoạch. Vì vậy, cần mở rộng diện tích KCN Nam Cấm, ổn định diện tích quy hoạch KCN Bắc Vinh mới có thể dồn vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng. Hạn chế mở rộng KCN Cửa Lò vì nó có thể ảnh hưởng xấu đến khu du lịch biển. KCN Phủ Quỳ và Hoàng Mai nằm trên vùng đất sản xuất nông nghiệp có hiệu quả nên cần xem xét lại về quy mô diện tích và địa điểm quy hoạch.
Kết luận chương 3
Mục tiêu phát triển các KCN Nghệ An đến năm 2010 là nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp KCN đồng thời lấp đầy diện tích các KCN Bắc Vinh, Nam Cấm, Cửa Lò và 50% KCN Phủ Quỳ. Muốn đạt mục tiêu ấy, tỉnh cần khai thác tối đa mọi nguồn vốn để đầu tư vào KCN. Trong quá trình thu hút đầu tư, cần đa dạng hoá các hình thức thu hút. Bên cạnh việc tạo môi trường đầu tư thuận lợi, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để tạo sức mạnh tổng hợp. Thu hút đầu tư cần có sự cân nhắc lựa chọn dự án. Không vì mục tiêu lấp đầy KCN mà tiếp nhận nhiều dự án quy mô nhỏ, manh mún, công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, tiếp nhận những dự án lớn mà chủ đầu tư không đủ trình độ và năng lực để thực hiện dự án. Vì vậy, việc thu hút đầu tư phải gắn với quản lý các KCN. Có như vậy các KCN mới phát triển ổn định bền vững.
Để thu hút tối đa nguồn vốn trong nước, đồng thời tranh thủ nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài cần thực hiện đồng bộ các giải pháp thích hợp. Đó là tạo môi trường pháp lý thông thoáng, xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN đồng bộ, cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện chính sách liên quan đến thu hút đầu tư. Tỉnh cần đẩy mạnh hoạt động vận động xúc tiến đầu tư vào KCN, kết hợp đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp KCN. Cuối cùng, tỉnh cần kiện toàn và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư vào KCN. Thực hiện tốt những giải pháp ấy nhất định các KCN Nghệ An sẽ ngày càng phát triển, là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Kết luận
Thu hút đầu tư vào các KCN nhằm khai thác tốt nhất mọi nguồn lực và những lợi thế hiện có, nâng cao sức cạnh tranh và đẩy nhanh tốc độ phát triển chung của nền kinh tế, đảm bảo sự phát triển kinh tế bền vững. Đây chính là bước thể hiện tối ưu ý tưởng "đi tắt, đón đầu"trong thời đại ngày nay.
Các KCN đang ngày càng tỏ rõ ưu thế không thể thay thế trên con đường CNH, HĐH đất nước. KCN góp phần tạo ra một lượng hàng hoá xuất khẩu và tiêu dùng có giá trị kinh tế cao, giải quyết việc làm cho một bộ phận không nhỏ những người lao động, hạn chế tối đa ô nhiễm môi trường. KCN là nơi tiếp thu công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Thông qua phát triển các KCN mà kết cấu hạ tầng cả về kinh tế và xã hội nhanh chóng được hình thành. Thu hút đầu tư vào KCN, chúng ta sẽ có được một thế hệ những người lao động mới, bản lĩnh, năng động, sáng tạo. Họ là lực lượng tiên phong trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào các ngành kinh tế mũi nhọn.
ở Nghệ An, các KCN đã được hình thành và đang tích cực mời gọi đầu tư, tuy nhiên, việc thu hút đầu tư vào các KCN Nghệ An đang phải đối mặt với với nhiều khó khăn thách thức. Những khó khăn này bao gồm cả về phía tỉnh và về phía doanh nghiệp. Trong thời gian tới, để làm cho Nghệ An trở thành một điểm đến hấp dẫn các nhà đầu tư, tỉnh cần thực hiện đồng bộ các giải pháp về quy hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, hoàn thiện các cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư, đẩy mạnh vận động xúc tiến đầu tư và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các KCN. Trong đó cần chú trọng giải pháp cải thiện môi trường đầu tư. Với sự nổ lực của tỉnh, của Ban quản lý các KCN và sự hỗ trợ của trung ương hy vọng rằng trong những năm tới tình hình đầu tư vào các KCN ở Nghệ An sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
Danh mục Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Bá (2005), "Các khu công nghiệp ở Nghệ An sẵn sàng đón nhận các nhà đầu tư", Tạp chí Kinh tế và dự báo (8).
2. Ban Quản lý các khu công nghiệp Nghệ An (2006), Báo cáo tình hình phát triển khu công nghiệp Nghệ An năm 2005.
3. Ban Quản lý các KCN Nghệ An (2006), Báo cáo tình hình phát triển KCN Nghệ An 6 tháng đầu năm 2006.
4. Bộ Kế hoạch và đầu tư, Ban kinh tế trung ương, Tạp chí Cộng sản, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2004), Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Kỷ yếu hội thảo khoa học (11/2004).
5. Bộ môn Kinh tế đầu tư- Đại học Kinh tế quốc dân (1998), Giáo trình Kinh tế đầu tư, Nxb Giáo dục.
6. Nguyễn Văn Chất (2005), "Nghệ An tích cực cải thiện môi trường đầu tư khuyến khích phát triển", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (8).
7. Nguyễn Ngọc Dũng (2005), "Khu công nghiệp ở Việt Nam và vấn đề nhà ở cho công nhân thuê", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (6).
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Duy Đông (2004), "Quy hoạch khu công nghiệp còn quá yếu", Tạp chí Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương, (17).
11. Duy Đông (2004) "Bao giờ giấc mơ khu công nghiệp trở thành hiện thực", Tạp chí Kinh tế châu á thái Bình Dương. (9)
12. Duy Đông (2004), "Xúc tiến đầu tư vào khu công nghiệp bao giờ được chuyên nghiệp", Tạp chí Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương, (11).
13. Duy Đông (2004), "Các khu công nghiệp miền Bắc và Bắc Trung bộ: Sức hút đầu tư kém", Tạp chí Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương, (12,13)
14. Ngân Hà (2005), "Bình Dương trải chiếu hoa...", Tạp chí Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương, (47).
15. Anh Hào (2004), "Đồng Nai tăng cường cải cách hành chính để mời gọi đầu tư", Tạp chí Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương, (29).
16. Lê Văn Học (2005), "thành tựu và kinh nghiệm phát triển khu công nghiệp Bình Dương", Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam (60), tr.9.
17. Nguyễn Mạnh Hùng (2004), "Một số vấn đề về quản lý và phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất", Tạp chí Kinh tế và dự báo (6).
18. Như Hùng (2005), "Tác động của các khu công nghiệp đối với tăng trưởng kinh tế ở Đồng Nai", Tạp chí Cộng sản (15).
19. Quốc Huy (2005), " Hoạt động của các khu công nghiệp, khu chế xuất 10 tháng đầu năm 2005", Tạp chí khu công nghiệp Việt Nam, (62), tr.16.
20. Trần Ngọc Hưng (2002), "Một số vấn đề về hoàn chỉnh quy hoạch phát triển khu công nghiệp thời kỳ 2001- 2005", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (4).
21. Ngô Hướng (2004), "Các khu công nghiệp, khu chế xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Cộng sản, (17).
22. Trần Xuân Kiên (1998), Chiến lược huy động và sử dụng vốn trong nước cho phát triển nền công nghiệp Việt Nam, Nxb Lao động.
23. Nguyễn Ký- Vũ Cân (2005), "Cải thiện môi trường đầu tư và phát triển doanh nghiệp ở Bình Dương", Tạp chí Cộng sản (13).
24. Nghị định 36/CP của chính phủ (1997), Về quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
25. Nghị định 192/CP của chính phủ (1994), Về quy chế khu công nghiệp.
26. Lê Hữu Nghĩa (2004), "Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất các tỉnh, thành phố phía Bắc- những vấn đề lý luận và thực tiễn", Tạp chí Cộng sản (14).
27. Vũ Văn Phúc- Trần Thị Minh Châu (2004), "Các KCN tập trung và vai trò của nó trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam", Tạp chí kinh tế châu á- Thái Bình Dương (12,13,14).
28. Đinh Văn Phượng (2000), Thu hút và sử dụng vốn đầu tư để phát triển kinh tế miền núí phía Bắc nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Kinh tế Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
29. Sở Kế hoạch và đầu tư Nghệ An (2003), Danh mục các dự án kêu gọi vốn đầu tư tỉnh Nghệ An 2003-2005.
30. Sở Kế hoạch và đầu tư Nghệ An (2005), Danh mục các dự án kêu gọi vốn đầu tư tỉnh Nghệ An 2005-2010
31. Nguyễn Khắc Thanh (2005), "Xây dựng và phát triển khu công nghiệp Đồng Nai, những thành tựu và kinh nghiệm bước đầu", Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam (62), tr. 12.
32. Quyền Thành (2006), "Các tỉnh "xé rào" ưu đãi đầu tư : "thủng" ngân sách vì hứa chi cả nghìn tỷ đồng", Báo Tiền phong (160), ngày 3/8.
33. Lê Thông (2004), Địa lý các tỉnh và thành phố Việt Nam, tập 3- Các tỉnh vùng Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, Nxb Giáo dục.
34. Tìm hiểu luật đầu tư (2006), Nxb Lao động xã hội.
35. Tỉnh uỷ Nghệ An (2006), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ 16.
36. Trung tâm xúc tiến đầu tư Nghệ An (2005), Báo cáo tổng kết công tác năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ năm 2006.
37. Trần Xuân Tùng (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
38. Trần Thiện Tứ (2005), "Một số bài học kinh nghiệm trong quá trình phát triển các KCN tại thành phố Hồ Chí Minh", Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam (57), tr.24.
39. Trần Đình Ty (2005), Đổi mới cơ chế đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, Nxb Lao động.
40. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2005), Chính sách ưu đãi đầu tư của tỉnh Nghệ An.
41. Website:
._.