LỜI MỞ ĐẦU
BHXH là một chính sách xã hội lớn của mỗi quốc gia, bất kể quốc gia đó có thể chế chính trị như thế nào và theo định hướng gì (thị trường hay kế hoạch). Chính sách BHXH được xây dựng nhằm bảo vệ, trước hết cho một lực lượng lao động đông đảo trong xã hội, đó là những người làm công ăn lương, trước những sự kiện, những “rủi ro xã hội”, dẫn đến làm giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp. Tiếp đến là sự mở rộng phạm vi áp dụng cho những nhóm đối tượng khác, khi điều kiện kinh tế-xã hội
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thu Bảo hiểm xã hội & Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động thu Bảo hiểm xã hội thành phố Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho phép và đa số các nước đang thực hiện theo xu hướng này. Đây chính là tính nhân văn khách quan của BHXH, là nền tảng cho sự ổn định và phát triển xã hội. Kinh tế của mỗi quốc gia chỉ có thể tăng trưởng một cách bền vững khi người dân được phân phối công bằng, khi người dân được thụ hưởng các thành quả của kinh tế. BHXH chính là một “kênh” quan trọng tạo ra sự công bằng này.
Một trong những công tác quan trọng đảm bảo tài chính cho quỹ BHXH là vấn đề thu BHXH. Xuất phát từ nhận thức trên nên trong quá trình thực tập tại BHXH TP Hải Dương em đã chọn đề tài:” Thu bảo hiểm xã hội và một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động thu BHXH thành phố Hải Dương”.
Bài viết của em gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về BHXH và vai trò của công tác thu BHXH
Chương II: Thực trạng công tác thu BHXH thành phố Hải Dương
Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động thu BHXH thành phố Hải Dương.
CHƯƠNG i
TổNG QUAN Về BHXH Và CÔNG TáC THU BHXH
TổNG QUAN Về BHXH.
1. Sự ra đời và phát triển của BHXH.
Sự ra đời và phát triển của BHXH trên thế giới.
Bảo hiểm xã hội đã có lịch sử hàng trăm năm mà hình thức sơ khai của nó là bắt nguồn từ Nam Âu vào thế kỷ thứ XIII khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển. Tuy nhiên hệ thống BHXH thực sự đầu tiên ra đời tại Cộng hoà liên bang Đức (1850) bằng việc thủ tướng Đức Bismark đã ban hành đạo luật BHXH đầu tiên trên thế giới. Theo đạo luật này, hệ thống BHXH ra đời với sự tham gia bắt buộc của cả người làm công ăn lương và giới chủ. Nhà nước đảm bảo một số chế độ và giữ vai trò quản lý, định hướng hoạt động của BHXH. Đây là nguồn gốc của sự ra đời nguyên tắc bảo hiểm bắt buộc và việc quy định người được bảo hiểm phải đóng phí BHXH, và có sự tham gia ba bên: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Cho đến ngày nay hình thức này vẫn tồn tại và phát triển trong những nước có hệ thống BHXH.
Đến những năm 30 của thế kỷ XX, Bảo hiểm xã hội đã có sự tham gia của hàng loạt các nước Mỹ Latinh, Hoa Kỳ, Canada. Sau chiến tranh thứ 2 cùng với việc giành được độc lập cho mình, các nước ở Châu Phi, Châu á và vùng Caribê cũng đã hình thành BHXH tại nước mình. Cho đến nay trải qua hơn 150 năm ra đời và phát triển, BHXH trở lên phong phú, đa dạng và được áp dụng hầu hết các nước trên thế giới. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia có sự khác nhau, do đó BHXH cũng có những điều kiện khác nhau.
1.2 Qúa trình hình thành và phát triển của BHXH Việt Nam
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Đảng và Nhà nước đã sớm quan tâm đến vấn đề BHXH bằng việc ban hành sắc lệnh 54/SL ngày 01 tháng 11 năm 1945 ấn định những điều kiện cho công chức về hưu. Sắc lệnh số 77/SL ngày 22 tháng 5 năm 1950 đã ấn định cụ thể các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí, tử tuất đối với công nhân.
Sau hoà bình lập lại ở miền Bắc nước ta, thực hiện hiến pháp năm 1959, Hội đồng chính phủ ban hành điều lệ tạm thời về các chế độ trợ cấp BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước kèm theo nghị định 218/CP ngày 27 tháng 11 năm 1961. Chế độ BHXH bao gồm 6 loại trợ cấp:
+ Chế độ trợ cấp ốm đau.
+ Chế độ trợ cấp hưu trí.
+ Chế độ trợ cấp tử tuất.
+ Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
+ Chế độ trợ cấp thai sản.
+ Chế độ trợ cấp mất sức lao động.
Căn cứ vào kinh nghiệm thực hiện nghị định 43/CP từ trước đến nay, cơ chế BHXH đã được chế định thành một chương trong Bộ Luật lao động thông qua ngày 23/06/1994. Được cụ thể hoá trong Điều lệ BHXH mới kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 và Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 về việc thành lập BHXH Việt Nam.
2. Đối tượng tham gia BHXH
Đối tượng áp dụng bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định tại khoản 1. Điều 1 nghị định số 01/2003/NĐ-CP (NĐ số 01/CP bổ xung 1 số điều của NĐ số 12/CP ngày 26/01/1995) gồm:
* Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức sau:
- Doanh nghiệp thành lập hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà nước, bao gồm: doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp hoạt động công ích; doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang;
- Doanh nghiệp thành lập hoạt động theo luật doanh nghiệp, bao gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân;
- Doanh nghiệp thành lập hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, bao gồm: doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài;
- Doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
- Hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, tổ hợp tác;
- Các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức xã hội khác, lực lượng vũ trang; kể cả các tổ chức, đơn vị được phép hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc cơ quan hành chính, sự nghiệp, Đảng, đoàn thể. Các hội quần chúng tự trang trải về tài chính;
- Cơ sở bán công, dân lập, tư nhân thuộc các ngành văn hoá, y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, thể dục thể thao và các ngành sự nghiệp khác;
- Trạm y tế xã phường, thị trấn;
- Cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
* Cán bộ, công chức, viên chức theo pháp lệnh cán bộ, công chức.
* Người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên trong các hợp tác xã thành lập, hoạt động theo luật hợp tác xã.
* Người lao động làm việc tại các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn dưới 3 tháng, khi hết hợp đồng lao động mà người lao động tiếp tục làm việc hoặc giao kết hợp đồng lao động mới đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đó thì phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
* Người lao động làm việc tại các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức nêu trên đi học, thực tập, công tác điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công do doanh nghiệp, cơ quan tổ chức sử dụng lao dộng trả thì cũng thuộc đối tượng thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc.
3. Vai trò của BHXH với đời sống kinh tế xã hội.
Qúa trình hình thành và sự phát triển của BHXH cho chúng ta thấy rõ BHXH không chỉ có vai trò lớn đối với đời sống của người lao động, đảm bảo được thu nhập của người lao động khi họ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp...mà thông qua đó trật tự xã hội được đảm bảo, tạo điều kiện thúc đẩy xã hội phát triển công bằng và văn minh hơn.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với nhiều biến động không ngừng. BHXH tồn tại phát triển hoạt động và dựa trên mối quan hệ chặt chẽ người sử dụng lao động với người lao động thông qua bên thứ ba - Tổ chức bảo hiểm xã hội chuyên trách dưới sự bảo trợ đặc biệt của Nhà nước, trong mối quan hệ đó:
- Về phía chủ sử dụng lao động: Mặc dù phải đóng một phần tiền lương, tiền công vào quỹ bảo hiểm xã hội nhưng họ không phải chi ra những khoản tiền lớn khi những người lao động gặp rủi ro.
- Về phía người lao động: BHXH là chỗ dựa về mặt tâm lý cho họ, giúp cho họ yên tâm trong công tác từ đó nâng cao hiệu quả công việc, hạn chế được tình hình ngưng trệ sản xuất kinh doanh, giảm thiệt hại cho người sử dụng lao động.
- Đối với Nhà nước: BHXH là một chính sách lớn của mỗi quốc gia. Vì thực hiện BHXH góp phần ổn định xã hội, tạo điều kiện phát triển kinh tế. Thực hiện BHXH sẽ hình thành quỹ tiền tệ tập trung có thể đầu tư một phần vào các hoạt động kinh tế để sinh lời, tăng nguồn thu cho quỹ BHXH. Do việc chi trả không phải lúc nào cũng diễn ra thường xuyên, cho nên Nhà nước có thể đầu tư trở lại để bảo toàn quỹ. Mặt khác, BHXH giúp cho Nhà nước điều tiết và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Như vậy tổ chức thực hiện bảo hiểm xã hội đưa lại lợi ích cho cả ba bên: Người lao động, chủ sử dụng lao động, Nhà nước và xã hội.
Cùng với sự phát triển xã hội, BHXH ngày càng trở thành một nhu cầu thường xuyên, tự nhiên, chính đáng của người lao động. Nó cần phải được đáp ứng hàng loạt nhu cầu thiết yếu khác của con người. Là một bộ phận cấu thành trong hệ thống chính sách kinh tế xã hội mà còn mang ý nghĩa kinh tế - chính trị to lớn. Tính kinh tế thể hiện BHXH phải cân đối được nguồn Thu - Chi một cách hợp lý và phải bảo tồn và phát triển được nguồn quỹ. Bảo hiểm xã hội có ý nghĩa chính trị bởi thông qua đó tính ưu việt, trình độ văn minh của một thể chế chính trị của một quốc gia, của một Nhà nước được thể hiện. Ngoài ra BHXH còn mang tính nhân đạo, tính nhân văn cao cả, tính cộng đồng, nó thực hiện theo quy luật ”lấy số đông bù cho số ít”, tức là lấy sự đóng góp nhỏ của số đông chu cấp cho số ít mà vì lý do nào đó ( bị ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp...) mà họ bị giảm đi hoặc mất 1 phần thu nhập hay gặp rủi ro trong cuộc sống bình thường.
Vai trò của BHXH trong nền kinh tế còn được thể hiện:
- Đối với người lao động tạo tâm lý ổn định, yên tâm hơn trong sản xuất, làm cho năng suất lao động của cá nhân và xã hội không ngừng tăng lên.
- Đối với giới chủ mạnh dạn mở rộng quy mô sản xuất, thuê mướn nhân công từ đó làm cho sản xuất của họ phát triển...
- Bảo hiểm xã hội góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế cho đất nước, do quỹ BHXH khi ở thời kỳ nhàn rỗi đầu tư lại cho sản xuất, góp phần đáng kể cho việc phát triển nền kinh tế của Nhà nước.
4. Phân biệt BHXH với BH thương mại.
Điểm giống nhau:
- Đều góp phần ổn định cuộc sống cho người tham gia bảo hiểm khi họ không may gặp rủi ro không lường trước được, từ đó góp phần khôi phục sản xuất, đảm bảo an toàn xã hội.
- Hoạt động BHXH và BH thương mại đều thực hiện an sinh xã hội, lấy số đông bù số ít.
- Tính chất của hai loại hình bảo hiểm xã hội cũng giống nhau cơ bản. BHXH, BHTM đều mang tính kinh tế, tính xã hội, tính dịch vụ, tính khách quan phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian, tính nhân đạo - nhân văn cao cả.
- Quỹ đều được hình thành trên cơ sở đóng góp của những người tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, do tính chất cơ bản của nó chi phối quỹ nên quỹ được tách ra thành các quỹ thành phần để quản lý.
Điểm khác nhau:
- Đối tượng tham gia: BHXH là người lao động và người sử dụng lao động, BHTM là tất cả các cá nhân và các tổ chức xã hội.
- Nguồn hình thành quỹ: Quỹ BHXH được hình thành từ ba nguồn người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước góp thêm. Quỹ BHTM chủ yếu từ sự góp phí của các đối tượng tham gia tạo nên.
- Mục đích sử dụng quỹ:
Quỹ BHXH dùng để chi trả các chế độ về BHXH và dùng để quản lý BHXH ở các cấp. Trong hệ thống tài chính Quốc gia gồm 3 khâu:
+ Ngân sách.
+ Tài chính trung gian.
+ Tài chính cơ sở (hoặc tài chính doanh nghiệp)
Quỹ BHTM nằm trong khâu tài chính cơ sở (tài chính doanh nghiệp) vì vậy quỹ này dùng với nhiều mục đích khác nhau như bồi thường thiệt hại, dự trữ, dự phòng, nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước...
- Cơ chế quản lý quỹ: Quỹ BHXH được quản lý theo cơ chế cân bằng thu- chi, quỹ BHTM theo cơ chế hạch toán kinh doanh có lãi.
- Phạm vi bảo hiểm: Phạm vi bảo hiểm hiện nay ở nước ta theo luật BHXH được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 9 khoá XI (từ ngày 16/05 – 29/06/2009) gắn với 5 chế độ BHXH. Phạm vi BHTM gắn với các hệ thống quy tắc trong từng nghiệp vụ.
- Phí bảo hiểm: Phí BHXH được xác định bằng nguyên tắc dựa trên cơ sở tiền lương, tiền công và quỹ lương. Phí BHTM được xác định chính xác bằng số tuyệt đối dựa trên cơ sở số tiền bảo hiểm, giá trị bảo hiểm, hạn mức trách nhiệm.
- Cơ sở quản lý và tổ chức thực hiện: BHXH cơ quan quản lý Nhà nước là Bộ Lao động và Thương binh xã hội, quản lý sự nghiệp là Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Đối với BHTM cơ quan quản lý Nhà nước là Bộ tài chính, đơn vị thực hiện là bản thân các công ty bảo hiểm.
MộT Số VấN Đề Về Quỹ BHXH
Khái niệm quỹ BHXH
Trong đời sống kinh tế-xã hội, người ta thường nói đến nhiều loại quỹ khác nhau như: quỹ tiêu dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền lương, quỹ tiền thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ tiết kiệm...Tất cả các loại quỹ này đều có một điểm chung là tập hợp các phương tiện tài chính hay vật chất khác cho những hoạt động nào đó theo mục tiêu định trước với những quy định/quy chế nhất định. Quỹ lớn hay nhỏ biểu thị khả năng về mặt phương tiện và vật chất để thực hiện mục tiêu đề ra.
Tất cả các loại quỹ đều không tồn tại với chỉ một khối lượng tĩnh tại một thời điểm mà còn luôn luôn biến động theo hướng tăng lên ở các đầu vào với các nguồn thu và giảm đi ở đầu ra với các khoản chi như một dòng chảy liên tục. Có thể hình dung quỹ như một bể chứa nước, trong đó đầu vào có nước luôn chảy để nước trong bể luôn chảy để nước trong bể ngày càng nhiều lên còn đầu ra là quá trình sử dụng nước làm cho nước trong bể vơi dần đi. Để bảo đảm cho đầu ra ổn định, người ta thiết lập một lượng dự trữ. Tương tự như với bể nước, đầu vào phải có nhiều hơn đầu ra thì trong bể mới luôn luôn có nước. Bởi vậy, để quản lý và điều hành được một quỹ nào đó thì không phải chỉ quản lý được khối lượng tĩnh của nó tại một thời điểm, mà quan trọng hơn là phải quản lý được lưu lượng của nó trong một khoảng thời gian nhất định. Tương tự như vậy, quỹ BHXH cũng được hình thành từ các nguồn thu khác nhau và được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho người thụ hưởng và các chi phí quản lý khác theo quy định của pháp luật. Vì vậy, quỹ BHXH phải tính toán sao cho nguồn thu đủ lớn và phải “chảy” vào “bể” liên tục để đảm bảo các chi phí - “đầu ra” của BHXH không chỉ hiện tại mà cả trong tương lai. Khi mức “chảy” ra lớn, những người hoạch định phát triển BHXH phải tìm cách để tăng cường nhiều hơn mức “chảy” vào.
Theo quan niệm về quỹ nói chung như trên, thì quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của những người tham gia BHXH (bao gồm người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước trong một số trường hợp) và các nguồn thu hợp pháp khác, hình thành một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những người được thụ hưởng BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm và chi phí cho các hoạt động nghiệp vụ BHXH.
Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính chất xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
Nguồn hình thành quỹ BHXH.
Quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, tuỳ thuộc vào pháp luật BHXH và tuỳ thuộc vào mục đính hệ thống BHXH của mỗi nước. Nhìn chung, nguồn hình thành quỹ BHXH có thể gồm sự tham gia của Nhà nước, sự đóng góp của người sử dụng lao động, sự đóng góp của người tham gia BHXH, thu nhập từ lãi đầu tư của quỹ BHXH và các khoản thu nhập khác. Trong các nguồn trên, khoản đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động là chủ yếu. Đối với hệ thống BHXH đã có thời gian hoạt động đủ lớn thì các khoản lãi từ các hoạt động đầu tư là nguồn khá quan trọng. Tuy nhiên, việc quyết định hình thành các thành phần của nguồn quỹ BHXH không thuần tuý mang tính kỹ thuật mà còn phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia.
ở một số quốc gia phát triển quỹ BHXH phần lớn là các khoản thu từ thuế, nhất là các khoản thuế đặc biệt như rượu, thuốc lá dùng để chi trả cho các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ. Quỹ BHXH được hình thành trên cơ sở thuế thường được áp dụng cho hệ thống BHXH toàn dân, cho cả những người tham gia lực lượng lao động và không tham gia lực lượng này.
Đa số các nước có nền kinh tế thị trường, quỹ BHXH được hình thành trên cơ sở có sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. Người lao động khi tham gia BHXH phải đóng góp một khoản trên cơ sở tiền lương/thu nhập của mình. Lưu ý rằng khoản đóng góp BHXH của người lao động khác với đóng thuế ở chỗ đóng góp BHXH để tăng phúc lợi của bản thân người lao động. Người sử dụng cũng có nghĩa vụ đóng góp BHXH cho người lao động mà mình thuê mướn hoặc sử dụng. Khoản đóng góp của người sử dụng lao động thường được tính trên cơ sở bằng một tỷ lệ nào đó trên tổng quỹ lương của đơn vị và được tính vào chi phí trong giá thành sản phẩm.
Một hệ thống BHXH trong đó quỹ BHXH chủ yếu sử dụng đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động, không có sự đóng góp hoặc hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước được gọi là hệ thống tự trang trải. Các khoản đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động có thể là tỷ lệ nào đó theo thu nhập hoặc bằng một tỷ lệ theo một mức cố định (mức cố định có thể là mức lương tối thiểu hoặc mức lương trung bình xã hội). ở nhiều nước, nếu các mức đóng dựa theo thu nhập cá nhân thị trường có quy định mức giới hạn thu nhập (sàn và trần). Người có thu nhập dưới mức sàn thì không tham gia BHXH mà do Nhà nước hỗ trợ (theo hệ thống trợ giúp xã hội của an sinh xã hội). Người có thu nhập cao hơn mức trần cũng chỉ tham gia BHXH theo mức trần đó hoặc không tham gia BHXH mà tham gia vào bảo hiểm thương mại (bảo hiểm nhân thọ).
Có những nước, ngoài hệ thống chung còn có hệ thống BHXH chỉ có người lao động đóng góp theo quy định của pháp luật (thường là hệ thống BHXH tự nguyện). Hệ thống này áp dụng cho những đối tượng chưa tham gia BHXH theo quy định chung (thường ở những nơi không có quan hệ chủ - thợ); cũng có nước áp dụng cho cả những người đã tham gia vào hệ thống chung, nhưng có nhu cầu thoả mãn cao hơn.
Như vậy, xét về mặt bản chất, dù có thực hiện theo nhiều mô hình khác nhau, chỉ có hai cách tạo nguồn BHXH là không phải đóng góp (Nhà nước tài trợ thông qua thuế) và đóng góp (của người lao động và/hoặc của người sử dụng lao động).
Cả hai cách thức tạo nguồn quỹ BHXH (thuế và đóng thuế) đều được đưa vào tiêu chuẩn lao động của tổ chức lao động quốc tế (ILO). Trong công ước số 102 về các tiêu chuẩn tối thiểu về BHXH của ILO đã quy định: “Các chi phí cho các trợ cấp BHXH và các chi phí về quản lý của hệ thống BHXH phải được tài trợ từ quỹ BHXH bằng cách đóng góp BHXH hoặc bằng thuế hoặc kết hợp cả hai cách đó, theo những thể thức để giảm bớt tình trạng khó khăn cho người thiếu thốn phương tiện sống có lưu ý tới tình hình kinh tế từng nước thành viên và những nhóm người được bảo vệ”.
Hiện nay, đại đa số các nước có BHXH đều thực hiện theo cách người lao động và người sử dụng lao động đóng góp BHXH. Với cách thức này, một cách chung nhất, cơ cấu nguồn thu của quỹ BHXH như sau:
Qt =ĐLĐ+ĐSDLĐ+ĐNN+TNP+LĐT+TK
Trong đó:
ĐLĐ: khoản đóng góp của người lao động từ tiền lương/thu nhập;
ĐSDLĐ: khoản đóng góp của người SDLĐ;
ĐNN: sự đóng góp/hỗ trợ của Nhà nước trong một số trường hợp;
TNP: khoản nộp phạt của các doanh nghiệp/đơn vị chậm nộp BHXH;
LĐT:khoản lãi do đầu tư phần nhàn rỗi của quỹ BHXH;
Tk: các nguồn thu hợp pháp khác của quỹ BHXH;
Một đặc điểm rất cơ bản của BHXH trong cơ chế thị trường là sự đóng góp của người lao động diễn ra trong thời gian khá dài (20 đến 30 năm đối với các chế độ BHXH dài hạn) và thời gian thụ hưởng của họ cũng rất lâu (từ 10 - 15 hoặc 20 năm sau). Vì vậy, các khoản đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động (các nguồn cơ bản hình thành quỹ BHXH) phải được tính toán, điều chỉnh cho phù hợp, có tính đến các yếu tố lạm phát, đầu tư và sự thay đổi mức sống của dân cư. Hơn nữa, cũng phải tính đến mức hưởng của người nghỉ hưu sau 15-20 năm, khi mức sống chung của dân cư đã thay đổi rất nhiều (nâng lên). Đây là những tính toán cơ bản của quá trình cân đối quỹ BHXH theo mô hình quỹ có sự đóng góp của các bên tham gia BHXH.
Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những rủi ro của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc dàn trải rủi ro được thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm tối thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm cho cả ngân sách Nhà nước và ngân sách gia đình
Nội dung chi của quỹ BHXH.
Chi trả các chế độ BHXH theo công ước 102 năm 1952 bao gồm 9 chế độ BHXH. Hiện nay ở Việt Nam đang thực hiện 5 chế độ BHXH là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất.
Chi trả BHXH bao gồm: chi trả các chế độ BHXH, chi quản lý và chi khác.
Chi quản lý bao gồm chi sự nghiệp BHXH và quản lý quỹ BHXH. Chi sự nghiệp BHXH là các khoản chi phục vụ các sự nghiệp phúc lợi công cộng nhằm nâng cao sức khoẻ tuổi thọ và đời sống vật chất, tinh thần của những người lao động tham gia BHXH khi họ đang còn làm việc hoặc nghỉ hưu như chi phí cho các nhà nghỉ mát, nhà an dưỡng, dưỡng lão...Chi quản lý quỹ BHXH và các khoản chi cho bộ máy quản lý BHXH như các khoản trả lương và các chế độ phúc lợi xã hội cho nhân viên ngành BHXH, chi phí mở các lớp bồi dưỡng cán bộ làm công tác BHXH, in ấn hồ sơ và giấy tờ, chi phí sửa chữa nhỏ và mua sắm trang thiết bị, chi đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH...
Như vậy, theo cơ cấu chi, quỹ BHXH gồm:
QCBH=CTC+CQL+CK
Trong đó:
QCBH : Quỹ BHXH
CTC: Chi trả các chế độ BHXH
CQL: Chi quản lý
CK: Chi khác
Các nguyên tắc đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH
Do quỹ BHXH có những đặc trưng, khác hẳn với những tổ chức tài chính khác, nên việc đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH phải trên cơ sở những nguyên tắc nhất định:
Nguyên tắc thứ nhất:phải đảm bảo an toàn khi đầu tư
Mục tiêu hình thành quỹ BHXH là để góp phần đảm bảo an toàn thu nhập cho người lao động và sâu xa hơn là đảm bảo an sinh xã hội cho nhân dân. Vì vậy, an toàn là nguyên tắc hàng đầu trong việc đầu tư quỹ BHXH. Quỹ BHXH được bảo toàn và tăng trưởng tốt sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của người lao động tham gia BHXH và góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước, góp phần vào ổn định và phát triển đất nước. Ngược lại, nếu quỹ BHXH không được sử dụng đúng, không đảm bảo được giá trị, mất an toàn (thâm hụt) thì đời sống của người tham gia và thụ hưởng sẽ bị ảnh hưởng đầu tiên; hậu quả là sẽ dẫn đến rối loạn xã hội nghiêm trọng. Nhiều Chính phủ đã phải sụp đổ do những vấn đề có liên quan đến lợi ích của người tham gia BHXH.
Để thực hiện được nguyên tắc này, Nhà nước cần có những định hướng đầu tư và ở những chừng mực nào đó Nhà nước phải bảo hộ cho đầu tư của quỹ BHXH sao cho ít rủi ro nhất.
Việc đầu tư tăng trưởng của quỹ BHXH cần chú ý đến 3 yếu tố sau:
+ Xác định xác suất rủi ro có thể xảy ra trong quá trình đầu tư.
+ Tính toán chặt chẽ khả năng sinh lời.
+ Xác định lợi ích xã hội của việc đầu tư.
Nguyên tắc thứ hai: Phải có sinh lời.
Trong bất kỳ hoạt động kinh doanh nào, nếu không sinh lời (không có lợi nhuận) thì không nhà đầu tư nào bỏ tiền ra để đầu tư. Do đó xét trên giác độ kinh tế, sinh lời cũng là mục tiêu quan trọng trong hoạt động của quỹ BHXH. Hơn nữa, quỹ BHXH còn phải thực hiện các mục tiêu chính là đảm bảo thu nhập (cả về quy mô và giá trị) cho người lao động tham gia BHXH không chỉ hiện tại mà cả tương lai của họ. Vì vậy, đầu tư của quỹ phải đảm bảo được nguyên tắc có lãi.
Nguyên tắc thứ ba: phải có khả năng thanh toán (thanh khoản);
Mục tiêu lập quỹ BHXH là để đáp ứng được những chi trả các trợ cấp BHXH vào bất cứ thời điểm nào và ở bất cứ đâu. Nói cách khác, quỹ BHXH luôn ở chế độ sẵn sàng có tiền để chi trả các trợ cấp BHXH định kỳ hoặc đột xuất. Chính vì vậy, phần chưa dùng đến của quỹ BHXH mới được gọi là phần nhàn rỗi tương đối (hoặc tạm thời). Do đó, một nguyên tắc rất cơ bản khi tổ chức các hoạt động đầu tư của quỹ BHXH là dù đầu tư quỹ vào lĩnh vực nào, dưới hình thức nào cũng phải đảm bảo khả năng chuyển đổi các tài sản đầu tư thành tiền và có thể thu hồi được dễ dàng để chi trả các trợ cấp BHXH.
Nguyên tắc thứ tư: Đảm bảo lợi ích xã hội.
BHXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng của Nhà nước. Mục đích của BHXH là đảm bảo thu nhập cho người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an sinh xã hội và mục đích xa hơn của BHXH là nhằm góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, nâng cao mức sống chung của nhân dân. Vì vậy, song song với các yêu cầu về hiệu quả kinh tế nhằm tăng trưởng quỹ, việc đầu tư quỹ BHXH phải đạt hiệu quả về mặt xã hội. Đầu tư quỹ BHXH phải luôn gắn liền với các chính sách về xã hội như dân số, lao động, việc làm. cải thiện môi trường lao động và môi trường sống...Việc đầu tư quỹ BHXH cần chú trọng tới các dự án phục vụ công cộng và các mục tiêu xã hội thực sự, mặc dù lợi nhuận (hiệu quả kinh tế) đầu tư có thể thấp. Các dự án đầu tư phải là động lực cho phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ đông đảo người lao động, phải nhằm mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Do vậy quỹ BHXH có thể được đầu tư vào các công trình dân sinh, nhà ở cho người lao động có thu nhập thấp, tham gia vào các quỹ giải quyết việc làm, quỹ hỗ trợ dạy nghề cho người lao động, quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động.
III. Vai trò của công tác thu BHXH
Công tác thu BHXH có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của ngành BHXH, đây là công tác trọng tâm của hoạt động BHXH.
1. Vai trò của công tác thu BHXH trong việc tạo lập quỹ.
Công tác thu được triển khai và tiến hành tạo ra một quỹ tài chính đấy là quỹ BHXH. Quỹ này tạo ra để đảm bảo khả năng tài chính chi trả BHXH. Công tác thu được tiến hành đều đặn hàng tháng (theo quyết định số 902/QĐ-BHXH ngày 26/06/2007 của tổng giám đốc BHXH ra quyết định ban hành quy định về quản lý thu BHXH, BHYT bắt buộc) đối với tất cả các ngành, các đơn vị có sử dụng lao động sẽ giúp Nhà nước trong việc giảm chi từ ngân sách Nhà nước trong việc chi trả các chế độ BHXH. Do vậy công tác thu có vai trò rất lớn đối với nền kinh tế nước nhà. Vì hàng năm khoản chi này từ ngân sách Nhà nước là rất lớn. Mặt khác, thu nhanh, thu đủ đã tạo ra một khoản tiền lớn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng đến, đây cũng là một trong những nguồn tiền cho vay rất có ích đối với đất nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế. Bởi nhiều công trình, hạng mục của đất nước muốn được thi công thì phải có vốn mà ngay lập tức Nhà nước chưa thể cung cấp kịp thời.
2. Công tác thu trong việc tạo lập mối quan hệ giữa các bên trong BHXH.
Sự nghiệp BHXH, bước đầu được luật pháp hoá trong chương XII Bộ luật Lao động và được cụ thể hoá bằng điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ và đặc biệt công tác BHXH đã được ban hành thành luật BHXH số 71/2006/QH 11.
Điều luật có quy định việc thực hiện các chế độ hưởng BHXH phải dựa trên cơ sở đóng và thời gian đóng BHXH của từng người. Vì vậy thu BHXH đòi hỏi phải được theo dõi, ghi chép kết quả đóng của từng người trong cơ quan đơn vị, để làm cơ sở cho việc tính mức hưởng BHXH theo quy định.
Đây là những nội dung mang tính nghiệp vụ chuyên sâu và đòi hỏi sự chuẩn xác cao, cụ thể từng người lao động trong từng tháng và liên tục kéo dài trong nhiều năm.
Kết quả thu BHXH luôn gắn liền với nghiệp vụ chi trả các chế độ BHXH, do đó việc theo dõi, ghi chép kết quả đóng BHXH phải được thực hiện từ đơn vị cơ sở nơi người chủ sử dụng lao động, người lao động có trách nhiệm đóng BHXH.
BHXH thành phố có nhiệm vụ đôn đốc thu BHXH, đồng thời trực tiếp thanh quyết toán và chi trả các chế độ cho người lao động.Để có căn cứ thu BHXH, công tác nhgiệp vụ phải căn cứ vào mẫu biểu quy định của Bộ Tài chính. Ví dụ tên đơn vị sử dụng lao động, tổng số lao động đóng BHXH, tổng quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH. Danh sách, họ tên, tuổi và mức tiền lương của từng người lao động thuộc quỹ tiền lương của từng đơn vị đến từng người lao động. Trên cơ sở danh sách theo dõi kết quả đóng BHXH nói trên để ghi kết quả đóng BHXH vào sổ theo dõi của từng người, tạo thành mối quan hệ ba bên là người lao động, chủ sử dụng lao động và cơ quan BHXH.
Mối quan hệ này càng trở nên khăng khít khi công tác thu BHXH tiến hành đều đặn và nhiệt tình. Công tác thu diễn ra tốt đã góp phần bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
3. Công tác thu trong việc đảm bảo công bằng trong BHXH.
Một trong các nguyên tắc của BHXH không thể không nhắc tới, đó là nguyên tắc có đóng có hưởng trong BHXH. Có đóng góp phí BHXH thì mới có hưởng các chế độ BHXH.
Chính nhờ sự theo dõi, đôn đốc thu của công tác thu đã làm cơ sở đảm bảo công bằng giữa cống hiến và hưởng thụ về BHXH. Cũng chính nhờ sự theo dõi cẩn thận trong quá trình thu đã góp phần khắc phục các tiêu cực trong giải quyết chế độ chính sách BHXH.
CHƯƠNG II
THựC TRạNG CÔNG TáC THU BHXH TạI
THàNH PHố HảI DƯƠNG.
THựC TRạNG TìNH HìNH THU BHXH ở BHXH TP HảI DƯƠNG
1. Quy trình thu BHXH.
Những yếu tố ảnh hưởng đến công tác thu như sau:
Phân cấp thu thực hiện theo nguyên tắc:
Căn cứ vào số lượng các đơn vị sử dụng lao động đã được xác định trên địa bàn, BHXH tỉnh tiến hành thực hiện phân cấp thu BHXH.
Việc phân cấp thu BHXH được quy định như sau:
* BHXH tỉnh thu BHXH của các đơn vị có trụ sở và tài khoản tại tỉnh bao gồm:
- Các đơn vị thuộc Trung ương quản lý đóng trên địa bàn tỉnh.
- Các đơn vị do tỉnh trực tiếp quản lý.
- Các đơn vị, tổ chức quốc tế có trên địa bàn tỉnh, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
- Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng từ 50 lao động trở lên.
Trường hợp các huyện thuộc tỉnh không đủ điều kiện để thực hiện nhiệm vụ thu BHXH của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh dưới 50 lao động hoặc các đơn vị Trung ương, đơn vị thuộc tỉnh có số lao động không nhiều, thì giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh quyết định việc phân cấp thu đối với từng đơn vị cụ thể.
* BHXH huyện thu BHXH của các đơn vị có trụ sở và tài khoản tại huyện bao gồm:
- Các đơn vị thuộc cấp huyện trực tiếp quản lý.
- Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử dụng từ 10 lao động đến dưới 50 lao động.
- Các đơn vị khác do BHXH tỉnh giao nhiêm vụ thu theo quyết định phân cấp thu. Trường hợp BHXH tỉnh mở rộng đối tượng thu BHXH tự nguyện đối với doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động phải báo cáo BHXH Việt Nam để trình hội đồng quản lý xem xét quyết định.
Lập kế hoạch và giao kế hoạch thu BHXH, BHYT
- BHXH huyện căn cứ vào danh sách lao động quỹ lương trích nộp BHXH của các đơn vị tham gia BHXH, BHYT do BHXH huyện quản lý, thực hiện kiểm tra đối chiếu, tổng hợp và lập 2 bản kế hoạch thu BHXH, BHYT năm sau (theo mẫu số 4-KHT) 01 bản lưu tại BHXH huyện, 01 bản lưu tại BHXH tỉnh trước ngày 20/10.
- BHXH tỉnh căn cứ danh sách lao động, quỹ ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0044.doc