BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
--------------------------------------
Tăng Kim Huệ
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
--------------------------------------
Tăng Kim Huệ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO, MỤC ĐÍCH CHỌN
124 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1942 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thơ thiền Việt Nam thời Lý - Trần trong so sánh với thơ thiền Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI
Trong văn học trung đại Việt Nam nói chung, văn học Lý – Trần nói riêng,
thơ Thiền là một bộ phận quan trọng, có giá trị và đóng góp không nhỏ cho văn học
thời đại cũng như văn học dân tộc.
Trên thực tế, cũng đã có nhiều chuyên luận, công trình nghiên cứu về thơ
Thiền Lý –Trần nhưng những vấn đề, những đặc điểm, những giá trị của bộ phận
văn học độc đáo này chưa phải đã được khai thác một cách triệt để và toàn diện.
Đặc biệt, nghiên cứu thơ Thiền Việt Nam thời Lý – Trần trong thế so sánh, đối
chiếu với thơ Thiền Nhật Bản thì chưa có một công trình khoa học chuyên biệt nào
khai thác.
Trong xu thế mở cửa, giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các nuớc như hiện nay,
việc nghiên cứu thơ Thiền – một di sản văn hóa độc đáo của dân tộc – trong so
sánh, đối chiếu với thơ Thiền Nhật Bản, giúp ta thấy rõ những tương đồng và dị biệt
của hai đối tượng trên. Từ đó rút ra được những đặc trưng riêng biệt của thơ Thiền
Lý – Trần, thấy rõ hơn những đóng góp của thơ Thiền Lý – Trần Việt Nam cho văn
học Phật giáo thế giới.
Trên cơ sở lý giải nguyên nhân sâu xa của những tương đồng và dị biệt về đề
tài, nội dung và hình thức nghệ thuật của hai đối tượng trên, luận văn cũng chỉ ra
một số những tương đồng và dị biệt về mặt văn hóa, tư tưởng, tập quán tư duy, quan
niệm thẩm mĩ … của hai dân tộc, góp phần giúp hai dân tộc thêm hiểu nhau trong
quá trình giao lưu hội nhập.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
2.1. Hướng nghiên cứu trong thế đối sánh
Đây là hướng nghiên cứu còn tương đối mới mẻ. Hầu như chưa có công trình
chuyên biệt nào nghiên cứu thơ Thiền Việt Nam thời Lý – Trần trong thế so sánh
với thơ Thiền Nhật Bản. Tuy nhiên, trong công trình Khảo sát đặc trưng nghệ thuật
của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ X – thế kỉ XIV [56], để làm rõ đặc trưng nghệ thuật
của thơ Thiền Việt Nam thời Lý – Trần, tác giả Đoàn Thị Thu Vân đã dành mục III.
3 để so sánh nghệ thuật của thơ Thiền Lý – Trần và thơ Thiền Nhật Bản. Với phần
này, tác giả đã chỉ ra một số những điểm tương đồng và dị biệt về nghệ thuật biểu
hiện của hai đối tượng trên. Chẳng hạn, về sự tương đồng, cả hai đều “rất hàm súc
và dựa trên nguyên tắc khơi gợi trực cảm”. Về dị biệt, thơ Thiền Việt Nam và thơ
Thiền Nhật Bản khác nhau về “quan điểm thể hiện”, về cách sử dụng các thủ pháp
nghệ thuật, về thể loại… Nhìn chung, do mục đích là để làm rõ đặc trưng nghệ
thuật của thơ Thiền Việt Nam nên tác giả Đoàn Thị Thu Vân chỉ chủ yếu chỉ ra
những khác biệt về mặt nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam so với thơ Thiền Nhật
Bản chứ chưa đi sâu vào những điểm tương đồng, cũng như chưa đi sâu vào so sánh
mặt nội dung biểu hiện hoặc đề tài của hai đối tựợng trên.
Cùng hướng nghiên cứu này còn có thể kể đến tiểu luận Basho (1644 – 1694)
và Huyền Quang (1254 – 1334) – Sự gặp gỡ với mùa thu hay sự tương hợp về cảm
thức thẩm mĩ [23] của nhà nghiên cứu Lê Từ Hiển. Như tên tiêu đề, tiểu luận trên đã
nêu lên sự tương đồng về đề tài và về cảm thức thẩm mĩ giữa nhà thơ Basho, đại
diện tiêu biểu cho thơ Thiền Nhật Bản, và Huyền Quang, đại diện cho thơ Thiền
Việt Nam. Về đề tài, cả hai đều rất yêu thích đề tài mùa thu “đọc thơ của hai ông,
chúng ta nhận thấy một tình yêu sâu nặng với mùa thu”. Về cảm thức thẩm mĩ, tác
giả Lê Từ Hiển cho rằng cả thơ Basho và Huyền Quang đều toát lên một “vẻ đẹp
buồn, cô đơn, vắng lặng, hiu hắt”. Dù đã có những phát hiện, so sánh khá thú vị, bài
tiểu luận trên cũng chỉ mới chỉ ra một số điểm tương đồng giữa hai nhà thơ, một của
thơ Thiền Việt Nam, một của thơ Thiền Nhật Bản nên cũng chưa có được cái nhìn
trong thế đối sánh bao quát giữa thơ Thiền Việt Nam và thơ Thiền Nhật Bản.
2.2. Hướng nghiên cứu trong thế biệt lập
2.2.1. Đối với thơ Thiền Việt Nam thời Lý – Trần
Thơ Thiền Lý- Trần là một mảnh đất không lớn nhưng đầy màu mỡ, đã có
không ít những nhà nghiên cứu đến cày xới, thâm canh. Trong rất nhiều những
chuyên luận, tiểu luận, bài viết có liên quan đến bộ phận văn học này, có thể tạm
chia làm ba loại: Loại trực tiếp nghiên cứu mảng thơ Thiền Lý – Trần như một
chỉnh thể; loại nghiên cứu tổng quan, trong đó thơ Thiền Lý – Trần chỉ là một bộ
phận được đề cập đến; và loại nghiên cứu tác giả, tác phẩm cụ thể thuộc bộ phận
thơ Thiền Lý – Trần.
2.2.1.1. Loại nghiên cứu trực tiếp mảng thơ Thiền Lý – Trần
như một chỉnh thể
Loại chuyên luận này không nhiều. Có thể kể đến một số chuyên luận như:
Thơ Thiền và việc lĩnh hội thơ Thiền thời Lý [27] của Nguyễn Phạm Hùng, Khảo sát
đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ X – thế kỉ XIV [56] của Đoàn
Thị Thu Vân,…
Mặc dù chuyên luận Thơ Thiền và việc lĩnh hội thơ Thiền thời Lý [27] chỉ
giới hạn nghiên cứu thơ Thiền thời Lý nhưng trong đó, tác giả đã có những khái
quát về đặc điểm của thơ Thiền nói chung. Chẳng hạn về tư duy nghệ thuật “thơ
Thiền rất chú trọng tính trực giác”, hay về hình ảnh con người trong thơ Thiền, tác
giả cũng có nhận xét: “Con người trong thơ Thiền […] không phải chỉ là con người
“vô tình” mà còn là “hữu tình”, “Con người trong thơ Thiền còn là con người có lí
trí, có bản lĩnh và nghị lực”. Đó là “những con người ham sống chứ không phải là
con người “khắc kỉ””.
Nếu như chuyên luận của Nguyễn Phạm Hùng chỉ đi sâu vào mảng thơ Thiền
thời Lý và cũng chỉ chủ yếu khai thác những đặc điểm về nội dung thì chuyên luận
(luận án PTS) Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ X – thế
kỉ XIV [56] của Đoàn Thị Thu Vân, như tên gọi của nó, đã đi sâu khai thác phần
nghệ thuật của thơ Thiền Lý – Trần. Trên cơ sở những đặc điểm về nghệ thuật như
ngôn ngữ, thể loại, thế giới hình tượng, không gian và thời gian nghệ thuật, giọng
điệu …, tác giả cũng đã làm bật được những giá trị nội dung đặc sắc của thơ Thiền
Lý – Trần, bởi xét cho cùng, không có một nghệ thuật thuần túy tách rời khỏi nội
dung. Cũng trong chuyên luận này, để làm rõ đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền
Việt Nam thời Lý – Trần, tác giả còn có phần so sánh đối tượng trên với thơ Nho
cùng thời và với thơ Thiền Trung Quốc, Nhật Bản. Có thể nói đây là một công trình
nghiên cứu vừa bao quát vừa chuyên sâu về đối tượng thơ Thiền Lý - Trần.
Thuộc loại này còn có thể kể đến một số chuyên luận như Quan niệm về con
người trong thơ Thiền Lý – Trần của Đoàn Thị Thu Vân [57], Chất trữ tình trong
thơ Thiền đời Lí của Phạm Ngọc Lan [35], …v…v.
2.2.1.2. Loại nghiên cứu tổng quan, trong đó thơ Thiền Lý – Trần chỉ là
một bộ phận được đề cập đến
Có thể dễ dàng bắt gặp dạng nghiên cứu này ở các công trình văn học sử
như: Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ [42], Lịch sử văn
học Việt Nam của Bùi Văn Nguyên [43], Lịch sử văn học Việt Nam của Đinh Gia
Khánh (Chủ biên) [31] …v…v. Trong các tài liệu trên, thơ Thiền chỉ được điểm qua
với một vài nhận xét, chẳng hạn trong Lịch sử văn học Việt Nam, tập 2 (thế kỉ X –
XVII) [43], Bùi Văn Nguyên có nhận xét: “điểm thú vị là các nhà sư thường trở
thành nhà thơ và có tâm hồn rung động trước cảnh vật và lòng người”, thơ văn của
các nhà sư “biểu lộ tư tưởng tự do phóng khoáng”, “vượt ra ngoài khuôn khổ của
triết lí Thiền tông”; trong lời giới thiệu Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập 2, [32], tác
giả Đinh Gia Khánh đã nhận định về thơ Thiền Lý – Trần: “bên cạnh ý nghĩa triết
học và tôn giáo, nhiều bài thơ lại có ý nghĩa nhân sinh và giá trị văn học”, hay trong
giáo trình Văn học Việt Nam thế kỉ X – nửa đầu thế kỉ XVIII, tập 1, phần 2 “Văn học
từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV” [33], tác giả cũng có những nhận xét về thơ Thiền
Lý – Trần: “Thơ Thiền gắn bó với đời sống dân tộc”, “thơ của các vị vua tu Thiền,
các nhà sư thể hiện một niềm yêu đời, yêu thiên nhiên tha thiết” …
Ở dạng nghiên cứu này còn có thể kể đến các chuyên luận nghiên cứu
chuyên sâu về các vấn đề nội dung, nghệ thuật, thi pháp, … của bộ phận văn học Lý
– Trần nói riêng, văn học trung đại Việt Nam nói chung.
Với chuyên luận Vận dụng quan điểm thể loại vào việc nghiên cứu văn học
Việt Nam thời Lý – Trần, [28], Nguyễn Phạm Hùng đã dành một phần để đề cập vấn
đề tên gọi, phân loại thơ Thiền, tư tưởng “hòa quang đồng trần”, tính hình tượng,
ước lệ, … trong thơ Thiền Lý – Trần.
Trong Thi pháp văn học Trung đại Việt Nam [51], Trần Đình Sử cũng đã có
những nhận xét khái quát về đặc điểm hình tượng con người trong thơ Thiền. Đó là
hình ảnh những con người “coi biến đổi như không, không sợ hãi, không kinh ngạc,
đặc biệt là điềm nhiên, bình thản trước cái chết”, “con người Thiền học còn khao
khát được tiêu dao tự tại, giải thoát mọi hữu hạn trần tục để đạt được cái tuyệt đối
của thế giới”. Cũng trong tài liệu trên, tác giả còn đề cập đến “thời gian vũ trụ bất
biến”, “siêu thời gian” và “không gian thanh nhàn”, “không gian thoát tục” của thơ
Thiền.
Cuối cùng thuộc dạng nghiên cứu này là các chuyên luận nghiên cứu bộ phận
văn học có liên quan đến Phật giáo thời Lý – Trần. Ví dụ như Tìm hiểu đặc điểm
của tư tưởng Phật giáo Việt Nam trong thời đại Lý – Trần qua các tác phẩm văn
học (Tầm Vu, [64]), Các yếu tố Nho – Phật – Đạo được tiếp thu và chuyển hóa như
thế nào trong đời sống tư tưởng và trong văn học thời Lý – Trần, (Nguyễn Huệ Chi,
[7]), Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền tông thời Lý – Trần (Nguyễn Công Lý,
[36]),…v…v. Đặc biệt trong luận án TS Văn học Phật giáo thời Lý – Trần - Diện
mạo và đặc điểm [37], ở chương ba, mục 3.2.3 khảo sát thể loại kệ và thơ Thiền, tác
giả Nguyễn Công Lý đã có một thống kê khá ấn tượng. Trong tổng số 11 thể loại có
mặt trong văn học Phật giáo thời Lý – Trần, thể loại kệ và thơ Thiền đã chiếm 405
trên tổng số 471 đơn vị tác phẩm, chiếm tỉ lệ 86%. Tỉ lệ này cho thấy kệ và thơ
Thiền là thể loại chiếm đa số và như thế cũng sẽ là thể loại có nhiều đóng góp nhất
cho văn học Phật giáo thời Lý - Trần. Cũng trong công trình này, phần đặc điểm
văn học Phật giáo thời Lý – Trần, tác giả cũng đã đề cập đến “kiểu tư duy trực cảm
tâm linh”, đến nội dung thể hiện giáo lí nhà Phật, đến quan niệm về con người, đến
cảm hứng thiên nhiên, … của văn học Phật giáo Lý – Trần, trong đó có thơ Thiền
Lý – Trần.
2.2.1.3. Loại nghiên cứu các tác giả, tác phẩm cụ thể thuộc bộ phận
thơ Thiền Lý – Trần.
Loại này rất nhiều. Đây là những bài nghiên cứu với tính chất bộ phận, có
liên quan nhưng không bao quát toàn bộ thơ Thiền Lý – Trần nên chỉ xin được điểm
qua một số bài viết tiêu biểu:
- Thích Phước An, Thiền sư Huyền Quang và con đường trầm lặng của mùa
thu, [1]
- Nguyễn Huệ Chi, Trần Tung – Một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền, [9]
- Nguyễn Huệ Chi, Mãn Giác và bài thơ nổi tiếng của ông, [8]
- Nguyễn Phương Chi, Huyền Quang – Nhà thơ thi sĩ, [10]
- Kiều Thu Hoạch, Tìm hiểu thơ văn các nhà sư Lý – Trần, [26]
- Đỗ Văn Hỷ, Câu chuyện Huyền Quang và cách đọc thơ Thiền, [29]
- Phạm Ngọc Lan, Trần Nhân Tông và cảm hứng Thiền trong thơ, [34]
v…v…
- Đặc biệt, tập kỉ yếu Tuệ Trung Thượng sĩ với Thiền tông Việt Nam, [63],
tập hợp rất nhiều bài viết tham gia hội thảo khoa học về Tuệ Trung Thượng Sĩ do
Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm thuộc viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí
Minh kết hợp với Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tổ chức năm 1993, đã đề cập
và lí giải một cách sâu sắc về con người, tư tưởng cũng như phong cách thơ văn độc
đáo của ông.
2.2.2. Đối với thơ Thiền Nhật Bản
Do đây là mảng thơ còn khá mới mẻ đối với độc giả Việt Nam nên việc
nghiên cứu, tiếp nhận cũng mới chỉ ở những bước đầu. Một trong những người có
nhiều công lao trong việc đưa thơ Thiền Nhật Bản đến với độc giả Việt Nam phải
kể đến nhà nghiên cứu văn học Nhật Bản, Nhật Chiêu. Trong những công trình của
mình như Thơ ca Nhật Bản [14], Nhật Bản trong chiếc gương soi [13], Văn học
Nhật Bản từ khởi thủy đến 1886 [15],… tác giả đã dành một phần để giới thiệu về
thơ Haiku từ nguồn gốc, sự phát triển đến những đặc điểm cơ bản về nội dung và
nghệ thuật… Đặc biệt trong công trình Ba nghìn thế giới thơm [11], Nhật Chiêu đã
dành cả 200 trang sách để viết về thơ Haiku. Trong đó tác giả đã sắp xếp những bài
Haiku theo những chủ đề nhất định. Tất cả gồm 17 chủ đề. Có thể nói đấy là những
trang viết vừa sắc sảo vừa bay bổng, mượt mà về thơ Haiku. Và tất cả những trang
phân tích, cảm nhận trên đều xuất phát từ cái nhìn Thiền, thấm đẫm một tinh thần
Thiền.
Ngoài ra, cũng có thể kể đến một vài chuyên luận, tiểu luận về thơ Haiku của
một số nhà nghiên cứu khác như Haiku – Tinh túy hồn thơ Nhật Bản [25] của Lê Từ
Hiển hay Cấu trúc nghệ thuật thơ Haiku [30] của Nguyễn Tuấn Khanh,… Với tiểu
luận Haiku – Tinh túy hồn thơ Nhật Bản, tác giả đã đề cập đến “tính chất cô đọng,
dồn nén đến tối đa hầu như lược bỏ mọi trang sức”, đến tính “khoảnh khắc” của
nghệ thuật Haiku; và đặc biệt là “tinh thần mĩ học Thiền thấm đẫm thơ Haiku”. Còn
tiểu luận Cấu trúc nghệ thuật thơ Haiku cũng đã đề cập đến tính ngắn gọn, cô đúc;
đến nguyên tắc khơi gợi; nguyên tắc sử dụng kigo (quí ngữ),… của thơ Haiku.
Bên cạnh những bài nghiên cứu của Việt Nam về Haiku, còn có những bài
nghiên cứu của các tác giả nước ngoài và của chính những nhà nghiên cứu người
Nhật. Chẳng hạn, trong công trình Zen và văn hóa Nhật Bản [49] của D. Suzuki có
phần nghiên cứu về Thiền và thơ Haiku. Trong đó, tác giả đã nhấn mạnh đến tính
trực cảm, trực giác của Haiku: “Haiku không bao giờ diễn đạt tư tưởng, mà đưa ra
những biểu tượng để phản ánh những điều trực quan như nó vốn có” [49]; đến tinh
thần vô ngôn của Haiku: “Một khi cảm giác đạt tới độ cao của nó, chúng ta chỉ còn
biết im lặng bởi không từ ngữ nào có thể diễn tả được hết. Mười bảy âm tiết có thể
là quá nhiều”[49].
Hay trong công trình Hài cú nhập môn của H. Henderson [22], tác giả cũng
đã đề cập đến nghệ thuật “rensò – liên tưởng”, đến nguyên tắc “sử dụng ki”, đến
“nguyên lí đối chiếu nội tại” trong một bài Haiku.
Qua những chuyên luận, tiểu luận, bài viết trên, ta thấy thơ Thiền Lý – Trần
và cả thơ Thiền Nhật Bản đã được tiếp cận, khai thác ở nhiều phương diện, nhiều
góc độ và mức độ khác nhau. Tất cả những công trình nghiên cứu, những chuyên
luận, tiểu luận trên là những tiền đề quan trọng, đã giúp ích rất nhiều cho chúng tôi
khi thực hiện đề tài này.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Ngay tên đề tài đã cho thấy đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là thơ
Thiền Việt Nam thời Lý – Trần. Tuy nhiên, luận văn không nghiên cứu thơ Thiền
Việt Nam trong thế độc lập mà nghiên cứu nó trong thế so sánh với thơ Thiền Nhật
Bản. Cho nên, ở một mức độ nhất định, thơ Thiền Nhật Bản cũng nằm trong đối
tượng nghiên cứu của luận văn.
Về thuật ngữ thơ Thiền, trước nay đã có rất nhiều nhà nghiên cứu đề cập,
giới thuyết.
Nguyễn Phạm Hùng trong luận án PTS Vận dụng quan điểm thể loại vào
việc nghiên cứu văn học Việt nam thời Lý – Trần [28], đã chia thơ Thiền làm hai
loại:
- Thơ Thiền thiên về triết lí: nòng cốt của nó là kệ và cả những bài thơ trực
tiếp phát biểu về các triết lí và quan niệm Thiền.
- Thơ Thiền thiên về trữ tình: Đó là những bài thơ mang yếu tố Thiền về tư
tưởng, cảm xúc, tâm trạng.
Đoàn Thị Thu Vân trong luận án PTS Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ
Thiền Việt Nam thế kỉ X – thế kỉ XIV [56], lại giới thuyết: Thơ Thiền là những bài
thơ của các tác giả là Thiền sư hoặc không phải là Thiền sư nhưng hâm mộ Thiền,
có nghiên cứu và hiểu biết về Thiền, sáng tác theo những nội dung:
- Trực tiếp thuyết giảng về yếu chỉ Thiền tông – đó là những bài kệ.
- Gián tiếp thuyết giảng về yếu chỉ Thiền tông.
- Bày tỏ cảm xúc mang ý vị Thiền trước cái đẹp của thiên nhiên, con người,
cuộc sống; hoặc bày tỏ trạng thái tâm tư đã giác ngộ chân lí, miêu tả cái đẹp vi diệu
bên trong con người.
Nguyễn Công Lý trong luận án TS Văn học Phật giáo thời Lý – Trần – diện
mạo và đặc điểm [37], ở phần khảo sát các thể loại, đã gom kệ và thơ Thiền thành
một nhóm thể loại, rồi lại phân chia chúng thành bốn loại sau:
- Loại thứ nhất là kệ: trực tiếp trình bày giào lí, tư tưởng nhà Phật.
- Loại thứ hai là kệ được thi vị hoá (hay còn gọi là Thơ triết lí): thể hiện triết
lí nhà Phật thông qua ngôn ngữ lung linh, đầy hình ảnh đẹp và gợi cảm, giàu chất
thơ.
- Loại thứ ba là thơ mang cảm hứng Thiền học: là những bài thơ mang cảm
xúc trữ tình nhưng nội dung có đề cập đến tâm, Phật, sinh, tử, Niết bàn, …
- Loại thứ tư là thơ tức cảnh sinh tình, bộc lộ cảm xúc, tâm trạng của Thiền
sư đối với cái lung linh mỹ lệ của ngoại cảnh thông qua cảm quan Thiền học.
Qua trên, ta thấy khái niệm thơ Thiền là một thuật ngữ có hàm nghĩa tương
đối rộng và có tính chất mở. Trên cơ sở tiếp thu, tổng hợp những quan niệm trên,
cùng với thực tế nghiên cứu hai đối tượng thơ Thiền Việt Nam thời Lý – Trần và
thơ Thiền Nhật Bản, có thể nêu ra ba tiêu chí cơ bản để xác định thơ Thiền như sau:
- Thứ nhất, đó là những bài kệ, bài thơ nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp trình
bày, thuyết giảng những giáo lí, tư tưởng nhà Phật; những yếu chỉ Thiền tông.
- Thứ hai, đó là những bài thơ mang cảm hứng Thiền học, tức những bài thơ
được gợi hứng từ những vấn đề có liên quan đến Phật, đến Thiền nhưng không
nhằm thuyết giảng mà chỉ để bày tỏ một quan niệm, một tâm trạng, một cảm xúc…
- Thứ ba, đó là những bài thơ miêu tả ngoại cảnh; bày tỏ cảm xúc, tâm trạng
thông qua cảm quan Thiền học.
Trên cơ sở những tiêu chí xác định trên, nằm trong phạm vi khảo sát của đề
tài có 405 đơn vị tác phẩm thơ Thiền.
Về thơ Thiền Nhật Bản, trước hết cần khẳng định, trong văn học Nhật Bản
hầu như không có thuật ngữ thơ Thiền để chỉ một bộ phận thơ cụ thể nào đó như
Việt Nam. Có thể thấy tinh thần Thiền, màu sắc Thiền bàng bạc khắp trong thơ ca
Nhật nói riêng, văn hoá Nhật nói chung. Tuy nhiên, thấm sâu và đậm màu nhất vẫn
là trong thể thơ Haiku. Chính vì thế, đề tài đã chọn thể thơ Haiku để làm đối tượng
so sánh với thơ Thiền Việt Nam thời Lý – Trần.
Như ta đã biết, thơ Haiku Nhật Bản từ lúc hình thành (khoảng thế kỉ XVI) đã
liên tục phát triển mạnh mẽ và ngày nay nó đã trở thành một thể thơ phổ biến trên
thế giới. Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu phần thơ Haiku cổ điển (từ thế kỉ XVI –
XIX), trong đó chủ yếu là Haiku thời Eđo.
Về số lượng, thơ Haiku được sáng tác với một số lượng rất lớn. Chỉ riêng
những tác giả tiêu biểu như Basho, Buson, Issa, Shiki, mỗi tác giả đã có khối lượng
tác phẩm ở vào con số hàng ngàn. Tuy nhiên, đây là một thể thơ khá lạ đối với
truyền thống thơ ca Việt Nam, số lượng những nhà nghiên cứu văn học Nhật Bản
nước ta cũng còn hạn chế nên chỉ mới chuyển ngữ được một phần trong kho tàng
Haiku đồ sộ ấy. Mặc dù vậy, để thực hiện đề tài này, người trình bày cũng đã thu
thập được trên 600 bài dùng làm tư liệu khảo sát, so sánh. Thiết nghĩ, xét về mặt số
lượng, so với số 405 bài thơ Thiền Việt Nam thời Lý – Trần thì số lượng thơ Thiền
Nhật Bản như trên cũng đã tạo được một sự cân đối nhất định.
Về phần dịch giả, Haiku Nhật Bản hiện nay đã được rất nhiều người dịch, cả
những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp lẫn những độc giả yêu thích Haiku. Trên thực
tế, việc chuyển ngữ một tác phẩm văn học nói chung đã là một vấn đề khó, chuyển
ngữ một tác phẩm thơ lại càng khó khăn hơn gấp bội. Ý thức rõ điều này, người viết
đã rất cân nhấc khi chọn lựa các bản dịch. Luận văn chủ yếu sử dụng bản dịch của
Nhật Chiêu, một nhà nghiên cứu văn học Nhật Bản có uy tín, nên chỉ có một số bài
không phải của Nhật Chiêu dịch, chúng tôi mới ghi chú thêm tên dịch giả.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trước một đối tượng, có thể có nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau
tùy vào mục đích nghiên cứu. Mục đích chính của đề tài Thơ Thiền Việt Nam thời
Lý – Trần trong so sánh với thơ Thiền Nhật Bản là nhằm tìm ra những điểm tương
đồng và dị biệt của thơ Thiền Việt Nam thời Lý – Trần và thơ Thiền Nhật Bản trên
các mặt đề tài, nội dung, nghệ thuật. Cho nên, phương pháp nghiên cứu chính được
sử dụng là phương pháp so sánh. Có thể thấy đây là phương pháp cần thiết cho đề
tài này. Bởi nó không chỉ giúp tìm ra những tương đồng và dị biệt của hai đối tượng
trên mà nó còn giúp người nghiên cứu tìm ra những nguyên nhân sâu xa tạo nên
những tương đồng và dị biệt ấy bằng cách so sánh, đối chiếu những đặc điểm về
mặt văn hóa, tư tưởng, tập quán tư duy, quan niệm thẩm mĩ… của hai dân tộc. Từ
đó, có cách nhìn, cách lí giải, cách đánh giá hợp lí, thấu đáo, khoa học hơn đối với
những tương đồng và dị biệt ấy.
Ngoài ra, luận văn cũng kết hợp sử dụng một số phương pháp bổ trợ khác
như: Phương pháp thống kê, phân loại để làm cứ liệu cho việc phân tích, đánh giá;
phương pháp liên ngành vì đối tượng của đề tài là thơ Thiền, một loại thơ mà nội
dung, tư tưởng có liên quan mật thiết đến các vấn đề tôn giáo, triết học … Đặc biệt,
thơ Thiền là loại thơ thiên về kiểu tư duy tổng hợp, trực cảm tâm linh nên nếu chỉ
dùng phương pháp phân tích duy lí đôi khi không thể nắm bắt được “cái thần”, cái
bản chất của đối tượng, thế nên phương pháp trực cảm cũng là một phương pháp
được sử dụng trong đề tài, nhất là những khi cần đi sâu, phân tích, cảm nhận một thi
phẩm cụ thể.
Thật ra, việc phân chia, liệt kê các phương pháp như trên chỉ có tính tương
đối. Trên thực tế, các phương pháp luôn được vận dụng trong thế kết hợp, đan xen
nhau trong quá trình trình bày. Tất cả đều nhằm mục đích giải quyết tốt nhất những
yêu cầu, mục đích mà đề tài đã đặt ra.
5. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
5.1. Ý nghĩa khoa học
Luận văn nhằm góp thêm một cách nhìn, cách khai thác, khám phá thế giới
nghệ thuật độc đáo của bộ phận thơ Thiền Lý – Trần Việt Nam.
Trên cơ sở những tương đồng và dị biệt với thơ Thiền Nhật Bản, luận văn
làm nổi rõ những đặc trưng, những nét riêng biệt, độc đáo của thơ Thiền Lý – Trần
Việt Nam so với thơ Thiền Nhật Bản nói riêng, thơ Thiền thế giới nói chung.
Một lần nữa, luận văn góp phần khẳng định giá trị, vị trí cũng như tầm quan
trọng của bộ phận thơ Thiền Việt Nam trong tiến trình văn học dân tộc.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thơ Thiền Lý –Trần từ lâu đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường ở
các cấp. Nhưng do đây là một loại thơ không dễ tiếp cận nên đã gây không ít khó
khăn cho người dạy lẫn người học. Đặc biệt, với chương trình thay sách giáo khoa
gần đây nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo, thơ Thiền Nhật Bản (cụ thể là thơ Haiku)
cũng đã được đưa vào Sách giáo khoa Ngữ văn cấp Trung học phổ thông. Đây là
một thể thơ khá xa lạ với truyền thống thơ ca Việt Nam nên việc giảng dạy và học
tập phần thơ này của giáo viên và học sinh lại càng gặp không ít khó khăn. Trong
tình hình đó, hy vọng luận văn sẽ góp thêm một tài liệu hữu ích trong việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập các đối tượng trên.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được cấu trúc với ba chương
chính như sau:
Chương một - Bối cảnh ra đời của thơ Thiền Việt Nam thời Lý – Trần
và thơ Thiền Nhật Bản. Ở chương này, người viết chú ý đến yếu tố thời đại và yếu
tố tư tưởng – tôn giáo có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ra đời của hai đối tượng trên.
Đó chính là Phật giáo – Thiền tông với quá trình du nhập, phát triển cùng những đặc
trưng của nó ở Việt Nam và Nhật Bản.
Chương hai - Những điểm tương đồng giữa thơ Thiền Việt Nam thời Lý –
Trần và thơ Thiền Nhật Bản. Trên cơ sở so sánh, đối chiếu giữa hai đối tượng,
luận văn bước đầu chỉ ra một số điểm tương đồng giữa thơ Thiền Việt Nam thời Lý
– Trần và thơ Thiền Nhật Bản như:
Về đề tài, cả hai đều có đề tài về thiên nhiên, đề tài về con người và cuộc
sống trần thế.
Về nội dung và nghệ thuật, cả hai đều biểu hiện một tinh thần Thiền, cảm
xúc Thiền, cái nhìn Thiền, cảm thức thẩm mĩ Thiền…
Chương ba - Những điểm dị biệt giữa thơ Thiền Việt Nam thời Lý – Trần
và thơ Thiền Nhật Bản. Trong chương này, người viết chú ý đến sự khác nhau về
các mặt như: đề tài, hình tượng (thiên nhiên, con người, không gian, thời gian),
ngôn ngữ, bút pháp, giọng điệu,…
Từ những kết quả đó, người viết cũng đã đưa ra một số nhận xét và lí giải
bước đầu cho những tương đồng và dị biệt trên.
Chương 1
BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA THƠ THIỀN VIỆT NAM
THỜI LÝ – TRẦN VÀ THƠ THIỀN NHẬT BẢN
1.1. THƠ THIỀN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH THỜI ĐẠI LÝ – TRẦN
VÀ PHẬT GIÁO THIỀN TÔNG THỜI LÝ – TRẦN
1.1.1. Thời đại Lý – Trần
Sau hơn nghìn năm nô lệ phương Bắc, năm 938, bằng sức mạnh của tài năng
mưu lược cùng với truyền thống bất khuất, tinh thần độc lập tự chủ của dân tộc,
Ngô Quyền đã lãnh đạo nhân dân đứng lên đánh tan quân Nam Hán, đưa nước ta
bước sang một kỉ nguyên mới – kỉ nguyên độc lập tự chủ. Bắt đầu từ cái mốc lịch
sử quan trọng ấy, các triều đại Ngô (938 – 967), Đinh (968 – 980), Tiền Lê (980 –
1009), Lý (1009 – 1225), Trần (1225 – 1400) lần lượt thay nhau xây dựng và bảo vệ
đất nước. Trong đó, hai triều đại Lý, Trần được coi là có nhiều đóng góp tiêu biểu
hơn cả nên các nhà nghiên cứu đã lấy hai triều đại này để gọi tên cho cả giai đoạn
lịch sử ấy: Thời đại Lý – Trần.
Trước hết, về mặt chính trị, thời đại Lý – Trần là thời đại của độc lập dân tộc
và thống nhất đất nước. Phát huy tinh thần, truyền thống yêu nước chống ngoại xâm
của dân tộc, sau chiến thắng của Ngô Quyền, các triều đại đi sau lần lượt đánh tan
các cuộc chiến tranh xâm lược của giặc phương Bắc: triều Tiền Lê phá tan quân
Tống, triều Lý cũng nhiều lần chiến thắng quân Tống, triều Trần ba lần đẩy lùi quân
Nguyên – Mông, chặn đứng vó ngựa của một đế quốc đã từng gồm thâu gần trọn
châu Á và nửa châu Âu. Âm hưởng của những chiến thắng oanh liệt, hào hùng đó
đã tạo nên hào khí ngất trời của thời đại: Hào khí Đông A, mà lịch sử dân tộc vẫn
từng nhắc đến trong niềm tự hào, ngưỡng vọng.
Trên cơ sở nền độc lập, tự chủ và thống nhất ấy, thời đại Lý – Trần cũng đã
phát triển mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa, xã hội …
Về kinh tế, hàng loạt những ngành nghề truyền thống được khôi phục và phát
triển. Bên cạnh đầu tư, phát triển kinh tế nông nghiệp bằng các chính sách khẩn
hoang, xây dựng các công trình thủy lợi, … nhà nước còn tạo điều kiện, khuyến
khích các ngành nghề thủ công như dệt, gốm, mỹ nghệ, chạm khắc, đúc … phát
triển, đạt đến trình độ khá cao về kĩ thuật lẫn nghệ thuật.
Những thành tựu về kinh tế trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
về văn hóa – xã hội. Giáo dục và việc thi cử có nhiều đổi mới. Năm 1075, nhà Lí
cho xây dựng Văn miếu và mở khoa thi tam giáo đầu tiên trong lịch sử giáo dục
khoa cử nước ta (1075), thành lập Quốc tử giám (1076) … Nhiều công trình kiến
trúc, điêu khắc nổi tiếng được ra đời như chùa Diên Hựu (chùa Một cột) ở thời Lý,
tháp Phổ Minh ở thời Trần; đặc biệt không thể không kế đến bốn công trình nổi
tiếng được mệnh danh là “An Nam tứ đại khí” là tháp Báo Thiên, tượng Phật chùa
Quỳnh Lâm, chuông Quy Điền và đỉnh (vạc) chùa Phổ Minh. Văn hóa, văn nghệ
dân gian với những lễ hội truyền thống cũng được phục hưng và phát triển mạnh
mẽ, phổ biến; từ vua chúa đến thường dân đều tham gia.
Cuối cùng, kết tinh của tinh thần thời đại ấy chính là hình ảnh con người. Đó
là “những con người tự tin, hào hùng, phóng khoáng, trong sáng, nhân ái, độ lượng
và khoan dung” [37]; “Những con người rất lạ” [56] mà đời sau khó lòng gặp lại.
Đó là những con người làm vua mà có thể dễ dàng “từ bỏ ngai vàng như trút chiếc
giày rách”, làm tướng mà khi nắm trong tay binh quyền hùng mạnh vẫn không vì lời
trăng trối của cha mà làm phản để “đoạt thiên hạ”, làm Phật tử mà có thể khuyên
mọi người “đừng bước theo vết mòn của Như Lai” …
Tóm lại, thời đại Lý – Trần là “thời đại của sự phục hưng và tinh thần nhân
văn cao đẹp” [56]. Có được thời đại ấy là do nhiều nguyên nhân. Trước hết phải kể
đến tư tưởng yêu nước và tinh thần độc lập, tự cường dân tộc. Bên cạnh đó, không
thể không kể đến sự ảnh hưởng tích cực của Phật giáo – một trào lưu tư tưởng hưng
thịnh lúc bấy giờ. Có thể nói chính giáo lí từ bi, tinh thần vô ngã của nhà Phật kết
hợp với những yếu tố tích cực của Nho giáo, của tư tưởng Lão – Trang trên tinh
thần tam giáo đồng nguyên đã có ảnh hưởng tốt đẹp đến văn hóa, xã hội lẫn chính
trị thời đại Lý – Trần; góp phần tạo nên một thời đại có một không hai trong lịch sử
dân tộc.
1.1.2. Phật giáo Thiền tông Việt Nam thời Lý – Trần
Đạo Phật vào Việt Nam rất sớm và từ nhiều nguồn khác nhau. Từ những thế
kỉ đầu Công nguyên (khoảng thế kỉ I, II), Phật giáo đại thừa từ Nam Ấn Độ trực tiếp
truyền vào Giao Châu (tên nước ta thời bấy giờ). Theo Lịch sử Phật giáo Việt Nam,
“các nhà buôn người Ấn Độ và Trung Á đến buôn bán ở đây (tức nước ta – ND) rất
sớm và theo sau họ là các nhà sư đến hành đạo và truyền đạo (…). Ở đây lại xuất
hiện một trong những tác phẩm Phật giáo sớm nhất viết bằng Hán văn, đó là “Lí
hoặc luận” của Mâu Tử, viết vào thế kỉ thứ II” [53]. Cũng theo Lịch sử Phật giáo
Việt Nam, “Xứ Giao Châu có đường thông sang Thiên Trúc. Phật giáo vào Trung
Quốc chưa phổ cập đến Giang Đông mà xứ ấy đã xây ở Liên Lâu hơn 20 bảo tháp,
độ được hơn 500 vị tăng và dịch được 15 bộ kinh rồi. Thế là xứ ấy theo đạo Phật
trước ta” (Lời sư Đàm Thiện, người Trung Quốc, trả lời Tùy Văn Đế về Phật giáo
Giao Châu) [53]. Khoảng thế kỉ thứ III, các tăng sĩ như Khương Tăng Hội, Cương
Lương Lâu Chi, … cùng với việc dịch các bộ kinh cơ bản của Phật giáo đại thừa có
khuynh hướng Thiền học như Bát thiên tụng bát nhã, Pháp hoa tam muội … đã
truyền bá đạo Thiền ở Giao Châu. Như vậy, xét về mặt lịch sử, đạo Phật nói chung,
Thiền tông nói riêng vào nước ta còn sớm hơn cả Trung Quốc.
Đến thế kỉ thứ VI, một thiền sư người Nam Thiên Trúc tên là Tì-ni-đa-lưu-
chi sang Giao Châu truyền bá đạo Thiền. Dòng Thiền này về cơ bản vẫn mang sắc
thái Thiền học Ấn Độ, coi trọng việc tu định, tham Thiền.
Đến thế kỉ thứ IX, lại có một thiền sư người Trung Quốc là Vô Ngôn Thông
sang nước ta truyền đạo. Vô Ngôn Thông đắc pháp với Thiền sư Bách Trượng Hoài
Hải, học trò đời thứ ba của lục tổ Huệ Năng – người sáng lập dòng Thiền mang đậm
bản sắc Trung Hoa. Dòng Thiền Vô Ngôn Thông mang dấu ấn T._.hiền tông Trung
Hoa với tư tưởng Phật hay chân lí không ở đâu xa mà ở ngay trong bản thân mỗi
người. Chân lí ấy chỉ có thể trực nhận bằng tâm linh chứ không thể nắm bắt thông
qua ngôn ngữ, văn tự, sách vở …, và trong con đường tu chứng, dòng Thiền này
đặc biệt đề cao phép “đốn ngộ” (giác ngộ tức thì).
Như vậy, trước thời đại Lý – Trần, ở nước ta, Phật giáo Thiền tông đã phát
triển khá mạnh mẽ.
Thời đại Lý – Trần đã mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc: kỉ nguyên độc
lập tự chủ. Trong bối cảnh ấy, đặc biệt với sự ủng hộ và khuyến khích của các
vương triều phong kiến, Phật giáo Thiền tông Việt Nam thời Lý – Trần lại càng có
điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn, có lúc đã trở thành quốc giáo. Cùng với sự tiếp
tục phát triển của hai dòng Thiền đã có trước đó là dòng Tì-ni-đa-lưu-chi và dòng
Vô Ngôn Thông, thời Lý- Trần còn xuất hiện hai dòng Thiền mới. Một là Thiền
phái Thảo Đường do nhà sư Thảo Đường thành lập vào thời Lý; hai là Thiền phái
Trúc Lâm cho chính nhà vua Trần Nhân Tông thành lập.
Nhìn chung, Thiền tông Việt Nam thời Lý - Trần cũng mang những đặc điểm
của Thiền tông thế giới (Thiền tông Ấn Độ, Thiền tông Trung Quốc). Nghĩa là cốt
tủy của nó vẫn là “kiến tính”, là “mở con mắt huệ”, là trở về với cái tâm hồn nhiên,
trong sáng … Tuy nhiên, do những điều kiện tự nhiên, xã hội khác nhau nên Thiền
tông Việt Nam cũng có những đặc trưng riêng.
Thứ nhất, Thiền tông Việt Nam có sự kết hợp chặt chẽ với các tông phái Phật
giáo khác như Mật tông, Tịnh Độ tông; kết hợp cả với tư tưởng Lão Trang của
Trung Quốc và những tín ngưỡng dân gian.
Thứ hai, phát triển trong một đất nước luôn luôn phải đối đầu với nạn ngoại
xâm, một đất nước luôn luôn phải đặt vấn đề độc lập tự chủ lên hàng đầu, đạo Thiền
Việt Nam thời Lý – Trần là một đạo Thiền rất nhập thế. Những Thiền sư lỗi lạc thời
này như Khuông Việt, Đỗ Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Huệ Sinh … đã tích cực tham
gia vào việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhiều Thiền sư đã giữ những chức vụ rất
quan trọng trong triều đình, giúp đỡ, cố vấn cho nhà vua trong việc đối nội cũng
như đối ngoại. Thậm chí có vị vua xuất thân từ chốn Thiền môn như Lý Thái Tổ; có
vị vua lại đứng ra thành lập Thiền phái riêng như Trần Nhân Tông …
Tóm lại, kế thừa và phát huy Phật giáo Thiền tông của những giai đoạn
trước, kết hợp với những mặt tích cực của Nho giáo, của tư tưởng Lão - Trang trên
tinh thần Tam giáo đồng nguyên, đặc biệt là tư tưởng yêu nước truyền thống của
dân tộc, Phật giáo Thiền tông thời Lý - Trần đã phát huy vai trò tích cực của mình
trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Không những thế nó còn có ảnh hưởng sâu
rộng, làm phong phú thêm cho đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc; góp phần tạo
nên mảng thơ Thiền Lý – Trần có vai trò như một bộ phận văn học mở đầu cho nền
văn học viết của nước ta.
1.2. THƠ THIỀN NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH THỜI ĐẠI EĐO
VÀ PHẬT GIÁO THIỀN TÔNG NHẬT BẢN
1.2.1. Thời đại Eđo
Sau những cuộc chiến tranh kéo dài, cuối cùng với thiên tài lãnh đạo kiệt
xuất, tướng quân Tokugawa Ieyasu đã đánh tan các đối thủ khác trên chiến trường,
thống nhất đất nước, đưa Nhật Bản vào một thời đại mới - thời đại bình trị: thời
Tokugawa hay còn gọi là thời Eđo, kéo dài gần ba thế kỉ, từ 1600 đến 1868.
Dưới chế độ mạc phủ Tokugawa, Eđo (nay là Tokyo) được chọn làm thủ
phủ, trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa lớn của cả nước.
Về kinh tế, sản xuất thủ công và thương mại phát triển mạnh mẽ, hàng loạt
các công ty thương mại lớn ra đời với hàng trăm nhân viên. Các cửa hiệu bán lẻ và
các cửa hàng thủ công nhỏ cũng xuất hiện hàng loạt. Hoạt động thương mại phát
triển kéo theo sự phát triển của ngành tài chính, tiền tệ. Tiền giấy được phát hành và
lưu thông rộng rãi.
Nghệ thuật in ấn đã có từ xưa nhưng đến thời này mới trở nên phổ biến, trở
thành một ngành nghề kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và sự
phổ biến rộng rãi các tác phẩm văn học nghệ thuật.
Đến cuối thời Eđo, Nhật Bản đã trở thành một nước có “nền kinh tế thiên về
tiền tệ hóa và thương mại hóa” [2].
Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, đặc biệt là kinh tế thương mại, dịch vụ như
trên đã dẫn đến sự hình thành các trung tâm kinh tế - văn hóa lớn như Eđo, Osaka,
Kyoto … Cùng với tầng lớp võ sĩ (samurai), một tầng lớp có vai trò quan trọng
trong xã hội, đã tồn tại trước nay, nhiều tầng lớp xã hội mới đã nổi lên và cũng nắm
những vai trò quan trọng trong xã hội như thị dân, thương nhân, những người hoạt
động trong lĩnh vực nghệ thuật …
Mặc dù tầng lớp võ sĩ thuộc giai cấp thống trị trong lĩnh vực chính trị nhưng
trong thời kì này, thị dân lại có vai trò vô cùng quan trọng trong lĩnh vực kinh tế -
xã hội, đặc biệt là lĩnh vực văn hóa. Họ trở thành nguồn đề tài mới, đồng thời cũng
là đối tượng phục vụ chủ yếu của văn hóa nghệ thuật. Chính vì thế, văn hóa thời
Eđo còn được gọi là “văn hóa thị dân”.
Nghệ thuật điêu khắc phát triển mạnh, đặc biệt là loại tranh khắc gỗ nổi
tiếng, một trong những sản phẩm quyến rũ nhất của nghệ thuật Eđo.
Nghệ thuật sân khấu cũng được công chúng thời Eđo say mê, nhất là kịch nói
và ca kịch.
Văn học phát triển mạnh với những thể loại như tiểu thuyết, truyện truyền kì,
truyện trào lộng … đặc biệt, thể thơ Haiku (một thể thơ đã có từ trước đó) trở nên
hoàn thiện và đạt đến đỉnh cao với thiên tài Matsuo Basho (1644 – 1694).
Theo nhà nghiên cứu văn học Nhật Bản, Nhật Chiêu, “linh hồn của thời đại
có thể được gọi lên bằng một chữ hàm súc ukiyo (phù thế)” [15]. Ban đầu ukiyo có
nghĩa là một thế giới phù sinh, vô thường theo quan niệm Phật giáo. Nhưng trong
thời đại Eđo, ukiyo còn mang nhiều nghĩa mới, “thường ám chỉ những gì mới mẻ,
đam mê và tận hưởng cuộc sống” [15]
Có thể nói toàn bộ nền kinh tế, văn hóa thời Eđo đều bị qui định bởi một hiện
tượng chính trị, đó là chính sách “tỏa quốc” kéo dài hầu như cả thời đại (từ 1638
đến 1853). Chính sách trên một mặt đã làm hạn chế sự giao lưu kinh tế, văn hoá với
thế giới, nhưng một mặt nó lại góp phần tạo cho Nhật Bản một nền văn hóa “bừng
nở bản sắc” [15]
Tóm lại, thời đại Eđo là một thời đại thái bình, thịnh trị của Nhật Bản. Sự ổn
định về chính trị, sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa, xã hội … đã tạo tiền đề
vững chắc cho nước Nhật bước sang thời kì hiện đại (Thời kì Minh Trị)
1.2.2. Phật giáo Thiền tông Nhật Bản
Phật giáo từ Triều Tiên chính thức du nhập vào Nhật bản năm 552 (có sách
cho là năm 538) với sự kiện vua Paekche của Triều Tiên cử một phái đoàn truyền
giáo đến Nhật. Phái đoàn này đã được Nhật hoàng tiếp đón một cách nồng hậu và
đã dâng cho đức vua một tượng Phật bằng vàng, một số quyển kinh, cờ, lọng,
chuông, mõ…
Sau những phản ứng ban đầu của một số dòng họ có uy tín trong triều, cuối
cùng, dưới sự đỡ đầu của Thái tử Shotuku (574 - 622), người được xem là sơ tổ của
Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo đã dần được chấp nhận và đi vào đời sống của dân
chúng. Thái tử vâng lời mẫu hậu Suiko đã cất công nghiên cứu và tuyên giảng ba bộ
Kinh Đại Thừa cho dân chúng Nhật, về sau những bài giảng này được viết thành
một bộ luận rất giá trị. Sau khi lên ngôi, Thái tử Shotoku đã ban hành ngay một
chiếu chỉ rằng: ''Toàn dân Nhật Bản phải kính ngưỡng và thọ trì Phật pháp''. Ông đã
cho xây chùa chiền trên khắp đất nước.
Đến triều đại Nara (710 - 194) qua sự ủng hộ Phật pháp của Hoàng đế
Shomu (701 - 756), Phật giáo đã trở thành quốc giáo. Năm 741, Hoàng đế Shomu
đã ban hành một quốc lệnh rằng mỗi làng và mỗi tỉnh phải xây dựng một ngôi chùa
và dân chúng phải thành tâm thọ trì Phật Pháp. Cũng trong thời đại này, sáu tông
phái Phật giáo là Luật tông (Ritsu), Câu Xá tông (Kusha), Thành Thật tông
(Jojitsu), Tam Luận tông (Sanron), Pháp Tướng tông (Hosso) và Hoa Nghiêm tông
(Kegon) từ Trung Quốc truyền vào Nhật Bản.
Đến thời Heian (794 – 1185), hai tông phái Phật giáo là Chân Ngôn tông
(Shingon) và Thiên Thai tông (Tendai) lại được truyền vào Nhật Bản từ Trung
Quốc. Hai tông phái này phát triển rất mạnh, lấn át cả các tông phái đã có trước đó.
Mãi đến cuối thế kỉ XII, tức là đầu thời kỳ Kamakura (1185 – 133), Thiền
tông mới được du nhập vào Nhật Bản cũng từ Trung Quốc, theo bước chân qui
hương của Thiền sư Êisai (1141 – 1215) và sau đó là Thiền sư Dogen (1200 – 1253).
Phái Thiền mà Thiền sư Êisai đưa về là phái Thiền Lâm Tế, chú trọng việc tham
công án, khác với phái Thiền Tào Động của Dogen, chú trọng việc tọa Thiền.
Cùng với Thiền tông, hai phái khác là Nhật Liên tông (Nichiren) và Tịnh Độ
tông (Jodo) cũng lần lượt xuất hiện.
Như vậy, cho đến cuối thế kỉ XIII, các tông phái Phật giáo chính đều có mặt
ở Nhật. Trong đó, dù xuất hiện sau nhiều tông phái khác, Thiền tông vẫn là tông
phái phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong đời sống văn hóa
Nhật Bản.
Đến thời Edo (1600 – 1868), “Phật giáo và hệ thống chùa chiền được sử
dụng để nhổ bỏ tận gốc đạo Cơ đốc” [2]. Đặc biệt phong trào “phổ biến Thiền” do
các Thiền sư Shido Buman (1603 – 1676), Bankei Yotaku (1622 – 1693) và Hakuin
(1685 – 1769) chủ xướng được hưởng ứng rộng rãi.
Cốt tủy của Thiền là bằng đường lối tu luyện thân tâm nhằm đạt đến trạng
thái giác ngộ - trạng thái “tâm vật nhất như”, trống không, vi diệu. Thiền tông Nhật
Bản cũng không đi ra ngoài cốt tủy ấy. Tuy nhiên, do những đặc trưng của văn hóa,
của tập quán dân tộc, đặc biệt là sự ảnh hưởng của tôn giáo bản địa (Thần giáo),
Thiền Nhật Bản cũng có những nét đặc trưng riêng biệt. Chẳng hạn, mục tiêu chung
của Thiền là “kiến tính”, là NGỘ (Satori). Nhưng đối với người Nhật đó không phải
là nơi an trụ cuối cùng. Đích đến cuối cùng của Thiền chính là Thiền – trong – hoạt
– động. Nhà Phật học nổi tiếng Nhật Bản Takashina Rosen khẳng định: “Nơi an trụ
cuối cùng của Thiền, mạch sống của Phật giáo chính là Thiền – trong – hoạt – động,
không lạc ra ngoài sinh hoạt tự nhiên của đời sống thường ngày” (Thiền vị trên đầu
lưỡi, dẫn theo Nhật Chiêu, Nhật Bản trong chiếc gương soi [13] ).
Chính trên quan điểm Thiền là cuộc sống, là không tách rời những sinh hoạt
tự nhiên của con người nên rất nhiều Thiền sư Nhật Bản có cuộc sống như người
bình thường, cũng “ăn thịt cá và uống rượu sakê” [13], cũng “yêu phụ nữ và sinh
con” [13]. Ikkyu (1394 – 1481), một Thiền sư nổi tiếng của Nhật, đã từng tuyên bố
trong một bài đạo ca của mình:
Những gì đi ngược lại
Một tâm hồn bình thường
Thì sẽ làm trở ngại
Chính pháp của con người
Thì sẽ làm trở ngại
Pháp của Phật mà thôi.
Hay trong hành trạng của Thiền sư Ryokan (1758 – 1831) có kể: Một lần,
Ryokan du hành với một vị sư trẻ. Tại một tiệm trà, họ được cúng dường thức ăn
trong đó có lẫn cá. Vị sư trẻ không động tới con cá, theo đúng truyền thống Phật
giáo chính thống, nhưng Ryokan ăn sạch không nghĩ ngợi. Vị sư mới nói với
Ryokan, “Thức ăn đó có cá, thầy biết.” Ryokan đáp với nụ cười, “Đúng vậy, nó
ngon tuyệt” [47]
Đây cũng chính là chỗ tương đồng của Thiền tông Nhật Bản với Thiền tông
Việt Nam, đặc biệt là đạo Thiền của Tuệ Trung.
Có thể nói, từ một tông phái ngoại lai, Thiền tông ngày càng phát triển mạnh
mẽ và bám sâu rễ vào đời sống văn hóa tinh thần Nhật Bản. Nó đã để lại dấu ấn
trong mọi lĩnh vực văn hóa nghệ thuật và trong sinh hoạt hằng ngày của con người.
Nói theo nhà nghiên cứu văn học Nhật Bản, Nhật Chiêu: “Thiền đã trở thành sinh
mệnh và cốt tủy của văn hóa Nhật” [13].
TIỂU KẾT
Mặc dù ra đời ở hai thời đại cách xa nhau gần ba thế kỉ với những đặc điểm
về kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau nhưng thơ Thiền Việt Nam thời Lý – Trần và
thơ Thiền Nhật Bản thời Eđo vẫn có nhiều điểm tương đồng chính là do cả hai cùng
là kết tinh của một thời đại mà nền văn hoá thấm đẫm tinh thần Thiền tông.
Chương 2
NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG GIỮA THƠ THIỀN
VIỆT NAM THỜI LÝ – TRẦN VÀ THƠ THIỀN NHẬT BẢN
2.1. NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG
2.1.1. Về đề tài
2.1.1.1. Đề tài thiên nhiên
Có thể nói thiên nhiên là đề tài muôn thuở của thơ ca, nhất là thơ ca phương
Đông. Thơ Thiền Việt Nam thời Lý – Trần và thơ Thiền Nhật Bản thời Eđo cũng
không ngoại lệ. Nhìn vào hai đối tượng này, có thể dễ dàng nhận ra cả hai đều có
mảng đề tài khá lớn về thiên nhiên. Đặc biệt, đối với thơ Thiền Nhật Bản thời Eđo
(cụ thể là thơ Haiku), đề tài thiên nhiên chiếm tỉ lệ khá cao. Thậm chí, nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng: “Haiku luôn gắn bó với thiên nhiên” [13], “Haiku là tiếng hát
của bốn mùa” [13].
2.1.1.2. Đề tài con người và cuộc sống trần thế
“Văn học là nhân học”, lời khẳng định trên của M. Gorki như một chân lí.
Đã là văn học (dù là văn học Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo hay Thiên Chúa giáo
…) thì không thể không đề cập đến vấn đề con người và cuộc sống trần thế. Bởi dù
chịu sự chi phối của bất cứ hệ tôn giáo nào đi nữa, người nghệ sĩ trước hết vẫn là
một con người. Nói cách khác, trước khi trở thành một nhà Nho, một Đạo sĩ, một
Thiền sư… họ đã là một con người đời thường, sống một cuộc sống trần thế. Đặc
biệt đối với những nhà tu Thiền, dù có lánh đời, vào núi thì cuộc sống của họ vẫn
không thể tách rời hoàn toàn cuộc sống trần thế. Nghĩa là họ vẫn có những mối
quan hệ nhất định với con người trần thế. Huống chi hầu hết những Thiền sư Việt
Nam thời Lý – Trần cũng như những Thiền sư Nhật Bản đều là những con người rất
nhập thế (Điều này đã trình bày ở phần Phật giáo Thiền tông thời Lý – Trần và
Phật giáo Thiền tông Nhật Bản). Chính vì thế trước khi nói tiếng nói của đạo (ở
đây chỉ các tôn giáo nói chung, đạo Thiền nói riêng) thì thơ văn họ vẫn phải nói
tiếng nói của con người, về con người với cuộc sống trần thế. Đó là những con
người với tinh thần yêu nước và ý chí bảo vệ đất nước. Khi giúp vua Lê Đại Hành
tiếp sứ giả nhà Tống, sư Đỗ Pháp Thuận đã ứng đối thơ văn với sứ giả, khiến sứ giả
phải nễ phục triều đình, dân tộc ta. Hay khi được vua hỏi về vận nước, sư đã trả lời
bằng một bài thơ vừa thể hiện tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, niềm vui trước
cảnh đất nước thanh bình vừa mang đậm phong vị Thiền – Lão với tinh thần “vô vi”
phóng nhiệm.
Quốc tộ như đằng lạc,
Nam thiên lý thái bình.
Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh.
(Quốc Tộ - Đỗ Pháp Thuận)
(Vận nước như mây quấn,
Trời Nam mở thái bình.
Vô vi trên điện gác,
Chốn chốn tắt đao binh.)
(Vận nước)
Thậm chí, có Thiền sư còn thể hiện cả sự xót thương, đồng cảm trước tình
cảnh của một tên tướng giặc đang bị cầm tù:
Khóa huyết thư thành dục kí âm
Cô phi hàn nhạn tái vân thâm
Kỉ gia sầu đối kim tiêu nguyệt
Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.
(Ai Phù Lỗ - Huyền Quang)
(Chích máu viết thư muốn gởi lời
Cánh nhạn lạnh lùng bay xuyên vào đám mây ngoài quan ải
Bao nhiêu nhà ngắm bóng trăng đêm nay?
Đôi nơi xa cách nhưng tấm lòng nhớ thương vẫn chỉ là một.)
(Thương tên tướng giặc bị bắt)
Trước đây, trong nhiều công trình nghiên cứu thơ Thiền Lý - Trần thường
không xét bài thơ này vì có thể các tác giả cho rằng bài thơ đề cập đến tình cảm gia
đình, tình cảnh li biệt, nhớ thương, không thể hiện tinh thần của Thiền tông, rộng
hơn là Phật giáo với chủ trương diệt dục, điều ái. Thật ra như đã trình bày, đạo
Thiền Việt Nam là một đạo thiền rất nhập thế. Nó thể hiện một tinh thần phá chấp
triệt để. Ta đã từng chứng kiến một Vạn Hạnh thiền sư “Trụ tích trấn vương kì”,
một Trần Thái Tông vừa làm vua vừa tu Thiền, đặc biệt là Tuệ Trung thượng sĩ,
người có thể tu Thiền tại gia, giữa bao bộn bề của cuộc sống đời thường, trong vòng
tình cảm thê tử mà vẫn đắc đạo. Trong các giai thoại Thiền, ta cũng bắt gặp những
câu chuyện thể hiện tinh thần phá chấp, rộng mở như thế. Câu chuyện Nhà sư thiếu
từ tâm là một ví dụ. Chuyện kể rằng một bà lão giúp đỡ một nhà sư hơn 20 năm. Bà
dựng cho sư một căn lều và nuôi ông trong lúc ông Thiền định. Một cô gái xinh đẹp
thường mang thức ăn và chăm sóc ông trong lúc ông nhập Thiền. Một hôm, bà lão
dặn cô gái khi đem thức ăn đến, hãy ôm choàng lấy sư xem hiệu quả tu Thiền của
sư tới đâu. Cô gái y lời. Và khi ôm sư, cô gái hỏi: “Thầy thấy thế nào?” Sư đáp:
“Như cổ thụ mọc trên núi đá lạnh lẽo mùa đông, luôn thiếu hơi ấm khi giá rét”.
Nghe chuyện, bà lão liền đuổi nhà sư ra khỏi lều, đốt trụi căn lều và than: “Ta đã
nuôi dưỡng 20 năm trời một gã không ra gì (ND – nhấn mạnh)” [16]. Dĩ nhiên nhà
sư là không được đam mê sắc dục, nhưng không đam mê không đồng nghĩa với vô
tình, lạnh lùng, gỗ đá. Trong trường hợp trên, rõ ràng nhà sư đã thiếu từ tâm, đã
biến mình thành gỗ đá, mà như thế thì không phải là một Thiền sư đúng nghĩa.
Liên hệ đến công án trên, thiền sư Ikkyu (1394 – 1481) đã có một bài thơ rất
hay thể hiện rõ tinh thần Thiền tông Nhật Bản:
Nếu người con gái ấy
Hẹn chiều nay đến tôi
Cây liễu già sống lại
Và nở hoa xuân rồi.
Thật là một thiền sư với tâm hồn thấm đẫm tình người!
Xuất phát từ tinh thần ấy, trong thơ Thiền Nhật Bản, hình ảnh con người và
cuộc sống trần thế cũng được đề cập rất nhiều, thậm chí còn đậm nét hơn cả thơ
Thiền Việt Nam thời Lý – Trần. Đấy là giọt lệ khóc mẹ của Basho:
Lệ tràn nóng hổi
tan trên tay tóc mẹ
làn sương thu
(Đoàn Lê Giang dịch)
là nụ cười của một em bé (đứa con thơ) làm cho người cha nhớ đến hình ảnh
người vợ đã qua đời của mình:
Không còn mẹ
một mình em bé tập cười
đêm mùa thu rơi.
(Issa)
là tiếng khóc của đứa bé bị vứt bỏ giữa rừng trong gió thu lạnh buốt:
Tiếng vượn, người ơi
đứa bé bỏ rơi đang khóc
chỉ gió mùa thu thôi.
(Basho)
Tóm lại, dù là thơ Thiền nhưng cả thơ Thiền Lý – Trần Việt Nam và thơ
Thiền Nhật Bản đều có đề tài về con người và cuộc sống trần thế. Điều đặc biệt là
dù có viết về đề tài trần thế nhưng cách nhìn, cách biểu hiện,… vẫn mang màu sắc,
hương vị Thiền (điều này sẽ trình bày rõ hơn trong các tiểu mục sau)
2.1.2. Về nội dung và nghệ thuật
Như đã trình bày ở phần đề tài, cả thơ Thiền Việt Nam thời Lý – Trần và thơ
Thiền Nhật Bản đều có đề tài về thiên nhiên, đề tài về con người và cuộc sống trần
thế. Thế nên, tình yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống cũng là một trong
những nội dung lớn của hai đối tượng trên. Nhưng xét thấy đấy là nội dung mà hầu
như bất cứ mảng thơ ca nào (dù xuất phát từ tư tưởng Thiền hay Nho hay Lão Trang
hay Thiên Chúa… hay thậm chí chẳng xuất phát từ một tôn giáo cụ thể nào đi nữa)
cũng đều hàm chứa. Thế nên, chúng tôi xin được phép không trình bày về điểm
giống nhau ấy.
2.1.2.1. Biểu lộ, hàm chứa một tinh thần Thiền
2.1.2.1.1. Tinh thần “phá chấp”
Có thể nói, cốt tủy (hay đích đến cuối cùng) của Thiền là NGỘ. Thiền gắn
liền với NGỘ. Nói như nhà nghiên cứu Thiền học nổi tiếng người Nhật Suzuki
Daisetsu: “Không Satori (Ngộ) thì không Zen (Thiền)” [50]. Và NGỘ hiểu một
cách ngắn gọn là “kiến tính” (thấy tánh), là “trở về”, là “mở con mắt huệ”. Nghĩa là
con người, bằng con mắt sáng suốt có thể nhìn thấy được cái tự tính (hay còn gọi là
cái bản lai diện mục) của chính mình. Đồng thời, với ánh sáng chiếu diệu được khai
mở ấy, con người nhìn ra được “tất cả then máy huyền vi của cuộc sống” [48], nắm
bắt bằng trực giác tất cả mọi quy luật của cuộc đời, của tạo hoá.
Trên cơ sở của sự giác ngộ ấy, có thể thấy tinh thần Thiền trước hết là tinh
thần PHÁ CHẤP, là phá bỏ sự câu chấp thường tình của người đời, phá bỏ cái nhìn
“nhị nguyên” phân biệt các sự vật, hiện tượng ra thành hai cực giá trị để rồi gán cho
chúng cực này hoặc cực kia như: “có” – “không”, “xấu” – “tốt”, “phải” – “trái”,
“chính” – “tà”, “phàm” – “thánh”, “ta” – “người”, “Phật” – “chúng sinh” …v…v.
Trong khi những sự phân biệt ấy chỉ là sự đối lập giả tạo. Thật sự là “không” và
“có” không khác nhau, “sống” và “chết” đều cùng một cội.
Nhà thơ Thiền nổi tiếng của Việt Nam thời Lý – Trần, Tuệ Trung, khẳng
định:
Đoán tri không hữu ất tương sa (sai)
Sinh tử nguyên tòng nhất phái ba
(Đốn tỉnh)
(Đoán biết rằng “không” và “có” không cách nhau lắm
Sống và chết vốn từ một đợt sóng)
(Chợt tỉnh)
Cũng vậy, “bẩn” – “sạch”, “trọc” – “thanh” cũng chỉ là hư danh, định kiến
do con người tạo nên mà thôi:
Xưa nay không bẩn sạch,
Bẩn, sạch đều hư danh.
Pháp thân không vướng mắc,
Nào “trọc” với nào “thanh” !
(Tùy theo cơ duyên mà ứng đối)
Ngay cả chúng sinh và Phật cũng không khác nhau, cũng chỉ:
Mi mao tiêm hoành tự khổng thùy
Phật dữ chúng sinh đô nhất diện
(Phàm thánh bất dị)
(Lông mày nằm ngang lỗ mũi nằm dọc
Phật và chúng sinh đều cùng một bộ mặt)
(Phàm thánh không khác nhau)
Thơ Thiền Nhật Bản không trực tiếp đề cập đến những phạm trù “có” –
“không’, “sống” – “chết”, “ta” – “người”…v…v, với những kiến giải, những lời
khẳng định dứt khoát, rõ ràng như trong thơ Thiền Lý – Trần Việt Nam. Thế nhưng
tận sâu trong nó, cái cách nó nhìn, nó miêu tả vẫn toát lên tinh thần PHÁ CHẤP của
Thiền tông ấy. Đấy là cái nhìn vô sai biệt giữa cao quí và thấp hèn. Hãy nghe nhà
thơ - Thiền sư Basho miêu tả:
Chung một quán trọ
các du nữ ngủ
trăng và đinh hương.
(Đoàn Lê Giang dịch)
Trong quan niệm thẩm mỹ của người Nhật, cũng là quan niệm chung của
người phương Đông, trăng là biểu tượng cho cái cao quí, thuần khiết; ngược lại, các
“du nữ” (tức gái điếm) là hạng người bị coi là thấp hèn, hạ lưu. Thế nhưng, dưới cái
nhìn của nhà thơ, tất cả đều có cuộc sống, có sự bình đẳng trong ánh sáng và cát
bụi, có thể cùng nằm với nhau trong một vũ trụ thuần khiết, không còn sai biệt. Cả
các du nữ, cả hoa đinh hương và cả nhà thơ (một Thiền sư) nữa cùng được hân
thưởng cái ánh sáng huyền diệu, thuần khiết của ánh trăng.
Cùng tinh thần này, Issa cũng có bài Haiku rất hay:
Mưa tuyết không ai
Gái đêm về ngủ
Với vầng trăng phai.
Để cho một cô “gái đêm” (tức gái điếm) về với vầng trăng, ngủ với vầng
trăng, Issa đã nghiễm nhiên đặt cái thấp hèn và cái cao quí vào cùng một vị trí. Nói
đúng hơn, trong cái nhìn của Issa, không hề có sự phân chia cao quí – thấp hèn. Hay
sâu xa hơn, vượt qua cái nhìn định kiến của người đời về hạng gái đêm, cho họ là
thấp hèn, Issa nhìn thấy “cái tâm trăng sáng” của cô gái, của một con người.
Hay một bài thơ khác của Basho cũng thể hiện tinh thần không phân biệt
giữa sạch và nhơ, thanh khiết và ô uế. Ông viết:
Bọ chét, rận
nước đái ngựa
gần bên gối nằm
(Đoàn Lê Giang dịch)
Bài thơ gợi ta nhớ đến một giai thoại Thiền của Việt Nam thời Trần. Có một
vị tăng hỏi Tuệ Trung Thượng sĩ: “Thế nào là thanh tịnh pháp thân?” Thượng sĩ
đáp: “Ra vào trong nước đái trâu/ Chui rúc giữa đống phân ngựa” [46]
Thử nghĩ xem, nếu bằng cái nhìn nhị nguyên phân biệt nhơ – sạch, thanh tịnh
– phiền toái, ta sẽ thấy được gì trước những đối tượng bọ chét, rận, nước đái ngựa
ấy? Có gì gợi lên cảm xúc thơ văn chăng? Thế nhưng, với tinh thần phá chấp, với
tinh thần Thiền, Bashô vẫn có thể làm thơ trước những đối tượng ấy, trong cảnh ấy.
Về bài thơ này, Tiến sĩ Blyth có lời bình rất hay: “Thơ Basho là thơ được đọc trong
tinh thần điềm tĩnh nhất. Nếu có bất kỳ cảm xúc kinh tởm và ghê tởm như một
thành tố mạnh nhất trong suy nghĩ, thì sẽ không hiểu được ý của Basho. Bọ chét,
rận là những sinh vật gây khó chịu, cáu kỉnh và nước đái ngựa gần nơi một người
nào đó đang nằm sẽ cho người đó tất cả những loại cảm giác khó chịu. Nhưng trong
và xuyên suốt cả điều này, có một cảm giác về tất cả, trong đó nước đái ngựa và
rượu sâm banh, rận và bướm đều có một nơi chỉ định và cần thiết của chúng” (dẫn
theo D. Suzuki, [50]). Rõ ràng, dù không trực tiếp lý giải thế nào là “thanh tịnh
pháp thân”, nhưng qua bài thơ, ta thấy hiện lên một Basho Thiền sư Nhật Bản như
một minh chứng sống về quan niệm “thanh tịnh pháp thân” theo tinh thần của Tuệ
Trung thượng sĩ – một Thiền sư Việt Nam vậy.
2.1.2.1.2. Tinh thần “vô ngã”
Đây là một khía cạnh của tinh thần phá chấp. Trong vô vàn cái chấp của con
người, cái chấp khó phá bỏ nhất là “chấp ngã”, là khư khư bám lấy cái tôi thấy, cái
tôi nghe, cái tôi nghĩ, cái tôi cảm …, một cái tôi với cái nhìn “nhị kiến” lầm lạc.
Tinh thần “vô ngã” giúp con người vượt lên trên sự phân biệt ta - người, sự tranh
chấp hơn - thua, đạt đến cái tâm bình đẳng an nhiên.
Thể hiện rõ nhất tinh thần này trong thơ Thiền Lý – Trần là trạng thái “quên”
thường xuất hiện trong thơ Huyền Quang. Nhớ, quên là trạng thái cảm xúc gắn liền
với cái tôi, cái ngã. Hiện lên trong thơ Huyền Quang là một con người quên tất cả.
Quên thời gian, ngày tháng:
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật
Cúc hoa khai xứ tức trùng dương
(Cúc hoa)
(Cuối năm ở trong núi không có lịch
Hoa cúc nở tức là tiết Trùng dương đến.)
(Hoa cúc)
Quên thực tại, ngoại vật:
Trúc đình vong thích hương sơ tận
(Tảo thu)
(Dưới mái tranh, quên bẵng nén hương vừa tắt)
(Thu sớm)
Quên đời và quên cả sự tồn tại của chính bản thân mình:
Vong thân, vong thế, dĩ đô vương
(Cúc hoa III)
(Quên mình, quên đời, quên hết tất cả)
(Hoa cúc III)
Ta cũng có thê dễ dàng bắt gặp trạng thái “quên” này trong thơ Thiền của
Nhật:
Quét tuyết sương
mà quên sương tuyết
cây chổi trong vườn.
(Basho)
Hay:
Trong bẵng biệt quên
hoa trong bình chợt nở
một ngày mùa xuân.
(Shiki – Lê Thiện Dũng dịch)
Tuy nhiên, tinh thần “vô ngã” trong thơ Haiku thể hiện rõ nhất ở chỗ các nhà
thơ hầu như rất ít khi trực tiếp bộc lộ cái tôi trữ tình của mình trong thơ. Đa số
những bài Haiku là những bức tranh thiên nhiên hiện lên như nó vốn vậy, không hề
bị cái nhìn định kiến, những cảm xúc chủ quan của cái tôi làm cho thiên lệch. Nó
như một bức tranh không có lời bình.
Một điều cần khẳng định là tinh thần “vô ngã” ở đây không có nghĩa là sự
phủ nhận, xóa bỏ bản ngã, xóa bỏ con người một cách phi nhân bản mà là sự giải
phóng tuyệt đối con người, đưa con người vượt qua những ràng buộc của định kiến
do cái nhìn nhị nguyên của bản ngã tạo ra. Trong những khoảnh khắc “quên” ấy,
con người như thể nhập vào cái đại ngã, hòa cùng nhịp điệu của vũ trụ, vượt qua cái
hữu hạn của đời người để trường tồn cùng cái vô hạn của đại vũ trụ.
2.1.2.1.3. Tinh thần “vô ngại”, “vô úy”
Chính tinh thần “vô ngã” đã dẫn đến tinh thần “vô ngại”, “vô úy”. Thật vậy,
chính vì bám vào cái ngã nên con người thường hay “tham sinh”, “úy tử”. Mà sinh
tử vốn vô thường và con người bình thường không bao giờ thoát khỏi cái vòng luân
hồi ấy. Thế nên, con người luôn sống trong lo lắng, sợ hãi. Tinh thần “vô ngã”
khiến con người không còn e ngại, sợ sệt bất cứ điều gì, có thể vượt qua nỗi sợ lớn
nhất của con người đó là sợ chết. Chính vì thế, hầu hết những nhà thơ - Thiền sư
trong những phút lâm chung của mình vẫn luôn rất bình tĩnh, sáng suốt, có thể để lại
những lời răn dạy, nhắn nhủ đệ tử (“thị tịch”) với những ý nghĩa thâm sâu, vi diệu.
Một cành mai vẫn tươi nở trước sân mặc cho mùa xuân đã tàn, trăm hoa đã rụng
trong bài Cáo tật thị chúng của Mãn Giác Thiền sư là bài ca bất tuyệt về tinh thần
lạc quan, về niềm tin bất diệt vào sự hằng thường, vượt lên trên qui luật sinh tử của
con người đã đạt đạo; một “giấc mộng phiêu lãng” trong bài từ thế chi ca của Basho
có thể đưa dẫn nhà thơ tiếp tục cuộc hành trình ở nơi “thế giới bên kia”…
Nằm bệnh giữa hành trình
chỉ còn mộng tôi phiêu lãng
trên những cánh đồng hoang.
Ngay trong hoàn cảnh khốn cùng: nhà cháy, phải sống nơi nhà kho dột nát
trong cơn đau yếu giữa mùa đông giá rét, trước lúc lâm chung, Issa vẫn không hề
than van, sợ sệt. Ông vẫn có thể nhìn tuyết rơi cả trên tấm chăn đắp của mình như
một món quà của Tịnh Độ Niết Bàn:
Muôn phần tri ân
chăn giường tôi tuyết trắng
từ Tịnh Độ rơi sang.
Không có một tinh thần “vô ngại”, “vô úy” không thể có được những vần thơ
như thế.
Rõ ràng, chính tinh thần “vô ngã” đã đưa con người vượt lên trên lằn ranh
của sự sống chết, để trong mọi hoàn cảnh, con người vẫn có thể ung dung, điềm tĩnh
với tinh thần “vô ngại”, “vô úy”.
2.1.2.1.4. Tinh thần “tự do”
Với ánh sáng của sự giác ngộ, với tinh thần phá chấp, vô ngã, Thiền mang
đến cho con người sự tự do, một sự tự do triệt để cả trong suy nghĩ, tư tưởng lẫn
trong hành động, ứng xử, lối sống…. Do đó, tinh thần Thiền cũng là tinh thần tự do.
Trước hết, đó là sự tự do vượt lên những giới luật. Giới luật nhà Phật cấm sát
sinh, phải ăn chay nhưng thượng sĩ Tuệ Trung không câu chấp việc chay hay mặn.
Trong Thượng sĩ hành trạng có chép sự việc như sau: “Một hôm, Thái hậu (Tức
Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái hậu, em gái của thượng sĩ Tuệ Trung - ND)
làm tiệc lớn đãi người (tức Tuệ Trung). Nguời đến dự tiệc, thấy thịt cứ ăn. Thái hậu
lấy làm lạ, hỏi rằng: “Anh tu Thiền mà ăn thịt thì thành Phật sao được?” Thượg sĩ
cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật, Phật cũng chẳng cần
làm anh.” [46]. Đó là câu chuyện trong cuộc sống, ứng xử hằng ngày. Trong thơ
Thiền của mình, Tuệ Trung cũng đề cập đến vấn đề này. Ông viết:
Khiết thảo dữ khiết nhục
Chúng sinh các sở thực
Xuân lai bách thảo sinh
Hà xứ kiến tội phúc?
(Trì giới kiêm nhẫn nhục)
(Ăn thịt và ăn cỏ
Chúng sinh loài nào có thức ăn của loài đó
Mùa xuân đến thì trăm cây cỏ sinh sôi
Có chỗ nào mà thấy tội hay là phúc?)
(Trì giới và nhẫn nhục)
Giới luật cấm sắc dục nhưng thượng sĩ vẫn có cuộc sống gia đình; giới luật
yêu cầu người tu Thiền phải sớm hôm công phu, trì giới, nhẫn nhục thì thượng sĩ
bảo:
Trì giới kiêm nhẫn nhục
Chiêu tội bất chiêu phúc
Dục tri vô tội phúc
Phi trì giới nhẫn nhục
(Trì giới kiêm nhẫn nhục)
(Trì giới và nhẫn nhục
Chỉ rước tội chứ chẳng rước phúc
Muốn biết không tội phúc
Thì đừng trì giới và nhẫn nhục)
(Trì giới và nhẫn nhục)
Tuy nhiên, đó không phải là sự báng bổ giáo pháp, là lối sống buông thả
phóng túng mà là sự tự do, là nguyên tắc “tùy tục”. Nói như Tuệ Trung:
Khỏa quốc hân nhiên tiện thoát y,
Lễ phi vong dã, tục tùy nghi.
(Vật bất năng dung)
(Đến xứ cởi trần cứ vui vẻ mà bỏ áo,
Không phải là quên lễ, chỉ tùy theo thói tục mà thôi)
(Vật không thể tùy theo mọi người) ._.hay giả; chỉ
cần biết ngay lúc này đây, trăng đang hiện hình trong nước: sáng trong, lung linh,
huyền ảo, tuyệt trần. Và ta hãy chiêm ngưỡng nó, chơi đùa cùng nó. Ta như nghe
được những lời nhắn nhủ “vô thanh” từ những bài Haiku đơn sơ mà huyền diệu ấy.
Chả trách Thi tiên Lí Bạch của Trung Quốc, trong lúc ngà say, đã nhảy cả xuống
sông mà ôm lấy vầng trăng (!)
Bên cạnh việc sử dụng các hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng với tính ước lệ cao,
về bút pháp, thơ Thiền Lý – Trần còn thường sử dụng cách diễn đạt nghịch ngôn,
phi logic. Ví dụ:
Nhật nhật khứ hoạch hòa
Thì thì không thương lẫm.
(Nhất nhật hội chúng – Tịnh Không)
(Ngày ngày gặt lúa về
Quanh năm kho đụn rỗng)
(Một ngày hội họp các môn đồ)
Vô huyền cầm thượng tấu dương xuân
Thiên cổ vạn cổ thanh bất tuyệt
(Niêm tụng kệ - Trần Thái Tông)
(Đàn không dây gảy khúc dương xuân
Vang mãi muôn đời âm chẳng dứt)
Hay để trả lời cho câu hỏi của Qui Sơn: “Lão tăng bách niên hậu hướng sơn
hạ tác nhân đầu thủy cổ ngưu, ý chỉ như hà?” (Trăm năm sau lão tăng này sẽ xuống
núi làm con trâu nước, ý nghĩa thế nào?), Sư (tức Tuệ Trung) đáp:
Hồng đạo trác tàn anh vũ lạp
Bích ngô thê lão phượng hoàng chi
(Đối cơ)
(Nếp hồng mổ lụi hạt anh vũ
Ngô biếc ngồi trơ nhánh phượng hoàng)
(Tùy theo cơ duyên mà ứng đối)
Đây là bút pháp nhằm truy bức người cầu đạo đến chân tường, ở đó, mọi
hiểu biết, suy luận theo logíc thông thường đều bất lực, nhằm phá bỏ tư duy luận lí,
phá bỏ cái nhìn nhị kiến lầm lạc, để cùng với cơ duyên, làm cho người cầu đạo
bừng ngộ.
Ngoài ra, đối cũng là một thủ pháp nghệ thuật khá quen thuộc và quan trọng
trong thơ Thiền Lý – Trần Việt Nam bởi nó đã trở thành luật (bắt buộc) của thể
Đường luật. Thủ pháp này được biểu hiện vô cùng phong phú. Về phương thức có
thể là đối lập hoặc đối xứng; về biểu hiện, có thể là đối thanh, đối từ, đối ý …v…v.
Thử đọc vài dẫn chứng tiêu biểu:
Xuân lai, xuân khứ nghi xuân tận
Hoa lạc, hoa khai chỉ thị xuân
(Đáp đệ tử diệu đạo chi vấn – Chân Không)
(Xuân đến, xuân đi nghĩ là xuân đã hết
Hoa rụng, hoa nở vẫn chỉ là mùa xuân ấy)
(Trả lời đệ tử hỏi về đạo huyền diệu)
Thúy trúc, hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân, minh nguyệt lộ toàn chân
(Nhật nguyệt, II– Thiền Lão)
Trúc biếc, hoa vàng không phải là cảnh bên ngoài
Mây trắng, trăng sáng lộ rõ cái ‘chân” toàn vẹn
(Ngày tháng, II)
Càn khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung
(Đáp Pháp Dung sắc - không, phàm - thánh chi vấn – Khánh Hỷ)
Trời đất hết thảy đều nằm trên đầu một sợi lông
Mặt trời mặt trăng chứa đựng trong một hạt cải
(Trả lời Pháp Dung hỏi về sắc - không, phàm - thánh)
Chính cách đặt các từ ngữ, hình ảnh… trong thế đối lập hoặc đối xứng với
nhau có tác dụng gây ấn tượng mạnh, khắc sâu vào tâm trí người đọc những hình
ảnh được đề cập. Ngoài ra, đối còn tạo ra sự cân đối, nhịp nhàng cho câu thơ, giúp
người đọc, người nghe dễ nhớ, dễ thuộc. Và sự cân đối, nhịp nhàng cũng chính là
một trong những tiêu chí thẩm mĩ của thơ trung đại Việt Nam nói riêng, nghệ thuật
Việt Nam nói chung.
Thơ Thiền Nhật Bản không sử dụng cách nói nghịch ngôn, phi logíc như
kiểu thơ Thiền Lý – Trần Việt Nam. Nhưng thay vào đó, nhiều bài Haiku thường
tạo ra sự bất ngờ, đột phá ở dòng thơ thứ ba. Đó có thể là một hình ảnh, một sự việc
hoàn toàn khác hẳn sự liên tưởng, tưởng tượng, dự đoán của người đọc có được trên
cơ sở hai dòng thơ đầu; hoặc là một sự đột nhiên chuyển mạch, làm thay đổi cảm
xúc nơi người đọc. Chẳng hạn, trong một bài thơ của Issa, hai dòng đầu:
Tuyết tan mùa
thôn làng tràn ngập
gợi người ta liên tưởng đến một tai ách: lụt lội do nước lũ từ băng tuyết tan
gây ra, thì dòng thơ thứ ba lại là:
một bầy trẻ thơ.
Thật bất ngờ và cũng thật thú vị! Dòng thơ đã đưa đến một hình ảnh hoàn
toàn mới mẻ, phá tan cảnh tượng được gợi lên từ hai dòng đầu.
Hay một bài thơ khác của Ryokan cũng có kết cấu như thế. Hai dòng đầu:
Tên trộm đi rồi
bỏ quên nơi cửa sổ
gợi người ta liên tưởng đến một đồ vật, một dấu tích – chứng cớ phạm tội –
nào đó. Thì thật bất ngờ và thú vị làm sao khi nơi cửa sổ kia lại là:
một vầng trăng soi.
Vầng trăng tròn đầy, viên mãn, sáng trong của vũ trụ đang soi chiếu ngoài
cửa sổ hay đấy cũng chính là tâm hồn trong sáng, rạng ngời, vô tư, hồn nhiên đến
thánh thiện – một tâm hồn trẻ thơ – của thi sĩ Đại Ngu đang soi chiếu vào tâm hồn
của mỗi chúng ta?
Có thể nói, chính bút pháp ấy đã tạo nên hiệu quả nghệ thuật đặc sắc. Nó
đem đến cho người đọc những cảm xúc mới mẻ, bất ngờ, đầy thú vị như đang đi
trên một con đường mới mà bất cứ khi nào cũng có thể đột ngột rẽ hướng, đột ngột
đổi chiều. Và nơi những chiều hướng mới ấy lại đầy những hoa thơm cỏ lạ.
Thơ Thiền Nhật Bản cũng không sử dụng nghệ thuật đối như kiểu của thơ
Thiền Lý – Trần Việt Nam. Nhưng trong nhiều bài Haiku có sự tồn tại của “nguyên
lí đối chiếu nội tại” [22]. Tính chất đối chiếu này không thể hiện ngay trên bề mặt
câu chữ mà nó ẩn ngầm trong các hình ảnh, sự vật được bài thơ gợi lên. Trong sự
đối chiếu ấy, “những dị biệt cũng hệ trọng như những tương đồng” [22]. Thử khảo
sát bài thơ về con ếch nổi tiếng của Basho:
Ao cũ
con ếch nhảy vào
vang tiếng nước xao.
Bài thơ có sự đối chiếu giữa cả ba đối tượng: Ao cũ - con ếch – tiếng nước.
Điều gì được gợi ra từ sự đối chiếu giữa các đối tượng ấy? Ao cũ (to lớn) – con ếch
(nhỏ bé). Thế nhưng nếu không có con ếch nhỏ bé kia thì cái ao cũ ấy cũng chẳng
còn là to lớn nữa. Mọi vật đều chỉ thể hiện rõ nhất đặc điểm của mình trong thế
tương quan với các sự vật khác. Thật vậy, chẳng hạn, nếu so với con ếch thì cái ao
là to lớn; nhưng nếu so với biển cả thì cái ao lại là nhỏ bé vậy. Và tiếng nước kia có
quan hệ gì với cái ao? Cái ao (ngàn đời) – tiếng nước (nhất thời). Tiếng nước là âm
thanh mà cũng là nước, là ao. Thế nhưng, nếu không có tiếng nước nhất thời được
tạo nên từ bước nhảy vô tâm, hồn nhiên của chú ếch thì cái ao ngàn đời kia ngàn đời
vẫn mãi im lặng, không thể lên tiếng, không thể nghe được “tiếng nói” của chính
mình… Còn biết bao ẩn áo vi diệu mà người đọc có thể liên tưởng, tưởng tượng,
suy gẫm từ sự đối chiếu giữa các sự vật mà bài Haiku trên gợi lên. Rõ ràng chính
thủ pháp “đối chiếu nội tại” này đã góp phần tạo nên những dư vang sâu thẳm
không cùng, sức ám thị to lớn của Haiku
Một đặc điểm của thơ Thiền Nhật Bản rất khác với thơ Thiền Lý – Trần Việt
Nam cũng như nhiều loại thơ khác, là nó lược bỏ đến mức tối đa những từ ngữ giữ
chức năng ngữ pháp rõ rệt, đó là các trạng từ, động từ, quan hệ từ …, tạo khoảng
trống giữa các hình ảnh được đặt cạnh nhau, nhằm khuyến khích sự liên tưởng, sáng
tạo phong phú nơi người tiếp nhận. Nhà Haiku nổi tiếng Shiki từng khuyên những
người bước đầu đến với Hài cú: “Cắt giảm trạng từ, động từ và hậu từ càng nhiều
càng nhiều càng tốt” (dẫn theo H. G. Henderson, Hài cú nhập môn, [22]). Những
bản dịch Haiku, dù các dịch giả đã cố gắng dịch rất ngắn gọn, thế nhưng so với
nguyên tác, vẫn còn dài, vẫn còn nhiều phụ từ, những từ chỉ quan hệ ngữ pháp.
Chẳng hạn bài thơ về con ếch của Basho được Nhật Chiêu dịch:
Ao cũ
con ếch nhảy vào
vang tiếng nước xao.
Vĩnh Sính lại dịch:
Ao xưa bóng rũ trưa hè
Nhái khua nước động bốn bề tịch liêu.
Trong khi nguyên tác chỉ là:
Furu ike ya Ao cũ
kawazu tobikomu con ếch nhảy
mizu no oto tiếng nước
Rõ ràng trong nguyên tác chỉ có những thực từ, những từ chỉ sự vật, hiện
tượng, hầu như không có những hư từ, những trạng từ, phụ từ như “vào”, “xao” …
(trong bản dịch của Nhật Chiêu); còn trong bản dịch của Vĩnh Sính, tác giả đã dịch
thoát ý, đã thêm nhiều chi tiết theo cảm nhận chủ quan của mình.
Hay trong một bài thơ khác cũng của Basho:
Te ni toraba Cầm trên tay (mớ tóc còn lại của mẹ)
kien namizazoatsuki tan mất, giọt lệ nóng hổi
aki no shimo sương mùa thu
được Nhật Chiêu dịch là:
Tóc mẹ còn đây
tan trong lệ nóng
sương mùa thu bay.
Và Đoàn Lê Giang dịch là:
Lệ tràn nóng hổi
tan trên tay tóc mẹ
làn sương thu.
Ta thấy giữa “tóc mẹ”, “giọt lệ” và “sương mùa thu” hầu như không có mối
quan hệ ngữ pháp rõ ràng nào. Đọc bài thơ, mỗi người phải tự xác định cho mình
một (hoặc nhiều) cách hiểu. Sương mùa thu ở đây là gì? Đó là làn sương thật, làn
sương của mùa thu; hay đó là giọt lệ (giọt lệ mong manh, dễ tan biến như sương
thu); hay đó lại là tóc mẹ (tóc mẹ bạc trắng như sương thu); hay đó là cuộc đời
(cuộc đời ngắn ngủi, vô thường như giọt sương thu) …? Chính nhờ sự lược bỏ
những từ ngữ giữ chức năng ngữ pháp rõ ràng đã làm cho bài thơ trở nên mờ ảo và
đa nghĩa. Và cũng chính vì thế mà khả năng khơi gợi sự liên tưởng, sáng tạo nơi
người đọc là phong phú, vô cùng.
Thậm chí, với đặc điểm trên, khi tiếp nhận một số bài Haiku, ngay cả các
dịch giả cũng không có sự thống nhất trong cách hiểu. Ví dụ như bài thơ sau của
Basho:
Taka tsubo ya mực phủ, những cái hủ
Hakanaki yume wo phù du mộng
Natsu no tsuki mùa hạ, trăng
được Nhật Chiêu dịch là:
Ôi con mực phủ
trong bẫy nằm mơ
dưới trăng mùa hạ.
trong khi đó, Lê Thiện Dũng lại dịch là:
Đêm chăng bẫy loài mực phủ
trăng hè bóng dõi
mộng phù sinh.
Ta thấy Nhật Chiêu đã liên kết “mực phủ” với “mộng”, cho mực phủ là chủ
thể của mộng; còn Lê Thiện Dũng lại hiểu “mộng” như một tính chất của cuộc đời
(“mộng phù sinh” – cuộc đời vốn là mộng, là chiêm bao, bào ảnh). Và không thể
khẳng định đâu là cách hiểu chính xác hơn. Vả chăng cũng không cần phải xác định
điều đó. Bởi tính chất mơ hồ hoá, khai thác triệt để khả năng sáng tạo của người tiếp
nhận chính là chủ ý của Haiku vậy.
3.1.2.9. Về kết cấu
Thứ nhất, Thơ Thiền Lý – Trần Việt Nam rất cân đối, hài hòa. Về số câu,
mỗi bài thơ luôn có số câu chẵn: 4 câu (thể tứ tuyệt), 8 câu (thể bát cú) và các thể
khác như cổ phong, tứ tự (chỉ là số ít) cũng thường có số câu chẵn. Về số tiếng, mỗi
câu thường có số tiếng bằng nhau: 7 tiếng (thể thất ngôn), 5 tiếng (thể ngũ ngôn), 4
tiếng (thể tứ tự). Kết cấu trên gợi một cái gì hoàn chỉnh, đã xong xuôi, đã hoàn tất.
Thơ Thiền Nhật Bản không có sự cân đối, hài hòa, đều đặn. Một bài Haiku
gồm 17 âm tiết (số lẻ), được chia làm 3 dòng (cũng là số lẻ) dài ngắn không đều
nhau (5/7/5 âm tiết). Kết cấu như thế gợi lên một cái gì còn dở dang, chưa hoàn
thành; một sự trống vắng cần được tiếp tục lấp đầy.
Thứ hai, đối với Thơ Thiền Lý – Trần Việt Nam, mỗi bài thơ đều có tựa đề.
Nó như một sản phẩm đã hoàn chỉnh, đã được định danh. Tựa đề thường nêu lên nội
dung chính, chủ đề của bài thơ. Nó có tác dụng định hướng sự cảm nhận của người
đọc.
Trong khi đó, thơ Thiền Nhật Bản (Haiku), tất cả đều không có tựa đề. Nghĩa
là nó chưa được định danh. Mỗi bài thơ như một chiếc lá vẫn còn tươi nguyên, hoà
trong tự nhiên. Và như thế, mỗi người đến với Haiku đều có thể cảm nhận, chiêm
ngưỡng chúng theo cách riêng của mình mà không bị sự chi phối bởi chủ ý của tác
giả.
Cuối cùng, xét trên đơn vị câu (dòng) thơ, trong thơ Thiền Lý – Trần Việt
Nam, mỗi câu thơ hầu như đều có một cấu trúc ngữ pháp hoàn chỉnh, có sự độc lập
tương đối (có thể đứng một mình mà vẫn đủ nghĩa). Do đó, có thể cảm nhận, phân
tích, trích dẫn từng câu hoặc từng cặp câu thơ.
Mỗi dòng thơ trong một bài Haiku không phải là một cấu trúc ngữ pháp độc
lập, nếu đứng một mình, nó không thể có được ý nghĩa cụ thể, trọn vẹn. Chính vì
thế, khi phân tích, cảm nhận Haiku không thể lần lượt phân tích, cảm nhận từng
dòng thơ mà phải luôn đặt các hình ảnh (được gợi lên ở mỗi dòng thơ) trong mối
tương quan lẫn nhau và trong sự thống nhất của toàn bài.
3.1.2.10. Về giọng điệu
Xuất phát từ cái tâm người đạt đạo, giọng điệu chung của thơ Thiền Lý -
Trần Việt Nam là trầm tĩnh, điềm đạm. Nhưng đôi khi, nhất là trong các vấn đáp
giữa thầy và trò, để giúp trò thoát khỏi sự cố chấp, mãi bám vào những kinh điển,
giáo điều; mãi đi tìm cầu những thứ bên ngoài mà không biết chính tâm mình có
Phật, các thiền sư cũng sử dụng giọng điệu khôi hài, trào lộng. Chẳng hạn, trong
Tụng cổ, một thầy tăng hỏi: “Con giun bị chặt làm hai đoạn, hai phía đều động, vậy
Phật tính ở phía nào?” Tuệ Trung đáp:
Hai phía đều không động
Động ở phía nhà ngươi.
Thật là một câu trả lời vừa khôi hài, vừa mang tính trào lộng có tác dụng
cảnh tỉnh, làm giật mình kẻ cầu đạo đang mãi loay hoay trong cái nhìn nhị kiến mê
lầm.
Giọng điệu trong thơ Thiền Nhật Bản rất đa dạng, phong phú. Có giọng điệu
buồn thương (nhưng không bi thiết), lặng lẽ, tịch liêu trong thơ Basho; có giọng
điệu thiết tha, xao xuyến trong thơ Issa; có giọng điệu rạo rực tươi vui trong thơ
Buson… Tuy nhiên, hầu như không có giọng điệu khôi hài, trào lộng trong thơ
Haiku.
3.1.2.11. Về vần điệu và nhịp điệu
Thơ Thiền Lý – Trần hầu hết đều được viết theo thể Đường luật. Do đó, vần
điệu và nhịp điệu luôn là yếu tố bắt buộc phải có (luật). Tùy vào từng thể loại cụ thể
(ngũ ngôn, thất ngôn tứ tuyệt, hoặc thất ngôn bát cú …) mà mỗi bài thơ có cách
gieo vần và ngắt nhịp khác nhau (điều này được trình bày rất rõ trong Luật thơ
Đường mà có lẽ tất cả các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam đều nắm rõ nên ở đây
xin được phép không trình bày cụ thể). Chính yếu tố vần và nhịp đã tạo cho mỗi bài
thơ Thiền Việt Nam nói riêng, thơ Việt Nam nói chung, giai điệu du dương, nhịp
nhàng, trầm bổng; rất dễ thuộc, dễ nhớ.
Thơ Thiền Nhật Bản không sử dụng vần điệu, nhịp điệu như một yếu tố nghệ
thuật. Kết cấu 5/7/5 âm tiết không hẳn là nhịp điệu của mỗi bài thơ. Do đó, mỗi bài
thơ đọc lên nghe như một câu văn xuôi.
Lưu ý: Trong bản dịch của Nhật Chiêu và một số dịch giả khác, mỗi bài
Haiku đều như có vần điệu, đó là do các dịch giả đã cố tình Việt hóa một thể thơ
quá xa lạ với truyền thống thơ ca của dân tộc, tạo sự gần gũi, quen thuộc trong tâm
lí tiếp nhận của độc giả Việt Nam.
3.2. NHẬN XÉT
3.2.1. Nhìn chung, thơ Thiền Lý –Trần Việt Nam đậm chất triết học - tôn
giáo hơn, còn thơ Thiền Nhật Bản lại đậm chất trần thế, gần với cuộc sống thường
nhật hơn. Nói cách khác, chất Thiền trong thơ Thiền Nhật Bản dường như đã thấm
và hòa vào cuộc sống, tâm hồn nhà thơ, trở nên tự nhiên như hơi thở.
3.2.2. Về mặt nghệ thuật, thơ Thiền Lý – Trần sử dụng rất nhiều những biện
pháp, thủ pháp phong phú, thể hiện rất rõ dụng tâm, bàn tay trau chuốt của tác giả;
biện pháp nghệ thuật trong thơ Thiền Nhật Bản có phần nghèo nàn hơn, rất khó thấy
dụng tâm của tác giả trong nghệ thuật thể hiện. Nói như thế hoàn toàn không có
nghĩa là giá trị nghệ thuật của thơ Thiền Nhật Bản thấp hơn thơ Thiền Lý – Trần
Việt Nam.
3.3. LÍ GIẢI
Sở dĩ thơ Thiền Lý – Trần Việt Nam và thơ Thiền Nhật Bản có những điểm
dị biệt như trên là do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, trong
đó có thể kể đến một số nguyên nhân cơ bản sau:
Trước hết là do mục đích sáng tác khác nhau. Thơ Thiền Lý – Trần đa phần
được sáng tác trong ý thức rất rõ của các nhà thơ về việc trình bày, lý giải các yếu
chỉ Thiền tông. Do đó, mục đích cảnh tỉnh, giác ngộ đối tượng hay bày tỏ một tâm
trạng, cảm xúc Thiền được thể hiện đậm nét; trong khi đó, chất Thiền trong thơ
Thiền Nhật Bản dường như được toát lên từ vô thức của các nhà thơ, nói cách khác,
các nhà thơ Nhật Bản khi sáng tác thơ Haiku không ý thức rằng mình đang trình
bày, chuyển tải một triết lý tôn giáo nào.
Thứ hai là do quan điểm thể hiện khác nhau. Các nhà thơ Thiền Lý – Trần
nói riêng, các nhà thơ Việt Nam nói chung có xu hướng thể hiện rõ cái chủ quan của
mình trong thơ. Thi hào Nguyễn Du đã từng nói lên xu hướng ấy: “Cảnh nào cảnh
chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Truyện Kiều). Trong khi các
nhà thơ Haiku lại có xu hướng hạn chế đến mức thấp nhất việc bày tỏ chủ quan.
Nhà thơ Ransetsu thể hiện rõ quan điểm này trong một bài Haiku:
Không như nụ cười
không như giọt lệ
cành hoa Bụt ơi.
Người dù có vui, người dù có buồn thì cũng đừng đem nụ cười hay giọt lệ
của mình mà gán cho hoa. Hãy để hoa là hoa, là chính nó. Không hùng hồn, thuyết
lí nhưng phải chăng bài thơ của Ransetsu đã muốn nhắn nhủ mọi người điều ấy.
Thứ ba là do quan điểm thẩm mỹ khác nhau. Người Việt Nam có xu hướng
gắn cái đẹp với sự cân đối, hài hoà, nhịp nhàng. Ta có thể thấy rõ quan điểm này
trong tất cả các nghệ thuật: kiến trúc, điêu khắc, hội họa … đặc biệt là trong văn
học. Tất cả các thể thơ trung đại Việt Nam, cả các thể thơ vay mượn (Đường luật)
lẫn các thể thơ dân tộc (lục bát, song thất lục bát …), đều có tính chất cân đối, hài
hòa, nhịp nhàng. Ngược lại, với người Nhật, sự không cân đối, nhịp nhàng lại chính
là một trong những tiêu chí của cái đẹp. “Họ nhìn cái đẹp trong việc bố trí không
đối xứng các yếu tố trang trí, trong sự cân bằng bị phá vỡ” [44]. Truyền thống thơ
ca Nhật cũng thể hiện rõ quan điểm này. Thể thơ truyền thống (có trước thể Haiku)
của Nhật là thể Tanka (hay còn gọi là Waka) cũng là một thể thơ mà một bài thơ chỉ
có 31 âm tiết (số lẻ) và được chia làm 5 dòng (cũng là số lẻ) dài ngắn không đều
nhau (5/7/5/7/7 âm tiết).
Thứ tư, điều kiện tự nhiên khác nhau cũng là một trong những nguyên nhân
tạo nên sự khác nhau trong tâm lí, cảm thức của hai dân tộc. Và điều này đã in bóng
trong thơ ca. Việt Nam, với điều kiện tự nhiên ôn hòa, thuận lợi, góp phần tạo cho
con người một phong thái ung dung, nhàn tản; hướng đến cái đẹp vĩnh cửu, trường
tồn. Trong khi đó, Nhật Bản là một đất nước có điều kiện tự nhiên vô cùng khắc
nghiệt. Động đất, núi lửa, bão tuyết, sóng thần… thường xuyên xảy ra. Chính điều
kiện tự nhiên ấy tạo cho người Nhật sự nhạy cảm đặc biệt trước những cái đẹp
mong manh, chóng tàn, dễ vỡ…; một niềm bi cảm sâu xa trước thế giới vô thường.
Cuối cùng là do sự khác nhau về ngôn ngữ. Tiếng Hán (ngôn ngữ được các
nhà thơ Thiền Lý – Trần Việt Nam dùng để sáng tác) thuộc loại hình ngôn ngữ đơn
lập nên rất thuận lợi trong việc tạo ra các từ luyến láy; tạo ra nhịp điệu, vần, đối, …
Còn tiếng Nhật lại thuộc loại hình ngôn ngữ hòa kết; vần trong tiếng Nhật cũng rất
nghèo nàn nên có phần hạn chế trong việc sử dụng các yếu tố trên. Chính vì thế,
không chỉ thơ Haiku mà thơ Nhật nói chung đều không có vần, đối … Trong khi đó,
vần điệu, nhịp điệu, đối … đã trở thành một trong những tiêu chí thẩm mĩ của mỗi
bài thơ Việt Nam.
TIỂU KẾT
Thơ Thiền Lý – Trần Việt Nam và thơ Thiền Nhật Bản có những điểm tương
đồng nhưng cũng có nhiều dị biệt. Chính những dị biệt trên đã tạo nên nét đặc trưng
của mỗi đối tượng. Nói cách khác, dù cùng một vị Thiền nhưng cả hai đều có những
hương sắc riêng không thể lẫn lộn. Đấy cũng chính là những đóng góp riêng của
Việt Nam và Nhật Bản vào kho tàng thơ Thiền thế giới nói chung.
KẾT LUẬN
1. Qua nghiên cứu ta thấy, thơ Thiền Việt Nam thời Lý – Trần và thơ Thiền
Nhật Bản có nhiều điểm tương đồng cả về đề tài, nội dung và nghệ thuật nhưng
cũng có nhiều dị biệt. Nếu những tương đồng tạo thành dòng chảy của văn học nhân
loại nói chung, văn học nằm trong vùng ảnh hưởng của văn hóa Thiền nói riêng thì
chính những dị biệt tạo nên đặc trưng của mỗi đối tượng trong dòng chảy chung vô
tận ấy.
2. Trên tinh thần, mục đích của Văn học so sánh, đề tài không so sánh để
nhằm phân hơn – kém, thấp – cao giữa thơ Thiền Việt Nam và thơ Thiền Nhật Bản
mà nhằm mục đích tìm ra những điểm chung mang tính khái quát cũng như những
điểm riêng tạo nên nét đặc thù của hai đối tượng trên, từ đó có cách tiếp cận hợp lí
đối với từng đối tượng.
3. Mọi sự vật, hiện tượng thường chỉ thể hiện rõ nhất đặc điểm, bản chất, vị
trí của mình trong so sánh với những đối tượng gần gũi khác. Nghiên cứu thơ Thiền
Việt Nam thời Lý – Trần trong thế so sánh với thơ Thiền Nhật Bản giúp ta phát hiện
những đặc điểm độc đáo về nội dung và nghệ thuật của bộ phận văn học này; đồng
thời cũng thấy rõ hơn vị trí và những đóng góp riêng của thơ Thiền Lý – Trần Việt
Nam cho văn học dân tộc nói riêng, văn học thế giới nói chung.
4. Với những ý kiến, những luận điểm, những phát hiện bước đầu trên cơ sở
cách tiếp cận tương đối mới mẻ đối với bộ phận thơ Thiền Việt Nam thời Lý –
Trần, hy vọng đề tài sẽ mang lại lợi ích nhất định cho việc nghiên cứu và giảng dạy
thơ Thiền Lý – Trần cũng như thơ Thiền Nhật Bản (cụ thể là thể thơ Haiku đã được
đưa vào giảng dạy ở cấp trung học phổ thông)
5. Trên đây là những kết quả nghiên cứu bước đầu. Hi vọng với thời gian và
điều kiện cho phép, chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu đề tài này sâu hơn, kĩ hơn.
Đồng thời, cũng có thể mở rộng phạm vi đối tượng so sánh, chẳng hạn, không chỉ
so sánh thơ Thiền Việt Nam thời Lý- Trần với thơ Thiền Nhật Bản mà có thể so
sánh với thơ Thiền các nước nằm trong vùng ảnh hưởng của văn hóa Thiền tông
như Ấn Độ, Trung Quốc, Triều Tiên, ….
6. Một lần nữa có thể khẳng định thơ Thiền Lý – Trần dù là một mảnh đất
không lớn nhưng vẫn luôn hứa hẹn những mùa màng bội thu cho những ai đến thâm
canh, cày xới. Trong xu thế thế giới, đặc biệt là các nước phương Tây, đang tìm về
với văn hóa phương Đông, một nền văn hóa tuy không ồn ào, năng động nhưng
luôn tiềm ẩn một sức mạnh diệu kì, thì thơ Thiền Lý - Trần Việt Nam nói riêng, thơ
Thiền các nước nói chung vẫn là một đối tượng có sức hấp dẫn và đầy mời gọi.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA THƠ THIỀN VIỆT NAM
THỜI LÝ – TRẦN VÀ THƠ THIỀN NHẬT BẢN 13
1.1. Thơ Thiền Việt Nam trong bối cảnh thời đại Lý – Trần
và Phật giáo Thiền tông thời Lý – Trần 13
1.1.1. Thời đại Lý – Trần 13
1.1.2. Phật giáo Thiền tông Việt Nam thời Lý – Trần 14
1.2. Thơ Thiền Nhật Bản trong bối cảnh thời đại Eđo và
Phật giáo Thiền tông Nhật Bản 17
1.2.1. Thời đại Eđo 17
1.2.2. Phật giáo Thiền tông Nhật Bản 18
Chương 2: NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG GIỮA THƠ THIỀN VIỆT NAM
THỜI LÝ – TRẦN VÀ THƠ THIỀN NHẬT BẢN 22
2.1. Những điểm tương đồng 22
2.1.1. Về đề tài 22
2.1.1.1. Đề tài thiên nhiên 22
2.1.1.2. Đề tài con người và cuộc sống trần thế 22
2.1.2. Về nội dung và nghệ thuật 25
2.1.2.1. Biểu lộ, hàm chứa một tinh thần Thiền 25
2.1.2.2. Biểu lộ, hàm chứa một cảm xúc Thiền 40
2.1.2.3. Thể hiện cái nhìn Thiền 45
2.1.2.4. Thể hiện cảm thức thẩm mỹ Thiền 59
2.1.2.5. Tính ngắn gọn, cô đọng, hàm súc 64
2.2. Nhận xét 65
2.3. Lí giải 66
Chương 3: NHỮNG ĐIỂM DỊ BIỆT GIỮA THƠ THIỀN VIỆT NAM
THỜI LÝ – TRẦN VÀ THƠ THIỀN NHẬT BẢN 67
3.1. Những điểm dị biệt 67
3.1.1. Về đề tài 67
3.1.2. Về nội dung và nghệ thuật 67
3.1.2.1. Trực tiếp hoặc gián tiếp thuyết giảng về
yếu chỉ Thiền tông 67
3.1.2.2. Thể hiện tình mẫu tử cao quí, thiêng liêng 75
3.1.2.3. Hình tượng con người 77
3.1.2.4. Hình tượng thiên nhiên 78
3.1.2.5. Không gian, thời gian nghệ thuật 87
3.1.2.6. Về ngôn ngữ 94
3.1.2.7. Về thể thơ 97
3.1.2.8. Về bút pháp 97
3.1.2.9. Về kết cấu 106
3.1.2.10. Về giọng điệu 106
3.1.2.11. Về vần điệu và nhịp điệu 107
3.2. Nhận xét 108
3.3. Lí giải 108
KẾT LUẬN 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO 113
PHỤ LỤC 117
PHỤ LỤC 1
TRANH, ẢNH MỘT SỐ NHÀ THƠ THIỀN VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN
Tam tổ phái Trúc Lâm
Giữa: Trúc Lâm đệ nhất tổ Điều Ngự Giác Hoàng (Trần Nhân Tông)
Phải: Trúc Lâm đệ nhị tổ Pháp Loa tôn giả
Trái: Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang tôn giả
Haiku tứ trụ
Matsuo Basho Yosa Buson
Kobayashi Issa Masaoka Shiki
PHỤ LỤC 2
MỘT SỐ HÌNH ẢNH THIÊN NHIÊN THƯỜNG ĐƯỢC NHẮC ĐẾN
TRONG THƠ HAIKU
Hoa anh đào (sakura) Hoa mơ (ume)
Hoa triêu nhan (asagao) Hoa thủy tiên (suisen)
Hoa Bụt (mukuge) Hoa phù dung (fuyô)
Trăng thu (tsuki) Con bướm (kochô)
Con ếch (kawazu) Con ốc (katatsumuri)
Đom đóm (hotaru) Con ve (Semi)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thích Phước An (1992), Thiền sư Huyền Quang và con đường trầm lặng của
mùa thu, TCVH, số 4.
2. Eiichi Aoki (chủ biên) (2006), Nhật Bản – Đất nước và con người,
Nguyễn Kiên Trường dịch, Nxb Văn học.
3. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
4. Basho M. (1999), Lối lên miền Oku, Vĩnh Sính dịch giới thiệu và chú thích,
Nxb Thế giới.
5. Bakhtin M. (1979), Mỹ học và sáng tạo ngôn từ , Nxb Nghệ thuật, Máxcơva.
6. Nguyễn Hụê Chi, Đỗ Đức Hiểu, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (đồng Chủ biên)
(2004), Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế giới.
7. Nguyễn Huệ Chi (1978), Các yếu tố Nho – Phật – Đạo được tiếp thu và chuyển
hóa như thế nào trong đời sống tư tưởng và trong văn học thời Lý – Trần,
TCVH, số 6.
8. Nguyễn Huệ Chi (1987), Mãn Giác và bài thơ nổi tiếng của ông, TCVH, số 5.
9. Nguyễn Huệ Chi (1977), Trần Tung – Một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền,
TCVH, số 4.
10. Nguyễn Phương Chi (1982), Huyền Quang – Nhà thơ thi sĩ, TCVH, số 3.
11. Nhật Chiêu (2007), Ba nghìn thế giới thơm, Nxb Văn nghệ.
12. Nhật Chiêu (1998), Câu chuyện văn chương phương Đông, Nxb Giáo dục.
13. Nhật Chiêu (2003), Nhật Bản trong chiếc gương soi, Nxb Giáo dục.
14. Nhật Chiêu (1998), Thơ ca Nhật bản, Nxb Giáo dục.
15. Nhật Chiêu (2003), Văn học Nhật bản từ khởi thủy đến 1886, Nxb Giáo dục.
16. Tsai Chih Chung (1999), Góp nhặt cát đá, Phạm Cao Hoàn biên dịch,
Nxb Thanh Niên.
17. Nguyễn Văn Dân (2001), Lí luận Văn học so sánh, Nxb ĐH quốc gia Hà Nội.
18. Thu Nguyệt Long Dận (2005), Mỗi ngày một câu chuyện thiền, Tàn Mộng Tử
biên dịch và chú giải, Nxb Thuận Hóa.
19. Đại học quốc gia Tp Hồ Chí Minh (2003), Thơ – nghiên cứu, lý luận, phê bình.
20. Đoàn Lê Giang (1997), So sánh quan niệm văn học trong văn học cổ điển
Việt Nam và Nhật Bản, TCVH, số 9.
21. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng Chủ biên) (2004), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, 2004
22. Henderson H. G (2000), Hài cú nhập môn, Lê Thiện Dũng dịch, Nxb Trẻ.
23. Lê Từ Hiển – Lưu Đức Trung (2007), Haiku – hoa thời gian, Nxb Giáo dục.
24. Lê Từ Hiển (2005), Basho (1644 - 1694) và Huyền Quang (1254 – 1334) –
sự gặp gỡ với mùa thu hay sự tương hợp về cảm thức thẩm mĩ , TCVH, số 7.
25. Lê Từ Hiển (2005), Haiku – tinh túy hồn thơ Nhật Bản, TCVH, số 2.
26. Kiều Thu Hoạch (1965), Tìm hiểu thơ văn các nhà sư Lý – Trần, TCVH, số 6.
27. Nguyễn Phạm Hùng (1992), Thơ Thiền và việc lĩnh hội thơ Thiền thời Lý,
TCVH, số 4.
28. Nguyễn Phạm Hùng (1995), Vận dụng quan điểm thể loại vào việc nghiên cứu
văn học Việt Nam thời Lý – Trần, luận án PTS, bảo vệ tại Viện Văn học.
29. Đỗ Văn Hỷ (1975), Câu chuyện Huyền Quang và cách đọc thơ Thiền, TCVH,
số 1.
30. Nguyễn Tuấn Khanh (1999), Cấu trúc nghệ thuật thơ Haiku, TCVH, số 10.
31. Đinh Gia Khánh (Chủ biên) (1980), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 1,
Nxb Khoa học xã hội.
32. Đinh Gia Khánh, Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc San (1976), Hợp tuyển
thơ văn Việt Nam, tập 2, Thế kỉ X – XVIII, Nxb Văn học.
33. Đinh Gia Khánh (1978), Văn học Việt Nam thế kỉ X – nửa đầu thế kỉ XVIII,
Nxb ĐH. THCN.
34. Phạm Ngọc Lan (1992), Trần Nhân Tông và cảm hứng Thiền trong thơ, TCVH,
số 4.
35. Phạm Ngọc Lan (1986), Chất trữ tình trong thơ Thiền đời Lí, TCVH, số 4.
36. Nguyễn Công Lý (1997), Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền tông thời
Lý – Trần, Nxb Văn hóa thông tin.
37. Nguyễn Công Lý (2002), Văn học Phật giáo thời Lý – Trần - Diện mạo và
đặc điểm, Nxb Đại học quốc gia Tp HCM.
38. Phan Trọng Luận (Tổng Chủ biên) (2006), Sách giáo khoa ngữ văn 10, Nxb
Giáo dục.
39. Phan Trọng Luận (Tổng Chủ biên) (2006), Sách giáo viên ngữ văn 10, Nxb
Giáo dục.
40. Vô Môn (2006), Vô Môn Quan, Vũ Thế Ngọc dịch và luận chú, Nxb Tổng hợp.
41. Hữu Ngọc (2006), Dạo chơi vườn văn Nhật Bản, Nxb Văn nghệ.
42. Phạm Thế Ngũ (1961 - 1965), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, 3 tập,
Quốc học tùng thư xb.
43. Bùi Văn Nguyên (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo dục.
44. Ôtrimicốp V.V. (1996), Những quan niệm thẩm mỹ độc đáo về nghệ thuật của
người Nhật, Phong Vũ dịch, TCVH, số 5.
45. Hoàng Phê (chủ biên) (2000), Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nxb
Đà Nẵng.
46. Trần Lê Sáng (chủ biên) (2000), Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 1, 2, 3,
Nxb KHXH.
47. John Stevens (1993), BA THIỀN SƯ Ikkyu Sojun - Hakuin Ekaku –
Ryokan Taigu, Nguyên tác Anh ngữ: Three Zen Masters: Ikkyu, Hakuin,
and Ryukan, Nxb Kodansha International, Việt dịch: Cư Sĩ Nguyên Giác,
2003
48. Suzuki D. (1970), Thiền luận, Trúc Thiên dịch, Nxb An Tiêm.
49. Suzuki D., Thiền và thơ Haiku, Lê Thị Thanh Tâm trích dịch từ Zen anh
Japanese Culture (Thiền và Văn hóa Nhật Bản), Charles E. TuttleCompany,
Tokyo, Japan.
50. Suzuki D., Thiền và thơ Haiku, Đoàn Lê Giang và Bửu Châu trích dịch từ
Zen anh Japanese Culture (Thiền và Văn hóa Nhật Bản), Charles E.
TuttleCompany, Tokyo, Japan (Tài liệu chưa xuất bản)
51. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội.
52. Trần Đình Sử (2003), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục.
53. Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội.
54. Nguyễn Đăng Thục (1996), Thiền học Việt Nam, Nxb Thuận Hóa.
55. Thích Thanh Từ (2002), Hai quảng đời của sơ tổ Trúc Lâm, Nxb Tôn giáo.
56. Đoàn Thị Thu Vân (1996), Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền
Việt Nam thế kỉ X – thế kỉ XIV, chuyên luận PTS, Trung tâm nghiên cứu
quốc học & Nxb Văn học.
57. Đoàn Thị Thu Vân (1993), Quan niệm về con người trong thơ Thiền Lý – Trần,
TCVH, số 3.
58. Đoàn Thị Thu Vân (1998), Thơ Thiền Lý - Trần, NXB Văn nghệ Tp HCM.
59. Lê Trí Viễn (Chủ biên) (1997), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Trường
Đại học Sư phạm Tp. HCM.
60. Viện văn học (1997), Thơ văn Lý – Trần, Tập 1, Nxb KHXH.
61. Viện văn học (1997), Thơ văn Lý – Trần, Tập 2, Nxb KHXH.
62. Viện văn học (1997), Thơ văn Lý – Trần, Tập 3, Nxb KHXH.
63. Viện KHXH (2000), Tuệ Trung thượng sĩ với Thiền Tông Việt Nam, Nxb
Đà Nẵng.
64. Tầm Vu (1972), Tìm hiểu đặc điểm của tư tưởng Phật giáo Việt Nam trong thời
đại Lý – Trần qua các tác phẩm văn học, TCVH, số 2.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7635.pdf