Thông tin về hoạt động xuất khẩu lao động trên Báo Lao Động và Thời báo Kinh tế Việt Nam từ 2002-2004

Tài liệu Thông tin về hoạt động xuất khẩu lao động trên Báo Lao Động và Thời báo Kinh tế Việt Nam từ 2002-2004: ... Ebook Thông tin về hoạt động xuất khẩu lao động trên Báo Lao Động và Thời báo Kinh tế Việt Nam từ 2002-2004

doc65 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thông tin về hoạt động xuất khẩu lao động trên Báo Lao Động và Thời báo Kinh tế Việt Nam từ 2002-2004, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Để hoàn thành §Ò Tµi TiÓu luËn M«n c¬ së lý luËn, người viết đã may mắn nhận được sự ủng hộ của các thầy cô giáo trong Khoa Báo chí, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của ThÇy gi¸o h­íng dÉn Khoa Báo chí - Häc viÖn B¸o ChÝ & Tuyªn TruyÒn.. Em xin ch©n thµnh c¶m ¬n sù ñng hộ và giúp đỡ quý báu đó. Trong khả năng của mình, em xin hứa sẽ nỗ lực cố g¾ng hoµn thµnh tèt! PhÇn më ®Çu 1. §Æt vÊn ®Ò B¸o chÝ là s¶n phÈm thuéc kiÕn tróc th­îng tÇng, nã ra ®êi vµ ph¸t triÓn do nhu cÇu th«ng tin cña x· héi. V× thÕ, mét mÆt, b¸o chÝ ®­îc sö dông nh­ mét ph­¬ng tiÖn tuyªn truyÒn, gi¸o dôc, cæ ®éng nh©n d©n; mÆt kh¸c nã trë thành diÔn ®µn cña mäi ng­êi vÒ c¸c lÜnh vùc cña ®êi sèng. Kh«ng cã mét ®¶ng ph¸i, tæ chøc, lùc l­îng kinh tÕ x· héi nµo kh«ng sö dông b¸o chÝ víi t­ c¸ch nh­ mét ph­¬ng tiÖn th«ng tin ®Ó phôc vô c¸c môc tiªu cña m×nh. Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong thời gian qua, báo chí nước ta đã phát huy thế mạnh của mình trong việc phản ánh sự thay đổi kỳ diệu của Việt Nam sau thời kỳ đổi mới. Ngoµi viÖc th«ng tin vÒ tình hình phát triển mọi mặt của xã hội như kinh tế, văn hoá, y tế, giáo dục…đáp ứng nhu cầu thông tin cho toàn thể nhân dân; trong qu¸ tr×nh héi nhËp thêi c¬ vµ th¸ch thøc, báo chí cßn trở thành yếu tố quan trọng trong quản lý kinh tế xã hội, góp phần cùng với nhà chức trách tìm ra những phương pháp hợp lý nhằm giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn. Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, qua báo chí, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động hợp tác và đầu tư nước ngoài, những cơ hội và thách thức mà nền kinh tế mở đã và đang đem lại cho chúng ta - một trong những hoạt động nổi bật của kinh tế đối ngoại . Sự gia tăng nhanh chóng và ngày càng hoàn thiện của mạng lưới thông tin đại chúng đã giúp chúng ta có thể dễ dàng tiếp cận các thông tin, cùng lúc bằng các cách thức khác nhau, qua phát thanh, truyền hình, báo in, báo điện tử (Internet)… Về vấn đề báo chí, đã có những phản ánh tổng quát về tình hình, những thành tựu đã đạt được cũng như những bất cập còn tồn tại. Tõ đó, báo chí đưa ra những đề xuất, kiến nghị giúp các cơ quan có thẩm quyền rút kinh nghiệm, kÞp thêi bổ sung và đề ra những chính sách cã t¸c dông thóc ®Èy ho¹t ®éng giao l­u héi nhËp quèc tÕ. So với các loại hình khác, báo in chiếm ưu thế hơn hẳn trong việc thông tin đến bạn đọc nhờ được phát hành rộng rãi và tính định kỳ dễ theo dõi. Tuy nhiên, thực trạng mà báo in phản ánh cụ thể như thế nào, hiệu quả phản ánh mà nó đạt được ra sao, cần có những cải tiến theo hướng nào để hiệu quả đó đạt được ngày càng hoàn hảo hơn nữa. Đây là một vấn đề tương đối quan trọng, cần được xem xét dưới góc độ báo chí học. 2. T×nh h×nh nghiên cứu. Để nội dung của đề tài được cập nhật và sinh động, người viết tập trung xem xét thông tin qua sự phản ánh của 2 tờ báo: Thời báo Kinh tế Việt Nam (cơ quan của Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam) và Lao Động (cơ quan của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) từ năm 2002 đến năm 2004. Qua quá trình sưu tầm, phân loại tư liệu về đề tài này ở 2 tờ báo trên, chúng tôi thống kê được tổng cộng 331 tin, bài (thuộc các thể loại bài phản ánh, phóng sự, điều tra, ký chính luận…). Cụ thể: Lao Động - 234 tin, bài (98 tin, 136 bài); Thời báo Kinh tế Việt Nam - 97 tin, bài (54 tin, 43 bài). Những bài báo này rất có ích và thiết thực trong việc xem xét hiệu quả thông tin của báo chí nói chung, của Thời báo Kinh tế Việt Nam và Lao Động nói riêng, để báo chí ngày càng nâng cao h¬n n÷a hiệu quả đó trong thêi gian tíi.. 3.Môc §Ých Vµ NhiÖm Vô Nghiên Cứu: Phương pháp nghiên cứu của c¬ së ly lun bao chi bước đầu tiếp cận với phương pháp luận báo chí học mà người viết tiếp thu được trong thời gian häc tËp võa qua, ®Æc biÖt lµ d­íi sù chØ d¹y tËn t×nh cña c¸c thÇy c« gi¸o trong Khoa B¸o chÝ-Tr­êng Häc ViÖn B¸o ChÝ Vµ Tuyªn TruyÒn. Đó là phương pháp luận khoa học, sáng tạo dựa trên yếu tố biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để tìm hiểu các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Nhà nước về vấn đề Lao động. Ngoài ra, người viết cũng sơ bộ xem xét hệ thống tư liệu mang tính pháp lý của Việt Nam, Bộ luật lao động, Luật hợp tác và đầu tư cũng như các tin, bài, ảnh trên các phương tiện thông tin đại chúng nói chung về hoạt động B¸o ChÝ ViÖt Nam trong qu¸ trinh héi nhËp thêi c¬ vµ th¸ch thøc . 4. Ch­¬ng I ®­êng lèi chÝnh s¸ch cña ®¶ng vµ Nhµ n­íc ta vÒ B¸o chÝ viÖt nam trong qu¸ tr×nh héi nhËp- thêi c¬ vµ th¸ch thøc. Từ cuối 1986, ở Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Cùng với đó là những thay đổi tích cực trong đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta để xây dựng một môi trường pháp lý hoàn chỉnh, phù hợp với tình hình mới. §¹i héi §¶ng VI (12/1986) ®· chØ ra nh÷ng ph­¬ng h­íng môc tiªu vµ nhiÖm vô c¶i t¹o, x©y dùng, ph¸t triÓn kinh tÕ cho kÕ ho¹ch 5 n¨m 1986-1990. §©y lµ thêi kú chuyÓn ®æi nÒn kinh tÕ tõ tËp trung sang c¬ chÕ thÞ tr­êng cã sù qu¶n lý cña nhµ n­íc. Sù chuyÓn ®æi nµy ®­îc thùc hiÖn b»ng hµng lo¹t c¸c chÝnh s¸ch vµ chØ thÞ, ®Æc biÖt trong lÜnh vùc kinh tÕ ®èi ngo¹i. LuËt ®Çu t­ n­íc ngoµi ra ®êi n¨m 1988 nh»m më réng quan hÖ hîp t¸c kinh tÕ víi n­íc ngoµi, ph¸t triÓn nÒn kinh tÕ quèc d©n, ®Èy m¹nh xuÊt khÈu trªn c¬ së khai th¸c cã hiÖu qu¶ nguån tµi nguyªn, lùc l­îng lao ®éng vµ c¸c tiÒm n¨ng kh¸c cña ®Êt n­íc. §©y lµ b­íc ®æi míi tÝch cùc cho nÒn kinh tÕ ViÖt Nam. §¹i héi §¶ng VI lµ mét mèc son lÞch sö ®¸nh dÊu sù chuyÓn biÕn quan träng vÒ ®æi míi chÝnh s¸ch kinh tÕ vµ c¬ chÕ qu¶n lý kinh tÕ. Nh÷ng thµnh c«ng mµ §¹i héi §¶ng VI ®¹t ®­îc ®· trë thµnh ®éng lùc thóc ®Èy nÒn kinh tÕ t¨ng tr­ëng ë møc ®é cao trong kÕ ho¹ch 5 n¨m1990-1995 t¹i §¹i héi VII. Đại hội Đảng VII đã chỉ rõ “Đổi mới toàn diện nhằm ổn định vững mọi mặt đời sống kinh tế xã hội, tạo thế phát triển nhanh.Đại hội Đảng VII cũng thông qua Cương lĩnh về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2002. Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát nhiệm kỳ khoá VII là “vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế xã hội”. Để mục tiêu phấn đấu trở thành hiện thực, Nhà nước ta đã có những nỗ lực đẩy mạnh hoạt động lập pháp và lập quy một cách tích cực, sôi động và hiệu quả. Từ 1986 đến nay đã có hơn 100 Bộ luật và Pháp lệnh ra đời. Trên cơ sở đó Chính phủ đã ban hành hàng trăm Nghị định hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh cũng như điều chỉnh nhiều vấn đề, kể cả những vấn đề có tính thử nghiệm chưa được pháp luật quy định. Về kinh tế, khung pháp luật ngày càng được hoàn thiện để đảm bảo tin cậy và an toàn cho các hoạt động đầu tư kinh doanh. Đặc biệt, Hiến pháp năm 1992 ra đời đã khẳng định những nguyên tắc pháp lý cơ bản cho việc xây dựng ở Việt Nam một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, nhiều luật và pháp lệnh đã kịp thời bổ sung và sửa chữa cho phù hợp với thực tiễn trong từng thời kỳ. Trong đó Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật khuyến khích đầu tư trong nước đã tích cực đi vào cuộc sống và thể hiện ở mức tăng trưởng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Môi trường pháp lý về đầu tư được cải thiện rõ rệt. Các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã yên tâm hơn để mở rộng kinh doanh, phát triển thị trường… Trong đường lối chính sách pháp luật, chúng ta luôn luôn quán triệt phương châm đảm bảo cho môi trường đầu tư không chỉ phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam mà còn phù hợp với thực tiễn quốc tế ở mức độ cho phép. tế tham gia xuất khẩu và làm dịch vụ XKLĐ trong khuôn khổ pháp luật dưới sự quản lý chặt chẽ của nhà nước”. Năm1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 152/1999/NĐ-CP. Năm 2003 lại tiếp tục hoàn thiện bằng Nghị định số 81/2003/NĐ-CP, trong đó có các chính sách về đầu tư mở rộng thị trường, tăng cường năng lực của các doanh nghiệp XKLĐ, tạo nguồn XKLĐ… Ngày 7/4/2003, Hiệp hội XKLĐ ViÖt Nam (VAMAS) chính thức ra mắt. Lần đầu tiên sau hơn 25 năm tham gia cung ứng nhân lực quốc tế, một tổ chức mang tính xã hội, bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp XKLĐ và người lao động ViÖt Nam đã được thành lập. Đây là một sân chơi mới, có ý nghĩa thiết thực với hoạt động XKLĐ trong tình hình hiện nay, góp phần lành mạnh hoá thị trường lao động. Hướng tới, để nâng cao hiệu quả XKLĐ, Bộ LĐTB&XH đã đề xuất và đang chỉ đạo thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ, trong đó gồm: đầu tư mở rộng thêm các thị trường lao động mới, giữ vững và mở rộng thị phần ở các thị trường hiện có; tiếp tục chỉ đạo thực hiện mô hình liên kết giữa các doanh nghiệp XKLĐ và các cấp chính quyền địa phương trong tuyển chọn, đào tạo lao động; tăng cường chỉ đạo các doanh nghiệp XKLĐ thực hiện các giải pháp tuyển chọn lao động, quản lý lao động để khắc phục triệt để những tồn tại hiện nay. Về công tác hoàn thiện cơ chế chính sách, năm 2005 Bộ sẽ dự thảo và trình Quốc hội ban hành Luật về XKLĐ và chuyên gia để nâng cao hiệu lực pháp lý của các quy định hiện nay. Chủ trương về XKLĐ trong thời gian tới được Đảng ta cụ thể hoá bằng các mục tiêu dưới đây: 1. Khuyến khích và đẩy mạnh XKLĐ để phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2. Xây dựng một chiến lược về mở rộng thị trường XKLĐ củng cố giữ vững để phát triển các thị trường truyền thống như Nga, một số nước SNG, các nước Đông Âu, Irắc. Những thị trường cần được mở rộng như Hàn Quốc, Nhật Bản, Lào, Cô-Oét và một số nước Châu Phi. Khu vực thị trường tiềm năng cần được khai thông để phát triển như Singapore, Malaysia, Đài Loan, Brunei, các nước Trung Đông, các nước châu Mỹ như Hoa Kỳ, Canađa, Achentina, Braxin, Mêhicô… 3. Thực hiện XKLĐ theo cơ chế thị trường 4. Đầu tư cho sự nghiệp XKLĐ về vốn để khảo sát và mở rộng thị trường, đào tạo ngoại ngữ và tay nghề chuyên môn cho người lao động, đáp ứng yêu cầu của thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh của lao động Việt Nam trên thị trường quốc tế. Để đạt được những mục tiêu trên, ngoài việc cố gắng phát huy những thành tựu đã có, Đảng ta đã đề ra các phương hướng nhằm khắc phục khó khăn và giải quyết dứt điểm các tồn tại hiện có. Trong chiến lược về phát triển kinh tế cũng như mục tiêu về giải quyết việc làm cho người lao động trong thời gian tới, công việc mà Nhà nước, doanh nghiệp XKLĐ và nhân dân cùng làm còn tương đối lớn. Cụ thể là phải gắn việc sử dụng lao động, sắp xếp lao động với đào tạo đổi mới chất lượng và nâng cao trình độ lao động. Khẩn trương đào tạo một đội ngũ lao động có tay nghề, có chuyên môn kỹ thuật cao để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cùng với đó là tiếp tục đa dạng hoá các hình thức việc làm, tạo mở nhiều hướng giải quyết việc làm ở trong nước cũng như ở nước ngoài. Nhà nước cÇn xem xÐt ®Ó có các chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi nhà đầu tư mở thêm nhiều ngành nghề, tạo nhiều việc làm. Đào tạo và đào tạo lại nghề nghiệp cho người lao động. tạo thêm nhiều việc làm thông qua phát triển những dự án nhỏ. Cùng với phát triển công nghệ cao cần quan tâm đến những lĩnh vực có đầu tư thấp. Một trong những công việc không kém phần quan trọng là tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước về lao động, quản lý sự hình thành và phát triển của thị trường sức lao động qua tổ chức và cơ chế chính sách. Hợp tác quốc tế là một hình thức quan trọng để thu hút vốn đầu tư trực tiếp cũng như công nghệ, kỹ thuật tiên tiến của thế giới để đẩy mạnh phát triển kinh tế trong nước. Việc này có ý nghĩa là vận dụng tích cực những điều kiện của đất nước ta trong hoàn cảnh thời đại. Đồng thời là mở rộng thị trường sức lao động, giải quyết khó khăn về công ăn việc làm cho người lao động. Để đẩy nhanh hơn nữa hiệu quả hợp tác đầu tư với nước ngoài, Nhà nước ta đã ra kế hoạch chuẩn bị kỹ địa bàn, lĩnh vực và các dự án kêu gọi vốn đầu tư, chuẩn bị mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng. Phát triển đa dạng các hình thức đầu tư, giải quyết đồng bộ về tài chính, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư trực tiếp bên ngoài, đồng thời quản lý chặt chẽ các hoạt động đầu tư, văn phòng đại diện của nước ngoài. Đó là những mục tiêu phấn đấu của Đảng, của toàn dân ta nhằm xây dựng một nước Việt Nam phát triển và phồn vinh. Trong bối cảnh quan hệ ngoại giao và quan hệ hợp tác kinh tế giữa nước ta và các nước đang có nhiều thuận lợi, với chủ trương mở rộng và đa dạng hoá trong XKLĐ, tạo điều kiện tham gia cho các thành phần kinh tế và cho người lao động, những mục tiêu trên hoàn toàn có thể trở thành hiện thực. Ch­¬ng II th«ng tin vÒ ho¹t ®éng xuÊt khÈu lao ®éng trªn b¸o lao ®éng vµ thêi b¸o kinh tÕ ViÖt Nam tõ n¨m 2002 ®Õn 2004 Nền báo chí của ta là nền báo chí thực sự cách mạng, nó ra đời và phát triển do nhu cầu thông tin của quảng đại quần chúng nhân dân. Chính vì vậy, báo chí có ý nghĩa là một công cụ, một phương tiện để tuyên truyền, giáo dục, cổ động nhân dân làm theo các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Đồng thời nó cũng là một diễn đàn của đông đảo các tầng lớp nhân dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cùng với những đổi mới của đất nước, báo chí Việt Nam cũng bước vào một giai đoạn mới. Những chuyển biến về hình thức và nội dung phản ánh cho thấy báo chí ngày càng hiện đại hơn, dân chủ hơn và đến gần hơn với đời sống của nhân dân. Có thể nói trong suốt thời kỳ đổi mới nhiều thành tựu và cũng lắm khó khăn của đất nước ta, báo chí đã trở thành kênh thông tin quan trọng giúp cho sự chỉ đạo của Chính phủ có hiệu quả và kịp thời nêu lên những bức xúc của nhân dân. Tuy không cụ thể và chi tiết như những trang biên niên sử song những gì mà báo chí ghi nhận trong thời kỳ này đã chứng tỏ báo chí là người thư ký trung thành, nhiệt tình và hữu ích của thời đại. Sự phản ánh chính xác, cụ thể của nội dung thông tin dưới các bút pháp linh hoạt, đa dạng đã tạo nên sự sinh động, cuốn hút của báo chí. Vì thế, để tìm hiểu một vấn đề gây nhiều quan tâm của dư luận, việc xem xét những phản ánh của báo chí tạo hứng thú hơn nhiều so với một cuốn sử khô khan. Trong thời kỳ đổi mới đất nước và mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, XKLĐ là một vấn đề đã từng nóng bỏng trên dư luận báo chí cũng như trong nhân dân. Bằng những loại hình khác nhau (báo in, báo nói, báo truyền hình và gần đây là báo điện tử - internet), báo chí đã tạo ra nhiều thuận lợi để ngưòi dân tiếp cận được với các thông tin về XKLĐ một cách dễ dàng. Riêng báo in, với ưu thế là tính định kỳ và khả năng lưu giữ thông tin tiện lợi cho việc theo dõi của độc giả, trong thời gian qua, loại hình báo chí này đã có cách thức riêng trong tiếp cận và thông tin đến bạn đọc. Víi nhiều thể loại phong phú như tin, phóng sự, bài phỏng vấn, các chuyên đề điều tra…báo in đã thu hút đựoc đông đảo bạn đọc quan tâm theo dõi. Qua các bài viết được đăng tải mà đông đảo người dân biết được bản chất thực sự của vấn đề, từ đó nhận thức đúng đắn hơn về XKLĐ - một lĩnh vực còn tương đối mới mẻ trong đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta. Là hai tờ báo có uy tín với số lượng độc giả đông đảo, Lao Động và Thời báo Kinh tế Việt Nam có ưu thế đặc biệt trong việc phản ánh đề tài này. Trong các năm 2002, 2003 và 2004, những thông tin về XKLĐ xuất hiện trên hai tờ báo này với tần số tương đối lớn (152 tin và 179 bài). Có thể nói, Lao §éng vµ Thêi b¸o Kinh tÕ ViÖt Nam đã bám sát đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về hoạt động XKLĐ, đưa đến cho độc giả những thông tin phong phú, sinh động về đề tài này. Qua những thông tin đó nhận thức của bạn đọc về hoạt động XKLĐ cũng tăng lên rất nhiều. KÕ qu¶ lµ khơi dậy ở độc giả niềm tin vào những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta, tránh những cảm giác bi quan, thất vọng không đáng có. PhÇn tr×nh bµy d­íi ®©y cã tham kh¶o từ các tư liệu báo chí gần đây, cụ thể là phản ánh của hai tờ Lao Động và Thời báo Kinh tế Việt Nam từ năm 2002 đến năm 2004 vÒ ®Ò tµi XuÊt khÈu lao ®éng. Chính xác, trung thực, khách quan là những phẩm chất hàng đầu của thông tin báo chí. Người viết hy vọng phần trình bày của mình sÏ ít nhiều truyền đạt được những phẩm chất đó thÓ hiÖn trong c¸c th«ng tin cña hai tê b¸o Lao §éng vµ Thêi b¸o Kinh tÕ ViÖt Nam. C¶m ¬n quý thÇy c« vµ c¸c b¹n ®äc quan t©m gãp ý. 2.1: XuÊt khÈu lao ®éng – nhu cÇu tÊt yÕu cña ®æi míi kinh tÕ x· héi Xu thế toàn cầu hoá đời sống kinh tế quốc tế, quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư, những bước tiến vũ bão của khoa học và công nghệ đã mang lại cho tất cả các quốc gia những lợi thế chưa từng có và những thách thức gay go. Điều đó cho phép và đòi hỏi nền kinh tế cña mçi quốc gia phải phát huy triệt để c¸c lợi thế của mình, khắc phục những khác biệt và hạn chế về tài chính, trình độ công nghệ và kỹ thuật để hoà nhập vào nÒn kinh tế quốc tế. Trong quá trình hội nhập toàn cầu, lợi thế về phân công lao động quốc tế và sự trao đổi mậu dịch quốc tế lµ vÊn ®Ò mµ tÊt c¶ c¸c n­íc ®Òu quan t©m. Đối với các nước đang phát triển, XKLĐ được đánh giá là một mũi nhọn kinh tế trong giải quyết dư thừa nhân lực và thu về một lượng ngoại tệ khá lớn. Ngân hàng Thế giới (World Bank) cho biết, lượng kiều hối thu được từ XKLĐ mỗi năm tới 80 tỷ USD! Philippines mỗi năm cũng thu được 6,4 tỷ USD từ nguồn này. Rất nhiều nước trên thế giới đã mở các chiến dịch quảng bá hình ảnh lao động xuất khẩu của họ và cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường lao động quốc tế. Là một nước đang phát triển điển hình, Việt Nam cũng bị cuốn vào quỹ đạo của xu thế toàn cầu hoá. Cho ®Õn nay, chóng ta ®· quan hÖ bu«n b¸n víi 105 n­íc trªn thÕ giíi vµ ký kÕt hiÖp ®Þnh th­¬ng m¹i víi 67 n­íc. Trên trường quốc tế, chóng ta cã c¸c ®èi t¸c lín nh­ NhËt B¶n, ¤xtr©ylia, Singapore, Th¸i Lan, Trung Quèc, Hµn Quèc, §µi Loan ... Chóng ta còng nhËn ®­îc sù hîp t¸c vµ hç trî cña c¸c ng©n hµng lín nh­ Ng©n hµng ThÕ giíi ( World Bank-WB ), quü C«-oÐt, OPEC, UNDP vµ trªn 145 tæ chøc phi chÝnh phñ. ViÖc ViÖt Nam ký kÕt hiÖp ®Þnh khung víi EU, gia nhËp ASEAN vµ ®Æc biÖt lµ b×nh th­êng ho¸ quan hÖ ViÖt Mü đã đánh dấu bước phát triển mới của ngoại giao Việt Nam, đem lại cho chúng ta những lợi thế nhất định trên trường quốc tế. Chúng ta vừa có nhiều cơ hội, vừa có nhiều thách thức. Cơ hội và thử thách lớn nhất trong giai đoạn hiện nay là đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, nhân dân được ấm no, hạnh phúc, mọi ngưòi đều được chăm sóc sức khoẻ, được học hành… §Ó ®¹t ®­îc nh÷ng ®iÒu ®ã, chúng ta phải chó ý ®Õn viÖc x©y dùng mét nền kinh tế phát triển. Trong các chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế, §¶ng vµ Nhµ n­íc ta luôn đề cao vai trò của việc phát huy các nguồn lực trong nước để tận dụng tốt nhất những thuận lợi của tình hình quốc tế. Ngoài các nguồn lực tự nhiên, chúng ta còn có những khả năng to lớn về con người. Đó là nguồn tài nguyên dồi dào mà chúng ta có thể vừa khai thác, vừa bồi dưỡng một cách hiệu quả nhất. Giữa lúc hợp tác quốc tế về kinh tế được mở rộng, lao động được đánh giá là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế trong nước và xuất khẩu sang nước ngoài. Lao động là yếu tố mà nước ta khá dồi dào, thậm chí còn dư thừa. Không phải là không thể đi vay, đi mua của nước ngoài được, mà hoàn toàn do trong nước quyết định. Theo báo cáo kết quả điều tra lao động - việc làm của Ban chỉ đạo điều tra Trung ương công bố thì tại thời điểm 1/7/2004, lực lượng lao động trong và trên độ tuổi cả nước có 43.255,3 nghìn người, tăng gần 2,7% so với thời điểm 1/7/2003, trong đó 40.803,3 nghìn người trong độ tuổi, chiếm 94,3%, tăng 2,45% so với cùng kỳ năm ngoái. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo cũng tăng nhanh hơn các năm trước, chiếm 22,5%, gåm: đã qua đào tạo nghề là 13,3%, tốt nghiệp THCN là 4,4%, tốt nghiệp CĐ, ĐH trở lên là 4,8%. Mục tiêu đề ra là 30% trong năm 2005. (Bức tranh lao động việc làm năm 2004 - Thời báo Kinh tế Việt Nam số 179 - thứ Hai – 1/11/2004) Người Việt Nam có mặt mạnh là thông minh, sáng tạo, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học - công nghệ, có khả năng thích ứng được với những tình huống phức tạp. Hơn thế, chúng ta lại có truyền thống lao động ch¨m chØ cần cù, một nền tảng văn hoá giáo dục lâu đời. H¬n n÷a, víi lùc l­îng lao ®éng dåi dµo, giá nhân công tương đối thấp hiện nay cũng là một lợi thế cña chóng ta trong phân công lao động quốc tế. Mặc dù còn một số điểm yếu bắt nguồn từ trình độ của nền kinh tế nông nghiệp nh­ c¨n tÝnh n«ng d©n dÉn ®Õn viÖc thiÕu vµ yÕu t¸c phong c«ng nghiÖp tinh thÇn kû luËt; ngoµi ra lµ h¹n chÕ về thể lực, kiến thức chuyªn m«n, ngoại ngữ…, song những kết quả mà người lao động Việt Nam đi XKLĐ đạt được trong thời gian qua là rất đáng mừng. Đến nay, tổng số lao động Việt Nam ở nước ngoài đã lên tới 35 vạn người, có mặt trên 40 nước và vùng lãnh thổ, làm trên 30 ngành nghề khác nhau, mỗi năm gửi về cho đất nước 1,5 tỷ USD (chỉ đứng sau kim ngạch xuất khẩu dầu thô, dệt may, thuỷ sản, giày dép). Nhờ có con em đi XKLĐ đời sống của hàng vạn gia đình đã được cải thiện. Đáng mừng hơn, với số vốn dành dụm được sau một số năm làm việc ở nước ngoài nhiều người đã tiếp thu được sự nhanh nhạy của lối sống công nghiệp và đã bắt nhanh nhịp với nền kinh tế thị trường, mạnh dạn đầu tư đúng chỗ, trở thành những ông chủ trẻ đầy triển vọng. XKLĐ là một giải pháp cần thiết để giải quyết việc làm cho số lượng lao động ngày càng tăng ở trong nước, ®ång thêi đem lại lợi ích kinh tế thiết thực cho cả 3 phía: Nhà nước, các doanh nghiệp XKLĐ và bản thân người lao động. “Chiến lược về việc làm thời kỳ 2001-2010 ” mà Đảng ta thông qua tại Đại hội IX đã xác định mục tiêu: từ 2010 trở đi Việt Nam phải luôn có từ khoảng 0,8 -1,0 triệu lao động và chuyên gia làm việc ở nước ngoài. Cụ thể, đến năm 2005, mỗi năm phải xuất khẩu được 150-200 ngàn lao động và chuyên gia. Xu thế toàn cầu hoá, đặc biệt là việc thực hiện các cam kết hợp tác song phương và đa phương mà Việt Nam tham gia như AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, WTO một mặt tạo ra cơ hội để lao động nước ta hội nhập thị trường lao động quốc tế, mặt khác là những thử thách mới, đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực cố gắng. Đó là yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu, ổn định năng lực hoạt động của các doanh nghiệp chuyên doanh XKLĐ, tăng cường sự hỗ trợ của nhà nước về tài chính và pháp luật. Qua đó khắc phục kịp thời những yếu kém còn tồn tại, tăng tính cạnh tranh của lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế. XKLĐ là môc tiêu có tầm quan trọng quốc gia, vì thế cần một cơ chế có tầm quốc gia cho việc này. Cần xây dựng một giải pháp tổng thể để Việt Nam không chỉ xuất khẩu lao động phổ thông mà còn có khả năng cung ứng lao động cho các nhu cầu đa dạng khác. 2.2: Những thµnh tùu cña XKLĐ ViÖt Nam Những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự hưởng ứng tham gia của các cấp, các ngành và các doanh nghiệp, nhiều giải pháp đồng bộ đẩy mạnh XKLĐ và chuyên gia đã được thực hiện và thu được những kết quả tương đối tốt. Số lượng lao động đưa đi tăng nhanh hằng năm. Tính từ 2001 đến hết năm 2003, bình quân hằng năm ta đưa được trên 52000 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Đặc biệt trong năm 2003, với việc đẩy mạnh khai thác thị trường Malaysia, chúng ta đã đưa được một số lượng kỷ lục lao động đi làm việc ở nước ngoài (75000 người), đạt 163% so với năm 2002 và vượt đến 25.000 người so với chỉ tiêu. Thị trường lao động ngoài nước ngày càng được mở rộng hơn. Chúng ta đã bắt đầu đưa lao động sang Anh quốc, các nước Trung Đông. Đặc biệt từ năm 2003 đối với thị trường Hàn Quốc, bên cạnh đưa tu nghiệp sinh công nghiệp, ta đã mở rộng thêm đưa tu nghiệp sinh xây dựng, tu nghiệp sinh nông nghiệp và đưa lao động theo Luật cấp phép lao động mới của phía bạn (từ 8/2004), tăng nhanh quy mô đưa lao động sang thị trường có thu nhập cao này. ViÖc ®¸nh gi¸ vÒ thµnh tùu cña XKL§ ViÖt Nam sÏ dùa trªn viÖc t×m hiÓu sù gia t¨ng cña sè l­îng L§XK ë c¸c thÞ tr­êng, ®ång thêi lµ sù ®æi thay trong cuéc sèng vËt chÊt vµ tinh thÇn cña nh©n d©n nhê XKL§. 2.2.1. Các thị trường XKLĐ chính của Việt Nam a. XKLĐ sang Malaysia Tháng 12/2002, Hiệp định Tuyển dụng lao động giữa hai nước được ký kết. Theo Bộ LĐTBXH, đây là văn bản pháp lý cao nhất làm cơ sở cho lao động Việt Nam làm việc tại Malaysia, quy định các nội dung và điều kiện cơ bản về thủ tục gửi và tiếp nhận lao động Việt Nam. Từ đó đến nay đã có trên 80.000 lao động Việt Nam sang làm việc tại Malaysia. Lao động Việt Nam chủ yếu tập trung ở một số bang có khu công nghiệp, nhà máy lớn như Kuala Lumpur, Penang, Johor, Melaka… Theo Cục quản lý lao động ngoài nước thì Malaysia là thị trường khá dễ tính, tiếp nhận chủ yếu là lao động phổ thông, không đòi hỏi trình độ tay nghề cao, yêu cầu về ngôn ngữ giao tiếp cũng đơn giản, rất phù hợp với lao động đến từ các vùng nông thôn. Đây cũng là một thị trường thực sự quan trọng vì Malaysia là nước có nhu cầu sử dụng lao động lớn (khoảng 1 triệu người). Nếu cố gắng Việt Nam có thể chiếm được 20% thị phần lao động (200.000 người) Do đó, tuy là thị trường mới mở, Malaysia vẫn được đánh giá là thị trường thực sự quan trọng và nhiều hứa hẹn của XKLĐ Việt Nam… b. XKLĐ sang Đài Loan Sau thị trường Malaysia, Đài Loan là thị trường trọng điểm truyền thống mà hầu hết các doanh nghiệp XKLĐ Việt Nam đều có lao động làm việc tại đây. Thị trường Lao động xuất khẩu ở Đài Loan được mở vào cuối năm 1999. Đến nay, Việt Nam đã đưa hàng chục ngàn lao động sang nước này làm việc. Số lượng sẽ tăng lên trong các năm tới khi phía Đài Loan có nhu cầu tuyển dụng lao động ngoài nước vì giá nhân công rẻ hơn trong nước. Theo đánh giá của các doanh nghiệp Đài Loan, so với lao động của các nước khác, lao động Việt Nam có khả năng học hỏi nhanh, cần cù, khéo léo trong công việc. Số lượng đơn đặt hàng mà các doanh nghiệp Việt Nam ký với các doanh nghiệp Đài Loan tăng mạnh. Đây là thị trường XKLĐ lớn, có tốc độ tăng mạnh nhất, với tốc độ bình quân là 500 lao động sang Đài Loan mỗi tháng. Tuy nhiên số lao động Việt Nam bỏ trốn ở đây cũng tương đối lớn… c. XKLĐ sang Hàn Quốc Từ 10 năm nay, Việt Nam đã có khoảng 3 vạn lượt lao động sang Hàn Quốc làm việc, thu nhập được nhận dưới hình thức trợ cấp và có mức cố định. Tuy có cao hơn thị trường khác nhưng so với lao động Hàn Quốc cùng công việc thì mức thu nhập của tu nghiệp sinh Việt Nam rất thấp. Sau khi Luật cấp phép lao động mới của Hàn Quốc được ban hành và có hiệu lực từ 8/2004, Việt Nam là một trong 8 quốc gia có thêm kênh mới để đưa lao động của mình đến với thị trường Hàn Quốc. Theo Luật mới, Lao động Việt Nam được đối xử như lao động Hàn Quốc. Người lao động chỉ đóng phí ban đầu 699 USD nhưng thu nhập khoảng 1000 USD/tháng. Ngoài ra còn được hưởng thù lao làm thêm giờ, bảo hiểm xã hội như người lao động bản xứ. XKLĐ vào Hàn Quốc hiện nay theo 4 kênh chính là: tu nghiệp sinh công nghiệp, tu nghiệp sinh nông nghiệp, thẻ vàng (lao động công nghệ thông tin) và lao động đăng trình (dành cho đối tượng có thời gian lao động ở Hàn Quốc trên 4 năm tự nguyện trở về Việt Nam từ 9/2003 đến 3/2004). Hiện Việt Nam có 17.457 người lao động đang làm việc, xếp thứ 3 trong số 15 quốc gia tham gia chương trình tu nghiệp sinh công nghiệp tại Hàn Quốc, chỉ đứng sau Trung Quốc và Indonesia. Lao động Việt Nam được đánh giá rất tốt tại Hàn Quốc. Theo một quan chức của Bộ Lao động Hàn Quốc, ông Quân Ki Sớp, chỉ tiêu dành cho các nước trong năm 2005 sẽ có sự thay đổi dựa trên tay nghề của người lao động; số lượng lao động bỏ trốn ra ngoài bất hợp pháp; nhu cầu của các công ty Hàn Quốc và vì thế có những nước sẽ nhận chỉ tiêu lớn gấp 5 tới 6 lần các nước khác. Ông này còn cho biết, lao động Việt Nam và Philippines được đánh giá có trình độ tay nghề cao hơn so với các nước khác. Trong thời gian tới, XKLĐ của ta sang Hàn Quốc sẽ mở rộng theo hướng ngày càng nhiều hơn lao động có trình độ tay nghề cao như lao động trong các lĩnh vực điện tử, công nghệ thông tin. d. XKLĐ sang Anh Thị trường XKLĐ sang Anh được mở từ 1/2004. Đến nay, hai công ty XKLĐ của Việt Nam là TCL (trung tâm đào tạo, cung ứng lao động nước ngoài và dịch vụ) và OSC Việt Nam (công ty du lịch dịch vụ dầu khí Việt Nam) đã đưa được 600 lao động sang Anh làm việc. Tất cả các lao động này đều được bố trí công việc ổn định với điều kiện làm việc, ăn ở rất tốt. Mức thu nhập của lao động ở đây cũng tương đối cao, mỗi lao động sau khi trừ chi phí ăn ở, các khoản tiền thuế, bảo hiểm, có thu nhập trung bình khoảng 600 – 800 USD/tháng. e. Hy vọng lớn ở Trung Đông và Châu Phi Theo Cục quản lý lao động ngoài nước, thị trường Trung Đông (UAE, Kuwait...) và châu Phi (Nam Phi, Sudan, Angola, Zimbabwe..) hiện cũng rất triển vọng. Đối với thị trường châu Phi, Việt Nam sẽ chủ yếu xuất khẩu chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp, y tế và giáo dục. Lybia là thị trường đã tiếp nhận lao động xây dựng Việt Nam ổn định trong những năm gần đây theo hình thức cung ứng trực tiếp và qua nước thứ ba. Cho đến nay đã đưa được 10.000 lượt người. Các doanh nghiệp XKLĐ của ta hoàn toàn có thể đưa được số lượng lớn lao động thông qua các công ty quốc tế thắng thầu ở khu vực này. Trung Đông là một thị trường rất tiềm năng, song đối với lao động Việt Nam hiện nay vẫn còn khá mới mẻ.Tháng 5/2001, Bộ LĐTBXH, Bộ ngoại giao và một số doanh nghiệp XKLĐ của ta đã đến một số nước Trung Đông, trong đó có Saudi Arabia để tìm hiểu thị trường. Saudi Arabia sau đó đã đồng ý tiếp nhận lao động Việt Nam. Đến thời điểm tháng 7/2004, hai doanh nghiệp thí điểm đã đưa được khoảng 50 lao động vào thị trường này. Có một số điểm mà lao động nước ta còn e ngại ở thị trường này là điều kiện làm việc còn tương đối khắt khe, đòi hỏi phải cố gắng mới có thể thích nghi. Khí hậu Trung Đông nóng, dân chủ yếu theo đạo Hồi, mặt khác, lương cơ bản ở đây nhìn chung không cao bằng Hàn Quốc hay Nhật Bản (trung bình khoảng 200 USD/tháng). Trong thực tế, Việt Nam rất khó khăn khi cạnh tranh với một số nước xuất khẩu lao động vào Trung Đông có truyền thống như Philippines hay Ấn Độ. Chúng ta cũng đang tính đến những khả năng đưa lao động sang làm việc tại Iraq. Đây là thị trường khá quen thuộc với Việt Nam. Trước năm 1991, chúng ta đã có 20.000 lao động ở đây. Khi kết thúc chiến tranh Iraq, các doanh nghiệp Việt Nam đã liên hệ với một số tập đoàn nước ngoài tham gia tái thiết Iraq để có thể đưa nhân công sang thị trường này. f. Xuất khẩu thuyền viên Theo thống kê của Cục quản lý lao động ngoài nước, từ đưa đi làm việc trên các tàu đánh bắt cá chủ yếu tại các thị 1992 đến nay đã có trên 18.000 lượt thuyền viên được trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Na Uy, Hy Lạp… Trong đó có trên 6.000 lượt do 39 doanh nghiệp XKLĐ đưa sang Đài Loan làm việc, gần 11.000 lượt được đưa sang Hàn Quốc và khoảng 2.000 lượt được đưa sang làm việc trên các tàu đánh bắt cá Nhật Bản và các thị trường khác. Thuyền viên đánh cá xa bờ chiếm 80% tổng số thuyền viên được đưa đi. Hiện nay mức lương cơ bản năm thứ nhất cho thuyề._.n viên dao động từ 170-190/tháng, từ năm thứ hai trở đi là 210-230 USD/tháng. Ngoài lương cơ bản, thuyền viên còn được hưởng tiền năng suất, tiền thưởng, tiền làm thêm giờ, bình quân từ 100-150USD/tháng. Cục quản lý lao động ngoài nước cũng cho biết, không ít lao động đi làm việc trên các tàu đánh cá Hàn Quốc đã hoàn thành không dưới một hợp đồng. Tại thị trường Đài Loan, các lao động thuyền viên đi tiếp hợp đồng thứ hai, thứ ba không còn là hiếm. Có thể thấy xuÊt khÈu thuyền viên đánh cá trong những năm qua đã góp phần cải thiện đời sống của nhiều gia đình. Người lao động qua làm việc cũng tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, nâng cao tay nghề chuyên môn và trở thành nòng cốt trong các đội tàu đánh cá xa bờ của địa phương. g. Triển vọng hợp tác lao động với Brunei Từ cuối những năm 1990, Bộ LĐTBXH đã khảo sát thị trường này đồng thời đặt vấn đề với Brunei về việc tiếp nhận lao động Việt Nam. Tuy nhiên, bấy giờ phía bạn chỉ hợp tác với một số nước hạn hẹp, không có Việt Nam. gần đây, Brunei đã mở rộng hợp tác lao động với một số nước khác và đó là cơ hội để Việt Nam đàm phán mở rộng thị trường. Brunei là một đất nước nhỏ, chỉ có hơn 340 ngàn dân. Tuy nhiên họ tiếp nhận đến hơn 100 ngàn lao động nước ngoài, chủ yếu từ Indonesia, Thái Lan, Philippines. Theo đánh giá, nhu cầu tuyển dụng lao động nước ngoài của Brunei vẫn còn rất lớn. Các ngành nghề lao động nước ngoài làm việc chủ yếu là xây dựng, may mặc, nông nghiệp và giúp việc gia đình. * Một số chỉ tiêu về phát triển thị trường XKLĐ đến 2005 - Hàn Quốc: chỉ tiêu từ nay đến hết năm 2005 là đưa được 18.770 người lao động Việt Nam. Chủ yếu là tu nghiệp sinh công nghiệp. - Nhật Bản: Mỗi năm nhập khẩu từ 1.500-2.000 người lao động Việt Nam,chủ yếu làm việc trong các ngành dệt may, điện tử, xây dựng. Phấn đấu tăng thêm số lượng lớn lao động có chất lượng trong thời gian tới so với 16.000 NLĐ đang tu nghiệp hiện nay. - Malaysia: Là thị trường mới nhưng nhiều tiềm năng. Dự báo có thể nhận tới 200.000 NLĐ Việt Nam. - Khu vực Châu Phi: Là thị trường có nhu cầu cao về chuyên gia thuộc các ngành như nông nghiệp, y tế, giáo dục. Trong thời gian tới ta tiếp tục hợp tác hiệu quả với một số nước và Tổ chức Nông nghiệp thế giới đưa chuyên gia nông nghiệp của ta sang làm việc… 2.2.2. XKL§ - gi¶i ph¸p h÷u hiÖu ®Ó xãa ®ãi gi¶m nghÌo. Trên thực tế, XKLĐ đã trở thành phương tiện thoát nghèo, vươn lên làm giàu không chỉ ở một nơi mà là nhiều địa phương trong cả nước. Thời báo Kinh tế Việt Nam số 125 - thứ Tư – 6/8/2003 có bài viết về thị trấn Nam Sách, Hải Dương - một địa phương làm giàu từ XKLĐ. “Còn nhớ trong những năm 90, do đất chật người đông, lại không có nghề phụ, hàng nghìn người dân thị trấn thường xuyên rơi vào tình trạng thiếu việc làm. “Nhàn cư vi bất thiện”, cả phố xá chìm ngập trong lô đề, cờ bạc, rượu chè. Có trường hợp dính vào buôn ma tuý, nghiện hút. Tỷ lệ hộ đói nghèo chiếm tới 30% dân số thị trấn. Trước thực trạng bi thảm này, năm 1995, để t×m ®­êng tháo gỡ khó khăn, một số hộ đã liều lĩnh bán cả vườn tược nhà cửa, vay lãi nặng lấy tiền cho người thân đi lao động ở các nước Nga, Đức, Tiệp Khắc, kể cả đi “chui” …Sau này được chính quyền địa phương chủ động tạo điều kiện và hỗ trợ, ngày càng có nhiều người ở Nam Sách rời quê hương lập nghiệp bằng XKLĐ. Phần lớn những ngưòi trước khi ra đi đều nợ nần chồng chất. Nhưng khi trở về không chỉ trả hết nợ nần mà còn tích cóp được vốn để kinh doanh…Chủ tịch thị trấn Nguyễn Văn Dương tỏ ra rất tự hào: “Cái được từ XKLĐ không chỉ là tiền mà lối tư duy tiểu nông của ngưòi dân thị trấn vốn thâm căn cố đế giờ đã được thay đổi bằng cách sống hiện đại của xã hội công nghiệp, dịch vụ”. Nhờ XKLĐ thị trấn Nam Sách không chỉ bứt ra khỏi cái đói, cái nghèo đeo đẳng trong nhiều năm, mà còn trở thành địa phương có tiềm lực kinh tế dồi dào…Trong năm 2002, doanh thu của thị trấn (trừ vốn cấp cho xây dựng cơ bản) đạt mức 54 tỷ đồng, GDP bình quân đầu người đạt tới 7 triệu đồng/năm, cơ bản không còn hộ nghèo, số hộ giàu ngày càng tăng…Trung bình mỗi năm, thị trấn đưa được 30-50 lượt người ra nước ngoài. Hiện có khoảng 1.500 nghìn ngưòi đã đi XKLĐ, trông đó 300 ngưòi đang lao động tại các nước Nga, Hàn Quốc, Đức, CH Séc, Malaysia. Cho nên ngoài cái tên thị trấn “Made in Hàn Quốc”, ngưòi ta còn gọi Nam Sách là thị trấn tỷ phú…” Cïng víi sù ®æi thay cña thÞ trÊn Nam S¸ch, nhiều gia đình ở ®©y cũng đổi đời nhờ XKLĐ. Bµi viÕt trªn còng kÓ ®Õn trường hợp anh Đặng Huy Hà (số 71, phố Quốc Trị). Nếu 7 năm về trước, gia đình anh bị xếp vào diện nghèo túng nhất vùng, vợ chồng tuổi trẻ thất nghiệp, nợ nần chồng chất, hai đứa con nhỏ tưởng chừng phải bỏ dở học hành thì giờ đây vợ chồng anh đã trở thành một tỷ phú…Sau khi ng­êi vợ đi XKLĐ ở Nga göi tiÒn vÒ (chÞ làm việc ở một siêu thị, với lương tháng 2000 USD), anh Hà đã mua xe Toyota 16 chỗ ngồi để kinh doanh vận tải hành khách. Nhê lµm ¨n thuËn lîi, mỗi tháng trừ chi phí anh còng bỏ túi được 4 ®Õn 5 triệu đồng. Anh Hµ tiÕt lé, hiện nay số vốn mà anh chị tiết kiệm được đã gần tỷ đồng, đợi chị mãn hạn hợp đồng trở về sẽ chuyển hướng làm ăn lớn. Hoàn cảnh nhà ông Trần Duy Hội cũng rất đáng mừng. “Trước kia, do dính vào cờ bạc, lô đề, có đợt hết tiền, cả nhà ông phải nhịn đói cả tuần lễ. Thấy nhiều người trước kia cũng nghèo khó không kém gia đình mình là mấy, nhưng chỉ sau 2 – 3 năm đi XKLĐ đã đem về bạc triệu, ông Hội quyết định bán hết đồ đạc trong nhà và cắt một nửa vườn đem bán lấy tiền cho người con trai thứ nhất Trần Duy Biên sang Hàn Quốc làm công nhân trong một nhà máy. Đi một năm anh Biên đã gửi về cho gia đình tới 100 triệu đồng để trả nợ và tậu lại vườn. Không chỉ có thế, anh còn đưa nốt ngưòi em gái của mình là Trần Thị Thuý sang cùng. Bây giờ, đều đặn tháng nào cũng thế, hai anh em gửi về cho nhà được 2000 USD. Gia đình ông Hội vươn lên trở thành một trong những hộ tỷ phú của thị trấn Nam Sách…” Nếu Nghi Xuân là một huyện nghèo của Hà Tĩnh, thì Cương Gián là xã nghèo nhất của huyện nghèo. Trước đây người dân Cương Gián suốt ngày đánh vật với cái ăn mà vẫn thiếu đói…Bây giờ ở Cương Gián có nhiều gia đình xây nhà tầng khang trang, trang trí nội thất bằng những đồ đắt tiền. Tất cả sự biến đổi bắt đầu từ ngày Cương Gián có con em đi xuất khẩu lao động (XKLĐ). Tờ Thời Báo Thời báo Kinh tế Việt Nam đã theo dõi những chuyển biến của Cương Gián từ mô hình XKLĐ và thông tin tới bạn đọc. Thời báo Kinh tế Việt Nam số 23 - thứ Sáu – 22/2/2002 có bài “ Cương Gián mở hướng việc làm”. Một năm sau, tờ báo này trở lại Cương Gián qua bài viết “Cương Gián đã thoát nghèo”. Những sè liÖu đổi thay ở một xã nghèo của Hà Tĩnh quả lµ nh÷ng th«ng thin vui trªn trang b¸o. “Từ năm 1994 về trước, Cương Gián đói nghèo đến mức nhiều gia đình đã phải bỏ quê hương…Năm 1995, Đại hội Đảng bộ xã khoá 20 đã xác định cơ cấu kinh tế của xã là đánh cá, nông nghiệp, đồng thời cho con em đi XKLĐ để thoát nghèo…Tính đến ngày 31/12/2001 với 6.540 lao động trong xã, Cương Gián đã có 925 lao động ở nước ngoài.Trong lúc ở khắp nơi người lao động muốn đi XKLĐ phải chi phí tốn kém tới 60 – 70 triệu đ ồng, thậm chí cả trăm triệu đồng, không ít người bị lừa đảo “tiền mất tật mang” thì ở một xã nghèo như Cương Gián lại đưa được 1/7 số lao động trong xã đi XKLĐ. Có lẽ đây là xã có số người đi XKLĐ nhiều nhất cả nước (!)”(Cương Gián mở hướng việc làm - Thời báo Kinh tế Việt Nam số 23 - thứ Sáu – 22/2/2002) “Trong vòng 7 năm qua, đã có gần 3.000 lượt người lao động ở Cương Gián lên đường XKLĐ. Đến cuối năm 2002, toàn xã có1.416 người đang lao động ở nước ngoài, trong đó 364 người ở Đài Loan và 953 người ở Hàn Quốc. Tính trung bình mỗi tháng mét người ®i XKL§ gửi về nước 4 ®Õn 6 triệu đồng, tổng cộng mỗi tháng cả xã thu về 7 tỷ đồng…Hiện số lao động này hằng năm gửi về cho gia đình trên 40 tỷ đồng. Toàn xã hiện có khoảng trên 100 hộ dân có nguồn vốn từ 500 triệu đồng trở lên, còn số hộ có tiền tỷ lên tới vài chục…Chủ tịch UBND xã Lê Văn Thanh hồ hởi: cứ tính sơ sơ, nếu cứ duy trì được mức trên 1000 người đi lao động xuất khẩu như hiện nay, mười năm nữa số hộ dân gia nhập “ câu lạc bộ 500 triệu” sẽ lªn tới 200 ®Õn 300 hộ” (Cương Gián đã thoát nghèo - Thời báo Kinh tế Việt Nam số 37 - thứ Tư – 5/3/2003) XKLĐ đã góp phần thay đổi đáng kể bộ mặt nông thôn nghèo nàn, lạc hậu ở một số vùng quê trước đây. Tác giả Nguyễn An Thơ - Thời báo Kinh tế Việt Nam viết về “những điều trông thấy” ở một làng quê khởi sắc từ XKLĐ. “Dọc con đường từ chợ Trang (Nghi Xuân, Nghi Lộc, Nghệ An) đến ngã ba đường Bình Minh (nối Cửa Hội với Cửa Lò) giờ đây bộ mặt n«ng th«n ®· khác hẳn. Những nếp nhà cũ kỹ, đói nghèo năm xưa đã được thay bằng những căn hộ xây dạng villa, biệt thự với những kiểu dáng hiện đại. Khối Tây Hoà, Nghi Hoà, Nghệ An là một làng nhỏ xưa kia với nghề chính lµ sản xuất nông nghiệp, ruộng đất bạc màu, chưa xong vụ gặt đã hết lúa. Trẻ con, người lớn làm đủ nghề từ làm ruộng, buôn sắt vụn, buôn cá đến hôi, vẹt ở cảng cá nhưng vẫn không hết đói. Khoảng 3 năm trở lại đ©y, làng khác hẳn. Đường làng được từng hộ đóng góp láng bê tông cho xe ô tô. Những căn nhà một tầng, hai tầng mọc lên san sát. Hầu như nhà nào cũng một hoặc hai chiếc xe máy dựng trước sân. Khắp làng giờ đây chỉ râm ran chuyện người nhà từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan gửi về bao nhiêu “nghìn”, làm nghề gì, có “vượt” ra ngoài không… Những gia đình có người XKLĐ đã thực sự đổi đời”. (Qua cÇu xuÊt khÈu ai hay - Thêi b¸o Kinh tÕ ViÖt Nam sè 15, thø B¶y ngµy 25/1/2003). Xã Hương Ngải (Thạch Thất, Hà Tây) vốn nổi tiếng về nghề làm mộc. Những năm gần đây, địa phương này lại được biết đến qua hiệu quả của XKLĐ. Thời báo Kinh tế Việt Nam số 164 - thứ Hai – 13/10/2003 tìm hiểu phong trào XKLĐ ở Hương Ngải có thông tin cho biết. “Phong trào đi XKLĐ ở Hương Ngải diễn ra rầm rộ từ năm 1999…Hiện cả xã có khoảng 300 người đang sống và làm việc tại Đài Loan, Hàn Quốc…Mỗi năm thu nhập trung bình 60 triệu/người. Nhờ đó đã tăng mức thu nhập kinh tế hộ gia đình trong xã lên rất cao. XKLĐ góp phần giải quyết công ăn việc làm, tạo nguồn vốn cho người lao động địa ph­¬ng trong việc tổ chức kinh doanh, xây nhà, mở cửa hàng, cải thiện đời sống…Thông qua XKLĐ, tỷ lệ hộ giàu ở Hương Ngải tăng lên đáng kể, số hộ nghèo giảm xuống còn 7%, thu nhập bình quân của người dân tăng lên 2,2 lần. Năm 2002, tổng thu nhập từ XKLĐ của xã đạt 29 tỷ đồng”. Rõ ràng, những bước tiến của hoạt động XKLĐ đã thúc đẩy mạnh mẽ bước tiến của kinh tế - xã hội của các vùng nông thôn. Kh«ng chØ cã t¸c dông xo¸ ®ãi gi¶m nghÌo, khuyÕn khÝch c¸c nhu cÇu tiªu dïng chÝnh ®¸ng, sè tiÒn do lao ®éng ë n­íc ngoµi göi vÒ cßn ®­îc sö dông gióp con c¸i hä häc tËp, tæ chøc c¸c lÔ héi t¹i quª h­¬ng, ®Çu t­ vµo s¶n xuÊt, kinh doanh. Thêi gian gÇn ®©y c¸c chÝnh s¸ch cña §¶ng vµ Nhµ n­íc ta vÒ hç trî cho ng­êi ®i XKL§ (nh­ chÝnh s¸ch hç trî vay vèn, chÝnh s¸ch ­u tiªn lao ®éng thuéc chÝnh s¸ch x· héi… ) ®· t¹o thuËnh lîi cho ng­êi lao ®éng n«ng th«n, lao ®éng nghÌo cã ®iÒu kiÖn ®i lµm viÖc ë n­íc ngoµi. Những thành tựu đạt được từ XKLĐ không gì hơn là phục vụ lợi ích nhân dân, nâng cao chất lượng cuộc sống cho mọi người. 2.3. Nh÷ng tån t¹i trong XKL§-Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p Là một hoạt động kinh tế còn tương đối mới mẻ, XKLĐ của ta không tránh khỏi việc tồn tại những bất cập cần giải quyết, điều chỉnh. Theo khảo sát sơ bộ, những bất cập trong XKLĐ chủ yếu là: chất lượng lao động xuÊt khÈu thấp, tình trạng lao động bỏ trốn tăng lên, tình trạng lừa đảo XKLĐ còn tồn tại; ngoµi ra lµ chi phÝ ban ®Çu qu¸ cao nªn khã cho ng­êi nghÌo XKL§. Cïng víi viÖc ph¶n ¸nh nh÷ng tån t¹i trong ho¹t ®éng XKL§, th«ng qua mét sè bµi viÕt, Lao §éng vµ Thêi b¸o Kinh tÕ ViÖt Nam đã có những nỗ lực để gi¶i thÝch vÒ nguyên nhân nảy sinh và kiến nghị một số giải pháp cho vấn đề này. D­íi ®©y lµ nh÷ng ghi nhËn cña ng­êi viÕt qua viÖc t×m hiÓu c¸c th«ng tin cña hai tê b¸o trªn. 2.3.1.. Chất lượng lao động xuất khẩu thấp Dưới tiêu đề “Chất lượng xuất khẩu lao động thấp”, bài viết của tác giả Tuấn Dũng trên trang 8 - Thời báo Kinh tế Việt Nam số 121 - thứ Tư – 9/11/2002 đã nêu lên một thực tế không mấy vui vẻ về chất lượng lao động xuất khẩu Việt Nam. Cụ thể là người lao động xuất khẩu của ta hiện nay đang bị kêu ca về một số nhược điểm lớn như: yếu về tay nghề chuyên môn, kém về trình độ ngoại ngữ, ý thức chấp hành các quy định của doanh nghiệp và luật pháp nước sở tại còn ở mức thấp. Những khảo sát gần đây cho thấy số lao động phải về nước do không đáp ứng được các yêu cầu về sức khoẻ, tay nghề, ngoại ngữ chiếm tỷ lệ tương đối cao, (23,4% tại thị trường Đài Loan và 60% ở thị trường Malaysia…). Một điều đáng tiếc, như các doanh nghiệp chuyên doanh XKLĐ tiết lộ, những năm gần đây họ đã tìm được những hợp đồng tuyển công nhân điện tử, lập trình viên cao cấp… nhưng rất khó tuyển được những lao động đạt tiêu chuẩn. Điều này là đáng tiếc song hoàn toàn có thể hiểu được. Có một nghịch lý là, trong khi thị trường XKLĐ đang ngày càng đòi hỏi lao động có hàm lượng chất xám, tay nghề cao thì chất lượng lao động ta chưa đáp ứng được nhu cầu. XKLĐ chủ yếu còn ở dạng thô, chưa được chuẩn bị kỹ các mặt.. Đa số lao động xuất khẩu không có chuyên môn, chỉ là lao động phổ thông, một số lao động thậm chí không tốt nghiệp lớp 12, trình độ văn hoá thấp. Tờ Lao §éng sè 172 ra ngµy chñ nhËt 20/6/2004 có thông tin cho biết: “Lao động Việt Nam tại Đài Loan chỉ 10% có trình độ làm trong các nhà máy, xí nghiệp, còn lại là đảm đương các công việc đơn giản như giúp việc nhà, chăm sóc người già, làm hộ lý trong bệnh viện. So với các nước có lao động đang làm việc tại đây như: Ấn Độ, Sri Lanka, Malaysia, Thái Lan…- người lao động làm việc trong lĩnh vực công nghiệp lên tới 80% - thì đây thực sự là một điểm yếu của ta”. (§õng v× lîi nhá, bá lîi lín - Lao §éng 172/2004). Điểm yếu dễ nhận thấy nữa của lao động Việt Nam là trình độ ngoại ngữ. Trong khi tiếng Anh là sở trường của lao động các nước như Philippines, Ấn Độ, Malaysia… thì đó lại là sở đoản của lao động ta. Một ví dụ cô thÓ lµ trong lÜnh vùc xuÊt khÈu thuyÒn viªn cña ViÖt Nam. Mặc dù chóng đang đứng trước triển vọng rất lớn về xuất khẩu thuyền viên song thùc tÕ th× vẫn chưa thể đẩy mạnh được công tác này vì thuyền viên của chúng ta còn quá yếu về “tiếng nói”. Bài viết “Làm gì để đẩy mạnh xuất khẩu thuyền viên?” của tác giả Cao Hùng trên Lao Động số 194 - thứ Sáu – 26/7/2002 đưa ý kiến của ông Nguyễn Xuân Hồng - Trưởng phòng thuyền viên công ty Inlaco Sài Gòn nhận xét : “Cái yếu nhất của thuyền viên Việt Nam là ngoại ngữ yếu. Công việc trên các tàu quốc tế luôn đòi hỏi người lao động phải thông thạo tiếng Anh mới có thể trao đổi với mọi thuyền viên khác trên tàu nhưng hầu hết thuyền viên ta đều không đáp ứng được đòi hỏi này. Trong thực tế thì công tác đào tạo ngoại ngữ cho các thuyền viên Việt Nam còn quá dàn trải, thiên về lý thuyết nên khi giao tiếp, trao đổi bằng ngoại ngữ rất bị hạn chế”. Các đối tác tiếp nhận lao động Việt nam ở nước ngoài cũng không mấy hài lòng về trình độ ngoại ngữ của quân ta. Bµi “T×m bÖnh cña lao ®«ng ViÖt Nam”, b¸o Lao Động số 87/2004 dẫn lời của một chủ sử dụng lao động Việt Nam. “Ông Roy – Giám đốc nhà máy chuyên sản xuất vi mạch điện tử NLH ở Selangor than phiền: Tiếng Anh của họ rất kém, muốn giao việc cũng khó; Không chỉ vậy, trình độ ngoại ngữ yếu kém còn xảy đến một số sự việc đáng tiếc cho các lao động Việt Nam. Qua t×m hiÓu thùc tÕ, còng trong bµi viÕt trªn phãng viªn Xu©n Quang kÓ l¹i mét sè nh÷ng sù viÖc ®¸ng tiÕc ®· x¶y ra. “Tại một nhà máy sản xuất ống bảo ôn ở Kuala Lumpur, do không nghe được chỉ dẫn của quản đốc, cũng không biết độc các chỉ dẫn bằng tiếng Anh trên máy, một lao động Việt Nam đã bị lưỡi cưa máy văng đứt cả bả vai, phải nằm viện”. Phãng viªn nµy còng cho biÕt: “Đã thế, ý thức học ngoại ngữ của quân ta lại kém, đến nỗi ở nhà máy Hualon, chủ phải yêu cầu một số quản đốc người Mã học tiếng… Việt!”. Nhìn sang một số nước khác, rất nhiều nơi đã mở các chiến dịch quảng bá hình ảnh lao động xuất khẩu của họ. Đi đầu ở Đông Nam Á là Philippines, với lực lượng lao động rất giỏi ngoại ngữ, tiếng Anh được coi gần như tiếng mẹ đẻ, chất lượng lao động rất tốt. Nhê cã ngo¹i ng÷ lao ®éng Philippines ®· ®i kh¾p thÕ giíi lµm viÖc ë nhiÒu n­íc vµ cã thu nhËp cao. Nhìn bạn thì ngẫm lại mình, chúng ta cần xem xÐt l¹i kh©u tuyÓn chän vµ ®µo t¹o lao ®éng xuÊt khÈu, tiÕn tíi x©y dùng mét lùc l­îng lao ®éng cã tr×nh ®é cao h¬n, ®¸p øng yªu cÇu cña thÞ tr­êng quèc tÕ. Ngoài hạn chế về tay nghề chuyên môn và trình độ ngoại ngữ, lao động xuất khẩu của ta còn mắc một số nhược điểm như thiếu ý thức chấp hành các quy định của doanh nghiệp và luật pháp nước sở tại, hay gây gổ đánh lộn… Một số vụ việc đáng tiếc mà các phóng viên ghi nhận được trong các phóng sự theo chân lao động ta ở Malaysia đã cho thấy mét sè người lao động Việt Nam không có lòng kiên trì, tự phát đình công trái luật, tự đẩy mình từ thế đúng thành sai, thành vi phạm pháp luật. Phóng viên Xuân Quang – Báo Lao Động kể về sự việc xảy ra ở nhà máy sản xuất đồ gỗ Suasa. “Ở đây có 58 lao động Việt Nam làm việc. Cuối năm 2003, nhà máy gặp khó khăn trong nhập khẩu nguyên liệu gỗ nên phải tạm dãn sản xuất. Tất nhiên nhà máy vẫn đảm bảo làm 8 tiếng/ngày và lương cơ bản theo hợp đồng 468 RM/tháng cho công nhân. Trước tình hình đó, công nhân ta đã nghỉ làm để phản ứng. Sau khi được chủ nhà máy giải thích và có phương án đảm bảo giờ làm thêm tăng thu nhập, 36 người đã làm việc trở lại. Số còn lại, tiếc thay, đã tổ chức đình công. Đi xa hơn, họ kéo nhau đến Đại sứ quán Việt nam tại Kuala Lumpur dựng lều lán để ngủ gây nên một cảnh tượng không mấy đẹp mắt. Hành động đình công là vi phạm luật pháp Malaysia và điều gì đến đã đến. Những người tham gia đình công đều lần lượt bị trục xuất về nước. §¸ng tiÕc lµ nh÷ng sù viÖc buån nh­ trªn cßn x¶y ra ë SIG, ë Hualon, ë Jeep Construction…”. (Lao §éng sè 83/2004) Trong ghi chÐp theo ch©n ng­êi lao ®éng ViÖt Nam t¹i Malaysia, hai phãng viªn Xu©n Quang - Méng Thoa ®· gÆp nh÷ng chuyÖn lµ bµi häc, lµ kinh nghiÖm mµ lao ®éng ta tõng gÆp do “thãi quen khã bá, thãi míi khã theo”. Một số ứng xử sơ đẳng nhất ở xứ bạn như không hút thuốc, khạc nhổ nơi công cộng, lao động ta cũng khó quen. Bốc kẹo bánh ăn vô tư trong siêu thị, hút thuốc trong toilet đến nỗi bị bắt giam là chuyện dở khóc dở cười đã xảy ra với lao động ta tại Malaysia. “Thèm thuốc – hút thuốc”, “thèm kẹo - bốc kẹo ăn”, “thèm rượu, thịt chó” – lao động ta cũng rình “tóm cổ” con chó cưng của quản đốc phân xưởng mang về phòng chế biến rồi mua rượu về đánh chén. Chuyện xảy ra ở một nhà máy ở Penang. Vì chuyện này, sau khi phát giác, từ ông chủ cho đến anh em công nhân bản xứ và người nước ngoài đều nhìn lao động ta như nhìn những quái vật. (Ăn thịt chó là một điều khủng khiếp ở đất nước đạo Hồi này, ấy là chưa kể chó cưng, chó cảnh của người ta ). Luật pháp Malaysia cực kỳ nghiêm khắc đối với những hành vi hành nghề và chứa chấp gái mại dâm. Thế nhưng lại có chuyện 10 lao động Việt nam đưa 1 cô gái về phòng ở để tá túc, để cơm nước giặt giũ và đương nhiên là có… “chuyện ấy”. Sau khi bị phát giác, 10 công nhân này phải góp tiền mua vé cho cô gái về nước ngay lập tức - rất may là không ai phải ngồi tù vì ông chủ không giao sự việc cho cảnh sát… Tính kỷ luật là một trong những nguyên tắc hàng đầu nhưng một số công nhân Việt Nam không dễ dàng thích nghi mặc dù họ đã được dặn dò trước khi đi. Có không ít nam lao động sau giờ làm việc lại đánh bài, uống rượu hay trêu chọc phụ nữ - những điều bị xem là cấm kị ở quốc gia Hồi giáo này. Các vụ việc xô xát xảy ra giữa lao động Việt nam và lao động nước ngoài thời gian gần đây cũng làm xấu đi hình ảnh của lao động ta đối với đối tác. Chẳng hạn, trong dịp Tết 2003, tại Công ty Sekoplas (Malaysia) đã xảy ra trường hợp công nhân Việt Nam sau khi uống rượu bia say xỉn đã tự đánh lẫn nhau đến mức một số công nhân bị đánh phải chạy vào công ty – nơi đang làm việc để “trốn”. Gần đây nhất là vụ xô xát giữa lao động Việt Nam với lao động Bangladesh vào cuối tháng 1 năm 2003 khiến 68 lao động Việt nam bị trục xuất về nước. Với một số lao động Việt Nam, ăn cắp vặt sản phẩm, cña nhà máy cũng là chuyện không phải hiếm. Tại một nhà máy chế biến thịt gà ở ngoại ô Kuala Lumpur, một vài công nhân đã ăn cắp thịt gà (dù có thể xin một ít để dùng) khiến nhà máy phải dùng hình thức kỷ luật cảnh cáo thay vì trục xuất về nước. Một số trường hợp khác, công nhân làm việc tại các nhà máy sản xuất, chế tạo thì “chôm” những sản phẩm nhỏ của nhà máy. Hậu quả là đại diện của đơn vị XKLĐ có mặt tại Malaysia phải tất bật lo giải quyết, người lao động bị trục xuất về nước - gần như mất trắng khoản đầu tư ban đầu cho tiền vé máy bay đi lại, tiền thuế đã đóng khi sang lao động tại nước sở tại. (Khãc, c­êi ë Kul- Lao §éng sè 51 ngµy 20/2/2003). Ông Đàm Trung Bắc, Giám đốc trung tâm XKLĐ công ty COOPIMEX trong cuộc “Bàn tròn” của các nhà quản lý và các doanh nghiệp cung ứng LĐXK trên Thời báo Kinh tế Việt Nam số 55 – thứ Bảy – 5/4/2003 đã có những nhận định xác thực. Theo ông, vấn đề chất lượng LĐXK có liên quan mật thiết đến công tác đào tạo của các doanh nghiệp XKLĐ. Cụ thể là “cách thức tổ chức đào tạo của các công ty XKLĐ hiện nay chưa đạt hiệu quả, gây ra sự than phiền của đối tác nước ngoài”. Điều này cũng được Thời báo Kinh tế Việt Nam số 84 - thứ Tư – 26/5/2004 nói rõ. “Nhiều người đi XKLĐ trở về đều cho rằng, các khoá học do doanh nghiệp tổ chức chỉ đơn thuần là vài buổi gặp mặt nói chuyện giữa hai phía. Công ty giới thiệu sơ lược về công việc mà lao động sẽ làm, dạy người lao động vài câu giao tiếp bằng ngôn ngữ bản xứ. Chỉ một số ít doanh nghiệp thực hiện tốt việc giáo dục định hướng về nền văn hoá, những nguyên tắc chung của nước bạn cho lao động trước khi họ sang nước ngoài làm việc. Thế là xong. Mọi việc người lao động sang bên kia gần như tự mình xoay sở.” Lại có hiện tượng “một số doanh nghiệp tổ chức đào tạo tràn lan”, cốt sao có nhiều người đến học càng tốt”(Thời báo Kinh tế Việt Nam số 15 - thứ Bảy – 25/1/2003). “Các học viên này không được lựa chọn sát hạch kỹ. Thậm chí những người chưa học hết bậc tiểu học nhưng “chạy” được những bằng “đểu” ở đâu đó cũng được chấp nhận. Khoá cũ đào tạo xong, các công ty môi giới Đài Loan chưa sang tuyển đã tiếp tục đào tạo các khoá mới”. Sau đó là điều tưởng như vô lý, “đến lúc thi tuyển để đi, có phần thi tiếng Trung và các test khác nhưng một số công ty môi giới Đài Loan hình như không để ý lắm mà chỉ tập trung vào xem “tướng” tay và mặt. Do vậy, một trong những biện pháp để nâng cao chất lượng nguồn lao động là chấn chỉnh lại hoạt động tuyển chọn, đào tạo nguồn và giáo dục định hướng cho người lao động xuất khẩu của mỗi doanh nghiệp. VÒ c«ng t¸c gi¸o dôc ®Þnh h­íng, ngoµi nh÷ng h­íng dÉn cho ng­êi lao ®éng vÒ phong tôc, tËp qu¸n, ph¸p luËt n­íc ®Õn, c¸c doanh nghiÖp ph¶i tËp trung gi¸o dôc ý thøc tr¸ch nhiÖm c«ng d©n cña ng­êi lao ®éng ®èi víi ®Êt n­íc vµ ph©n tÝch cho hä thÊy râ ®­îc nh÷ng hËu qu¶, thiÖt h¹i cã thÓ xÈy ®Õn nÕu hä kh«ng tu©n thñ nh÷ng quy ®Þnh cña doanh nghiÖp vµ luËt ph¸p n­íc së t¹i. M« h×nh liªn kÕt gi÷a c¸c doanh nghiÖp XKL§ vµ c¸c ®Þa ph­¬ng cÇn ®­îc triÓn khai réng r·i vµ hiÖu qu¶ h¬n n÷a nh»m tuyÓn chän vµ ®µo t¹o ®­îc nh÷ng lao ®éng cã ®ñ ®iÒu kiÖn, tiªu chuÈn vÒ chÊt l­îng vµ lµ lao ®éng “s¹ch” vÒ lý lÞch nh©n th©n. §iÒu nµy kh«ng nh÷ng n©ng cao ®­îc chÊt l­îng nguån lao ®éng xuÊt khÈu mµ cßn h¹n chÕ mét sè bÊt cËp kh¸c cã thÓ x¶y ra khi lao ®éng thùc hiÖn hîp ®ång ®i xuÊt khÈu lao ®éng. 2.3.2. “Hội chứng bỏ hợp đồng” và sự luẩn quẩn trong giải pháp chống trốn Ngoài chất lượng lao động thấp, XKLĐ của Việt Nam còn chưa thực sự hiệu quả vì tình trạng người lao động tự ý phá vỡ hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp đã ở mức báo động. Tình trạng này không chỉ gây thiệt hại về kinh tế cho Nhà nước và các doanh nghiệp XKLĐ mà còn là các thiệt thòi cho chính bản thân người lao động. Báo Lao động số 306 ra ngày 2/11/2003 viết: “Thị trường người lao động Việt Nam mới mở ra, còn rất non trẻ, vậy mà đang đứng trước nguy cơ mất uy tín trên trường quốc tế, bị cắt các hợp đồng kinh tế đã ký kết do cã quá nhiều lao động tự ý bỏ hợp đồng…”. Tờ Thời báo Kinh tế Việt Nam số 178 - thứ Sáu- 29/10/2004 cũng viết: “Không ít ông chủ sử dụng lao động ở Hàn Quốc, Đài Loan phải thất vọng trở về từ sân bay sau khi đãn hụt lao động Việt Nam. Không còn là hồi chuông báo động gióng lên, “dịch trốn” đã trở thành bệnh kinh niên và thị trường nhiều nước đang sắp sửa nói lời chào thua với lao động Việt Nam, trong khi nhà quản lý chưa đưa ra được phương thuốc hữu hiệu…” Tại Hàn Quốc, Hiệp hội các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc (KFSB) thống kê vào tháng 7/2003, hiện Việt Nam có 17.457 người lao động Việt Nam đang làm việc tại Hàn Quốc - xếp thứ 3 trong số 15 quốc gia tham gia chương trình tu nghiệp sinh công nghiệp (sau Trung Quốc và Indonesia). Nhưng tỷ lệ lao động Việt Nam bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp cũng lên đến 59,25% - đứng thứ 3 (sau Banglades và Myanmar). Tính riêng ở thị trường Hàn Quốc từ năm 1994 đến nay, số lượng lao động bỏ trốn, cư trú và làm việc bất hợp pháp tổng cộng là 18.000 người, chiếm 70% tổng số lao động được đưa sang”. Tại Nhật Bản, thị trường có mức lương và điều kiện làm việc tương đối tốt, lao động ta vẫn tiếp tục phá vỡ hợp đồng, ra ngoài làm việc bất hợp pháp. Theo thống kê của Tổ chức hợp tác đào tạo quốc tế Nhật Bản (Jitco), năm 1996 số tu nghiệp sinh Việt Nam tại Nhật bỏ trốn là 3,05%, đã tăng lên 24,73% vào năm 2000 và cuối năm 2002 là gần 40%. Việc bỏ trốn này dẫn đến nhiều hậu quả, mà cụ thể là đã làm co cụm hai thị trường truyền thống vốn có thu nhập cao, điều kiện làm việc tốt, và cơ hội sẽ chuyển sang các nước khác trong khu vực. (Héi chøng bá hîp ®ång - Lao §éng sè 306-Chñ nhËt ngµy 2/11/2003). ë §µi Loan, nỗi lo lớn nhất của các doanh nghiệp XKLĐ ta ở Đài Loan cũng là tình trạng lao động bỏ trốn.Thời gian gần đây, số lượng lao động Việt Nam làm việc tại Đài Loan bỏ hợp đồng làm ngoài bất hợp pháp gia tăng ở mức cao, đặc biệt là lao động thuyền viên tàu cá, lao động giúp việc gia đình và chăm sóc người bệnh. Ông Trần Đông Huy - Trưởng bộ phận quản lý lao động Việt Nam tại Đài Loan cho biết: “ Trong các nước XKLĐ vào Đài Loan (gồm Indonesia, Thái lan, Philippines, Trung Quốc …), Việt Nam chính là nước có tỷ lệ lao động bỏ trốn cao nhất: 9%. Có những tháng ta đưa sang hơn 1000 người thì trốn đến … 500 người (gần 50%) - một con số gây sửng sốt (!). Vì lý do trên, phía Đài Loan cảnh báo sẽ dừng tiếp nhận lao động ta nếu trong vòng 1 tháng tới Việt Nam không đưa được khoảng 1/3 số lao động trốn về nước, và số lao động mới sang không tiếp tục trốn. Thực tế, phía bạn đã tạm dừng nhận lao động ở một số nghề và lĩnh vực lao động ta có tỷ lệ trốn cao. Một số hợp đồng mà phía bạn dự định dành cho lao động Việt Nam cũng bị chuyển sang các thị trường khác. (Đài Loan sẽ dừng tiếp nhận lao động Việt Nam, nếu…- Lao Động số 296 - thứ Sáu - 22/10/2004) Giải thích cho hiện tượng này, đa số lao động trốn ra ngoài (đã bị bắt hoặc chưa bị bắt) đều lấy lý do là chênh lệch về mức lương giữa bên trong và bên ngoài quá lớn nên họ ra ngoài để kiếm tiền nhanh hơn. Thu nhập bên ngoài cao hơn, luôn luôn tỏ ra hấp dẫn hơn đối với các lao động. Bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn – Giám đốc trung tâm XKLĐ Tralacen, nói rằng doanh nghiệp của bà đã làm tất cả những gì có thể để chống trốn nhưng vẫn không mấy hiệu quả. Những người trốn chạy thường là vì kinh tế (ra ngoài làm việc lương cao hơn do không phải đống các khoản phí môi giới và dịch vụ), trốn để kéo dài thời gian làm việc ở Đài Loan (sau khi hợp đồng kết thúc). Nhiều người trong số họ xác định trốn ngay khi còn ở Việt Nam, vừa sang đến sân bay bạn là “mất tích” luôn. Tính trung bình thu nhập bình quân của một lao động tại Đài Loan khoảng 20.000 Đài tệ. Trong khi đó nếu bỏ ra ngoài làm việc sẽ có mức lương 30.000 đến 40.000 Đài tệ. Tại Hàn Quốc và Nhật Bản, ra ngoài làm lương còn cao hơn nữa (700–1000 USD/tháng). Do vậy, mặc dù doanh nghiệp cung ứng đã buộc ng­êi lao động đóng tiền thế chấp với mức cao, chẳng hạn 10.000 USD đi Hàn Quốc, nhưng vẫn không ăn thua, lao động vẫn bỏ trốn như thường. (Người lao động trốn - Doanh nghiệp khốn đốn, Báo Lao Động số306 - Chủ nhật – 2/11/2003). Mức thu nhập bên ngoài thực sự đã hấp đẫn họ, bởi vì theo tính toán, chỉ sau một năm ra ngoài làm việc với mức thu nhập cao hơn họ đã có thể bù đắp vào khoản thế chấp “chèng trèn” mµ hä ®· nép cho doanh nghiÖp tr­íc khi ®i.. Chính vì vậy, mặc dù có thể gặp phải các rủi ro, người lao động vẫn rủ nhau bỏ hợp đồng. Một lao động bỏ trốn tại Hàn Quốc đã giải thích như thế này. “Cả gia đình tôi đã phải bán đất đai, chạy vạy vay mượn đủ 6000 USD cho tôi đặt cọc để sang đây. Nhưng sang đây, nếu ngoan ngoãn làm theo hợp đồng mấy ông ký từ Việt Nam thì chỉ được hưởng 300.000-400.000won/tháng (khoảng 300 USD), với thời hạn 2 năm thì không thể đủ tiền gửi về trả nợ. Trong khi ở ngoài chủ sẵn sàng trả lương cao hơn. Như vợ tôi làm nghề may, lương 900.000 won, tôi may bao tay lái ô tô lương 1,1 triệu won. Hơn nữa, chủ bên ngoài đối xử dễ chịu hơn, không tăng ca vô tội vạ, có tiền khi làm thêm giờ”. (Lao §éng sè 306/2003) Cục quản lý lao động ngoài nước trªn b¸o chÝ tõng kết luận việc này như sau: nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lao động đơn phương bỏ hợp đồng ra ngoài làm là do nhận thức của người lao động còn hạn chế. Người lao động chỉ nghĩ đến lợi ích trước mắt mà không nghĩ đến lợi ích lâu dài, không đặt lợi ích của mình trong lợi ích chung của cộng đồng.Với một cách nghĩ hạn hẹp là: Làm việc trong các công ty có ký kết hợp đồng lao động hàng tháng họ phải đóng các khoản phí như BHYT,BHLĐ, thuế thu nhập, thuế cư trú hợp pháp…; nếu bỏ ra ngoài, các ông chủ mới không phải trả tiền môi giới, không phải đóng các khoản phí kể trên nên họ trả mức lương cao hơn, do vậy mà làm ở ngoài “ăn” hơn…. Kết luận trên dường như nói nhiều hơn đến lỗi của người lao động. Sự thực thì phải hiểu thế nào? Trong thực tế, nhiều người lao động phá vỡ hợp đồng lao động và bỏ trốn cũng do họ bị rơi vào thế bị động. Nguyên nhân của việc này đến từ nhiều phía. Phóng sự “Báo động: Lao động bỏ trốn” của tác giả Nguyễn Hoài trên Thời báo Kinh tế Việt Nam có viết: “Xin đừn._.thời gian làm việc ở nước ngoài. Nhưng quy định này không mấy khi các doanh nghiệp XKLĐ thực hiện đúng. Vì vậy mà mức phí đóng góp để đi XKLĐ của lao động ta luôn ở tình trạng gây ít nhiều khó dễ cho người lao động. Rất nhiều nước XKLĐ như Philippines, Indonesia… đã thực hiện việc cắt giảm chi phí ban đầu cho lao động xuất khẩu của họ, tạo điều kiện cho nhiều người có thể tham gia XKLĐ. Tuy vậy ở Việt Nam, chi phí ban đầu quá lớn vẫn còn là một vấn đề bất cập mà chúng ta cần nỗ lực giải quyết. Số tiền chi phí ban đầu nhiều khi đã trở thành gánh nặng đối với mỗi gia đình có người đi XKLĐ. Thời báo Kinh tế Việt Nam ghi nhận một số phản ánh của người dân về vấn đề này. Bà Trần Thị Hằng ở Hà Tây có con đi lao động Malaysia cho biết: “Mỗi gia đình chỉ được vay 5 triệu đồng nhưng phải thế chấp tài sản, có nhiều nhà không đủ thế chấp. Do đó phải vay mượn gom góp mọi nguồn…”. Ông Văn Đồn ở xã Đạo Tú, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc chuẩn bị cho 2 người con đi XKLĐ tâm sự: “Cái khó đầu tiên vẫn là tài chính. Cần có 10 triệu đồng để nộp ngay là điều rất khó. Chúng tôi rất mong chờ ngân hàng. Hiện nay lãi suất thông thường của ngân hàng là 1% nhưng khống chế chỉ được vay có 5 triệu đồng. Nhưng chúng tôi cần tới 10 triệu đồng để chuẩn bị cho con mình đi. Quả là rất khó”. (XKLĐ sang Malaysia- cần hỗ trợ vốn ban đầu, Thời báo Kinh tế Việt Nam số 135 – 11/11/2002) Để được đi XKLĐ ở Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, mỗi người phải bỏ ra ít nhất 50 – 60 triệu đồng, còn đi Nhật Bản phải mất hơn trăm triệu đồng. Đây quả là số tiền quá lớn đối với những lao động thuần nông, khi mà kinh tế của họ chỉ dựa vào đồng ruộng. Chuyện đi xuất khẩu lao động do vậy mà vừa vui vừa buồn, như chuyện của bà Viễn Bân (ngoài 70 tuổi, ở thôn 8, xã Hương Ngải, Thạch Thất, Hà Tây) có ba người con đi xuất khẩu lao động. Nói chuyện với phóng viên tờ Thời báo Kinh tế Việt nam, bà than thở: “Gia đình tôi chỉ biết bám víu vào mấy sào ruộng. Trước khi đi, chúng nó chẳng nói gì với tôi cả. Tôi chỉ biết đứa nào cũng chạy đôn chạy đáo để vay tiền” (Không trông chờ XKLĐ - Thời báo Kinh tế Việt Nam số 164 - thứ Hai -13/10/2003). Những khó khăn vì chi phí ban đầu quá cao như vậy đã khiến cho rất nhiều lao động của chúng ta không có cơ hội “xuất ngoại” để làm giàu. Nhà báo Chu Thượng - trong mục “Sự kiện và bình luận” - Báo Lao Động ngµy 14/8/2002 đã có những lời bình sắc sảo về hiện trạng này. Bài viết lấy tiêu đề dựa trên một thành ngữ quen thuộc với nhân dân ta: “cá treo mèo nhịn”. Tác giả giải thích: “Cụ thể đây là nói về chuyện xuất khẩu lao động, trong đó cá treo là thị trường việc làm, còn con mèo phải nhịn thì (xin lỗi) ám chỉ hàng chục vạn lao động nước ta đang khát khao tìm việc làm ở nước ngoài vậy… Về con cá thì dường như chưa bao giờ chúng ta lại có con cá to và béo đến thế. Thị trường XKLĐ của ta hiện đã được mở rộng tới 40 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó riêng thị trường Malaysia cũng dư khả năng tiếp nhận tới 100.000 lao động Việt Nam, chủ yếu là lao động phổ thông. Về phần mèo, như đã có lời xin lỗi trước, nguồn lao động nước ta rất dồi dào bởi có tới 7% số người trong độ tuổi lao động chưa tìm được việc làm, con mèo ấy dư sức chén bay không chỉ một con cá. Lại phải kể thêm hiện có tới 159 doanh nghiệp được cấp phép tham gia dịch vụ XKLĐ…Vậy mà cảnh “cá treo mèo nhịn” vẫn diễn ra, chủ yếu do người lao động không có đủ tiền đóng góp những chi phí ban đầu, dẫu có nơi khoản chi phí đó chỉ là 10 triệu đồng”. Để giải quyết kịp thời bất cập này, tạo điều kiện cho đông đảo nhân dân mà trực tiếp là những người lao động nghèo có thể đi XKLĐ nâng cao chất lượng cuộc sống, Nhà nước ta đã có các chính sách như cho vay vốn, hỗ trợ chi phí ban đầu... Việc Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển Nông thôn và Ngân hàng Chính sách xã hội hỗ trợ người lao động đi xuất khẩu mà báo chí đưa tin trong thời gian qua là những động thái thực sự đáng mừng. Cuối tháng 2/2003, Ngân hàng NNPTNT đã triển khai chương trình cho vay XKLĐ với tổng số vốn cho vay dự kiến tới 3.000 tỷ đồng. Điều kiện cho vay ưu đãi: vay tối đa 20 triệu đồng không cần thế chấp, thủ tục đơn giản, lãi suất thấp. Đối tượng cho vay của chương trình này chủ yếu sẽ là các thanh niên nông thôn đi XKLĐ, bộ đội xuất ngũ, con em các gia đình thuộc diện chính sách xã hội… Ngoài ra, Ngân hàng còn mở dịch vụ chuyển tiền cho người lao động từ Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc về gia đình với mức phí rất thấp, chỉ có 0.2% so với mức phí chuyển tiền 2% của các công ty đang thực hiện… Chương trình này có các ưu điểm là thủ tục vay vốn được giảm tới mức tối đa; đồng thời việc chuyển tiền của người lao động từ nước ngoài về Việt Nam cũng được thực hiện dễ dàng. Người lao động Việt Nam ở nước ngoài chỉ cần đến một trong các ngân hàng lớn ở nước sở tại (May bank, Public bank, Hongleong bank ở Malaysia; Chinfon bank, China Trust bank ở Đài Loan; Woori bank, Cho Hung bank ở Hàn Quốc) là có thể yên tâm vì đồng tiền về đến Việt nam nhanh chóng, an toàn (Theo Lao Động số 57-26/2/2003, Tháo gỡ vướng mắc trong việc cho người đi lao động nước ngoài vay vốn). Ngân hàng Chính sách xã hội cũng bổ sung chính sách vay vốn đi XKLĐ cho các đối tượng chính sách với mức vay tối đa là 10 triệu đồng, lãi suất vay vốn 0.5% tháng. Thời hạn cho vay căn cứ vào thời hạn đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng, thời hạn trả nợ vay do hai bên thoả thuận, có thể trả lãi và gốc theo tháng, quý, năm hoặc khi thời hạn cho vay chấm dứt. Chính sách mới này được bổ sung nhằm tạo điều kiện thuận lợi để các đối tượng thuộc diện chính sách, người lao động nghèo có chi phí để tham gia XKLĐ (Đi XKLĐ được vay 10 triệu đồng - Thời báo Kinh tế Việt Nam số 180 - thứ Hai – 10/11/2003) Ở một số địa phương, Đảng bộ và chính quyền các cấp cũng đã có những giải pháp tích cực trong việc hỗ trợ vốn ban đầu cho người đi XKLĐ. Chính sách cho vay vốn hiệu quả của Đồng Tháp là một ví dụ .“Ngoài việc cho vay tín chấp 80% theo quy định chung, Ban chỉ đạo XKLĐ tỉnh Đồng Tháp còn xuất ngân sách 2 tỷ đồng, uỷ thác cho 2 ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Chính sách xã hội cho vay thêm 20%. Bên cạnh đó, mỗi lao động được tặng không 400.000 đồng. Ông Nguyễn Thành Thi - Trưởng phòng quản lý đào tạo nghề, Sở LĐTBXH §ång Th¸p - cho biết: Thực ra, chính sách này đã được thử nghiệm đối với 60 lao động đi Malaysia từ năm 2002, sang năm 2003 mới áp dụng đại trà. Đặc biệt, Ban chØ ®¹o của nhiều huyện, thị như Thanh Bình, Hồng Ngự, Tam Nông, Sa Đéc còn trích ngân sách cho người lao động mượn từ 3,5 - 4 triệu đồng để tạm ứng trước cho công ty XKLĐ (nhằm tạo lòng tin trong quá trình làm thủ tục), khi nào được vay vốn tín chấp thì phòng LĐTBXH có trách nhiệm thu hồi” (Bất ngờ Đồng Tháp – Lao Động số 328 ngµy 24/11/2003) Có thể nói đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tăng trưởng đột biến trong XKLĐ ở Đồng Tháp. Thực tế là Đồng Tháp đang dành mọi ưu tiên cho XKLĐ, tiến tới đạt mục tiêu xuất khẩu 20.500 lao động từ nay đến 2010. Cũng trong bài báo trên, Giám đốc trung tâm dịch vụ việc làm Đồng Tháp nhận xét: Nhu cầu vay vốn tín chấp trong thực tế chỉ chiếm khoảng 15 - 20%. Tuy ít, nhưng đây đều là đối tượng nghèo, rất cần được Nhà nước hỗ trợ tối đa mới thoát khỏi cảnh nghèo thông qua con đường XKLĐ. Cương Gián (Nghi Xuân, Hà Tĩnh) là địa phương thực hiện rất tốt công tác đưa người lao động đi xuất khẩu. Nhiều địa phương trong Nam ngoài Bắc đã đến Cương Gián để học hỏi kinh nghiệm. Ông Lê Văn Thanh, Chủ tịch UBND xã cho biết: bí quyết của Cương Gián là chính sách về vốn và hỗ trợ chi phí ban đầu cho người đi XKLĐ. Một yếu tố quyết định trong việc đưa người đi lao động xuất khẩu được thuận chèo mát mái là người lao động cần phải có nguồn vốn. Dân Cương Gián rất nghèo, lấy đâu ra nguồn vốn hàng chục triệu đồng để làm thủ tục. Bài toán này được giải bằng một phép rất đơn giản: cả làng gom tiền lại cho người lao động, người lao động lại gửi về cho người khác đi tiếp, cứ thế mà mở rộng dần. Và để làm được điều này, Cương Gián có một tổ chức trung gian là quỹ tín dụng nhân dân. Một quỹ tín dụng nhân dân cấp xã nhưng có dư nợ cho vay lên tới hơn 6 tỷ đồng và được Ngân hàng Nhà nước thí điểm cho huy động vốn vay bằng ngoại tệ…Ban đầu vốn ít, mỗi nhà được vay 3 – 7 rồi 10 triệu đồng. Hiện tại được nâng dần lên 20 – 25 triệu đồng. Người đi XKLĐ chỉ cần chịu khó 1 – 2 năm đầu là có thể hoàn thành vốn vay cho quỹ tín dụng nhân dân để người khác đi tiếp... Ngoài nguồn vốn tín dụng, xã Cương Gián còn xây dựng được tổ “tự quản liên gia” từ 3 – 5 gia đình. Khi có người trong các gia đình cần vốn thì các thành viên của tổ có trách nhiệm hùn vốn vào để hỗ trợ, cứ như vậy, người trước dắt díu người sau, họ lần lượt xuất ngoại và mang tiền của về làm giàu. (Theo Thời báo Kinh tế Việt Nam số 23/2002, số 37/2003) Ch­¬ng III: ph­¬ng h­íng n©ng cao hiÖu qu¶ xuÊt khÈu lao ®éng trong thêi gian tíi 3.1. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách Ở tầm vÜ mô, các biện pháp cần làm ngay để đẩy mạnh hoạt động XKLĐ là tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế chính sách về lĩnh vực này. Nhà nước cần có các chính sách thông thoáng để nâng cao khả năng hoạt động tự chủ của doanh nghiệp. Đồng thời là các chính sách hỗ trợ về tài chính cho doanh nghiệp tham gia thăm dò và xúc tiến mở rộng thị trường. Điều này đã được thực hiện ở một số địa phương, đơn cử là ở Hà Nội, từ đầu quý II/2003, doanh nghiệp XKLĐ được hỗ trợ với mức 80 – 100 triệu đồng (nếu đưa được 400 người là lao động của thủ đô đi xuất khẩu trở lên). Ngoài ra, Nhà nước cũng cần có hưóng đầu tư cho chiến lược chuẩn bị đào tạo nguồn nhân lực XKLĐ bằng nhiều cách, trong đó tập trung xây dựng thêm cơ sở đào tạo, mở rộng liên kết đào tạo theo yêu cầu của thị trường LĐXK quốc tế. Nguồn nhân lực phải đảm bảo ngày càng đầy đủ hơn về các tiêu chuẩn như ngoại ngữ, trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ tay nghề… Về mở rộng thị trường XKLĐ, hiện nay Chính phủ đã giao cho Bộ ngoại giao, Đại sứ quán Việt Nam ở các nước cùng tham gia tìm kiếm và mở rộng thông qua việc thăm dò tình hình phát triển kinh tế, đầu tư, các dự án lớn về xây dựng cầu, cảng, đường của các nước. Để dành được các dự án đấu thầu lớn ở nước ngoài, Nhà nước sẽ hỗ trợ một phần vốn cho doanh nghiệp trong nước tham gia đấu thầu. Chỉ thị 41 của Bộ Chính trị nhắc nhở những người làm công tác XKLĐ phải thấy hết được lợi ích kinh tế - xã hội của XKLĐ. Đây thực sự là ngành kinh tế đầu tư ít nhưng hiệu quả cao. Ngoài ý nghĩa thu về cho ngân sách nhà nước một lượng ngoại tệ đáng kể để đầu tư trở lại cho phát triển kinh tế trong nước, nó còn có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng nguồn nhân lực giúp chúng ta thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chính vì vậy mà nhiều chính sách hỗ trợ thiết thực cho hoạt động XKLĐ nh­ chÝnh s¸ch cho vay vèn, chÝnh s¸ch ­u tiªn ng­êi nghÌo ë n«ng th«ng, ng­êi thuéc diÖn chÝnh s¸ch x· héi ®i XKL§ đã ra đời. Để giảm phiền hà cho ngưòi đi XKLĐ, các cơ quan nhà nước cũng cần tiến tới thực hiện miễn giảm một số thủ tục hành chính ràng buộc người lao động như thủ tục vay vốn, thủ tục cấp phép hộ chiếu, giấy chứng nhận sức khoẻ…Bên cạnh đó là việc tăng cường các biện pháp phòng ngừa, xử lý nghiêm tu nghiệp sinh, người lao động bỏ trốn; xử lý nghiêm hành vi lừa đảo người lao động. §Çu th¸ng 9/2004, Quü hç trî xuÊt khÈu lao ®éng ra ®êi nh»m thùc hiÖn tèt viÖc më réng thÞ tr­êng lao ®éng ngoµi n­íc, n©ng cao chÊt l­îng vµ kh¶ n¨ng c¹nh tranh cña lao ®éng ViÖt Nam trªn thÞ tr­êng lao ®éng quèc thÕ, hç trî rñi do cho ng­êi lao ®éng vµ doanh nghiÖp. 3. 2. Xây dựng một đội ngũ doanh nghiệp đủ mạnh Tại Hội nghị toàn quốc về xuất khẩu lao động (XKLĐ), tổ chức hồi tháng 9/2001, Thủ tướng Phan Văn Khải đã nói: “Tới đây chỉ doanh nghiệp nào đủ mạnh, đủ uy tín mới được XKLĐ…”. Ngày 19/3/2002, tại TP. Hồ Chí Minh cũng diễn ra cuộc toạ đàm liên quan đến vấn đề XKLĐ, trong đó nổi bật việc củng cố lại các doanh nghiệp làm công tác XKLĐ nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng XKLĐ của Việt Nam. Rõ ràng, với mục tiêu mà Chính phủ đề ra vào năm 2005 là bình quân mỗi năm phải đưa được từ 10 đến 15 vạn lao động đi ra nước ngoài làm việc, việc xây dựng một đội ngũ doanh nghiệp XKLĐ vững mạnh là cần thiết. Tờ Lao Động số ra ngày 1/1/2002 cho biết: “Hiện Việt Nam có 159 doanh nghiệp XKLĐ, trong đó có đến 144 doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề khác được bổ sung chức năng XKLĐ. Theo ông Nguyễn Lương Trào - Thứ trưởng Bộ LĐTBXH – trong số đó, có những doanh nghiệp có tiềm lực (như một số TCty 90,91) được bổ sung chức năng XKLĐ nhưng chưa đầu tư cho lĩnh vực này, thậm chí còn thụ động trong tìm đối tác. Có những doanh nghiệp không thành lập tổ chức chuyên trách… Cá biệt, có doanh nghiệp còn tiếp nhận và bổ nhiệm cả các cá nhân có tiền án, tiền sự vào cương vị quản lý công tác XKLĐ(!)Tức là thêm một bộ phận doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, coi lợi nhuận là mục đích chính mà không quan tâm đến lợi ích của Nhà nước và người lao động” Xét về thực chất, chỉ có 30% tổng số doanh nghiệp XKLĐ hoạt động có hiệu quả, mỗi năm đưa được từ 500 – 3500 lao động. Trong thời gian qua, lượng lao động mà các doanh nghiệp này đưa ra nước ngoài chiếm đến 90% tổng số lao động xuất khẩu. Có đến 25% tổng số doanh nghiệp còn hoạt động quá yếu kém và không đưa được lao động nào đi làm việc ở nước ngoài. Do các doanh nghiệp XKLĐ phải tự hạch toán về kinh tế, tự vận động để tồn tại và phát triển chứ chưa nhận được sự hỗ trợ từ phía nhà nước nên điểm yếu chung của các doanh nghiệp là thiếu vốn, tiềm năng về tài chính còn hạn hẹp, cộng thêm là thiếu cán bộ đủ năng lực để mở rộng thị trường. Mặt khác, XKLĐ cũng là vấn đề nhạy cảm, phức tạp, yếu tố rủi ro cao và phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách quan nên nhiều doanh nghiệp chùn bước, không dám đầu tư mở rộng thị trường cũng như đầu tư để cạnh tranh trên thị trường nhân lực quốc tế. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp trong việc quản lý lao động ở nước ngoài còn chưa chú ý và chưa giải quyết kịp thời các bất đồng vẫn thường xảy ra giữa người lao động Việt Nam và chủ sử dụng lao động nước ngoài dẫn đến mất tín nhiệm trên thị trường lao động quốc tế, mất lòng tin của ngưòi lao động. Một số doanh nghiệp do hoạt động yếu kém, thiếu năng lực, chỉ hiểu biết rất lờ mờ về đối tác nước ngoài hoặc không tìm hiểu kỹ các thông tin về phía đối tác tiếp nhận lao động nên đã ký kết nhiều hợp đồng bất lợi cho người lao động. Khi có các rủi ro xảy ra gây thiệt hại cho người lao động lại rũ bỏ trách nhiệm hoặc giải quyết không thoả đáng đối với người lao động. Hoạt động của một số doanh nghiệp nhiều khi còn là dẫm chân lên nhau. Việc cạnh tranh không lành mạnh làm phương hại đến lợi ích của các bên tham gia và quyền lợi của người lao động, ảnh hưởng đến công tác ổn định và phát triển thị trường. Nghị định 152/CP ngày 20/9/1999 về quản lý hoạt động XKLĐ và chuyên gia đã có những quy định về quy trình sắp xếp lại cac doanh nghiệp làm công tác XKLĐ. Theo đó sẽ nâng quy mô vốn pháp định cho các doanh nghiệp từ 7 tỷ đồng trở lên. Thứ hai, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ của các doanh nghiệp, nhất là trình độ ngoại ngữ. Thứ ba, các doanh nghiệp phải có khả năng tiếp cận thị trường và dự án khả thi. Thứ tư, các doanh nghiệp phải có phương thức tổ chức lao động hợp lý, đồng thời phải làm tốt công tác giáo dục và đào tạo định hướng, tay nghề chuyên môn cũng như ngoại ngữ cho người lao động. “Bộ LĐTBXH đang chuẩn bị tiến hành sắp xếp lại các doanh nghiệp XKLĐ. Sẽ chọn 10 đến 15 doanh nghiệp để đầu tư nâng cấp thành doanh nghiệp mạnh nhất trong lĩnh vực này. Còn các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả thì sau 18 tháng kể từ khi cấp giấy phép mà không ký được hợp đồng sẽ bị rút giấy phép. Hoặc các doanh nghiệp sau 12 tháng không có đủ điều kiện mới theo quy định như: vốn điều lệ (7 tỷ đồng trở lên), có 7 cán bộ chuyên trách có trình độ đại học, có trụ sở ổn định và cơ sở đào tạo, giáo dục định hướng cho người lao động… thì cũng bị rút giấy phép. Sau quá trình sắp xếp này, có thể sẽ còn ít hơn số lượng doanh nghiệp XKLĐ như hiện nay nhưng chất lượng các doanh nghiệp sẽ tăng lên” (Sắp xếp lại các DN XKLĐ: Lấy chất lượng thay số lượng - Thời báo Kinh tế Việt Nam số 36 - thứ Hai – 25/3/2002). KÕt luËn Thời đại mà chúng ta đang sống là thời đại của giao lưu và trao đổi thông tin về mọi lĩnh vực trên phạm vi toàn thế giới. Có thể nói, trong thời đại ngày nay, không một người nào, một dân tộc nào có thể phát triển tiên tiến nếu lạc hậu về thông tin. Các thông tin về kinh tế - xã hội, văn hoá, giáo dục…đã trở thành yêu cầu cần thiết trong cuộc sống của mỗi người cũng như toàn xã hội để phát triển toàn diện và bền vững. Trong hoàn cảnh đó, báo chí có ý nghĩa thực sự thiết thực và to lớn. Là sản phẩm của Kiến trúc thượng tầng, báo chí ra đời và phát triển do nhu cầu thông tin của xã hội. Chính vì thế, trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, báo chí đã góp vai trò hết sức quan trọng trong cuộc sống xã hội. Về điều này, các nhà nghiên cứu đã có nhận xét thật xác đáng. Theo đó thì “trong thời đại của chúng ta, báo chí là một trong những kênh quan trọng bậc nhất để tiếp cận các nguồn thông tin ngày càng ồ ạt và liên quan đến cuộc sống con người”. Do vậy, việc phản ánh kịp thời, đầy đủ những thông tin mọi mặt của cuộc sống là trách nhiệm lớn lao của người làm báo. Cùng với sự phát triển kinh tế, hội nhập khu vực và cộng đồng quốc tế, báo chí Việt Nam cũng bước vào một giai đoạn mới. Nhờ sự phát triển nhanh chóng và ngày càng rộng khắp của mạng lưới các phương tiện chuyển tải thông tin, báo chí ngày càng khẳng định được tầm quan trọng của mình trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Báo chí ngày nay đã trở thành chiếc cầu nối quan trọng thân thiết giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng nhân dân, với các bộ, ngành, địa phương. Báo chí không chỉ phục vụ cho công tác đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước mà còn đáp ứng nhu cầu thông tin của quần chúng về mọi mặt của đời sống đất nước cũng như trên thế giới. Thông qua những phản ánh của mình, báo chí cũng góp phần hỗ trợ Nhà nước, Chính phủ có những biện pháp chỉ đạo cho phù hợp với mọi vấn đề bức xúc của đời sống xã hội. Chủ trương “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” đề ra từ Đại hội VII và được thực hiện trong những năm sau đó đã làm thay đổi sâu sắc bộ mặt kinh tế xã hội của đất nước. Về cơ bản, Việt Nam đã thoát khỏi sự khủng hoảng về kinh tế, duy trì được sự ổn định về chính trị, đảm bảo cuộc sống no ấm cho nhân dân. Riêng về mặt kinh tế, cùng với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, khuyến khích đầu tư trong nước, Đảng và Nhà nước ta cũng đặt nhiệm vụ giải quyết công ăn việc làm cho người lao động lên hàng đầu. XKLĐ được coi là một giải pháp quan trọng trong mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động, tạo nguồn thu cho nhà nước. Về thực trạng của hoạt động XKLĐ trong thời gian qua, báo chí đã có sự phản ánh tích cực và rất kịp thời. Hàng loạt bài viết về vấn đề này đăng trên các tờ báo của Trung ương, báo ngành, báo địa phương như Nhân Dân, Lao Động, Công An Nhân Dân, Đầu Tư, Thời báo Kinh tế Việt Nam đã khái quát được những điểm chính của XKLĐ Việt Nam: những thành tựu đạt được, những khó khăn còn tồn tại cũng như những dự kiến trong tương lai. Các bài viết đó cũng đồng thời nêu lên một số giải pháp thích hợp để khắc phục những vụ việc cụ thể, đề xuất những ý kiến, kiến nghị tới các cơ quan có thẩm quyền nhằm hoàn thiện hơn các điều khoản trong bộ luật lao động, hướng dẫn việc ký kết hợp đồng để bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Qua viÖc kh¶o s¸t nh÷ng th«ng tin cña hai tê b¸o Lao §éng vµ tê b¸o Kinh tÕ ViÖt Nam vÒ ho¹t ®éng XKL§ cña ViÖt Nam trong thêi gian tõ n¨m 2002 ®Õn 2004, chóng t«i ®i kÕt luËn. 1. S¬ bé ®¸nh gi¸ hiÖu qu¶ th«ng tin cña hai tê b¸o. Là hai tờ báo có uy tín với số lượng độc giả đông đảo, Lao Động và Thời báo Kinh tế Việt Nam có ưu thế đặc biệt trong việc phản ánh đề tài này. Trong các năm 2002, 2003 và 2004, những thông tin về XKLĐ xuất hiện trên hai tờ báo này với tần số tương đối lớn (152 tin và 179 bài). Có thể nói, hai tờ báo này đã bám sát đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về hoạt động XKLĐ, đưa đến cho độc giả những thông tin phong phú, sinh động về đề tài này. Qua những thông tin đó nhận thức của bạn đọc về hoạt động XKLĐ cũng tăng lên rất nhiều. Việc này khơi dậy ở độc giả niềm tin vào những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, tránh những cảm giác bi quan, thất vọng. Không chỉ dừng lại ở các bài viết phản ánh nói chung, hai tờ báo này thường xuyên xuất hiện các phóng sự và bài điều tra có tính cụ thể, chi tiết về hoạt động XKLĐ. Chẳng hạn những kết quả tốt đẹp của hoạt động XKLĐ ở nhiều nơi trong cả nước cũng như những vụ việc sai phạm trong XKLĐ của các cá nhân, các tổ chức, doanh nghiệp… đã diễn ra thời gian qua. Hai tờ báo này cũng chú ý đến việc sử dụng thể loại bài phỏng vấn để lấy ý kiến của các nhà quản lý, các chuyên gia về vấn đề XKLĐ, giúp người đọc tiếp cận được với đường lối chính sách của Nhà nước và Bộ LĐTBXH về vấn đề này. Nghệ thuật thông tin cũng được Lao Động và Thời báo Kinh tế Việt Nam hết sức chú ý. Thông tin về XKLĐ xuất hiện ở nhiều chuyên mục khác nhau tạo điều kiện cho vấn đề được nhìn nhận ở nhiều góc cạnh, đem đến cho bạn đọc thông tin có tính đa diện, nhiều chiều. Việc sử dụng đa dạng các hình thức phản ánh như: tin, bài phản ánh, phóng sự, bài điều tra, phỏng vấn, ảnh…không những tránh được sự đơn điệu cho các thông tin mà còn tạo ra sự phong phú, linh hoạt gây hấp dẫn và tạo nhiều ấn tượng mới mẻ cho người đọc…Do vậy mà đạt được một số kết quả nhất định về hiệu quả thông tin. Đặc biệt trên Báo Lao Động, sự xuất hiện của các bài phóng sự, điều tra dài kỳ trên nhiều số báo liên tục đã phản ánh được tính bức xúc và nóng bỏng của vấn đề. Hiệu quả của những chùm bài này là đã đáp ứng được nhu cầu thông tin của đông đảo bạn đọc quan tâm, góp phần hướng dẫn nhận thức của nhân dân, đảm bảo sự ổn định trong dư luận xã hội, tránh sự hoang mang không đáng có cho một bộ phận lớn người lao động. Tuy vậy, bên cạnh những hiệu quả đạt được, việc phản ánh về hoạt động XKLĐ của 2 tờ báo trên còn tồn tại một số hạn chế. - Cụ thể là phần thông tin về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về XKLĐ còn ít được đăng tải hoặc đăng tải chưa sát với yêu cầu cần đạt được. Mục tiêu cÇn ®¹t ®­îc cña qóa tr×nh truyÒn th«ng là thông tin phải đến được với c«ng chóng song trên thực tế thì ng­êi d©n th­êng nhận các thông tin về XKLĐ từ các nguồn khác, đôi khi ít tin cậy. Do ®ã cã thÓ thÊy nhiệm vụ là người tuyên truyền, cổ động của báo chí còn chưa thể hiện rõ rệt ở hai tờ báo này. - Trong khi đó, nhiều bài viết còn nặng về thông tin chung chung, thiếu tính cụ thể, xác thực. Người viết đôi khi “bàn tán”quá nhiều đến những vấn đề xa vời, chỉ ở “tầm vĩ mô” mà không thực sự cần thiết và có lợi ích cụ thể với người đi lao động xuất khẩu. Các thông tin có tính hướng dẫn, mách nước cho họ như thông tin về các doanh nghiệp chuyên doanh XKLĐ đáng tin cậy, điều kiện đi làm việc ở nước ngoài, quyền lợi và nghĩa vụ khi ký hợp đồng XKLĐ, các khoản chi phí khi tham gia XKLĐ… mặc dù đã ít nhiều xuất hiện dưới các hình thức khác nhau (như trong chuyên mục “hỏi - đáp” trang Bạn đọc - Việc làm của Thời báo Kinh tế Việt Nam hoặc ở các chuyên mục “ vấn đề bạn đọc quan tâm”, “hồi âm” của Báo Lao Động) song số lượng không nhiều, hiệu quả thông tin thấp. - Việc sử dụng các hình thức phụ trợ đi kèm bài viết như các box thông tin, các biểu đồ, hình vẽ minh hoạ còn hạn chế. Thậm chí ở một số bài viết bạn đọc chỉ nhận được những thông tin đơn điệu trong dày đặc chữ và chữ mà không có bất kỳ sự thể hiện nào khác, dù là một bức ảnh. Rõ ràng, điều nên làm đối với mỗi người viết là tận dụng hơn nữa khả năng thu hút và biểu cảm mạnh mẽ của các hình thức phụ trợ nhằm làm tăng hiệu quả thông tin. Bởi vì, đây là một trong những ưu thế cần sử dụng và phát huy trong phương thức làm báo hiện đại. - Một số tên công ty, tên riêng tiếng nước ngoài còn chưa được Việt hoá hoặc “được” Việt hoá một cách ngô nghê, không nhất quán, gây cảm giác ức chế, khó chịu cho bạn đọc. Điều này tuy đơn giản nhưng lại thường xuyên xảy ra. Do đó, mỗi tờ báo cần chú ý khắc phục, tránh làm cho thông tin bị nhiễu, bị rối khi đến với bạn đọc. Như vậy thì hiệu quả thông tin sẽ tăng lên rất nhiều. Báo chí - kinh tế - xã hội có sự liên quan biện chứng với nhau. Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang cố gắng xây dựng một đất nước “ấm no - bình đẳng - hạnh phúc” thì các thông tin báo chí về kinh tế - xã hội có một vai trò vô cùng quan trọng. Việc phản ánh của báo chí về hoạt động XKLĐ có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tạo ra dư luận đúng đắn và lành mạnh trong nhân dân. Trong thực tế, XKLĐ là một vấn đề nhạy cảm, không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề của ngoại giao, của hội nhập quốc tế; vấn đề của “quốc kế dân sinh”. Do đó, hoạt động thông tin của báo chí về vấn đề này luôn đòi hỏi ở mỗi nhà báo những hiểu biết nhất định về pháp luật, kinh tế đối ngoại; một bản lĩnh chính trị và nghề nghiệp vững vàng; những nỗ lực to lớn để vượt qua mọi khó khăn trở ngại trong cuộc sống và công việc đÓ thông tin hiệu quả nhất đến bạn đọc. Trước tình hình đó, việc xem xét đánh giá hiệu quả thông tin của báo chí là công việc hết sức cần thiết. Chẳng những nó góp phần cho báo chí “nhận rõ mình hơn” mà còn giúp các cơ quan báo chí kịp thời có kế hoạch cải tiến nội dung và hình thức để báo chí ngày càng hiện đại hơn, chất lượng hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin của bạn đọc. 2. Mét sè ®Ò xuÊt ý kiÕn cña t¸c gi¶. Qua nghiên cứu xem xét những phản ánh của hai tờ báo Lao Động và Thời báo Kinh tế Việt Nam về hoạt động XKLĐ, chúng tôi mạnh dạn đề xuất các ý kiến sau: - Chúng tôi nhận thấy số lượng bài viết, tin tức, tranh ảnh của hai tờ báo trên còn chưa được nhiều, chưa đáp ứng hết nhu cầu thông tin của đông đảo bạn đọc. Do đó, hai tờ báo cần tăng số lượng tin tức, bài viết về vấn đề này. Nếu có thể thì nên hình thành một chuyên mục riêng, định kỳ trên hai tờ báo tạo thói quen theo dõi cho bạn đọc. - Song song với các bài viết của các nhà báo, cần đăng tải nhiều hơn nữa ý kiến của các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu về vấn đề này để thông tin được phổ cập rộng khắp tới mọi người dân. Điều này có ý nghĩa thiết thực để các chủ trương chính sách của nhà nước có thể đến với người dân một cách một cách trực tiếp và sinh động. - Các phóng viên về đề tài này cần được chuyên nghiệp hoá. Họ cần được đào tạo tốt hơn về ngoại ngữ, kiến thức pháp luật và kinh tế đối ngoại để có thể khai thác tốt hơn các nguồn thông tin về XKLĐ, không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Trên đây là những điều mà cả hai tờ báo cần quan tâm và có hướng khắc phục hợp lý, kịp thời. Người viết cũng như đông đảo bạn đọc của Lao Động và Thời báo Kinh tế Việt Nam rất mong nhận được những tín hiệu đổi mới của hai tờ báo theo hướng hiệu quả nhất! Một lần nữa, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo đã ủng hộ và hướng dẫn em hoàn thành quá trình học tập của mình bằng luận văn tốt nghiệp này. Cảm ơn các bạn đã góp ý kiến và giúp tôi có nhiều hứng thú hơn trong quá trình làm việc. Những tình cảm đó thực sự đã động viên tôi rất nhiều khi tôi bắt đầu bước vào ngưỡng cửa cuộc sống và công việc! Danh môc tµi liÖu tham kh¶o A. Văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước 1. Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX của Đảng Cộng sản Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội 1986, 1991, 1996, 2001. 2. Bộ luật lao động của Bộ lao động thương binh xã hội 3. Nghị định 07/CP ngày 20/1/1995 của Chính phủ về việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài 4. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Nghị định số 139 – Hội đồng Bộ trưởng B. Sách 1. Nguyễn Trí Dĩnh, Vai trò nhà nước trong phát triển kinh tế các nước ASEAN, NXB Thống kê, H. 1993 2. §øc Dòng, ViÕt b¸o nh­ thÕ nµo, NXB V¨n ho¸ th«ng tin, H.2000. 3. Hà Minh Đức (chủ biên), Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Văn hoá thông tin, H.1996 4. §ç Xu©n Hµ, B¸o chÝ víi th«ng tin quèc tÕ, NXB §HQGHN, H.1999. 5. Nguyễn Quang Hiển, Thị trường lao động - Thực trạng và giải pháp, NXB Thống kê, H. 1995 6. TrÇn Quang, C¸c thÓ lo¹i chÝnh luËn b¸o chÝ, NXB §HQGHN, H.2001. 7. D­¬ng Xu©n S¬n, C¸c thÓ lo¹i b¸o chÝ chÝnh luËn nghÖ thuËt, NXB V¨n ho¸ th«ng tin, H. 2001. 8. Dương Xuân Sơn - Đinh Hường - Trần Quang, Cơ sở lý luận báo chí truyền thông, NXB Văn hoá thông tin, H. 1995 9. H÷u thä, C«ng viÖc cña ng­êi viÕt b¸o, NXB Gi¸o dôc, H.1998. 10. Trường ĐH Kinh tế quốc dân, Giáo trình kinh tế đối ngoại, H. 1993 C. Báo và tạp chí Báo: 1. Báo Nhân Dân (2002 - 2004) 2. Báo Lao Động (2002 - 2004) 3. Báo Đầu Tư (2002 - 2004) 4. Báo Thời báo Kinh tế Việt Nam (2002- 2004) Tạp chí: 1. Tạp chí Kinh tế và dự báo - Hội khoa học kinh tế Việt nam 2. Tạp chí Thị trường lao động nước ngoài - Cục quản lý lao động ngoài nước Môc lôc Trang PhÇn më ®Èu 1 PhÇn néi dung 5 Ch­¬ng I §­êng lèi cña §¶ng vµ Nhµ n­íc t¸ vÒ ph¸t triÓn kinh tÕ ®èi ngo¹i vµ ho¹t ®éng XKL§ trong thêi kú ®æi míi 5 Ch­¬ng II Th«ng tin vÒ ho¹t ®éng XKL§ trªn B¸o Lao §éng vµ Thêi b¸o Kinh tÕ ViÖt Nam tõ n¨m 2002 ®Õn 2004 12 2.1. XKL§ - nhu cÇu tÊt yÕu cña ®æi míi kinh tÕ x· héi 14 2.2. Nh÷ng thµnh tùu cña XKL§ ViÖt Nam 17 2.2.1. C¸c thÞ tr­êng chÝnh 18 2.2.2. XKL§ - Gi¶i ph¸p h÷u hiÖu ®Ó xãa ®ãi gi¶m nghÌo 23 2.3. Nh÷ng tån t¹i trong ho¹t ®éng XKL§ - thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p. 28 2.3.1. ChÊt l­îng lao ®éng xuÊt khÈu thÊp. 28 2.3.2. “Héi chøng bá hîp ®ång” vµ sù luÈn quÈn trong gi¶i ph¸p chèng trèn 34 2.3.3. B¸o ®éng vÒ t×nh tr¹ng lõa ®¶o XKL§ 41 2.3.4. Chi phÝ ban ®Çu qu¸ cao nªn khã cho ng­êi nghÌo XKL§ 54 Ch­¬ng III Ph­¬ng h­íng n©ng cao hiÖu qu¶ XKL§ trong thêi gian tíi 60 3.1. TiÕp tôc hoµn thiÖn c¬ chÕ chÝnh s¸ch 60 3.2. X©y dùng mét ®éi ngò doanh nghiÖp ®ñ m¹nh 61 PhÇn kÕt luËn 64 1. S¬ bé ®¸nh gi¸ hiÖu qu¶ th«ng tin cña 2 tê b¸o 65 2. Mét sè ý kiÕn ®Ò xuÊt cña t¸c gi¶ 68 Danh môc tµi liÖu tham kh¶o 70 Phô lôc §¹i häc quèc gia Hµ Néi Tr­êng §¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n khoa b¸o chÝ ------ Th«ng tin vÒ ho¹t ®éng xuÊt khÈu lao ®éng trªn b¸o lao ®éng vµ thêi b¸o kinh tÕ ViÖt Nam tõ 2002-2004 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLBC1007.doc
Tài liệu liên quan