Thơ Thiền thời Trần trong dòng chảy văn hóa Việt Nam

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH LÂM NGỌC NY THƠ THIỀN THỜI TRẦN TRONG DÒNG CHẢY VĂN HÓA VIỆT NAM Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 602234 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2010 LỜI MỞ ĐẦU Thời đại nhà Trần để lại dấu ấn trong lịch sử Việt Nam với tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Dẫu trải qua bao nhiêu thế kỉ, tiếng hô “Quyết đánh! Quyết đánh!” vẫn còn làm rung động t

pdf84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2308 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Thơ Thiền thời Trần trong dòng chảy văn hóa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
riệu triệu con tim người Việt. Làm nên hào khí ấy, ngoài truyền thống yêu nước của dân tộc phải kể đến vai trò không kém phần quan trọng của tinh thần Phật giáo Thiền tông. Sự gần gũi trong tinh thần yêu nước của dân tộc với tinh thần nhân đạo của Phật giáo đã làm nên diện mạo riêng cho thơ Thiền thời Trần. Với đề tài “Thơ Thiền thời Trần trong dòng chảy văn hóa Việt Nam”, người viết không ngoài mục đích muốn tìm hiểu mối tương giao giữa thơ Thiền thời Trần và văn hóa Việt Nam. Để hoàn thành đề tài này, ngoài những nỗ lực của bản thân, người viết xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến những người thân trong gia đình. Đặc biệt, xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Đoàn Thị Thu Vân đã tận tình hướng dẫn cho người viết. Ngoài ra, còn có sự ủng hộ của những bạn bè cũng góp phần giúp cho người viết có đủ nghị lực để hoàn thành đề tài. Hi vọng, đề tài này sẽ góp thêm một tiếng nói vào việc tìm hiểu thơ Thiền thời Trần. Rất mong sự góp ý để người viết có thể hoàn thiện hơn đề tài của mình để nó trở thành một tài liệu tham khảo có ích. Xin Trân trọng cảm ơn! Lâm Ngọc Ny MỞ ĐẦU 1/ Lí do chọn đề tài: Lịch sử dân tộc ghi nhận chiến công oanh liệt của thời đại nhà Trần với ba lần chiến thắng quân Nguyên – Mông xâm lược, mở ra một thời đại cực thịnh trong lịch sử phong kiến nước nhà. Dưới thời đại vàng son đó, một nền văn học cũng phát triển rực rỡ mà đỉnh cao là Thiền học. Thơ Thiền thời Trần – sự tiếp nối và phát triển của thơ Thiền thời Lí – là một thành tựu nổi bật của văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Nếu như thơ Thiền thời kì đầu (thời Lí) mang đậm chất triết lí sâu xa có phần khó hiểu, thể hiện trí tuệ uyên áo của các nhà sư, thì thơ Thiền thời kì sau (thời Trần) cũng những triết lí ấy, cũng biểu hiện trí tuệ ấy nhưng có phần “cởi mở” hơn, nghĩa là gần gũi và dễ hiểu hơn, chan hòa hơn, ở đó, ranh giới giữa thơ và Thiền dường như không phân định rõ, nó vừa là thơ mà cũng vừa là triết lí của đạo Phật. Điều đáng chú ý là vị vua anh minh đã lãnh đạo nhân dân chiến thắng đế quốc Nguyên – Mông hùng mạnh lại là người khai sáng nên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử - Trúc Lâm sư tổ Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Ngày nay, cuộc sống bộn bề khiến con người luôn phải chạy đua với thời gian, với bao lo toan vất vả, nhưng đâu đó trong sâu thẳm tâm hồn họ luôn muốn hướng tới những điều tốt đẹp, thanh tao như là chân – thiện – mĩ. Những giây phút con người lắng lòng mình để nghe âm thanh của tiếng mưa đêm hay nghe thanh âm trong trẻo của tiếng chuông chùa vọng lại cũng là lúc họ tìm thấy sự thanh thản trong tâm hồn. Đôi lúc, con người ấy lắng lòng mình với một ý thơ, một lời văn để trở về với cái “tâm” vô tư, trong sáng, hồn nhiên – cội nguồn của bản tính con người. Trở về với văn học, đặc biệt là văn học trung đại, chúng ta sẽ bắt gặp một dòng thơ “tĩnh lặng” mà không kém phần sâu sắc - như đóa hoa sen dù sống trong đầm lầy vẫn vươn cao và tỏa hương thơm ngát - đó là dòng thơ Thiền, đặc biệt là thơ Thiền thời Trần. Như Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trong “Đề nghị một cách hiểu mối quan hệ giữa văn học đời Trần và cuộc kháng chiến chống xâm lược đời Trần” (Tạp chí Văn học, số 3 & 4 – 1986) đã viết: “thơ văn Lí – Trần rõ ràng sẽ có giá trị như một hồi âm phản tỉnh, bằng cách này hay cách khác giúp chúng ta thực hiện cái quá trình đi ngược lại sự tha hóa lịch sử của chính chúng ta, giúp ta sống những giây phút tốt đẹp hơn, hồn hậu và nguyên vẹn hơn”. Và “hình như người đọc, dù ở thế kỉ XV, thế kỉ XVIII, hay thế kỉ XX đều có thể tìm thấy ở đây cái ánh sáng tiềm ẩn của chính tâm hồn mình, vẻ đẹp hồn nhiên tươi tắn của cuộc sống mà chính mình đã đánh mất, sự thoáng đạt của một tư duy vừa siêu hình vừa trần tục mà mình không thể có”. Có thể nói, với ý kiến ấy, giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã khẳng định được giá trị cơ bản của thơ Thiền nói chung và thơ Thiền thời Trần nói riêng. Phải nói thơ Thiền thời Trần là một mảnh đất màu mỡ cho việc nghiên cứu, đào sâu tìm tòi về những giá trị của Phật giáo cũng như là của văn học dân tộc. Nhiều công trình nghiên cứu đã đi vào tìm hiểu thơ văn nói chung và một phần thơ Thiền nói riêng của thời Trần. Tuy nhiên, dưới một góc nhìn khác, một cách tiếp cận khác, chúng tôi muốn đề xuất thêm một cách tìm hiểu thơ Thiền thời Trần. Đó là “Thơ Thiền thời Trần trong dòng chảy văn hóa Việt Nam”. Với công trình này chúng tôi muốn khẳng định hơn nữa giá trị của văn học thời Trần, đặc biệt là văn học Thiền tông trong mối quan hệ với văn hóa dân tộc. Hi vọng luận văn ít nhiều sẽ góp thêm một cách nhìn nhận, tiếp cận mới về thơ Thiền thời Trần trong dòng văn học nói chung. 2/ Lịch sử vấn đề: Về đề tài này, thật sự chưa có một công trình nào dành riêng để nghiên cứu nó. Tuy nhiên, như đã nói, đây là một mảnh đất màu mỡ cho nên bằng cách này hay cách khác, dưới góc độ này hay góc độ khác cũng đã có không ít công trình nghiên cứu về thơ Thiền thời Trần (chủ yếu là các công trình nghiên cứu về thơ Thiền Lí – Trần nói chung). Các tác phẩm cổ xưa như Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn,… đã kể lại những câu chuyện lịch sử, và đã có những nhận định về con người thời Trần cũng như thơ văn thời Trần. - Bộ Thơ văn Lí – Trần của Viện Văn học (1977 – 1989) là một công trình văn bản học có bề thế và tầm cỡ về văn học Lí – Trần. - Nguyễn Đổng Chi trong công trình Việt Nam cổ văn học sử (Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn, 1970) đã trình bày tiến trình văn học theo từng triều đại phong kiến, riêng về văn học Thiền tông thời Trần tác giả chỉ điểm qua khi trình bày văn học đời Trần (chương X). - Ngô Tất Tố trong công trình Văn học đời Trần (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1942) đã giới thiệu một số thành tựu văn học của triều đại nhà Trần, trong đó có một phần là thơ Thiền. - Bùi Văn Nguyên trong Lịch sử văn học Việt Nam, tập 2 (thế kỉ X – XVII) (NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1978) nhận xét: “Phật học đời Trần cũng có những tư tưởng độc đáo, không rập khuôn theo phương Bắc”, “văn học đời Trần mở đầu loại văn bút chiến và văn chương phê bình”, “các vua đời Trần thường là thi nhân hơn là Thiền sư”. - Đinh Gia Khánh trong lời giới thiệu “Tám thế kỉ của tiến trình văn học” trong sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập 2 (NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1960), đã nhận định về thơ Thiền thời Trần: “xét về mặt học thuật đời Trần, trước hết phải nói đến những trước tác về Phật học”, “văn học đời Trần với quan niệm Tam giáo đồng nguyên, đồng thời xuất hiện xu hướng phân công giữa Phật và Nho”, “thơ của các vị vua tu Thiền, các nhà sư thể hiện một niềm yêu đời, yêu thiên nhiên tha thiết”. - Phạm Văn Diêu trong Văn học đời Trần Hồ (Bài giảng tại Đại học Văn khoa Sài Gòn, 1970 – 1971) đã giới thiệu văn học thời này theo hệ thống thể loại: văn sử kí của người Việt viết ở Trung Hoa, văn truyện cổ, văn bi kí tựa, văn lí luận phê bình, văn nghị luận chính trị,… trong đó có một số tác phẩm thuộc văn học Thiền tông. - Đặng Thai Mai trong bài viết Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học (Thơ văn Lí – Trần, tập 1, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977) đã đề cập đến thái độ tích cực lạc quan trong các bài thơ Thiền của các nhà thơ Thiền và về một đạo Phật khoan dung cởi mở, từ đó sinh ra những nhà thơ có bản lĩnh, có tâm hồn phóng khoáng, giàu chất nhân bản với những bài thơ Thiền độc đáo, có khí sắc, đạo nhưng rất đời. - Kiều Thu Hoạch trong Tìm hiểu thơ văn các nhà sư Lí – Trần (Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 6 – 1965) đã cho thấy rằng bên cạnh thơ văn đề cao ý thức tự cường dân tộc, tinh thần yêu nước chống ngoại xâm, còn có thơ văn của các Thiền sư. Thơ văn này có nhiều yếu tố siêu thoát, nhưng nó cũng là một hiện tượng khá đặc biệt trong lịch sử văn học. Thời Lí – Trần là thời kì phồn thịnh nhất của đạo Phật nên có nhiều nhà sư nổi tiếng về văn học. Các Thiền sư hay làm thơ và có thơ hay; trong kệ, chất thơ cũng bàng bạc, giáo lí đạo Phật được trình bày khá bóng bẩy, sinh động, giàu nghệ thuật. - Nguyễn Phạm Hùng trong Thơ Thiền và việc lĩnh hội thơ Thiền (Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 10 – 1994) đã tiếp thu ý kiến của Suzuki, của Nguyễn Lang để nêu lên tính trực giác của thơ Thiền. Thơ Thiền có hai yếu tố: mặt vật chất là cái tượng trưng, còn triết lí là cái được tượng trưng. Nhưng giá trị thẩm mĩ của thơ Thiền lại nằm ở mặt vật chất của hình tượng thơ. - Nguyễn Huệ Chi trong Đề nghị một cách hiểu mối quan hệ giữa văn học đời Trần và cuộc kháng chiến chống xâm lược đời Trần (Tạp chí Văn học, số 3 & 4 – 1986) đã khẳng định những nội dung của thơ văn (trong đó quan trọng là thơ Thiền) chính là động lực sâu xa góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của quân dân nhà Trần trước đế quốc Nguyên – Mông hùng mạnh. - Đoàn Thị Thu Vân qua thống kê, phân loại để khảo sát về ngôn ngữ thơ Thiền Lí - Trần và tìm hiểu quan niệm con người trong thơ Thiền Lí - Trần, trong luận án PTS Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ XI – XIV (Bảo vệ tại Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, 1995), đã đề cập đến ngôn ngữ thơ Thiền, hình tượng con người, hình tượng thiên nhiên ngoại vật, không gian - thời gian nghệ thuật, thể thơ, kết cấu, cách miêu tả, giọng điệu và so sánh đặc trưng nghệ thuật thơ Thiền Lí – Trần với thơ Nho cùng thời cũng như với thơ Thiền Trung Quốc, Nhật Bản. Nhìn chung, tác giả cho rằng thơ Thiền Lí – Trần là sản phẩm kết hợp của nền triết học giàu chất tự do phóng khoáng và một thời đại đậm tính nhân văn nên đã đem lại nhiều nét độc đáo, mới mẻ cho thơ ca dân tộc. Đó là thế giới nghệ thuật đầy sức thu hút, có xu hướng vươn tới không gian và thời gian vô hạn đạt sự hợp nhất. Các Thiền sư là những con người nhập thế giúp đời. Thơ Thiền với hệ thống kí hiệu nghệ thuật khác hẳn thơ Nho, đã đánh đổ cái nhìn nhị nguyên và con người trong thơ Thiền là con người phá chấp, tùy duyên, đạt đạo ngay giữa cuộc đời. - Nguyễn Công Lý trong chuyên luận Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền tông thời Lí – Trần (NXB Văn Hóa thông tin, Hà Nội, 1997)đã đi từ việc tìm hiểu khái niệm Thiền tông, văn học Thiền tông đến tìm hiểu nét đặc sắc của Thiền học Việt Nam làm cơ sở nghiên cứu bản sắc dân tộc trong văn học Thiền qua thơ văn viết về triết lí tư tưởng Thiền, về thiên nhiên và con người, cuộc sống với tinh thần lạc quan, phong cách bình thản tin tưởng; cuối cùng xác định vị trí và những đóng góp của văn học Thiền Lí – Trần trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam; tìm hiểu mối quan hệ giữa Phật giáo với văn học, và về trạng thái tư duy nghệ thuật kiểu trực cảm tâm linh. - Trong Văn học Phật giáo thời Lí – Trần diện mạo và đặc điểm (NXB ĐH Quốc gia, TP Hồ Chí Minh, 2003), tác giả Nguyễn Công Lý (2003) khái quát tình hình nghiên cứu, đặc điểm và diện mạo văn học Phật giáo thời Lí – Trần. Theo lời mở đầu của GS.NGND Nguyễn Đình Chú thì “một trong những kết quả nâng cao công trình của Nguyễn Công Lý chính là ở chỗ làm rõ hơn phương diện văn chương của văn học Phật giáo Lí – Trần”. Trong đó tác giả đã chú ý đến việc “giới thuyết, làm rõ hơn mối quan hệ giữa tôn giáo với văn học trong sự sống nhân loại nói chung”. - Thích Thanh Từ trong bài Thiền Trúc Lâm qua vấn đáp (Thiền học đời Trần, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1995) đã giải thích ý chỉ của Trúc Lâm đệ nhất tổ trong những câu đối đáp về Phật về Thiền với các đệ tử. Ở bài Thiền Trúc Lâm qua thơ văn chữ Hán (Thiền học đời Trần, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1995), tác giả đã nhận xét về hồn thơ, về chất Thiền độc đáo, đậm sắc màu dân tộc trong thơ Trần Nhân Tông. Còn trong Tam tổ Trúc Lâm giảng giải (NXB Tổng hợp, TP Hồ Chí Minh, 2005), tác giả đã trình bày rõ về công đức, hành trạng cũng như phân tích một số câu nói, bài thơ, bài kệ của ba vị tổ sư phái Trúc Lâm là Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang. Công trình này theo Thích Thanh Từ, được viết ra “trên tinh thần khôi phục lại Phật giáo đời Trần”. Từ đó ông khẳng định sách Tam tổ Trúc Lâm giảng giải ra đời nhằm mục đích phục vụ cho việc nghiên cứu và học tập Phật giáo. - Đỗ Văn Hỷ trong Câu chuyện Huyền Quang và cách đọc thơ Thiền (Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 1, 1975) đã nêu lại chuyện oan tình của Huyền Quang và cho rằng ông chẳng có oan tình gì. Trên cơ sở đó, bài viết nêu lên một khía cạnh nhỏ về thủ pháp biểu hiện của thơ Huyền Quang và cách tiếp nhận thơ Thiền. - Nguyễn Phương Chi với bài Huyền Quang, nhà sư thi sĩ (Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 3 – 1982) thì cho rằng cái cốt lõi của Huyền Quang không phải là con người Thiền mà chính là con người thi sĩ. Thiền sư chỉ là cái vỏ, là hình thức cho con người thi nhân sống thực, cảm xúc thực đầy sáng tạo. - Mai Quốc Liên trong Các nhà thơ đời Trần (Dưới gốc me vườn Nguyễn Huệ, Sở Văn Hóa thông tin Nghĩa Bình – 1986) đã đề cập đến những điểm cơ bản của mĩ học Thiền: vắng lặng, hư tịch, phản ánh chân như của vũ trụ theo quan điểm Phật giáo. Từ đó nêu ra những đặc trưng trong thơ Thiền của Trần Nhân Tông, của Huyền Quang. - Minh Chi trong Thơ Huyền Quang (Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1995) thì không đồng ý với ý kiến của Nguyễn Phương Chi cho rằng ở Huyền Quang con người thi nhân rõ nét hơn con người tôn giáo. Theo tác giả, thơ Huyền Quang mang đậm nét trữ tình và văn chương Phật giáo không phải là văn chương khô khan. Các Thiền sư không phải là con người lạnh lùng không cảm xúc. Thơ văn là trực cảm, cảm xúc với người, với cảnh và với bản thân mình. Đó không phải là cái ta hời hợt mà là cái ta đại ngã cùng một bản thể với chúng sinh, vạn vật mà chỉ có bậc giác ngộ mới thể nghiệm được. - Minh Tuệ trong Thiền sư Huyền Quang, một nhà thơ lớn (Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1995) thì cho rằng Huyền Quang vừa là Thiền sư ngộ đạo, vừa là người nghệ sĩ lớn với thi hứng dạt dào, phóng khoáng. - Phạm Ngọc Lan trong Trần Nhân Tông và cảm hứng Thiền trong thơ (Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 4 – 1992) đã đề cập những cảm hứng trong những bài thơ viết về thiên nhiên của Trần Nhân Tông. - Thích Đồng Bổn trong Vai trò chính trị của các tăng sĩ Phật giáo ở thời đại Lí – Trần (NXB Tôn giáo, Hà Nội – 2006) đã khái quát một số đặc điểm của Phật giáo cũng như hành trạng của các vị tăng sĩ Phật giáo trong đời sống chính trị của triều đại Lí – Trần. Tác giả cũng đã khẳng định ở “đời Trần Phật giáo đã đi vào đỉnh cao nhất và đi sâu vào chính sự qua những con người cụ thể lãnh đạo triều đại, các vị vua nhà Trần đã là tăng sĩ hay đang trị vì cũng đã uyên thâm Phật học”. Tóm lại, thơ Thiền Lí – Trần nói chung, thơ Thiền thời Trần nói riêng đã được các nhà nghiên cứu quan tâm ngày càng nhiều và chủ yếu ở các phương diện văn bản học (sưu tầm, dịch thuật, giới thiệu), tìm hiểu tác giả, nghiên cứu giá trị của tác phẩm,… Điều đó chứng tỏ văn học Thiền tông là mảnh đất có nhiều sức hấp dẫn đối với số đông nhà nghiên cứu. Trên tinh thần kế thừa những thành quả của người đi trước, chúng tôi đã tổng hợp những tài liệu phong phú có liên quan để từ đó đi vào tìm hiểu một phương diện chuyên biệt của vấn đề: Thơ Thiền thời Trần trong dòng chảy văn hóa Việt Nam. 3/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Như tên gọi của nó - Thơ Thiền thời Trần trong dòng chảy văn hóa Việt Nam – đề tài này nhằm thực hiện hai nhiệm vụ: Một là khái quát về thơ Thiền thời Trần và khái quát những lĩnh vực văn hóa tinh thần bằng cách khảo sát tài liệu, so sánh đối chiếu và rút ra những nhận định cơ bản về thơ Thiền thời Trần cũng như về văn hóa Việt Nam. Hai là, từ việc nắm vững hai vấn đề trên, chúng tôi đi vào làm rõ mối tương giao giữa thơ Thiền và văn hóa Việt Nam trong tiến trình vận động của nó. Về phạm vi khảo sát, trước hết, đề tài được xác định là để bước đầu tìm hiểu sự tương giao giữa thơ Thiền và văn hóa Việt Nam trong quá trình vận động và phát triển. Thơ Thiền nói chung và thơ Thiền thời Trần nói riêng cũng như văn hóa Việt Nam là những vấn đề phức tạp, có rất nhiều ý kiến đề cập. Do đó, chúng tôi không có tham vọng chạm đến tận cùng của vấn đề mà chỉ là bước đầu khảo sát, phân tích để có cái nhìn mới cũng như cách tiếp cận mới về thơ Thiền thời Trần trong văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Về thơ Thiền thời Trần, chúng tôi căn cứ vào một số công trình như Thơ văn Lí Trần (tập II, quyển thượng) , Tổng tập văn học Việt Nam (tập 2, 3) và các công trình của các tác giả như Đoàn Thị Thu Vân, Nguyễn Công Lý,... Về văn hóa, chúng tôi căn cứ vào công trình của Trần Quốc Vượng, La Văn Quán, Trần Ngọc Thêm,… bao gồm các vấn đề về con người, thiên nhiên, cách ứng xử với tự nhiên và xã hội,… 4/ Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu: Phật giáo Thiền tông là một hệ tư tưởng - triết học có ảnh hưởng sâu sắc ở nước ta trong những thế kỷ đầu kỷ nguyên tự chủ. Nó góp phần không nhỏ vào những thành tựu về chính trị, ngoại giao, văn hóa, xã hội… của một thời đại huy hoàng trong lịch sử dân tộc - thời đại Lí - Trần - và đã để lại dấu ấn khá đậm nét trong nhiều lĩnh vực của đời sống, đặc biệt là trong thơ văn thời đại ấy cũng như văn chương trung đại Việt Nam nói chung. Nghiên cứu thơ Thiền thời Trần trong dòng chảy văn hóa Việt Nam không chỉ để hiểu con người Việt Nam trong quá khứ mà còn góp phần xây dựng con người Việt Nam hôm nay và mai sau. Đây là một công việc cần thiết và bổ ích vì đó là một trong những cách giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Thời Trần là thời đại phát triển cực thịnh trong lịch sử Việt Nam. Có được điều đó, theo nhiều nhà nghiên cứu, một phần là do sự ảnh hưởng và tác động của Phật giáo. Điều đó được minh chứng rõ ràng ở chỗ, thời đại nhà Trần có không ít các vị vua, quan là thiền sư hoặc thiền gia, cư sĩ, trong số đó có vua Trần Nhân Tông là người đã khai sáng thiền phái Trúc Lâm. Văn học thời Trần được sản sinh ra trong bối cảnh đó. Đây là giai đoạn đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của văn học viết Việt Nam, trong đó thơ Thiền được vinh dự là một bộ phận văn học có vị trí gần như là tiên phong cho giai đoạn này với những thành tựu đáng kể. Nhờ thế, nó tạo nên một tiếng nói rất riêng khó có thể tìm thấy ở các giai đoạn văn học sau. Các nhà nghiên cứu đều thừa nhận văn học thời Trần, trong đó đáng kể là thơ Thiền, có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền văn học Việt Nam nói chung và văn chương trung đại nói riêng. Do đó, nghiên cứu thỏa đáng vấn đề đặt ra sẽ rất có ý nghĩa về mặt khoa học. Lâu nay, các tác phẩm thơ Thiền thời Trần cũng đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường nên nghiên cứu đề tài này còn có ý nghĩa thiết thực về mặt nghiệp vụ vì sẽ góp phần vào việc giải mã những tác phẩm văn học giàu chất nhân văn, là giá trị văn hóa của dân tộc, nhưng đồng thời cũng mang tính uyên áo, không dễ lĩnh hội, từ đó giúp cho việc nghiên cứu và giảng dạy bộ phận văn học này tốt hơn. 5/ Phương hướng và phương pháp nghiên cứu: Thơ Thiền thời Trần đến nay tuy có nhiều người quan tâm nghiên cứu và đạt được nhiều thành tựu đáng quý song, so với yêu cầu phát triển của xã hội nói chung và của văn học nói riêng thì vẫn còn nhiều khoảng trống để người đi sau tiếp tục tìm hiểu. Với đề tài này chúng tôi muốn thực hiện một hướng tiếp cận vừa gần gũi, quen thuộc nhưng cũng khá mới mẻ và lí thú về thơ Thiền thời Trần, qua đó góp phần làm phong phú hơn cách nhìn nhận, đánh giá về giá trị văn học của dân tộc. Khi tiến hành đề tài này, chúng tôi chọn phương pháp phân tích – tổng hợp, so sánh để tiếp cận và bước đầu nhìn nhận vấn đề. Song song đó, chúng tôi còn sử dụng phương pháp liên ngành vì đề tài nghiên cứu là văn học nhưng có liên quan đến văn hóa, lịch sử, xã hội học, nên cũng cần thiết sử dụng những thành tựu về phương pháp nghiên cứu của các ngành khoa học đó. Bên cạnh đó, đối tượng nghiên cứu của đề tài là thơ Thiền – một phần của văn học Phật giáo, mà Phật giáo lại chú ý đến “tâm” và tư duy tổng hợp, trực giác, trực cảm tâm linh, nên nghiên cứu bộ phận văn học này chúng tôi cũng vận dụng phương pháp trực cảm để cảm nhận vấn đề, thấy được đặc điểm bản chất của đối tượng. 6/ Cấu trúc luận văn bao gồm hai phần: PHẦN MỞ ĐẦU: 1/ Lí do chọn đề tài 2/ Lịch sử vấn đề 3/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4/ Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 5/ Phương hướng và phương pháp nghiên cứu PHẦN NỘI DUNG: Chương 1: Một số vấn đề khái quát về văn hóa Việt Nam Chương 2: Thiền tông Việt Nam và thơ Thiền thời Trần Chương 3: Mối tương giao giữa thơ Thiền thời Trần và tiến trình văn hóa Việt Nam Kết luận. Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM 1.1/ Khái niệm “văn hóa” và “dòng chảy văn hóa”: 1.1.1/ Khái niệm văn hóa: Văn hóa là một khái niệm mà mỗi học giả ở mỗi đất nước trong những thời kì khác nhau đều có cách lí giải riêng. Nhưng có lẽ không một học giả nào bằng lòng với khái niệm có sẵn nên đều tự mình đưa ra một khái niệm của riêng mình, và cũng không một khái niệm nào được coi là hoàn thiện. Hơn nữa, người ta có thể nghiên cứu văn hóa từ nhiều góc độ khác nhau, có người thiên về mặt này, có người thiên về mặt kia của văn hóa, do đó họ đưa ra những định nghĩa khác nhau về văn hóa. Thí dụ: nhà ngôn ngữ học thường truy xét từ nguyên, tức là gốc từ La Tinh hay Hy lạp của từ culture phương Tây, tương đương với thuật ngữ văn hóa của ta và Trung Quốc. Gốc từ La Tinh của từ văn hóa nêu bật các nghĩa vun trồng, rèn luyện, làm tăng lên về chất lượng và số lượng. Phải chăng, từ đó có thể nói văn hóa (culture) bao gồm tất cả những gì là tinh thần hay vật chất có thể và phải được vun trồng, rèn giũa, tích lũy để có một sự phát triển về lượng và về chất? Theo GS Trần Ngọc Thêm trong Cơ sở văn hóa Việt Nam (NXB Giáo Dục, thành phố Hồ Chí Minh 1999), Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Theo GS.TS Lê Văn Quán trong Nguồn văn hóa truyền thống Việt Nam (NXB Lao Động, Hà Nội 2007), Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong hoạt động sản xuất, nếp suy nghĩ, cách sống, và sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Văn hóa có ý nghĩa khác nhau đối với các dân tộc khác nhau, bởi vì khái niệm văn hóa bao gồm những chuẩn mực, giá trị, tập quán,… Danh từ Văn hóa đầu tiên xuất hiện ở thư tịch Trung Quốc. Bắt nguồn từ Lưu Hướng, đời Tây Hán: Phàm vũ chi hưng, vi bất phục dã, văn hóa bất cải, nhiên hậu gia tru (phàm dùng vũ lực là để đối phó với kẻ không phục tùng; dùng văn hóa mà không thay đổi được thì sau mới giết). Sau đó, Văn hóa trở thành một bộ môn khoa học chuyên nghiên cứu hiện tượng văn hóa hoặc hệ thống văn hóa. Nó bắt đầu phát triển ở nước Pháp vào khoảng giữa thế kỉ XIX, trước tiên họ đề xuất khái niệm “khoa học văn hóa”, chủ trương xây dựng độc lập, tiến hành nghiên cứu khoa học để nói rõ sự tiến triển của văn hóa. Đến đầu thế kỉ XX, các nhà văn hóa Mỹ chính thức xác lập nguyên tắc và khung Văn hóa học. Như vậy, Văn hóa là một hiện tượng lịch sử, mỗi xã hội đều có nền văn hóa thích ứng với nó và phát triển tiến lên theo đà xã hội. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nhiều nghĩa. Với nghĩa rộng, văn hóa là chỉ tổng hợp sáng tạo văn minh vật chất và văn minh tinh thần trong quá trình phát triển xã hội loài người. Về nghĩa hẹp, văn hóa chỉ hình thái ý thức và thượng tầng kiến trúc của xã hội, tức là hình thức tổ chức và chế độ thích ứng với hình thái ý thức xã hội. Do đó, nó có đặc điểm của tính lịch sử, tính truyền thống, tính dân tộc,… Chính vì vậy, trong lịch sử các thời kì khác nhau, dân tộc khác nhau đều sáng tạo ra những nền văn hóa khác nhau. Chủ nghĩa Mác đề xuất bảy luận điểm về văn hóa như sau: 1/ Nền văn hóa của loài người bao gồm toàn bộ hoạt động sáng tạo của loài người, trong lĩnh vực vật chất và tinh thần, và thành quả của hoạt động sáng tạo ấy. Nó biểu hiện một dạng thống nhất nhất định giữa con người và thiên nhiên, giữa con người và xã hội. Nó là tiêu chí đặc trưng nhất cho sự phát triển lực lượng và khả năng sáng tạo của những cộng đồng người trong từng thời kì lịch sử khác nhau. 2/ Nó bao gồm toàn bộ những thành quả hoạt động sáng tạo của loài người, như công cụ, dụng cụ, máy móc, các công trình kĩ thuật, các tác phẩm văn học nghệ thuật, các chuẩn mực luật pháp và đạo đức… 3/ Chủ nghĩa Mác phân biệt lĩnh vực văn hóa vật chất và lĩnh vực văn hóa tinh thần, vai trò quyết định của văn hóa vật chất, và mối tương quan biện chứng qua lại giữa hai lĩnh vực đó. 4/ Chủ nghĩa Mác nói về tính giai cấp của văn hóa. Mỗi hình thái xã hội đều có nền văn hóa thích ứng của nó. Tương ứng với các hình thái xã hội giai cấp đối kháng, là một nề văn hóa đầy mâu thuẫn, phát triển vô chính phủ, trong đó phải đặc biệt lưu ý bộ phận văn hóa mang tính chất tiến bộ của nhân dân, do quần chúng lao động sáng tạo ra. 5/ Chủ nghĩa Mác rất trân trọng những di sản văn hóa quý báu của các thế hệ trước để lại, đồng thời tiếp thu mọi thành tựu văn hóa của thế giới, nhân loại. Đó là tính kế thừa và tính quốc tế của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. 6/ Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa có tính đại chúng. Toàn dân có điều kiện và cơ hội làm văn hóa, thưởng thức văn hóa, hoạt động văn hóa. Sự tiếp thu văn hóa đó có tính chất hoàn toàn tự giác, không có sự áp đặt từ bất cứ một quyền uy nào. 7/ Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là một nền văn hóa dồi dào nhân tính, mục đích cứu cánh của nó là phục vụ con người tự do thật sự, phát triển hài hòa và toàn diện, với mọi năng khiếu được nảy nở và bộc lộ không hạn chế. Đấy là mẫu những con người hoàn thiện mà bao thế hệ trước đây hằng mơ ước, nhưng không có điều kiện xã hội chính trị kinh tế để biến thành hiện thực. Những điều kiện này đang dần dần hình thành đầy đủ trong chế độ xã hội mới ở nước ta. Trên cơ sở đó, xin tạm định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên, con người với môi trường xã hội và với chính mình. 1.1.2/ Khái niệm dòng chảy văn hóa: Văn hóa là một vấn đề nhân sinh quan và thế giới quan, là cách nhìn bao trùm và cách ứng xử qua những hành động thiết thực của con người với thiên nhiên và với cộng đồng con người trong xã hội. Từ xưa, con người từ bậc hiền triết đến người thường đã luận bàn rất nhiều về nó, sau này chắc cũng vậy, với những hiểu biết mới, xác thực hơn, cao siêu hơn. Từ quan điểm duy vật biện chứng nhìn lại lịch sử loài người, chúng ta thấy sáng tỏ vị trí, vai trò và tác dụng của văn hóa, một chiến công biết bao quý báu của con người, sau khi thoát khỏi tiền thân của mình là con vật, vươn lên qua các chế độ xã hội, đến bước nhảy vọt từ vương quốc của sự áp bức, bóc lột đến vương quốc của giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, mà đỉnh cao là sự phát triển tự do và toàn diện của mọi người. Đây cũng sẽ là đỉnh cao của phát triển văn hóa trong toàn bộ lịch sử loài người. Lịch sử dân tộc Việt Nam ta là một quá trình diễn biến những sự kiện đa dạng, hùng tráng và bi thảm, mà các nhà sử học đã, đang và sẽ nghiên cứu, bởi tất cả chưa phải đã sáng tỏ. Mà văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua bao sóng gió và thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để không ngừng phát triển và lớn mạnh, viết nên những trang sử lạ lùng bởi tính kiên cường trong hoạn nạn, bởi khí phách anh hùng trong giữ nước và dựng nước. Phải thấy cái chất văn hóa trong tất cả những sự kiện nói trên, nó là tinh hoa của dân tộc, của quý nhất mà ngày nay mọi người Việt Nam chúng ta tự hào là người kế thừa và phát triển. Văn hóa là kết quả, là ngọn nguồn của hành động có ý thức của con người làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Cuộc sống này có thể là vật chất, tinh thần, là trăm nghìn kinh nghiệm khác nhau ngày càng phong phú. Từ đấy, cùng với sự phát triển của xã hội loài người, văn hóa sẽ có mặt khắp mọi nơi, trở thành một cấp độ phát triển của bất cứ một hoạt động nào, thường được coi là có ý nghĩa tinh thần, nhưng thực ra gắn liền với cả phạm trù vật chất lẫn tinh thần. Như vậy, có thể nói, song song với sự phát triển của lịch sử dân tộc là sự phát triển của văn hóa Việt Nam. Mỗi giai đoạn, thời kì lịch sử khác nhau ứng với những đặc điểm văn hóa khác nhau. Hợp chung lại là một dòng chảy xuyên suốt của cả lịch sử và văn hóa của dân tộc. Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam gọi sự phát triển ấy là tiến trình văn hóa Việt Nam và chia tiến trình ấy thành 6 giai đoạn: văn hóa tiền sử, văn hóa Văn Lang – Âu Lạc, văn hóa thời chống Bắc thuộc, văn hóa Đại Việt, văn hóa Đại Nam và văn hóa hiện đại. Sáu giai đoạn này tạo thành ba lớp: lớp văn hóa bản địa, lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực, lớp văn hóa giao lưu với phương Tây. Phạm Văn Đồng tìm hiểu sự phát triển của văn hóa trong lịch sử dân tộc và cho thấy ứng với mỗi thời kì lịch sử dân tộc là một nét văn hóa riêng. Chẳng hạn như: thời vua Hùng thì thành tựu văn hóa chủ yếu là trống đồng và thời đại văn hóa Đông Sơn; thời Bắc thuộc thì tiếp biến nền văn hóa Hán là tiêu biểu; thời độc lập dân tộc có thành tựu là phát huy truyền thống văn hóa dân tộc từ xa xưa, kết hợp với việc tiếp thu và chuyển hóa thành Việt Nam những giá trị văn hóa của Nho giáo, Phật giáo và một vài học thuyết khác về chính trị, xã hội và văn hóa ở phương Đông; thời Pháp thuộc là sự tiếp biến một số nét của văn hóa phương Tây; đặc biệt từ sau Cách mạng tháng Tám, nền văn hóa nước ta càng khẳng định vai trò và vị trí của mình trong lịch sử dân tộc._.. Sự phát triển của văn hóa còn được hiểu là sự phát triển từ văn hóa dân gian đến trung đại, hiện đại và quá trình giao lưu quốc tế (Theo Dòng chảy văn hóa Việt Nam của GS.VS.N.I.Culin, do GS.VS Hồ Sĩ Vịnh và PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, NXB Văn hóa thông tin). Như vậy, có thể nói, dòng chảy văn hóa là tiến trình vận động và phát triển liên tục của một nền văn hóa, trong đó thế hệ sau kế thừa thế hệ trước và sáng tạo thêm những giá trị mới. 1.2/ Các đặc trưng và chức năng của văn hóa: 1.2.1/ Tính hệ thống và chức năng tổ chức xã hội: Hệ thống văn hóa là một tổ chức hữu cơ; các sự kiện, hiện tượng có mối quan hệ khăng khít, chi phối và chế ước lẫn nhau. Đặc trưng này giúp chúng ta phát hiện những mối liên hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa; phát hiện các đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển của nó. Nhờ tính hệ thống mà văn hóa thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Nghĩa là văn hóa góp phần làm tăng độ ổn định của xã hội, tăng sự cố kết cộng đồng, tạo sự ổn định xã hội, cung cấp cách ứng xử và tổ chức đời sống thích hợp với môi trường tự nhiên và xã hội. Chính vì thế, văn hóa còn là nền tảng của xã hội. 1.2.2/ Tính giá trị và chức năng điều chỉnh xã hội: Giá trị văn hóa là những cái mà trải qua thời gian và những thăng trầm của cuộc sống nó vẫn còn giữ nguyên ý nghĩa. Văn hóa theo nghĩa đen là “trở thành đẹp, thành có giá trị”. Có thể nói, văn hóa là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người. Từ đó có thể phân chia các giá trị văn hóa theo các tiêu chí sau: Theo “mục đích” có thể chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần; theo “ý nghĩa” có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mĩ; theo “thời gian” có thể chia thành các giá trị vĩnh cữu và giá trị tạm thời; theo “không gian” có thể chia thành giá trị cục bộ và giá trị phổ biến. sự phân biệt các giá trị văn hóa cho phép ta có cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh giá tính giá trị của sự vật, hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan – phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời đối với một nền văn hóa. Mỗi một dân tộc có những đặc tính giá trị văn hóa riêng của mình và chính điều này làm cho mỗi dân tộc có những sự khác biệt về văn hóa. Ví dụ như các nước phương Đông chủ yếu đề cao sức mạnh tập thể, trong khi đó, Mỹ lại đề cao vai trò của cá nhân. Lại có những nếp văn hóa mà ngày nay giới trẻ không dễ gì chấp nhận như việc nhuộm răng của phụ nữ Việt Nam ngày xưa, tục nối dây của dân tộc Êđê,… Có những nếp văn hóa được chấp nhận ở một nền văn hóa này nhưng lại không được chấp nhận ở một nền văn hóa khác. Do đó, các nền văn hóa phải thường xuyên sàng lọc, điều chỉnh để chấp nhận các giá trị theo từng giai đoạn. Từ đó, văn hóa thực hiện được chức năng điều chỉnh xã hội. Chức năng điều chỉnh xã hội nghĩa là giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường. Văn hóa giúp định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển xã hội. 1.2.3/ Tính nhân sinh và chức năng giao tiếp: Văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang tính vật chất hoặc tinh thần. Có thể nói, văn hóa là thành tựu của con người, do con người sáng tạo ra, phục vụ lợi ích của con người. Văn hóa có vai trò vô cùng quan trọng trong lịch sử, đặc biệt, trong thời đại ngày nay, văn hóa càng khẳng định vị trí quan trọng của mình. Sự tiến bộ hay lạc hậu của một cá nhân, sự hưng vong của mỗi quốc gia, sự thành công hay thất bại của một chiến lược phát triển đều tùy thuộc rất nhiều vào sự nhận thức và phát triển văn hóa. Trong thời đại hội nhập toàn cầu hóa hiện nay, việc am hiểu nhiều nền văn hóa là vô cùng cần thiết. Sẽ khó có sự thành công khi trong giao tiếp chúng ta hoàn toàn không hiểu gì về văn hóa của đối tác, thậm chí không biết gì về ngôn ngữ của họ. Văn hóa gắn liền với hoạt động của con người trong xã hội và mang tính nhân sinh. Do đó, văn hóa là sợi dây nối liền và thực hiện chức năng giao tiếp giữa con người với con người, giữa dân tộc này với dân tộc kia. 1.2.4/ Tính lịch sử và chức năng giáo dục: Văn hóa là sản phẩm của một quá trình được tích lũy qua nhiều thế hệ, có tính bền vững và lâu dài. Văn hóa là sự tích tụ hàng ngàn năm lịch sử. Mỗi thế hệ đều cộng thêm đặc trưng riêng biệt của mình vào nền văn hóa dân tộc trước khi truyền lại cho thế hệ sau. Ở mỗi thế hệ, thời gian qua đi, những cái mới được thêm vào, những cái cũ có thể bị loại trừ để kết tinh thêm nền văn hóa truyền thống. Sự sàng lọc và tích tụ qua thời gian đã làm cho một nền văn hóa của một dân tộc trở nên giàu có, phong phú và tốt đẹp hơn. Một nền văn hóa không bào giờ tĩnh tại và bất biến. Văn hóa luôn thay đổi và rất năng động, nó luôn tự điều chỉnh cho phù hợp với trình độ và tình hình mới. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu và được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian, được đúc kết thành những khuôn mẫu xã hội và cố định dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận,… Văn hóa truyền thống thực hiện chức năng giáo dục đối với con người không chỉ bằng những giá trị đã ổn định mà còn bằng những giá trị đang hình thành. Hai loại giá trị này tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách con người. Từ chức năng giáo dục, văn hóa còn có chức năng đảm bảo tính kế tục của lịch sử. Nó là một thứ “gien” xã hội di truyền phẩm chất con người lại cho các thế hệ mai sau. 1.3/ Bản sắc văn hóa Việt Nam trong tiến trình vận động và phát triển: Có một thời người ta phủ nhận sự hiện hữu của một nền văn minh và văn hóa Việt Nam. Người ta xếp một cách đơn giản thế giới Việt Nam vào phạm vi ảnh hưởng của văn minh Trung Quốc, vào phạm trù của nền văn minh Trung Quốc. Thế nhưng, rồi những công trình nghiên cứu khoa học được đẩy mạnh xuống chiều sâu và trong chiều dài lịch sử đã buộc giới trí thức đông và tây phải xem xét lại cái quan điểm đơn giản và phiến diện đó. Một khoa học mới ra đời, khảo cổ học, với những tài liệu vật chất lấy lên từ lòng đất, đã chiếu rọi một ánh sáng mới mẻ vào quá khứ ngàn vạn năm mà trước đây còn nằm trong bóng đêm của lịch sử… Đi sâu nghiên cứu hai nền văn hóa Hòa Bình – Bắc Sơn, người ta lại biết đấy là màn dạo đầu, từ trước đây trên dưới một vạn năm, của một cuộc cách mạng nông nghiệp xảy ra trên toàn vùng Đông Nam Á có thiên nhiên phong phú và đa dạng. Nơi đó, còn trước cả vùng Trung Đông vài nghìn năm, là một cái nôi trồng trọt, từ chục nghìn năm trước, đã có những cộng đồng nông nghiệp định cư, trồng cây có củ, cây ăn quả, bầu bí rau dưa, rồi sau đó đã trồng lúa nước, cây lương thực trọng yếu của loài người. Mà nông nghiệp là khởi đầu của văn minh nhân loại. Một nền văn minh Đông Sơn được phát hiện, tồn tại hàng ngàn năm. Trong tiến trình ấy, văn hóa Việt Nam đã cố gắng phát huy nội lực cũng như tiếp biến những tinh hoa của văn hóa phương Đông và phương Tây để tạo nên bản sắc riêng cho mình. Có thể nói, qua quá trình kế thừa, phát huy và tiếp biến văn hóa, văn hóa Việt Nam đã hình thành một số nét bản sắc như sau: 1.3.1/ Nhận thức về vũ trụ: Văn hóa Việt Nam nhìn nhận bản chất vũ trụ thông qua triết lí âm dương. Trước khi khoa học thiên văn hình thành, các dân tộc trên thế giới đều lấy bản thân mình làm trung tâm, thăm dò tìm kiếm bí mật của vũ trụ trong quan hệ hiện tượng thế giới tự nhiên và con người. Vũ trụ mà con người đối diện tức là bản thân tự nhiên, do đó, quan hệ giữa con người và tự nhiên là chủ đề quan trọng nhất trong nền văn hóa truyền thống phương Đông. Người Việt lúc bấy giờ nặng về phương thức nhận biết vũ trụ, thường thiên về cội nguồn qua cách thức suy nghĩ, được biểu hiện trong các truyện huyền thoại, truyền thuyết. Việt Nam khởi thủy từ một nước nông nghiệp lúa nước, cho nên điều cốt yếu của con người Việt Nam là thời vụ. Thời vụ liên quan đến mùa màng được mất và cuộc sống con người. Con người luôn mong sao cho mùa màng bội thu, gia đình đông đúc, tức là quan tâm đến sự sinh sôi nảy nở của hoa màu và con người với hai cặp đối lập Mẹ - Cha và Đất - Trời. Thời xưa đất rộng, thêm người thì thêm việc, tăng thu nhập, chưa phải lo thiếu ăn nên dân gian ta thường nói Trời sinh voi, trời sinh cỏ; mặt khác, với cuộc sống định cư, việc sinh đẻ hầu như không ảnh hưởng đến sinh hoạt của cộng đồng. Người ta cũng dần dần nhận ra rằng: Đất được đồng nhất với mẹ, còn Trời được đồng nhất với cha. Việc hợp nhất của hai cặp “mẹ-cha” và “đất-trời” chính là sự khái quát hóa đầu tiên trên con đường dẫn tới triết lí âm dương. Chính từ quan niệm âm dương với hai cặp đối lập gốc “mẹ-cha” và “đất-trời” này, người xưa đã dần dần suy ra vô số những đối lập mà, đến lượt mình, lại trở thành cơ sở để suy ra những đối lập mới. Chẳng hạn, từ cặp “lạnh-nóng”, có thể suy ra: Về thời tiết thì mùa đông lạnh thuộc âm, mùa hè nóng thuộc dương; Về phương hướng thì phương bắc lạnh thuộc âm, phương nam nóng thuộc dương; Về thời gian thì ban đêm lạnh thuộc âm, ban ngày nóng thuộc dương. Tiếp tục, đêm thì tối nên màu đen thuộc âm, ngày thì nắng đỏ nên màu đỏ thuộc dương… Tuy nhiên, việc xác định bản chất âm/dương của các sự vật, hiện tượng xung quanh không phải lúc nào cũng dễ dàng. Do đó, người xưa đã dần dần tìm ra những đặc điểm mang tính quy luật của triết lí âm dương. Đó là: không có gì hoàn toàn âm hoặc hoàn toàn dương, trong âm có dương và trong dương có âm; âm và dương luôn gắn bó mật thiết với nhau và chuyển hóa cho nhau - âm cực sinh dương, dương cực sinh âm. Triết lí âm dương là sản phẩm trừu tượng hóa từ ý niệm và ước mơ của cư dân nông nghiệp về sự sinh sản của hoa màu và con người. Từ hai cặp đối lập gốc “mẹ-cha” và “đất- trời”, người xưa dần dần suy ra hàng loạt cặp đối lập như những thuộc tính của âm dương. Lối tư duy đó tạo nên ở người Đông Nam Á cổ đại một quan niệm lưỡng phân lưỡng hợp (= nhị nguyên) có phần chất phác và thô sơ về thế giới. Từ tư duy lưỡng phân lưỡng hợp, trên cơ sở các cặp đối lập rõ nét, người Đông Nam Á xưa hẳn đã mở rộng ra để tìm cách xác lập bản chất âm dương cho những khái niệm, sự vật biệt lập. Quá trình này cũng đã dẫn họ tới chỗ cảm nhận được tính hai mặt của âm dương và quan hệ chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng. Ở người Việt Nam, tư duy lưỡng phân lưỡng hợp bộc lộ đậm nét qua khuynh hướng cặp đôi: từ cách sống, từ các dấu vết cổ xưa đến những thói quen hiện đại. Người Việt Nam còn nhận thức rõ về hai quy luật của triết lí âm dương. Những quan niệm dân gian kiểu: “Trong rủi có may, trong dở có hay, trong họa có phúc”; “Chim sa, cá nhảy chớ mừng, Nhện sa, xà đón xin đừng có lo”… cũng là sự diễn đạt cụ thể của quy luật “trong dương có âm” và “trong âm có dương”. Những nhận thức dân gian: Sướng lắm khổ nhiều; Trèo cao ngã đau; Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ;… là sự diễn đạt cụ thể của quy luật “âm dương chuyển hóa”. 1.3.2/ Nhận thức về con người: Văn hóa Việt Nam nhìn nhận con người ở hai góc độ, vừa là con người tự nhiên, vừa là con người xã hội. Bởi lẽ cuộc sống nông nghiệp khiến con người gắn bó hơn với thiên nhiên, cho nên, con người và vũ trụ được xem là nằm trong một thể thống nhất, cho nên, vũ trụ làm sao con người làm vậy – con người là một “tiểu vũ trụ”, từ đó suy ra rằng các mô hình nhận thức đúng với vũ trụ sẽ đúng cho lĩnh vực con người. Trong vũ trụ có âm dương, con người cũng vậy; vũ trụ cấu trúc theo ngũ hành, con người cũng thế. Theo quan hệ trên dưới, từ ngực trở lên là phần dương, từ bụng trở xuống là phần âm; trán là dương, cằm là âm; mu bàn tay, mu bàn chân là dương; lòng bàn tay, lòng bàn chân là âm. Theo quan hệ trước sau, bụng là phần âm, lưng là phần dương; mặt trước cẳng chân là dương, bụng chân phía sau là âm. Cứ như vậy, có thể phân biệt âm dương tới từng bộ phận cơ thể. Xuất phát từ sự gắn bó mật thiết của con người nông nghiệp với thiên nhiên, từ tư tưởng coi con người và vũ trụ nằm trong một thể thống nhất, người xưa đã áp dụng các mô hình nhận thức về vũ trụ vào việc lí giải không chỉ cấu tạo và hoạt động của con người sinh vật, mà cả cho lĩnh vực con người xã hội. Do nhìn thấy mối quan hệ mật thiết giữa con người với tự nhiên (vũ trụ), người xưa không chỉ đưa những kết quả nhận thức về vũ trụ áp dụng vào xem xét con người, mà còn ngược lại, lấy con người làm trung tâm để xem xét đánh giá tự nhiên. Chính nhờ lối tư duy âm dương từ trong máu thịt mà người Việt Nam có được triết lí sống quân bình: Trong cuộc sống, gắng không làm mất lòng ai; trong việc ăn ở, gắng giữ sự hài hòa âm dương trong cơ thể và hài hòa với môi trường thiên nhiên… Triết lí quân bình âm dương được vận dụng không chỉ cho người sống mà ngay cả cho người chết. Chính triết lí quân bình âm dương này tạo ra ở người Việt một khả năng thích nghi cao với mọi hoàn cảnh sống: “Ra đi gặp vịt cũng lùa Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu” Trong dòng chảy văn hóa Việt Nam, mỗi chặng đường là một nét văn hóa riêng, một bản sắc riêng và nhận thức riêng về vai trò, vị trí của con người. Nhưng nhìn chung, đó là những con người năng động, sáng tạo, cầu tiến,… Sự ra đời của trống đồng Đông Sơn, mở ra một thời đại văn hóa Đông Sơn, đã minh chứng cho điều đó. Cái trống đồng và văn hóa Đông Sơn gợi cho chúng ta một xã hội đã đạt tới một trình độ phát triển về nhiều mặt. Những bức tranh khắc trên mặt trống đồng gợi cho chúng ta một cuộc sống khá đa dạng về cả vật chất lẫn tinh thần. Một điều nữa, việc xây dựng thành Cổ Loa là một kì công về nhiều mặt. Nó chứng tỏ đất nước vững vàng, nhiều ngành nghề đã có sự phát triển đáng kể, trong đó, công lao lớn nhất là thuộc về con người – những con người sáng tạo và biết sáng tạo. Từ xưa đến nay, người Việt Nam rất nhạy cảm với cái mới, cái hay, cái cần thiết cho mình trong cuộc sống để phát triển. Song, nhạy cảm với cái mới từ bốn phương hoàn toàn không có nghĩa là người Việt chấp nhận tất cả, không có sự phân biệt cái tốt và cái xấu, cái thích hợp và cái không thích hợp. Đây cũng là một sự nhạy cảm. Thậm chí, người Việt Nam còn có ý thức biến cái mình chấp nhận thành cái của mình, tiêu hóa nó và làm giàu thêm cái vốn sẵn có của dân tộc. Chẳng hạn như, người Việt Nam tiếp thu một cách có chọn lọc nền văn hóa người Hán, nền văn hóa phương Tây,… và Việt hóa chúng đi cho phù hợp với tình hình đất nước, nhu cầu thời đại và bản sắc của dân tộc. Người Việt Nam vốn rất ham học và có nhiều người học giỏi, có khi là rất giỏi. Nguyễn Trãi nói “nước ta là một nước văn hiến”, điều đó có nghĩa là trọng học vấn, trọng người có học, trọng nhân tài. Bởi, đó là những của quý không gì thay thế được của một đất nước, một dân tộc. Đất nước Việt Nam trải qua hơn bốn ngàn năm giữ nước và dựng nước với biết bao biến cố, thăng trầm đã hun đúc nên truyền thống yêu nước tốt đẹp trong con người Việt Nam. Từ bà Trưng, bà Triệu đến các thời đại Đinh, Lê, Lí, Trần, Lê,…đã đóng dấu son vào lịch sử nước nhà. Những người anh hùng ấy không chỉ có lòng nồng nàn yêu nước mà còn giương cao ngọn cờ nhân nghĩa - “đem đại nghĩa để thắng hung tàn; lấy chí nhân để thay cường bạo”. Kế thừa truyền thống ấy của dân tộc, thế kỉ XX, người Việt Nam đã anh dũng chiến đấu và chiến thắng thực dân Pháp, đế quốc Mĩ, làm nên những chiến công vang dội, góp phần vào công cuộc giải phóng các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Lịch sử và văn hóa Việt Nam ghi nhận những tên tuổi vàng son trong các thời đại của dân tộc, từ Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi…, các vị minh quân như Lí Thái Tông, Lí Thánh Tông, Lí Nhân Tông, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Nguyễn Huệ…, mãi cho đến thế kỉ XX với các tên tuổi Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hồ Chí Minh… và bên cạnh đó là những con người vô danh đã âm thầm hiến đời mình cho non sông, đất nước góp phần xây dựng nên một Việt Nam hùng cường, làm cho những thế hệ đi sau có thể tự hào mà thốt lên: “…Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về” (Đất Nước – Nguyễn Đình Thi) Thấm đẫm trong từng tấc đất ngày nay là biết bao xương máu của cha ông thuở xưa, những con người kiên cường bất khuất, khi có giặc xâm lăng thì sẵn sàng xả thân đem lại hòa bình cho đất nước; khi hòa bình thì không ngừng học tập, sáng tạo và sống an nhiên tự tại. Nhìn tổng quát, lịch sử lâu dài của Việt Nam trên một địa bàn địa lí ngày một rộng lớn, trải qua biết bao biến cố là sự chứng minh hùng hồn về sức sống mãnh liệt của dân tộc ta, sự bền vững bên trong và sức đề kháng của nó để tự bảo vệ và phát triển không ngừng. Mọi sự kiện lịch sử đều qua đi, song con người và cộng đồng người vẫn tồn tại và lớn lên với những giá trị văn hóa quý báu của mình. Đây là di sản tốt đẹp nhất mà các thế hệ đi sau cần phải giữ gìn. 1.3.3/ Khả năng ứng biến GS Cao Xuân Huy khi bàn về bản lĩnh – bản sắc của dân tộc và văn hóa Việt Nam đã đưa ra một hình ảnh – biểu tượng là Nước. Sau khi phân tích biểu tượng này, GS Trần Quốc Vượng đã đưa ra khái niệm “khả năng ứng biến” (Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn học, Hà Nội – 2003). Với cái nhìn sinh thái – nhân văn, một đặc điểm nổi bật của tự nhiên Việt Nam là tính chất bán đảo: nước Việt Nam nằm trong bán đảo Đông Dương, lại chiếm trọn phần đông của bán đảo ấy nên tính chất bán đảo càng nổi trội. Nước Việt lại là một nước thiên về nông nghiệp, làm ruộng, trồng lúa thì mối bận tâm hàng đầu cũng là nước. Do đó, tâm thức người Việt, từ rất sớm và xuyên suốt thời gian không thể không bận lòng vì nước. Thế cho nên, người Việt không thể không học hỏi nơi nước cái tấm lòng cởi mở, hồn nhiên, thô phác, nguyên sơ. Nước là một chất lỏng, có đặc tính linh động và sinh động, không cố định cứng nhắc nơi một hình dạng nào. Nước không câu nệ hình thức, nhưng không vì thế mà đánh mất bản chất của mình. Dân gian ta có câu: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Tròn hay dài chỉ là hình thức, cái chính là nước vẫn giữ được bản chất, nó không bị tha hóa, vong thân để trở thành chính cái bầu, chính vỏ quả bầu hay chính cái ống. Cũng như người Việt cổ đại thời Đông Sơn đóng khố và mặc váy, người Việt trung đại và cận đại mặc cái “quần ta” mà chính ra là cái quần Tàu được thích nghi và cải biến, và người Việt hiện đại mặc “quần phăng”, quần Âu, thậm chí cả “quần bò” nữa,… ấy thế mà, về cơ bản, người Việt vẫn không đánh mất cái bản chất ta, không vì sự thay đổi y phục mà bị Hoa hóa, Pháp hóa hay Mĩ hóa. Quả có thật “người đẹp vì lụa…” song giá trị nhân văn Việt Nam vẫn ở chỗ “cái nết đánh chết cái đẹp”. Mái nhà Việt Nam cũng trải qua biết bao lần biến đổi, từ mái nhà Đông Sơn – nhà sàn mái võng cong hình thuyền được chạm khắc trên trống đồng đến nếp nhà tranh dựng trên nền đất bằng – mà mô hình đất nung của nó được tìm thấy nơi nhiều ngôi mộ cổ thời Bắc thuộc – đến những ngôi nhà cao tầng, những dinh thự và biệt thự kiểu Âu - Mĩ trong các đô thị Việt Nam hiện đại. Song, tinh thần ngôn ngữ kiến trúc Việt Nam cổ truyền vẫn là cái hướng nhà và giá trị đạo đức truyền thống của người Việt vẫn là “rộng nhà không bằng rộng bụng”, “ăn hết nhiều chứ ở hết mấy” và cài chính là “đường ăn nết ở”, cái thế ứng xử về ăn và về ở, với ta và với mọi người. Nước, qua quá trình nghiệm sinh và nội tâm hóa của người Việt Nam, có lòng đại lượng khoan dung. Nó thu nhận vào lòng tất cả nhưng cuối cùng vẫn giữ được bản chất riêng của nó. Tự mình, nước biết gạn đục khơi trong như là người Việt Nam vậy. Tiến sĩ H.R.Ferraye cho rằng nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam là tính cách “không chối từ” của nó. Thực ra, nó chỉ có một sự chối từ, đó là sự đồng hóa cưỡng bức. Còn lại, nó tìm cách dung hòa và hội nhập mọi sở đắc văn hóa, của Hoa, của Ấn, của Nam đảo, của Âu-Tây… cả ngôn từ và kĩ thuật, cả tôn giáo và nghệ thuật,… Giới ngôn ngữ học có thể tìm được trong từ vựng tiếng Việt những từ vựng cơ bản gốc Môn-Khơme, những từ liên quan đến nghề nông trồng lúa gốc Tày-Thái, những từ liên quan đến cá mú và biển khơi hải đảo gốc Mã-Lai, những từ gốc Tạng-Miến, biết bao từ vựng triết lí và đạo lí gốc Hoa, từ của Phật giáo gốc Ấn, từ kĩ thuật học hiện đại gốc Âu Tây. Nhưng tiếng Việt vẫn là tiếng Việt, duyên dáng và trong sáng. Ngắm nhìn dòng chảy, người Việt Nam không thấy gì mềm mại như nước, nó vấp phải bao nhiêu vật cản song vẫn tự tìm lấy đường đi về biển. Dõi theo suốt chiều dài lịch sử, biết bao nhiêu đế chế, thực dân, đế quốc đã muốn cản ngăn sự phát triển của Việt Nam. Nhưng Việt Nam có câu “nước chảy đá mòn”. Hàng ngàn năm nay, người Việt Nam ta biết lấy nhu để thắng cương, yếu để chống mạnh, ít để địch nhiều… và chính đó là bản sắc Việt Nam. Giữa lúc vận nước nghìn cân treo sợi tóc đầu năm 1946, Bác Hồ đi Tây trao lại tờ cẩm nang “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Yếu tố quan trọng là con người, là tấm lòng trung trinh bất biến: “Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ” Luận về bản sắc văn hóa Việt Nam, một học giả Mĩ ví Việt Nam như một cây gậy nhìn bề ngoài thấy phủ một lớp sơn tây (sơn dầu) mỏng, cạo lớp sơn ấy đi vẫn còn thấy phủ một lớp sơn (sơn then, sơn mài) có phần dày hơn, song cạo tiếp lớp sơn tàu ấy nữa, thì lộ ra cốt lõi gậy tre đực Việt Nam. Cây tre và gậy tre là biểu tượng của Việt Nam cổ truyền. Từ cây tre thời Phù Đổng Thiên Vương đánh tan giặc Ân cứu nước đến cây gậy tầm vông thời đại Hồ Chí Minh: “Thù nầy ghi nhớ còn sâu Trồng tre nên gậy gặp đâu đánh què” Tre không chỉ có thể uốn, hun làm gậy cứng, mà còn có thể chẻ ra đan nón ba tầm, làm lạt. Mà lạt mềm buộc chặt. Lại một khía cạnh triết lí nữa về cương nhu, về khả năng ứng biến trước mọi hoàn cảnh. Người ta bảo văn hóa là một hệ chuẩn mực, mật mã, giá trị, biểu tượng. Với con người, không chỉ có một “thế giới thực” mà còn có thể sáng tạo ra một “thế giới các biểu tượng” mô phỏng rồi dẫn dắt trở lại hiện thực. Một biểu tượng kì vĩ đặc sắc của dân tộc và văn hóa Việt Nam là con rồng. Không biết từ bao giờ rồng đã xuất hiện trong ý thức của người Việt và trở thành biểu tượng của cội nguồn dân tộc: Con Rồng cháu Tiên, con Hồng cháu Lạc… Kinh thành Đại Việt thời phục hưng văn hóa (Lí – Trần) được mang một cái tên độc đáo không hề có ở bất cứ nơi đâu: Thành phố rồng bay (Thăng Long). Và văn hóa Đại Việt thời đó cũng được mệnh danh là văn hóa Thăng Long. Rồng, cũng như nước, có đặc trưng nổi bật là khả năng ứng biến như người Việt Nam vậy. Nó có nhiều trạng thái, hay đúng hơn là thích nghi với nhiều trạng thái: ở dưới nước, nó giữ bầu nước của thiên hạ; nó có thể xuất hiện trên đất, trên đầm lầy như một điềm báo tốt đẹp; nó có thể bay cao trên trời, vùng vẫy trong mây gây mưa tưới nhuần đồng ruộng. Nói theo triết lí âm dương thì cái thể (bản chất) và cái dụng (chức năng) của rồng có thể là âm (dưới nước) mà cũng có thể là dương (trên trời). Rồng là loại giỏi thích nghi, rất huyền thoại mà cũng rất là thực. Con Rồng cháu Tiên cũng là một dân tộc giỏi thích nghi, trải qua những thăng trầm của lịch sử dựng nước và giữ nước, luôn luôn cố gắng thích nghi tối ưu và tối đa với tự nhiên trong làm ăn sinh sống (tùy thời mà làm mùa, tùy thế đất và chất đất mà bố trí cây trồng,…), cũng như tìm cách thích nghi với hoàn cảnh khi đánh giặc… Tất cả đã làm nên bản chất Việt Nam – khả năng ứng biến linh hoạt và năng động. Chương 2: THIỀN TÔNG VIỆT NAM VÀ THƠ THIỀN THỜI TRẦN 2.1/ Thiền tông Việt Nam và triều đại nhà Trần: 2.1.1/ Thiền tông Việt Nam: Theo Việt Nam Phật giáo sử luận, “Ðạo Phật truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch. Tài liệu chắc chắn cho biết rằng vào hạ bán thế kỷ thứ hai, tại nước ta đã có một trung tâm Phật Giáo phồn vinh và quan trọng rồi, nhưng có thể đạo Phật đã du nhập vào nước ta trong thế kỷ đầu của kỷ nguyên. Vào cuối thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch, khuynh hướng Phật Giáo đại thừa đã nẩy nở tại Ấn Ðộ, và vào đầu thế kỷ thứ nhất của kỷ nguyên Tây lịch, các trung tâm Amaravati và Nagarjunakonda ở miền duyên hải Ðông Nam Ấn Ðộ dần dần trở nên những trung tâm Phật giáo truyền bá vào các nước xa là một trong những hoa trái của đạo Phật Đại thừa; chính ý hướng này đã thúc đẩy những vị tăng sĩ đi theo với các thương thuyền về Ðông Nam Á. Trung tâm Phật Giáo Luy Lâu được thiết lập do sự viếng thăm của thương gia và tăng sĩ Ấn Ðộ tới bằng đường biển, đó là một điều tất cả các học giả đều phải đồng ý. Ðạo Phật tại Giao Châu do từ Ấn Ðộ truyền sang trực tiếp, không phải là từ Trung Hoa truyền xuống”. Thiền học Việt Nam khởi đầu bằng Khương Tăng Hội vào đầu thế kỷ thứ ba. Sách Cao Tăng Truyện nói rằng ông đến Kiến Nghiệp thủ đô nước Ngô (nay là Nam Kinh) vào năm Xích Ô thứ mười, tức là năm 247. Ông mất vào năm 280, niên hiệu Thái Khương nguyên niên đời nhà Tấn. Như vậy ông đã ở trên đất Trung Hoa 33 năm. Thiền học đối với Tăng Hội không phải chỉ là những phương pháp hành đạo mà còn có cả một căn bản triết học về tâm học. Tăng Hội định nghĩa “tâm” là "không có hình, không có tiếng, không có trước, không có sau, thâm diệu, vi tế, không có tóc tơ hình thức: Phạm Thiên, Ðế Thích và tiên thánh cũng không thấy rõ được; những hạt giống của tâm khi thì ẩn khi thì hiện, cái này hóa sinh thành cái kia, người phàm không thể thấy được; đó gọi là ấm". Tăng Hội nói tiếp "người hành giả đã chứng đắc được phép An Ban, thì tâm bừng sáng, dùng cái sáng ấy để quán chiếu thì không gì tối tăm mà không thấy ..." (tựa kinh An Ban Thủ Ý). Chính vì ảnh hưởng sâu đậm của giáo lý không và chân như của Đại thừa mà Tăng Hội đã diễn tả về tâm như sau trong bài kinh An Ban Thủ Ý: "Tâm không hình sắc, không có âm thanh, không có tiền hậu; tâm thâm sâu vi tế không tóc tơ hình tướng, cho nên Phạm Thiên, Ðế Thích và các tiên thánh khác cũng không thể thấy được; kẻ phàm tục không thể thấy được sự hóa sinh từ hình thức này sang hình thức khác của các chủng tử khi thì minh hiển khi thì trầm mặc trong tâm. Ðó gọi là "ấm" vậy” (Tâm vô hình vô thanh, vô hậu tiền, thâm vi tế hảo, hình vô ti phát, Phạm Thích tiên thánh sở bất năng chiếu; minh mặc chủng tử, thử hóa sinh hồ bỉ, phi phàm sở đồ, vị chi ấm giả). Trong bài tựa kinh An Ban Thủ Ý, Tăng Hội nói: "Tâm ấy thâm sâu và vi diệu, không chút tóc tơ hình tướng cả đến Phạm Thiên, Ðế Thích và các bậc tiên thánh cũng không thấy rõ được sự hóa sinh của các hạt giống ẩn tàng trong ấy...". Như vậy là Tăng Hội đã chịu ảnh hưởng không những tư tưởng Bát Nhã mà còn tư tưởng duy thức nữa. Mà tư tưởng duy thức ở thời này chưa được hệ thống hóa: chính kinh Lăng Già (Lankavatara) mà Bồ Ðề Ðạt Ma trao cho Huệ Khả (vào khoảng đầu thế kỷ thứ sáu) cũng chỉ mới xuất hiện vào thế kỷ thứ tư. Theo Thiền Uyển Tập Anh, “Thiền Sư Tỳ Ni Ða Lưu Chi là dòng Bà La Môn, gốc ở Nam Thiên Trúc, vân du qua Trung Hoa; vào năm Nhâm ngọ (562) niên hiệu Ðại Kiến thứ sáu nhà Trần thì đến Trường An. Vào năm 574 sau khi Phật giáo bị Võ Ðế đàn áp, ông đi về đất Nghiệp (Hồ Nam)”. “Tỳ Ni Ða Lưu Chi đã nghe lời tổ Tăng Xán xuống phương Nam hành đạo và do đó đã dịch các kinh Tượng Ðầu và Nghiệp Báo Sai Biệt tại chùa Chế Chi ở Quảng Châu và sau khi tới chùa Pháp Vân ở làng Cổ Châu, Long Biên, mới bắt đầu dịch kinh Tổng Trì. Thiền Uyển Tập Anh nói rõ rằng ông đến chùa Pháp Vân vào tháng Ba năm Giáp dần (594) thì tịch. Thời gian ông lưu trú tại Việt Nam như vậy là mười bốn năm.Thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi bắt nguồn từ tư tưởng Bát Nhã, Tam Luận và Hoa Nghiêm, có khuynh hướng thiên vọng về Mật Giáo, theo tinh thần bất lập văn tự nhưng vẫn chú trọng sự nghiên cứu kinh luận, chủ trương thực tại siêu việt không hữu, chú trọng việc truyền thụ tâm ấn, có khuynh hướng nhập thế giúp dân và biết sử dụng các thuật phong thủy sấm vĩ”. Thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi hầu như chỉ chịu ảnh hưởng của Phật Giáo Ấn Ðộ mà ít chịu ảnh hưởng Trung Hoa. Ðây là một thiền phái rất có tính cách dân tộc Việt Nam, vừa biểu lộ được sinh hoạt tâm linh siêu việt của Phật Giáo vừa biểu lộ được đời sống thực tế và đơn giản của quần chúng nghèo khổ. Theo Việt Nam Phật giáo sử luận, năm 820, thiền sư Vô Ngôn Thông từ Trung Hoa sang Việt Nam. từ đó một thiền phái khác được thành lập mang tên thiền phái Vô Ngôn Thông. Vô Ngôn Thông người Quảng Châu, họ Trịnh, xuất gia tu học tại chùa Song Lâm ở Vũ Châu. Tính tình trầm lặng, ít nói, nhưng lại thông minh, cái gì cũng mau biểu biết cho nên thời nhân đã tặng hiệu là Vô Ngôn Thông. Sách Cao tăng truyền đăng lục (Tam tập) của Thông Tuệ đời Tống gọi ông là Thông thiền sư. Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 15 đường Ðường (năm 820) Vô Ngôn Thông từ Quảng Châu qua Việt Nam, ở lại chùa Kiến Sơ, làng Phù Ðổng, huyện Tiên Du (Bắc Ninh). Ðây là một ngôi chùa mới được thành lập, ở đó có một vị tăng tên là Ðức Lập trú trì. Vô Ngôn Thông cư trú chùa Kiến Sơ, ngoài hai bữa cơm cháo thì dành hết thì giờ vào việc thiền tọa, xây mặt vào vách, không nói năng gì. Nhiều năm trôi qua như thế, ít ai để ý đến ông: duy chỉ có Lập Ðức thấy phong thái đặc biệt của ông hết lòng chăm sóc. Do sự gần gũi này mà Lập Ðức tiếp nhận được tông chỉ màu nhiệm của Vô Ngôn Thông, được ông đổi tên cho là Cảm Thành và truyền cho tâm pháp. Ông tịch vào năm 826; thời gian cư trú tại chùa Kiến Sơ chỉ có sáu năm. Như vậy, Thiền tông Việt Nam là sự hòa hợp của ba nguồn du nhập: Phật giáo Đại thừa có xu hướng Thiền học từ Nam Ấn Độ trực tiếp truyền sang khoảng thế kỉ thứ II; Thiền tông Ấn Độ qua Trung Quốc truyền sang với Tì-ni-đa-lưu-chi ở thế kỉ VI; và Thiền tông Trung Hoa từ Trung Quốc truyền sang với Vô Ngôn Thông ở thế kỉ thứ IX. Đến đầu thế kỉ XI, triều đại nhà Lý lên nắm q._.ặn, làm việc đời, đánh giặc cứu nước nhưng lúc nào cũng vẫn giữ một cái tâm trong sáng, là một bậc thầy được ngưỡng vọng trong chốn Thiền lâm. Thuở nhỏ, Thượng sĩ đã có phẩm chất thuần hậu, cao sáng và kính mến đạo Phật. Lớn lên, được cử trấn đất Hồng Lộ (tức Hải Dương ngày nay). Trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, Thượng sĩ cũng như các vương hầu thân tín khác, đã trực tiếp tham gia cầm quân chống giặc. Trong cuộc kháng chiến thứ hai, ông đã cùng Quốc Công Tiết Chế Trần Quốc Tuấn, đem quân kịch chiến với tướng giặc là Lưu Thái Anh và đuổi Thoát Hoan chạy đến sông Như Nguyệt. Trong cuộc kháng chiến thứ ba, Thượng sĩ được giao những nhiệm vụ ngoại giao quan trọng, nhiều lần đến đồn giặc thương thuyết, trá hàng để quân giặc mất cảnh giác, sau đó cho quân đến cướp doanh trại giặc. Sau ngày kháng chiến thắng lợi, ông được thăng chức Tiết Độ Sứ, trấn giữ hải đạo Thái Bình. Nhưng chỉ ít lâu sau, Thượng sĩ lui về ấp Tịnh Bang (trang ấp được phong), lập Dưỡng Chân Trang, tiếp tục tham cứu Phật học và tu thiền định. Tuệ Trung Thượng sĩ là một nhân vật có hành trạng phi thường, một nhân vật nổi tiếng trong Thiền môn. Tuy thân cư sĩ nhưng ông lại là một thiền gia đạt đạo, đã siêu việt ngoài vòng kiến chấp, không câu nệ giáo điều, hình thức. Tương truyền, lúc Hoàng hậu Thiên Cảm còn sống, một lần Thượng sĩ được mời vào cung dự tiệc. Bàn tiệc dọn đủ cả chay mặn, ông ung dung gắp thức ăn mà không hề phân biệt. Hoàng hậu thấy thế, hỏi: - Anh tu Thiền mà ăn thịt cá thì làm sao thành Phật được? Ông cười đáp: - Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần thành Phật, Phật không cần thành anh. Em chẳng nghe cổ đức nói: "Văn thù là Văn thù, giải thoát là giải thoát đó sao"? Vua Nhân Tông vốn đã chứng kiến câu chuyện ăn thịt cá của sư phụ mình, nên nhân một lần khác, bèn hỏi: - Bạch Thượng sĩ, chúng sinh quen theo cái nghiệp ăn thịt uống rượu thì làm thế nào thoát khỏi tội báo? Tuệ Trung liền dùng lý luận "tội tánh vốn không" trả lời vua qua một bài thi kệ, đại ý là: Tội phước đều do tâm sinh, tâm cảnh xưa nay đều vắng lặng, thì làm gì có tội phước? Sau đó ông còn đọc tiếp kệ: Ăn cỏ với ăn thịt, là thuộc tính vốn sẵn của chúng sinh. Như xuân đến thảo mộc sinh thì còn đâu thấy tội phước? Qua câu chuyện trên, có thể thấy phong thái của Tuệ trung rất tự tại, siêu việt ra ngoài có - không, mê - ngộ, sinh tử - Niết-bàn... Đối với giáo điều sách vở, ông cũng không còn câu nệ. Sống với cuộc đời, không lánh đời mà vượt khỏi thói thường tình vọng chấp của đời. Vua Nhân Tông viết: "Thượng sĩ sống giữa lòng thế tục, hoà ánh sáng mình trong cuộc đời bụi bặm; trong mọi cuộc tiếp xúc, Thượng sĩ luôn giữ thái độ hòa ái, nên chưa bao giờ gặp phải những trường hợp phiền nghịch. Do đó, Ngài có thể tiếp nối được hạt giống chánh pháp, dìu dắt được những kẻ mới học... Thượng sĩ không bị ràng buộc bởi hình thức; khi ẩn, khi tàng, khi thì lộ diện, Ngài không chấp vào hình thức danh từ" (Thượng sĩ ngữ lục). Với một nhân cách tuyệt vời như vậy, thì không lạ gì khi Trần Nhân Tông nhận Tuệ Trung làm vị đạo sư hướng dẫn tâm linh cho mình. Trong bản dịch Thượng sĩ ngữ lục của Diệu Pháp Đăng, có lời ca ngợi Tuệ Trung: "Thuở nhỏ Thượng sĩ đã là người trung hiếu, cư xử trọn đạo vua cha. Gặp thời nước nhà lâm nạn, Ngài đã hai lần ngăn giặc. Sau khi xong nghiệp lớn, Ngài cất mình nẻo thiền rong chơi khắp". Lời ca ngợi trên đã làm rõ hơn cuộc đời và đạo nghiệp của Thượng sĩ. Dù ngộ đạo rất sớm nhưng gặp lúc cần thì ông cũng ra tay phò vua giúp nước, làm tròn bổn phận một công dân thời chiến. Khi đất nước thanh bình, Thượng sĩ lui về ẩn dật nơi thôn dã để tiếp tục con đường tu hành. Thật là đời - đạo vuông tròn. Bàn về tinh thần này của Tuệ Trung, Hòa thượng Thanh Từ viết: "Sinh là cái người đời nâng niu, quý trọng; tử là cái mọi người sợ hãi. Thượng sĩ xem nó như trò đùa, như chiếc pháo hoa nổ tung trong bầu trời rạng rỡ. Sinh tử với con mắt Thanh Văn thảy là biển khổ mênh mông, đây là tinh thần vừa tích cực vừa siêu thoát của con người đạt được lý Thiền. Không sợ sinh tử nên sẵn sàng lao mình vào cuộc đời, vào sinh tử để làm lợi ích cho chúng sinh. Vì làm lợi ích cho mọi người nên vào ra trong rừng danh lợi mà không dính mắc… Thượng sĩ hành đạo và hóa đạo ngay trong gia đình lăng xăng, bận rộn, trong vòng tay thân thiết vây quanh. Đây quả thật là tinh thần siêu phóng phi thường của Tuệ Trung Thượng sĩ" (Tam tổ Trúc Lâm giảng giải). Có thể nói, nhân cách của Tuệ Trung Thượng sĩ như một đóa sen xuất thân từ chốn bùn nhơ mà không bị nhiễm bẩn. Những biến chuyển cuộc đời, sự vận hành các pháp diễn ra trước mắt không hề làm ông mảy may xao động: “Hành diệc thiền, tọa diệc thiền, Nhất đóa hồng lô hỏa lí liên.” (Phật tâm ca – Tuệ Trung Thượng sĩ) (Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, Trong lửa lò hồng, một đóa sen.) Không phải ngồi nơi am mây tọa thiền mới thật sự là tu, là thiền. Với Tuệ Trung, “đi” cũng có thể thiền được, “ngồi” cũng có thể thiền được, miễn sao giữ cho tâm mình thanh tịnh, trong sáng như một “đóa sen” giữa lò lửa đỏ. Nhà sư muốn khuyên chúng ta đừng nên câu chấp vào hình thức bên ngoài, hãy chú trọng đến cái bản chất, cái tự tính bên trong của mỗi con người. Chúng ta hẳn còn nhớ câu chuyện của một tên cướp với một nhà tu hành đang trên đường tìm đức Phật. Tên cướp đã mổ bụng mình gởi “tấm lòng thành” cho nhà sư đem đến cho đức Phật, nhưng giữa đường, vì không chịu nổi mùi hôi thối và cho rằng hắn là cướp thì làm sao thành Phật được, nhà sư đã vứt bỏ nó. Cuối cùng tên cướp đã đạt thành chánh quả, còn nhà sư kia mãi vẫn không được thành Phật. Như vậy, dù là ai, làm việc gì, miễn có tấm lòng thành, giữ được tự tính của mình, đừng quá câu chấp vào “có - không”, “mê - ngộ” thì cũng có thể đạt đạo. Và đạo thì không cần phải tìm kiếm đâu xa, nó ở ngay trong chính mỗi người. Thời Trần còn là thời đại chiến đấu và chiến thắng nên một nét đẹp của con người thời này không thể không kể đến đó là lòng yêu nước sâu sắc. Một thời đại mà từ vua đến dân ai cũng phải chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử vẫn còn ghi nhận những vị vua anh hùng như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông; những vị tướng tài ba, nhất mực trung thành như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Tuệ Trung Thượng Sĩ,… Tất cả đã làm nên một thời đại lịch sử hào hùng và sáng chói. Ghi dấu vào thơ văn, đặc biệt là thơ Thiền, người đọc vẫn thấy thấp thoáng đâu đó những nhà sư yêu nước. Bởi chính trong cuộc đời thực họ đã từng yêu nước, hành động vì đất nước nên thơ văn họ lại càng tô đậm thêm tinh thần ái quốc ấy. Khi vua Trần Thái Tông bỏ ngôi vua lên núi cầu Phật, quốc sư Viên Chứng đã khuyên người như sau: “Phàm vi nhân quân giả, dĩ thiên hạ chi dục vi dục, dĩ thiên hạ chi tâm vi tâm. Kim thiên hạ dục nghinh bệ hạ quy chi, tắc bệ hạ an đắc bất quy tai. Nhiên nội điển chi tham, nguyện bệ hạ mỗi vong tư tu văn” (Phàm người làm vua, lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy lòng của thiên hạ làm lòng của mình. Nay bề tôi muốn rước bệ hạ về thì bệ hạ sao có thể không về được? Song nghiên cứu Phật điển, thì xin bệ hạ chớ quên điều đó mà thôi). Lời khuyên nghe như là lời của những nhà Nho, nhưng mang tư tưởng nhập thế tích cực của đạo Thiền. Lời khuyên đó phần nào bộc lộ lòng yêu nước, yêu cuộc sống của nhà sư mà sau này được Trần Thái Tông ghi lại trong bài tựa quyển Thiền tông chỉ nam. Về lại kinh đô, Trần Thái Tông đã làm đúng những điều căn dặn của quốc sư - lấy ý muốn thiên hạ làm ý muốn của mình, ngài đã làm tròn phận sự của một vị vua hiền trải 32 năm. Dù yêu nước chưa phải là nội dung nổi bật của thơ Thiền thời này nhưng những gì mà nó biểu hiện đều là tấm lòng của những con người yêu nước. Có yêu nước Trần Thái Tông mới làm trọn vai trò của một vị minh quân trong suốt thời gian tại vị; có yêu nước Trần Nhân Tông mới Việt hóa Thiền tông để sáng lập nên một phái Thiền vừa gần gũi vừa phù hợp với tư tưởng con người Đại Việt; có yêu nước Tuệ Trung Thượng sĩ mới có thể gắn liền giữa đạo với đời trong hành trạng của mình;… Thời kì này, nhiều nhà sư đã góp công không nhỏ cho công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc. Điều đó phải chăng là do họ đã thấu đắc được lẽ từ bi của đạo Phật trong tình hình đất nước hiện tại? Có gì từ bi bác ái bằng cứu dân, cứu nước trước nạn ngoại xâm? Có gì từ bi lo cho dân được sống an vui, no ấm? Không chỉ yêu nước, thơ Thiền thời kì này cũng bộc lộ một tấm lòng yêu thương con người sâu sắc. Dẫu biết rằng đi tu là quên mọi sự đời, là không còn vướng vào những tình cảm trần tục, nhưng các nhà sư thời kì này vẫn đau đáu một nỗi lo đời. Tiêu biểu là Trần Nhân Tông – Trúc Lâm Đầu đà, người đã khai phóng cho Thiền học Việt Nam. Dẫu đã quy y, lòng ông không quên đời. Cũng như sống giữa cảnh đời thực, lòng lại đã quy y. Ông “cư trần lạc đạo”, cũng như vui đạo không quên trần. Dần dà, đạo với đời trong ông thật là “vô phân biệt”, đều có đều không. Thơ ông diễn tả cái trang thái tinh thần hết sức đặc biệt ấy. Với ông, sự quan tâm trước hết là cảnh đời, là cõi thế. Nhân Tông độc đáo ở những vần thơ về cảnh sắc thiên nhiên vừa hư vừa thực. Đó là một cái nhìn đầy yêu thương, trân trọng đối với sự sống: “Thụy khởi khải song phi, Bất tri xuân dĩ quy, Nhất song bạch hồ điệp Phách phách sấn hoa phi.” (Xuân hiểu) (Ngủ dậy, mở cánh cửa sổ, Không hay mùa xuân đã về, Một đôi bươm bướm trắng, Phất phới bay vào hoa). (Buổi sáng mùa xuân) Thiên nhiên thật vô thường, biến ảo, thoắt đó mùa xuân đã về. Với niềm tin yêu vào cuộc sống và bằng những rung cảm nhạy bén của tâm hồn, Trần Nhân Tông nhìn thấy tín hiệu mùa xuân trên đôi bướm trắng đang tung tăng bay lượn bên hoa. Cảnh và người như hòa vào nhau và cùng dâng tràn sức xuân mạnh mẽ. Với Trần Nhân Tông, cuộc sống luôn đáng yêu, đáng trân trọng và đầy sức sống. Chính vì thế, chúng ta thấy, con người trong thơ Thiền luôn gần gũi với con người trong văn hóa Việt Nam, lấy văn hóa làm thước đo chuẩn mực cho hành động của mình. Đến lượt nó, thơ Thiền lại mang đến cho văn hóa những nét mới lạ trong cách nhìn nhận và hành xử của con người. 3.2.2/ Trong quan niệm về tự nhiên và ứng xử với tự nhiên: Từ thuở sơ khai, con người đã biết phải sống hòa hợp cùng thiên nhiên để tồn tại, làm nhà trong hang đá để tránh thú dữ và thiên nhiên khắc nghiệt. Song song với sự phát triển của nhân loại thì tiến trình lịch sử của người Việt Nam là tiến trình hòa hợp, khám phá và chinh phục tự nhiên. Dần dần, thiên nhiên trở thành người bạn thân thiết của con người. Do đó, con người thiên về cuộc sống thích nghi, hài hòa cùng môi trường với sự đồng cảm sâu sắc – “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du). Thời trung đại, con người sống bằng nông nghiệp là chủ yếu, nên con người dựa vào tự nhiên, khai thác tự nhiên mà sống. Do đó con người hòa nhập vào thiên nhiên, xem thiên nhiên với con người là một “Vạn vật nhất thể”. Con người chưa xem mình là một chủ thể đối lập với tự nhiên, là khách thể để chiêm nghiệm, phân tích, lý giải... Như vậy đặc trưng của thế giới tự nhiên trong cái nhìn của con người trung đại là có tính toàn vẹn không phân hoá, không tách bạch. Thế nên thơ ca phương Đông rất chú ý đến hình ảnh của thiên nhiên và xem đây là một đối tượng thẩm mĩ. Thiên nhiên trong thơ ca đời Lý đa phần là những biểu tượng, là phương tiện để nói lên nội dung triết lý hay cảm quan Thiền đạo. Những hình ảnh thiên nhiên thường tượng trưng cho những thực tế siêu nhiên, trừu tượng của triết lý. Thiên nhiên trong thơ ca đời Trần có khác. Đầu đời Trần thiên nhiên còn có nét biểu hiện triết lý như trong thơ Trần Thái Tông, Tuệ Trung. Nhưng từ giữa đời Trần về sau, thiên nhiên đã trở thành đối tượng thẩm mĩ đích thực. Càng về cuối đời Trần, thi nhân càng tiếp xúc với thiên nhiên ngoại cảnh với nhiều cảm xúc, phong phú, đa dạng: từ tâm trạng sâu lắng, suy tư trước cảnh thiên nhiên cô tịch, xa vắng, đến những cảm khái nhẹ nhàng rồi bất mãn với thời cuộc. Thiên nhiên lúc này vừa là sự rung động của thi nhân biểu lộ cảm quan Thiền học vừa có cái phóng khoáng của tư tưởng Nho gia và cái nhàn dật của Lão Trang. Trong đó, phải kể đến là những sáng tác của các Thiền gia. Các nhà thơ Thiền thời Trần đã có những rung cảm tế vi trước thiên nhiên và cho ra đời những vần thơ Thiền đậm “chất thơ”, sinh động và độc đáo. Khác với thời Lí, đa phần trong sáng tác của các thi nhân - Thiền sư thời này, thiên nhiên đã trở thành đối tượng thẩm mĩ thật sự. Các thi nhân - Thiền sư đã thật sự trải lòng với cảnh núi cao sông dài, với ánh trăng trên đoá mộc tê, trải tầm mắt với cánh bạch âu lưng trời, theo đàn cò liệng xuống cánh đồng chiều muộn, rồi ngắm cảnh đôi bướm trắng phất phới bên những đóa hoa vừa hé nụ đầu xuân. Con người Thiền sống giữa thiên nhiên để thấy tâm hồn mình về với chân như, với những cảm xúc hồn nhiên không gợn niềm trần tục. Thiền gia cảm nhận thiên nhiên bằng tâm hồn tĩnh tại, an nhiên, bởi họ cho rằng bản thể của vũ trụ là trống không, khi tâm đạt tới độ tĩnh tại tuyệt đối, tâm trong suốt vắng lặng thì có thể hòa nhập vào bản thể của vũ trụ vạn vật. Đọc Nguyệt – Trần Nhân Tông, ta có thể dễ dàng nhận ra sự thống nhất đến độ hài hòa giữa con người và thiên nhiên vạn vật. Ở đó, giữa người và cảnh không còn ranh giới phân biệt nữa, tất cả đều “trống không” và hoàn toàn tĩnh lặng: “Bán song đăng ảnh mãn sàng thư, Lộ trích thu đình dạ khí hư. Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ, Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.” (Nguyệt – Trần Nhân Tông) (Nửa song cửa sổ ánh đèn đầy một giường sách, Những hạt móc rơi điểm giọt điểm giọt trên sân mùa thu, hơi đêm trống không lặng lẽ. Nửa đêm thức giấc thì âm thanh tiếng chày không còn nghe thấy, Trên đầu của khóm hoa quế ngoài vườn ánh trăng vừa mới đến). Không gian của bài thơ được bao trùm bởi trạng thái “hư” trống không - trạng thái tương thông giữa tâm Thiền tĩnh tại an nhiên với cái trống không của bản thể vũ trụ. Trong không gian đó, thi nhân – thiền gia tỉnh giấc - “thụy khởi”, không phải bởi sự chi phối của những âm thanh thế tục mà đó là cái tỉnh giấc tự nhiên. Thế nên thi nhân mới cảm nhận được ánh sáng của vầng trăng huyền diệu tỏa chiếu trên đóa mộc tê. Bài thơ là sự hòa hợp giữa con người và tự nhiên rất đỗi bình dị: trên nền không gian hư tịch ánh trăng nhẹ đến trên đóa mộc tê, giây phút ấy con người bừng tỉnh - giây phút bình thường của đời sống tự nhiên bỗng trở nên huyền diệu. Cũng như thế, bài thơ Đăng Bảo Đài sơn là sự hòa quyện tuyệt đối giữa tâm và cảnh: “Địa tịch đài dũ cổ, Thì lai xuân vị thâm. Vân sơn tương viễn cận, Hoa kính bán tình âm. Vạn sự thủy lưu thủy, Bách niên tâm ngữ tâm. Ỷ lan hoành ngọc địch, Minh nguyệt mãn hung khâm.” (Đăng Bảo đài sơn – Trần Nhân Tông) (Đất vắng nên đền càng thêm xưa cũ, Lúc đến đây mùa xuân vẫn chưa muộn. Mây và núi bồng bềnh quyện vào nhau khi xa khi gần, Con đường hoa nửa sáng nửa tối. Mọi việc đời như nước trôi theo nước, Trăm năm lòng nhủ với lòng. Đứng tựa lan can cầm ngang ống sáo ngọc, Trăng sáng đầy cả ngực và bụng.) Cảnh núi Bảo Đài qua cái nhìn của tác giả tuy u tịch nhưng vẫn mang nét đẹp nên thơ sinh động, cái sinh động bởi có sự chuyển động: Ngọn núi phủ mây thì khi xa khi gần, con đường hoa thì nửa sáng nửa tối (Vân sơn tương viễn cận/ Hoa kính bán tình âm). Thế nhưng, con người trong cảnh lại thường tại, an nhiên, dường như không hề bị biến đổi theo sự biến đổi của ngoại cảnh (Bách niên tâm ngữ tâm - Trăm năm lòng nhủ với lòng). Con người ấy, ở hai câu kết của bài thơ, đã tan hòa trong ánh trăng tràn ngập không gian, lặng lẽ mà dào dạt vô biên. Căn cứ vào cấu trúc câu thơ “Minh nguyệt mãn hung khâm” – (Trăng sáng (chủ ngữ) đầy cả ngực và bụng (vị ngữ)), ta sẽ thấy trong bối cảnh này trăng mới chính là chủ thể: Trăng chủ động bao phủ lấy người, tắm gội cho người bằng ánh sáng trong trẻo của nó. Có thể nói, giữa người và cảnh hoàn toàn không còn ranh giới phân biệt, hoàn toàn tan hòa vào nhau thành môt thể thống nhất. Ở bài thơ Thiên trường vãn vọng của Trần Nhân Tông cũng biểu hiện cái nhìn tinh tế của nhà thơ trước cảnh chiều tà. Khó có thể nghĩ đây là bài thơ của một vị Trúc Lâm Đầu đà bởi ở đây hoàn toàn là cái nhìn, cái cảm rất thân quen về thiên nhiên, cuộc sống, chan chứa tình yêu đối với quê hương đất nước, nhưng đâu đó vẫn phảng phất vị Thiền: “Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên Bán vô, bán hữu tịch dương biên Mục đồng địch lí, quy ngưu tận Bạch lộ song song phi hạ điền” (Thiên trường vãn vọng - Trần Nhân Tông) (Trước thôn, sau thôn đều mờ mờ như khói phủ, Bên bóng chiều, cảnh vật nửa như có nửa như không. Trong tiếng sáo, mục đồng lùa trâu về hết. Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.) Cảnh vật hiện ra, lung linh giữa thực và ảo, giữa sắc và không, giữa hữu và vô, giữa động và tĩnh… Bao phủ lên bức tranh thiên nhiên êm đềm, trong trẻo, tinh khiết ấy là một màn sương hư ảo của Thiền. Nó có màu sắc, có âm thanh, có đường nét, có dáng vẻ, có vận động, có tĩnh tại… Nó là thực, mà là không thực. Nó là ngoại cảnh song lại chính là tâm cảnh của nhà thơ. Nó là tiếng sáo của tâm hồn vi vút, trong trẻo cất lên, nó là cánh cò của tâm hồn chấp chới, mơ hồ trong cảnh chiều tà, nó là vệt nắng chiều của tâm hồn còn đọng lại trên dương gian mà như sắp tan biến, nó là thôn làng của tâm hồn trong sương khói mơ hồ, huyền hoặc, thực ảo, mông lung… Hình ảnh “mục đồng địch lí quy ngưu tận” phảng phất không khí Thiền, nó chỉ trạng huống giác ngộ - “trở về cội nguồn” của người tu hành như “trẻ cưỡi trâu về nhà” trên con đường nửa hư nửa thực. Trong bài Xuân hiểu (Buổi sáng mùa xuân) lại là một buổi sớm xuân lặng không, mà đầy Thiền ý: “Thụy khởi khải song phi, Bất tri xuân dĩ quy, Nhất song bạch hồ điệp Phách phách sấn hoa phi.” (Xuân hiểu – Trần Nhân Tông) (Ngủ dậy, mở cánh cửa sổ, Không hay mùa xuân đã về, Một đôi bươm bướm trắng, Phất phới bay vào hoa). (Buổi sáng mùa xuân) Cả bài thơ hoàn toàn không có một danh từ nào để chỉ con người, nhưng qua đó người đọc cảm nhận được sự hòa quyện tuyệt đối giữa người và cảnh, giữa cái tâm trong trẻo trong giây phút “thụy khởi” với bước đi nhẹ nhàng êm ái của mùa xuân. Lúc đó, con người hoàn toàn sống trong cái êm ái của mùa xuân nên “không hay mùa xuân đã về”. Nhìn một bông hoa nở, một mảnh trăng soi, một dòng nước chảy, Tuệ Trung Thượng sĩ chợt nghĩ đến sự vận động không ngừng của cái thế giới của muôn nghìn “sắc tướng”, bề ngoài có vẻ đứng im mà bên trong luôn luôn thay đổi, bề ngoài có vẻ khác nhau như nước với lửa mà bên trong thì lại có khuynh hướng tiến sát lại và đổi vị trí cho nhau. Tuệ Trung để tâm suy nghĩ về tất cả những hiện tượng kể trên rồi quy nạp chúng thành hình ảnh trừu tượng. Ông hiểu một cách thâm thúy tất cả những cái đó là thuộc về tự nhiên, là sự an bài của thiên nhiên, con người không làm sao chống được. Cũng giống như một ánh trăng, một ngọn gió không phải là những cái thuộc con người chi phối mà là sự vận động không ngừng của tự nhiên: “Tây nguyệt trầm không nan phục ảnh Đông lưu phó hải khởi hồi ba” (Thế thái hư huyễn - Tuệ Trung) (Mặt trăng phương tây đã chìm xuống bầu không thì bóng trăng khó quay trở lại Dòng nước chảy về đông đã ra tới biển thì sóng nước há có thể trở về?) Hiểu được quy luật ấy, nhà sư khuyên con người không nên chạy theo những điều phù phiếm, phải để tâm hồn thanh thản, an nhiên, vượt lên trên mọi đau khổ của cuộc sống thường tình để sống trọn vẹn và có ích cho đời. Thiên nhiên bao giờ cũng mang lại cho Thiền gia nhiều cảm xúc mới mẻ. Không chỉ là nguồn cảm hứng vô tận, thiên nhiên còn phản ánh tâm trạng bình lặng, thanh đạm và trong trẻo của con người. Thiên nhiên trở thành những biểu tượng phong phú cho tâm hồn của các Thiền gia. Đứng trước thiên nhiên, con người dường như trở nên “vô ngôn”: “Tâm khôi oa giác mộng Bộ lí đáo thiền đường Xuân vãn hoa dung bạc Lâm u thiền vận trường Vũ thu thiên nhất bích Trì tĩnh nguyệt phân lương Khách khứ tăng vô ngữ Tùng hoa mãn địa hương” (Đề Gia Lâm tự - Trần Quang Triều) (Lòng nguội lạnh với giấc mộng lợi danh Dạo bước đến cửa thiền Xuân muộn, dáng hoa mỏng mảnh Rừng sâu, tiếng ve ngân dài Mưa tạnh, trời một màu xanh biếc Ao lặng, trăng tỏa ánh mát dịu Khách ra về tăng không nói gì Khắp mặt đất ngát mùi hương hoa thông) Không gian trong trẻo mát mẻ, trước hư không đó cái tâm của con người được thanh lọc, tự nhiên quên hết những lời cần tâm sự - “vô ngữ” - sự yên lặng làm dậy mùi hoa thông thơm ngát mặt đất. Và lúc này, giữa cái tâm của Thiền gia và ngoại vật (đặc biệt là mùi hương hoa thông) là một sự hòa điệu sâu xa, lan tỏa... Với Trần Thái Tông, cuộc sống bình dị, gần gũi với thiên nhiên có ý vị riêng của nó: “Phong đả tùng quan, nguyệt chiếu đình, Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh. Cá trung tư vị vô nhân thức, Phó dữ sơn tăng lạc đáo minh.” (Ký Thanh phong am tăng Đức Sơn - Trần Thái Tông) (Gió đập vào cánh cửa thông, trăng chiếu rọi trên sân Lòng hẹn với phong cảnh cùng nhau mát mẻ trong trẻo Ở trong đó có ý vị riêng mà không ai biết được Mặc cho nhà sư ở trong núi vui đến sáng) Cái “ý vị riêng” ở đây chính là “lòng hẹn với phong cảnh cùng nhau mát mẻ trong trẻo”. Chất Thiền toát ra ở cái “ý vị riêng” mà không ai hay biết ấy. Đó chính là giây phút con người và vạn vật hòa điệu, ta và vật không còn sai biệt, nên sự an lạc lúc đó là vô biên không thể nói thành lời. Có thể nói, thơ Thiền khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, khát khao giao hòa cùng thiên nhiên, vũ trụ. Đến lượt mình, thiên nhiên làm nguồn cảm hứng phong phú cho những sáng tác của các Thiền gia. Đồng thời các Thiền gia cũng gửi gắm vào trong đó những chiêm nghiệm về đời người trong cái vô thường của thiên nhiên, vũ trụ với những cung bậc tình cảm hết sức phong phú và đa dạng. KẾT LUẬN Đạo Phật vào Việt Nam rất sớm và nhanh chóng hòa nhập được với đời sống tinh thần của người bản xứ. Trải qua nhiều thế kỉ, cho đến nay, đạo Phật vẫn giữ một vị trí quan trọng trong văn hóa của người Việt. Điều đó cho thấy, tinh thần của đạo Phật có nhiều nét gần gũi và tương đồng với văn hóa truyền thống Việt Nam. Đến đời Trần, đạo Phật đã phát triển rất mạnh mẽ và đi sâu vào chính sự cũng như những sinh hoạt tinh thần của xã hội qua những con người cụ thể lãnh đạo triều đại như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông,... và cả những tăng sĩ như Tuệ Trung, Pháp Loa, Huyền Quang... Khép lại trang sử hào hùng của nhà Trần chúng ta không thể không ghi nhận vai trò và đóng góp to lớn của các Thiền sư – những người đã có công phát huy hiệu lực của đạo Phật trong đời sống chính trị, tư tưởng của thời đại. Từ đó, làm nền tảng tư tưởng cho sự phát triển của văn hóa thời kì sau. Song song đó là sự phát triển của một bộ phận văn học Thiền tông với tên tuổi của các nhà thơ Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Tuệ Trung, Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Quang Triều... Trong thơ Thiền thời Trần, các Thiền gia đã sống theo tinh thần “cư trần lạc đạo”, gắn bó với cuộc đời trên con đường tiến đạo. Qua thơ, họ đã thể hiện rõ những cảm xúc, tâm trạng mang dấu ấn cá nhân trước cuộc đời. Đồng thời họ cũng đề ra một con đường tu hành mới mẻ, khoáng đạt. Tuy nhiên, phải thấy rằng thơ Thiền dù mang tinh thần nhập thế nhưng vẫn không tách khỏi đời sống đạo. Các Thiền gia thời Trần trong tư tưởng hết sức phóng khoáng vẫn không đi ra ngoài giáo lí nhà Phật, mà chính họ trong giây phút giác ngộ đã biểu hiện “một thể cách biểu tỉnh trên bình diện cao hơn của tư duy trước những biến thiên của thế sự” (Cốt tủy của đạo Phật, D.T. Suzuki). Đó chính là cái trạng thái đặc trưng của nghệ thuật trung đại, trong đó “yếu tố thế tục và yếu tố tôn giáo không tách bạch rõ ràng” (Những phạm trù văn hoá trung cổ, A. Gurevich, NXB Nghệ thuật Moskva 1972, Hoàng Ngọc Hiến dịch). Nói như thế để thấy, trong thời đại này, con người của đạo không xa rời con người thế tục, không tách rời truyền thống của dân tộc. Đó là những con người biết gắn đạo với đời, vừa tham gia đánh giặc cứu nước, vừa tham Thiền học đạo. Những con người ấy, khi gác bỏ chiến bào trở về với cuộc sống thường nhật họ lại khoác lên mình chiếc áo thi nhân với những rung cảm mạnh mẽ, sâu xa trước cuộc sống, con người và thiên nhiên, ngoại vật. Với họ, một ánh trăng, một dòng nước, một gian nhà cỏ, một khoảnh khắc của sự chuyển mùa,... cũng đủ làm lay động tâm hồn. Với họ, cuộc sống con người như “ánh chớp” thoắt “có”, thoắt “không”, còn “Thân như băng gặp nắng trời, Mệnh tựa ngọn đèn trước gió” (Sơ nhật vô thường kệ - Trần Thái Tông), cho nên, phải biết sống trọn vẹn những thời khắc hiện tại và trở về với tự tính – bản thể để được an nhiên, tự tại trong mùa xuân vĩnh cửu của tâm hồn. Họ chủ trương phát huy nội lực trong đời sống thực hơn là tìm hạnh phúc mơ hồ. Từ đó có thể hiểu rõ hơn mối tương giao, sự gắn kết giữa thơ Thiền thời Trần và văn hóa Việt Nam. Thơ Thiền thời Trần có những đặc điểm riêng, vị trí riêng trong dòng văn học Việt Nam, nhờ đó mà qua thời gian nó vẫn tồn tại và có sức hấp dẫn bao thế hệ người đọc. Nó tạo một dấu ấn khó phai mờ, không thể lẫn lộn với các bộ phận văn học khác, kể cả văn học thời Lí rất gần gũi và có nhiều điểm tương đồng. Trên đây chỉ là những ý kiến ban đầu khi nghiên cứu đề tài này. Kết quả có được của đề tài là trên cơ sở người viết kế thừa những thành tựu của người đi trước và cố gắng nêu lên một vài ý kiến riêng. Hi vọng những gì đạt được của đề tài sẽ có ích cho việc tham khảo thêm về văn học giai đoạn này. Những vấn đề mà đề tài đặt ra theo chúng tôi còn đòi hỏi nhiều công trình nghiên cứu sâu hơn, bởi thơ Thiền thời Trần vẫn còn là một “khu vườn bí ẩn” cần được khám phá với thời gian và công sức nhiều hơn nữa. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Thích Phước An (1992), Thiền sư Huyền Quang và con đường trầm lặng mùa thu, TCVH, HN, số 4. 2. Thích Đồng Bổn (2006), Vai trò chính trị của các tăng sĩ Phật giáo ở thời đại Lí – Trần, NXB Tôn giáo, HN. 3. Nguyễn Đổng Chi (1970), Việt Nam cổ văn học sử, tập 1, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, S, tb. 4. Minh Chi (2003), Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam, NXB Tôn giáo, HN. 5. Nguyễn Phương Chi (1982), Huyền Quang, nhà sư – thi sĩ, TCVH, HN, số 3. 6. Phạm Văn Diêu (1970 – 1971), Văn học đời Trần Hồ, Bài giảng tại Đại học Văn khoa Sài Gòn. 7. Nguyễn Thị Danh Duyên (2000), Tính nhân văn trong thơ văn đời Trần, Luận văn tốt nghiệp, ĐHSP TP HCM. 8. Phạm Đức Dương (2007), Việt Nam – Đông Nam Á ngôn ngữ và văn hóa, Nhà xuất bản giáo dục 9. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, TTHL, S, tb. 10. Nguyễn Phạm Hùng (1994), Thơ Thiền và việc lĩnh hội thơ Thiền, TCVH, HN, số 10. 11. Kiều Thu Hoạch (1965), Tìm hiểu thơ văn các nhà sư Lí – Trần, TCVH, HN, số 6. 12. Đỗ Văn Hỷ (1975), Câu chuyện Huyền Quang và cách đọc thơ Thiền, TCVH, HN, số 1. 13. Đinh Gia Khánh (1960), Văn học cổ Việt Nam, NXB GD, HN. 14. Phạm Ngọc Lan (1992), Trần Nhân Tông và cảm hứng Thiền trong thơ, TCVH, HN, số 4. 15. Nguyễn Công Lý (1997), Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền tông thời Lí – Trần, NXB VHTT, HN. 16. Nguyễn Công Lý (2003), Văn học Phật giáo thời Lí – Trần diện mạo và đặc điểm, NXB ĐH Quốc gia, TP HCM. 17. Đặng Thai Mai (1977), Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học, Thơ văn Lí – Trần, tập 1, NXB KHXH, HN. 18. Nguyễn Bích Ngọc (2008), Văn hóa Việt Nam dưới triều Trần, NXB VHTT, HN. 19. Bùi Văn Nguyên (1978), Lịch sử văn học Việt Nam tập 2, NXB GD, HN. 20. N.I.Niculin (2006), Dòng chảy văn hóa Việt Nam, Hồ Sĩ Vịnh & Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, NXB VHTT, HN. 21. Lê Văn Quán (2007), Nguồn văn hóa truyền thống Việt Nam, NXB Lao động, HN. 22. Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận một số tác gia – tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, tập 1, NXB Giáo dục. 23. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB GD, TP HCM. 24. Ngô Tất Tố (1942), Văn học đời Trần, Mai Lĩnh, HN. 25. Thích Thanh Từ (2005), Tam tổ Trúc Lâm giảng giải, NXB Tổng hợp, TP HCM. 26. Thích Thanh Từ (1995), Thiền học đời Trần, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam. 27. Thích Thanh Từ (2008), Thiền tông Việt Nam cuối thế kỉ XX, NXB Tôn giáo, HN. 28. Thích Thanh Từ (2004), Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục giảng giải, NXB Tổng hợp, TP HCM. 29. Đoàn Thị Thu Vân (1992), Một vài nhận xét về ngôn ngữ thơ Thiền Lí – Trần, TCVH, HN, số 2. 30. Đoàn Thị Thu Vân (1993), Quan niệm con người trong thơ Thiền Lí – Trần, TCVH, HN, số 3. 31. Đoàn Thị Thu Vân (1995), Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ X đến thế kỉ XIV, Chuyên luận PTS khoa học Ngữ văn, Bảo vệ tại ĐHSP, TP HCM. 32. Đoàn Thị Thu Vân (1998), Thơ Thiền Lí Trần, NXB Văn nghệ TP.HCM – Hội nghiên cứu giảng dạy TP.HCM. 33. Đoàn Thị Thu Vân (2007), Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại, NXB GD, TP HCM. 34. Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn học, HN. NHIỀU TÁC GIẢ: 35. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (1976), tập 2, NXB VH, HN. 36. Tâm lí người Việt Nam nhìn từ nhiều góc độ (2000), NXB TP HCM. 37. Thiền học đời Trần (1995), Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam. 38. Thiền uyển tập anh (1990), Phân viện NCPH, NXB Văn học, HN. 39. Thơ văn Lí – Trần (1977), tập 1, NXB KHXH, HN. 40. Tổng tập văn học Việt Nam (2000), tập 2, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, NXB Khoa học Xã hội. 41. Tổng tập văn học Việt Nam (2000), tập 3, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, NXB Khoa học Xã hội. 42. Trần Nhân Tông vị vua Phật (2004), NXB Tổng hợp, TP HCM. 43. Tuệ Trung thượng sĩ với Thiền tông Việt Nam (2000), Viện KHXH TTNC Hán Nôm, NXB Đà Nẵng. 44. Từ điển minh triết phương Đông (1997), Lê Diên dịch, NXB KHXH, HN. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5182.pdf
Tài liệu liên quan