ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
---------------------------------
PHẠM VINH QUANG
THƠ CA DÂN GIAN
CỦA NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thái Nguyên - 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
---------------------------------
PHẠM VINH QUANG
THƠ CA DÂN GIAN
CỦA NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HẰNG PHƯƠNG
Thái Nguyên - 2008
120 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2421 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thơ ca của người dao tuyển ở Lào Cai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Mục lục
Trang
MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 7
6. Những đóng góp của luận văn ............................................................................. 7
7. Bố cục của luận văn .............................................................................................. 7
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ XÃ HỘI VĂN HOÁ CỦA
NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI ......................................................... 8
1.1. Đặc điểm lịch sử, xã hội, văn hoá của người Dao Tuyển ............................... 8
1.2. Khái quát về thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ..................................... 19
* Tiểu kết ................................................................................................................. 26
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG THƠ CA DÂN GIAN NGƯỜI DAO TUYỂN Ở
LÀO CAI ................................................................................................... 27
2.1. Vài nét khái quát về cuộc sống của người Dao Tuyển qua thơ ca dân gian 28
2.2. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển là tiếng ca ai oán của những người
mồ côi bất hạnh .......................................................................................... 30
2.3. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển thể hiện một quan niệm đẹp về tình
yêu và hôn nhân của con người .................................................................. 37
2.4. Thơ ca dân gian của người Dao Tuyển là tấm gương phản chiếu đời sống tập
quán tín ngưỡng của con người ............................................................................. 50
* Tiểu Kết ................................................................................................................ 58
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP THƠ CA DÂN GIAN CỦA
NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI ....................................................... 60
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3.1. Khái niệm thi pháp, thi pháp học và thi pháp văn học dân gian ................... 60
3.1.1. Thi pháp và thi pháp học .................................................................. 60
3.1.2. Thi pháp văn học dân gian ............................................................... 60
3.2. Một số đặc điểm thi pháp thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ................ 61
3.2.1. Thời gian nghệ thuật ........................................................................ 61
3.2.2. Không gian nghệ thuật ..................................................................... 70
3.2.3. Một số biện pháp tu từ nghệ thuật .............................................................. 77
3.2.4. Hình thức diễn xướng thơ ca dân gian ...................................................... 85
*Tiểu kết .................................................................................................................. 97
KẾT LUẬN ............................................................................................... 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 102
PHỤ LỤC ................................................................................................ 108
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lí do khoa học
Văn hoá là nền tảng, là nhân tố phản ánh trình độ phát triển của xã hội.
Văn hoá truyền thống thể hiện sự sáng tạo của mỗi dân tộc. Nền văn hoá Việt
Nam mang đậm bản sắc văn hoá của cư dân nông nghiệp, được tạo bởi dân
tộc Việt Nam trong đó có sự đóng góp không nhỏ của các dân tộc thiểu số
sống trên đất nước Việt Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định: “Coi
trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng phát triển
giá trị mới về văn hoá văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số là một nhiệm
vụ vô cùng cấp bách”[77, tr.63].
Văn học dân gian là một thành tố quan trọng của văn hoá dân gian, là
di sản văn hoá quí báu của dân tộc. Mỗi làn điệu dân ca, mỗi lời ca dao... đều
lấp lánh trong nó vẻ đẹp của bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc, vẻ đẹp của
tính cách, tâm hồn con người. Thơ ca dân gian là một tiểu loại đặc sắc của
văn học dân gian. Tìm hiểu thơ ca dân dân gian của dân tộc Dao nói chung,
của người Dao Tuyển ở Lào Cai nói riêng là một việc làm cần thiết, góp phần
gìn giữ và phát huy những tinh hoa di sản văn hoá quý báu của dân tộc.
1.2.Lí do thực tiễn
Từ trước đến nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu về người Dao đã
được tiến hành trong phạm vi cả nước, từ việc tìm hiểu cội nguồn lịch sử, tình
hình phân bố dân cư, đời sống tôn giáo, tín ngưỡng cho đến việc phân tích sự
phát triển kinh tế xã hội và biến đổi văn hoá dân tộc Dao ở các địa phương.
Các công trình ấy cung cấp khá đầy đủ về một số khía cạnh dân tộc học, văn
hoá học. Nhưng chưa có công trình nào đi sâu vào tìm hiểu thơ ca dân gian
người Dao Tuyển ở Lào Cai. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài này nhằm tìm
hiểu đời sống tinh thần của người Dao Tuyển qua thơ ca, đặc biệt là các giá trị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
về nội dung và nghệ thuật của thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai.
Tìm hiểu thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai sẽ góp phần làm
sáng tỏ thêm về cuộc sống, văn hoá, tâm hồn của con người miền núi nói
chung và nhóm người Dao Tuyển nói riêng.
Hiện nay, tôi đang trực tiếp giảng dạy bộ môn Văn tại nơi có nhiều
người Dao Tuyển sinh sống. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu thơ ca dân gian
của người Dao Tuyển ở Lào Cai sẽ giúp tôi hiểu rõ hơn về văn hoá tinh thần
của người Dao Tuyển. Từ đó có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao chất
lượng giảng dạy văn học dân gian của các tộc người thiểu số.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Mỗi dân tộc đều có những nét văn hoá đặc thù riêng. Những giá trị văn
hoá đậm bản sắc đó đã tạo nên nền văn hoá thống nhất mà đa dạng Việt
Nam. Nghiên cứu nền văn học dân gian của các dân tộc là nhằm gìn giữ và
phát huy các giá trị văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nghiên
cứu để bảo tồn và phát triển bền vững thơ ca dân gian của người Dao Tuyển
ở Lào Cai có ý nghĩa thiết thực với địa phương. Trong nhiều thập kỉ qua, đã
có không ít nhà khoa học quan tâm nghiên cứu về người Dao. Các công trình
nghiên cứu đó đã đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến một vài khía cạnh về
người Dao ở Lào Cai.
Từ thế kỉ XVIII, nhà bác học Lê Quý Đôn đã viết tác phẩm Kiến văn
tiểu lục (1778). Trong tác phẩm này, Lê Quý Đôn không chỉ đề cập đến
nguồn gốc, mà còn miêu tả khái quát về cách ăn mặc, cuộc sống di cư của
một nhóm người Man (Dao) ở nước ta. Cũng vào năm đó, tác phẩm Hƣng
Hoá xứ – Phong Thổ lục của tiến sĩ Hoàng Bình Chính đã giới thiệu sơ lược
về người Dao ở Châu Thuỷ Vỹ (Lào Cai). Năm 1856, nhà sử học Phạm Thận
Duật đã viết tác phẩm Hƣng Hoá kí lƣợc, giới thiệu khái quát về phong tục
tập quán của các dân tộc ở Hưng Hoá, trong đó có nói tới phong tục tập quán
người Mán (Dao). Tuy nhiên, các tác phẩm trên đều chưa nói đến thơ ca dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
gian của người Dao mà chỉ giới thiệu khái quát về người Dao với những vấn
đề về lịch sử, dân tộc học.
Đến đầu thế kỉ XX, nhiều tài liệu viết về người Dao ở nước ta do các
tác giả người Pháp viết lần lượt được công bố. Đáng chú ý là các bài viết của
M.Abadie, đặc biệt là A.Bonifacy với các bài viết: Các dân tộc miền Bắc
Đông Dƣơng, Một cuộc công cán ở vùng ngƣời Mán. Những bài viết này đề
cập đến nhiều khía cạnh văn hoá của các nhóm Dao ở Việt Nam như ngôn
ngữ, sản xuất, phong tục tập quán...nhưng cũng chỉ mô tả khái quát và còn tản
mạn. Năm 1904, A.Bonifacy tiếp tục công bố các bài đã sưu tầm được về
truyền thuyết dân gian người Dao như Truyền thuyết Bàn Hồ, Quá Sơn
Bảng...rồi hàng loạt các chuyên khảo về người Dao như: Mán Quần cộc (1904
– 1905), Mán Quần Trắng (1905), Mán Đại Bản (1908)...Trong đó có trích
dẫn một số đoạn thơ ca từ sách cúng, từ đám cưới, đám tang của người Dao.
Mặc dù những đoạn thơ ấy chỉ được giới thiệu hết sức sơ lược hay chỉ làm
minh chứng cho những nhận định, nhưng cũng đã đánh dấu ông là học giả
đầu tiên đề cập đến thơ ca dân gian dân tộc Dao ở Việt Nam.
Sau năm 1945, các nhà khoa học ở nước ta tiếp tục sưu tầm và nghiên
cứu về người Dao. Đáng chú ý là tác phẩm Dân ca Dao do nhà nghiên cứu
Triệu Hữu Lý sưu tầm và biên dịch. Đây là tập dân ca đầu tiên của người Dao
gồm nhiều loại hình được xuất bản: hát đối đáp nam nữ, tình thư gửi (tín ca),
những lời răn lưu truyền, những lời bài hát đám cưới.
Ngƣời Dao ở Việt Nam của các tác giả Bế Viết Đẳng - Nguyễn Khắc
Tụng - Nông Trung - Nam Tiến, do nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản
năm 1971, là tác phẩm đề cập khá toàn diện về đời sống của người Dao trên
lãnh thổ Việt Nam như dân số, địa vực, tên gọi các nhóm Dao, các hình thái
kinh tế, sinh hoạt vật chất, sinh hoạt xã hội, sinh hoạt văn hoá tinh thần và
những đổi mới trong cuộc sống sinh hoạt của người Dao từ sau Cách mạng
tháng Tám 1945 đến 1971. Tuy nhiên, các tác giả mới đề cập tới những nét
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
cơ bản về đời sống văn hoá của người Dao, trong đó có thơ ca dân gian, chưa
có điều kiện đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu những nét đặc thù về văn hoá, đặc
biệt là thơ ca dân gian của người Dao ở từng địa phương.
Cuốn Lễ hội cổ truyền Lào Cai của Trần Hữu Sơn, do Nxb Văn hoá
dân tộc xuất bản năm 1999, đã giới thiệu những sinh hoạt lễ hội truyền thống
tiêu biểu của các dân tộc thiểu số ở Lào Cai. Trong đó đề cập đến Lễ tết nhảy
của dân tộc Dao Đỏ Sa Pa, Lễ lập tịch của người Dao Họ. Trong sách, tác giả
có đề cập đến dân ca Dao nhưng chỉ dừng ở mức độ khái quát.
Cuốn Tập tục chu kì đời ngƣời của các tộc ngƣời ngôn ngữ H’Mông -
Dao ở Việt Nam của Nguyễn Đức Lợi, do Nxb Văn hoá dân tộc xuất bản năm
2002, đã đề cập đến tập tục, chu kì đời người của các dân tộc trong ngữ hệ
H’Mông - Dao ở Việt Nam.Trong đó đã đi sâu vào tìm hiểu một số tập tục
trong cuộc đời của người Dao như tập tục đánh dấu sự trưởng thành, lễ cấp
sắc, tục cưới xin, tục ma chay… nhưng chưa chú ý tới thơ ca dân gian của
người Dao.
Về người Dao Tuyển, hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu
quan tâm, chú ý là các công trình nghiên cứu của tác giả Trần Hữu Sơn.
Trần Hữu Sơn (2001), Lễ cƣới ngƣời Dao Tuyển, Nxb Văn hoá dân tộc,
Hà Nội, đã đề cập tương đối chi tiết đến hôn nhân và nghi lễ cưới hỏi của
người Dao Tuyển. Cuốn sách đã giới thiệu hàng trăm bài dân ca đám cưới của
người Dao Tuyển ở Lào Cai, Hà Giang (chủ yếu là ở Lào Cai).
Trần Hữu Sơn (2005), Thơ ca dân gian ngƣời Dao Tuyển, Nxb Văn hoá
dân tộc, Hà Nội. Cuốn sách là một nguồn tư liêụ quý nghiên cứu về kinh tế,
văn hoá, xã hội của người Dao. Công trình đã giới thiệu hàng trăm bài dân ca
lao động, dân ca nghi lễ phong tục, dân ca sinh hoạt của người Dao Tuyển
(chủ yếu là ở Lào Cai). Tuy nhiên, Thơ ca dân gian ngƣời Dao Tuyển mới chỉ
dừng lại ở việc giới thiệu về các loại hình thơ ca dân gian, trình bày sơ đôi nét
về nghệ thuật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Vì vậy, việc tìm hiểu thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai,
đặc biệt là việc đi sâu vào tìm hiểu những giá trị nội dung và thi pháp thơ ca
dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai vẫn còn là một khoảng trống. Trên
cơ sở kế thừa thành quả của các công trình đi trước, chúng tôi lựa chọn đề tài
Thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai nhằm góp phần tiếp tục
khai thác vốn văn hoá nghệ thuật cũng như những nét đẹp trong tâm hồn của
người Dao Tuyển. Đây là một lĩnh vực nghiên cứu mang tính cấp thiết, tiếp
tục bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của người Dao
Tuyển ở Lào Cai nói riêng, văn hoá của của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở kế thừa những tài liệu khoa học đã công bố về người Dao
Tuyển ở Việt Nam nói chung, về người Dao Tuyển ở Lào Cai nói riêng, bằng
những nguồn tư liệu địa phương qua nghiên cứu, sưu tầm tại chỗ, tác giả muốn
đi sâu nghiên cứu về thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai. Qua đó,
nhận diện thực trạng đời sống văn hoá tinh thần phong phú của cộng đồng
người Dao Tuyển, đặc biệt là những giá trị của thơ ca dân gian.
Nghiên cứu thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai là một việc làm
cần thiết, là góp phần bổ sung những hiểu biết về một tiểu loại văn học trong sự
đa dạng phong phú của nền văn học dân gian dân tộc Dao. Từ đó, khẳng định
những giá trị cần được gìn giữ và bảo tồn.
Từ kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi muốn giới thiệu những giá trị của
của thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai nhằm giáo dục truyền thống
tốt đẹp của văn hoá tộc người và giá trị của nó trong cuộc đấu tranh xây dựng,
bảo vệ quê hương đất nước trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu những vấn đề lí thuyết làm cơ sở để triển khai đề tài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Tìm hiểu một số đặc điểm về đời sống văn hoá xã hội, phong tục tập
quán, tín ngưỡng tôn giáo của người Dao có liên quan đến đề tài.
Khảo sát, thống kê, phân tích tư liệu về dân ca Dao Tuyển để đi đến
những nhận định về giá trị của thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai.
Chỉ ra những nét đặc thù của thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở
Lào Cai trên cơ sở so sánh đối chiếu với thơ ca dân gian của các dân tộc khác.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính Thơ ca dân gian của ngƣời Dao Tuyển ở
Lào Cai.
Xem xét thêm một số yếu tố khác có liên quan đến nội dung đề tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Phạm vi tƣ liệu nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành khảo sát thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở
Lào Cai trong một số công trình đã được công bố:
1. Trần Hữu Sơn (2001), Lễ cƣới ngƣời Dao Tuyển, Nxb Văn hoá dân
tộc, Hà Nội.
2. Trần Hữu Sơn (2005), Thơ ca dân gian ngƣời Dao Tuyển, Nxb Văn
hoá dân tộc, Hà Nội.
Ngoài ra, chúng tôi còn tiến hành khảo sát, phân tích một số lời thơ dân
gian của người Dao Tuyển và những tư liệu liên quan đến đề tài mà chúng tôi
thu thập được trong quá trình điền dã.
4.2.2.Phạm vi vấn đề nghiên cứu
Trong giới hạn của một đề tài luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ nghiên cứu
nội dung cơ bản và một số yếu tố về thi pháp tiêu biểu trong phần lời của dân
ca của người Dao Tuyển ở Lào Cai ( những yếu tố khác dùng để phân tích
tham khảo khi cần thiết).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu liên ngành.
Phương pháp khảo sát thống kê.
Phương pháp phân tích tổng hợp so sánh.
Phương pháp điền dã.
6. Những đóng góp của luận văn
Lần đầu tiên thơ ca của người Dao Tuyển ở Lào Cai được tìm hiểu một
cách hệ thống trên các phương diện nội dung và thi pháp. Bước đầu làm rõ
bản sắc riêng của thơ ca dân gian của người Dao Tuyển so với thơ ca dân gian
của các dân tộc khác trên địa bàn.
Bên cạnh đó, trong quá trình điền dã, chúng tôi sưu tầm được một số
lời ca dân gian, dù lời lẽ còn thô mộc, nhưng những lời ca ấy chính là minh
chứng sinh động cho sinh hoạt tinh thần phong phú rất đặc trưng của người
Dao Tuyển.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn chia thành ba chương viết:
- Chƣơng1: Khái quát về lịch sử, xã hội,văn hoá của ngƣời Dao
Tuyển ở Lào Cai.
- Chƣơng 2: Nội dung thơ ca dân gian của ngƣời Dao Tuyển ở
Lào Cai.
- Chƣơng3: Đặc điểm thi pháp thơ ca dân gian của ngƣời Dao
Tuyển ở Lào Cai.
Tài liệu tham khảo
Phần phụ lục của luận văn có một số tranh ảnh, bản đồ minh hoạ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ XÃ HỘI VĂN HOÁ
CỦA NGƢỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI
1.1. Đặc điểm lịch sử, xã hội, văn hoá của ngƣời Dao Tuyển
1.1.1.Vài nét về nguồn gốc lịch sử của ngƣời Dao Tuyển
Trong trường kì lịch sử, Lào Cai là điểm hội lưu văn hóa của các tộc
người (Lào Cai có 27 dân tộc sinh sống), vì vậy diện mạo văn hoá của vùng
biên ải này khá đa dạng. Tính đa dạng trong văn hoá Lào Cai được thể hiện rõ
nét trong văn hóa các tộc người: “Lào Cai có mặt các cƣ dân của ba (trong số
bốn) ngữ hệ lớn ở Việt Nam: Ngữ hệ Nam Á có các tộc ngƣời Việt, Mƣờng,
Kháng, H.Mông, Dao, La Chí, La Ha ; Ngữ hệ Hán –Tạng có các tộc ngƣời
Hoa ( Xạ Phang), Hà Nhì , Phù Lá (cả nhóm Xá Phó ); Ngữ hệ Thái có các
tộc ngƣời Tày (cả nhóm Pá Dí ), Thái , Giáy, Lào Lự , Bố Y”[48, tr.13].
Trong số các dân tộc thiểu số ở Lào Cai, người Dao là một trong những
tộc người có dân số khá đông (85.428 người, chiếm tỉ lệ 15,24% dân số toàn
tỉnh - số liệu thống kê năm 2006), gồm 3 nhóm Dao khác nhau: Dao Đỏ, Dao
Họ và Dao Tuyển. Nhóm Dao Tuyển ở Lào Cai có số dân 31.325 người. Theo
nhà nghiên cứu Trần Hữu Sơn: “Dân tộc Dao Tuyển ở Việt Nam có khoảng
45.000 người”[50, tr.7]. Như vậy, xét theo mức độ tập trung dân cư, người
Dao Tuyển ở Việt Nam sinh sống chủ yếu ở Lào Cai.
Người Dao Tuyển cư trú trên một địa bàn rộng. Trên thế giới người Dao
Tuyển sinh sống ở 4 quốc gia: Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam và Lào. Ở
Việt Nam, người Dao Tuyển cư trú tại 4 tỉnh: Lào Cai, Hà Giang, Tuyên
Quang và Lai Châu. Tại Lào Cai, người Dao Tuyển cư trú tập trung tại các
huyện: Bảo Yên, Bảo Thắng, Bát Xát, Cam Đường, Bắc Hà và Mường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Khương. Dù ở các quốc gia khác nhau, sinh sống trên các vùng miền khác
nhau nhưng tất cả người Dao Tuyển đều có chung một cội nguồn lịch sử, đều
gần gũi nhau về các mặt như tên gọi, tiếng nói, văn hoá. Tuy nhiên, người
Dao Tuyển ở mỗi vùng đều có những nét đặc thù riêng do nhiều nguyên nhân
khách quan đem lại như điều kiện địa lí, môi trường sinh thái, giao lưu kinh
tế, văn hóa với các tộc người anh em mà họ sinh sống trên cùng một địa bàn
trong một thời gian dài.
Ở Việt Nam, dân tộc Dao Tuyển có nhiều tên gọi khác nhau như ở Lào
Cai được gọi là Dao Tuyển; ở Phong Thổ Lai Châu người Dao Tuyển đuợc
gọi là Dao Đầu Bằng; ở Hà Giang, Tuyên Quang người Dao Tuyển được gọi
là Dao Aó Dài. Cho dù tên gọi ở các địa phương có khác nhau nhưng đó đều
là tên gọi chỉ một bộ phận của nhóm Dao Làn Tiẻn (Dao Lan Điền).
Về nguồn gốc của người Dao nói chung, người Dao Tuyển nói riêng, cho
đến nay trong dân gian vẫn còn lưu truyền rộng rãi câu chuyện Bàn Hồ. Đó là
câu chuyện giải thích về nguồn gốc của họ : Bàn Hồ là con long khuyển mình
dài ba thƣớc, lông đen vằn vàng mƣớt nhƣ nhung, từ trên trời giáng xuống
trần gian đƣợc Bình Hoàng yêu quý nuôi trong cung. Một hôm Bình Hoàng
nhận đƣợc chiến thƣ của Cao Vƣơng. Bình Hoàng liền họp bá quan văn võ để
bàn mƣu tính kế diệt họ Cao nhƣng không ai tìm đƣợc kế gì . Trong khi đó thì
con long khuyển Bàn Hồ từ trong kim điện nhảy ra sân rồng quỳ lạy xin đi
giết Cao Vƣơng. Trƣớc khi Bàn Hồ ra đi nhà vua có hứa, nếu thành công sẽ
gả công chúa cho. Bàn Hồ bơi qua biển bảy ngày, bảy đêm mới tới nơi Cao
Vƣơng ở. Cao Vƣơng thấy con chó đẹp tới phủ phục trƣớc sân rồng thì cho đó
là điềm lành, nên đem vào cung nuôi. Nhân một hôm Cao Vƣơng say rƣợu
Bàn Hồ cắn chết Cao Vƣơng và ngoặm lấy đầu đem về báo công với Bình
Hoàng. Bàn Hồ lấy đƣợc cung nữ đem vào núi Cối Kê ( Chiết Giang ) ở. Vợ
chồng Bàn Hồ không bao lâu sinh đƣợc 6 con trai và 6 con gái. Bình Hoàng
ban sắc cho con cháu Bàn Vƣơng thành 12 họ, riêng ngƣời con cả đƣợc lấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
họ cha, còn các con thứ lấy tên làm họ, gồm các họ: Bàn, Lan, Mãn, Uyển,
Đặng, Trần, Lƣơng, Tống, Phƣợng, Đối, Lƣu, Triệu. Con cháu Bàn Vƣờng
sinh sôi nảy nở mỗi ngày một nhiều và phân tán khắp nơi để sinh sống [6,
tr.19]. Như vậy, Bàn Hồ là một nhân vật thần thoại, được người Dao thừa
nhận là “ông tổ” của mình và được thờ cúng rất tôn nghiêm.
Ngoài ra, sử sách lưu truyền cũng có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn
gốc của người Dao, nhưng tất cả đều thống nhất một quan điểm: người Dao
có nguồn gốc từ Trung Quốc, di cư sang Việt Nam qua nhiều con đường khác
nhau, trong một quá trình lâu dài. Quá trình thiên di của người Dao Tuyển tới
Lào Cai đã được nhà nghiên cứu Trần Hữu Sơn trình bày một cách khá cụ thể
: Người Dao Tuyển di cư vào Việt Nam bằng hai con đường chính. Tuyến thứ
nhất vào cuối Triều Minh (Thế kỉ 17), người Dao Làn Tiẻn từ Quảng Đông
vào Móng Cái (Quảng Ninh), qua Lục Ngạn sông Đuống đến Yên Bái, ngược
sông Chảy lên Lào Cai. Tuyến thứ hai vào năm Mậu Thân đầu triều Thanh
(1668), người Dao Tuyển đến Việt Nam ở hai vùng Vân Sơn và Mộng Tự.
Năm Tân Dậu triều Thanh (1801), người Dao từ Mộng Tự đến Kiến Thuỷ, Hà
Khẩu theo sông Hồng vào Châu Thuỷ Vĩ (Lào Cai). Như vậy đầu thế kỉ XIX,
người Dao Tuyển đã có mặt ở vùng sông Hồng Lào Cai. Liên tiếp cuối thế kỉ
XIX đầu thế kỉ XX, người Dao Tuyển đã có một số đợt thiên di đến vùng Bát
Xát [51, tr.10].
Người Dao Tuyển bên cạnh những đặc điểm mang tính cội nguồn, còn
có những đặc trưng riêng mang đậm dấu ấn môi trường tự nhiên, văn hoá xã
hội của vùng miền. Đến cư trú ở Lào Cai, người Dao Tuyển mong muốn có
một cuộc sống ổn định, ấm no hạnh phúc. Thời kì mà người Dao đến Lào Cai
là thời kì mà sự thống trị của triều đình phong kiến đối với những vùng xa xôi
hẻo lánh không chặt chẽ. Trong điều kiện đó, người Dao làm ăn tương đối tự
do. Vì vậy, mà đồng bào tin rằng Việt Nam là nơi có thể sinh sống tốt:
Thăm hết các nơi cùng ngõ hẻm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Đất nƣớc Việt Nam lòng thấy vui
Việt Nam giàu đẹp đừng quên nhé
Mau mau dọn nhà đến Việt Nam [6, tr.40].
Ngày nay, sống trong môi trường xã hội chủ nghĩa, nhờ có đường lối
chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam,
đời sống của người Dao Tuyển đã có những biến đổi sâu sắc: từ thân phận nô
lệ trở thành người làm chủ đất nước, có cuộc sống bình đẳng với các dân tộc
anh em, mọi mặt đời sống được cải thiện rõ nét, bản sắc văn hoá được bảo tồn
và phát triển.
1.1.2. Một vài đặc điểm về văn hoá xã hội truyền thống của ngƣời Dao
Tuyển
Như chúng tôi đã trình bày ở mục 1.1.1, người Dao Tuyển ở Lào Cai
không cư trú tập trung mà phân tán ở hầu khắp các huyện. Môi trường sống
của họ là vùng núi cao, địa hình phức tạp, giao thông không thuận tiện. Điều
đó đã tạo ra sự ngăn cách và khép kín về kinh tế, văn hoá xã hội. Nhưng mặt
khác, trong điều kiện hiện nay, khi đất nước đang trên đà hội nhập và đi
những bước đi vững chắc về mọi mặt, người Dao Tuyển ngày càng có điều
kiện giao lưu, tiếp xúc với các dân tộc anh em. Do vậy, đời sống kinh tế, văn
hoá của họ đang từng bước được phát triển phong phú và đa dạng. Xét về đặc
điểm văn hoá truyền thống của họ, có thể chia thành những khía cạnh sau:
1.1.2.1. Quan hệ xã hội, bản làng và gia đình
Người Dao Tuyển sống chủ yếu dựa vào nền kinh tế tiểu nông, tự cấp, tự
túc. Quan niệm “trọng nông khinh thƣơng” đã ăn sâu vào tâm lí của họ. Hình
thái tâm lí văn hoá của người Dao Tuyển là luôn coi trọng luân lí đạo đức, coi
trọng lợi ích cộng đồng dân tộc, tôn trọng ý thức cộng đồng, tôn trọng quan
niệm giá trị an cư lạc nghiệp, không muốn tiến thủ ra bên ngoài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Kết cấu xã hội của người Dao Tuyển gồm 3 cấp độ khác nhau: Cộng
đồng theo địa vực cư trú (làng, bản), cộng đồng mang tính huyết thống (dòng
họ) và cộng đồng gia đình.
Làng của người Dao Tuyển được gọi là “giăng”. Làng thường được lập
trên các sườn núi. Người Dao Tuyển không cư trú xen kẽ với các dân tộc khác
trong làng. Đứng đầu mỗi làng là trưởng làng “giăng châu”. Trưởng làng
thông thường là người trưởng họ trong dòng họ lớn nhất trong làng, những
cũng có nơi là người có uy tín, giỏi làm ăn. Họ là người nắm vững các luật
tục, quy ước chung của làng, có khả năng tập hợp, chỉ đạo dân làng. Đồng
thời, họ am hiểu pháp luật, chủ trương chính sách của nhà nước, có khả năng
truyền đạt chủ trương chính sách đó đến với người dân. Bên cạnh trưởng làng,
mỗi làng còn có một già làng. Đó là người am hiểu phong tục tập quán, biết
nghi lễ cúng bái và có uy tín cao. Ngoài ra, già làng còn có vai trò giám sát
thực hiện các nghi lễ chung của làng và của gia đình, hoặc giám sát việc cúng
của thầy cúng ở nơi khác đến làm lễ cho các gia đình trong làng.
Mỗi làng của người Dao Tuyển có một hệ thống các luật tục như luật tục
bảo vệ nguồn nước, luật tục về quan hệ giữa các thành viên, chống thả rông
gia súc, bảo vệ mùa màng…Hệ thống luật tục của làng đều được dân làng dân
chủ thảo luận. Luật tục đã trở thành một công cụ quản lí làng. Nếu ai vi phạm
luật tục, sẽ bị dân làng phạt. Người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng quy định
mức phạt như sau: Ai chặt phát một cây con ở rừng chung của làng bị phạt 5
đồng bạc trắng, chặt một cây to phạt 10 đồng bạc trắng, đốt rừng chung làm
nương rẫy bị phạt 20 đồng bạc trắng [50, tr.31].
Người Dao Tuyển có 12 họ chính. Mỗi họ lại có nhiều dòng họ khác
nhau. Dòng họ là những người có chung một ông tổ 6 đời. Mỗi dòng họ có
một hệ thống 6 tên đệm riêng (mỗi tên đệm tương ứng với một thế hệ), có một
ông trưởng họ - con trai trưởng của ngành trưởng. Trưởng họ phải là người
am hiểu tôn giáo, tín ngưỡng, nếp sống của người Dao, có trách nhiệm chỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
đạo các việc chung của dòng họ, đại diện cho dòng họ, giao tiếp, giao dịch với
các dòng họ khác. Các thành viên trong dòng họ có trách nhiệm tương trợ,
giúp đỡ lẫn nhau khi có công việc lớn như: làm nhà, cưới xin, ma chay,…
Gia đình người Dao Tuyển là gia đình phụ hệ, tính chất phụ hệ chi phối
chặt chẽ quan hệ gia đình: Chủ gia đình là đàn ông, nếu bố chết thì con trai
trưởng thay thế. Trong gia đình, người chồng giữ vị trí quan trọng, có trách
nhiệm chỉ đạo sản xuất, đảm nhiệm toàn bộ những công việc nặng nhọc, thực
hiện các nghi lễ gia đình, đồng thời có trách nhiệm giáo dục các con trai và
quan hệ với người ngoài. Người vợ phụ trách các công việc nội trợ và giáo
dục các con gái. Riêng công việc đồng áng và làm vườn thì dường như không
có sự phân chia rõ ràng. Trong công việc hàng ngày thì tính chất phụ hệ và
thứ bậc chi phối đậm nét trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia
đình: vợ phải nghe lời chồng, con cái nghe lời cha mẹ, em nghe lời anh chị.
1.1.2.2. Tôn giáo tín ngƣỡng
Tôn giáo tín ngưỡng có một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần
của người Dao Tuyển. Điểm nổi trội trong tôn giáo tín ngưỡng của họ là
chịu ảnh hưởng sâu sắc của Tam giáo. Trong đó ảnh hưởng sâu đậm nhất là
Đạo giáo.
Đạo giáo ra đời ở Trung Quốc và đã trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống
tinh thần của người Dao Tuyển, được họ tiếp thu và cải biến cho phù hợp với
điều kiện xã hội của mình. Thực tế cho thấy: Hầu hết các vị thần linh của Đạo
giáo đều trở thành hệ thống các vị thần linh của người Dao Tuyển như hệ
thống miếu vạn thần là hệ thống miếu thờ thần của Đạo giáo. Ngoài ra, các
hệ thống bùa chú, vũ khí trừ tà như đạo tiên (soi đạo), đồng linh (chuông
đồng), thần trượng (gậy thần), đại lực xoa (đinh ba đại lực) đều là các khí cụ
của Đạo giáo.
Bên cạnh Đạo giáo, Phật giáo cũng có ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời
sống của người Dao Tuyển. Những phép thuật của Phật như uống nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
thiêng, tư tưởng hoá kiếp luân hồi của Phật giáo đều thâm nhập vào đời sống
của con người. Bên cạnh đó, các hình thức xem tử vi tướng số, xem ngày
tháng tốt, thực hiện các nghi lễ cưới xin, làm nhà mới đều được sử dụng
rộng rãi.
Sau Đạo giáo, Phật giáo, đời sống cuả người Dao Tuyển còn chịu ảnh
hưởng của Nho giáo. Biểu hiện rõ nhất là ở việc thờ cúng tổ tiên, sùng bái
thầy cấp sắc.
Tuy ảnh hưởng của Tam giáo nhưng tàn dư tôn giáo sơ khai vẫn tồn tại.
Đó là tàn dư ma thuật tình yêu với các loại bùa ngải, ma thuật làm hại với
quan niệm về ma Ngọ Hải. Đặc biệt là tín ngưỡng liên quan đến việc chữa
bệnh phát triển khá mạnh. Từ quan niệm hồn đến nguyên nhân ốm đau, bệnh
tật là do bị hồn ma bắt, đến việc cúng bái chữa bệnh.
Các tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp tồn tại với nhiều
hình thức như việc cầu cúng miếu làng, làm phép thuật trừ sâu bệnh, tổ chức
lễ cúng cơm mới ...
Tóm lại: Tam Giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tín ngưỡng của
đồng bào Dao Tuyển ở Lào Cai. Tuy nhiên, điểm đáng chú ý là sự biển hiện
của từng tôn giáo trong tín ngưỡng của người Dao Tuyển là không rõ nét. Tất
cả các tôn giáo trên đều quyện chặt với nhau, cùng với những tàn dư tôn giáo
sơ khai tạo nên hệ thống tín ngưỡng - tôn giáo hỗn hợp, phức tạp và đa dạng
trong đời sống văn hoá của con người.
Tôn giáo tín ngưỡng của người Dao Tuyển ở Lào Cai gồm nhiều hình
thức, dưới đây chúng tôi xin giới thiệu một số hiện tượng tiêu biểu:
*Thờ cúng tổ tiên
Theo quan niệm của người Dao Tuyển: Tổ tiên là những người đã khuất
trong dòng họ tính từ 6 đời trở xuống. Khi ông bà cha mẹ mất, linh hồn của
họ trở về thế giới bên kia nhưng những linh hồn ấy vẫn thường xuyên đi lại
chăm nom cho con cháu nơi dương thế. Tổ tiên thuộc loại ma lành, phù hộ
Số hóa bởi Trung tâm Học._. liệu – Đại học Thái Nguyên
15
cho con cháu, nếu không thờ cúng thì tổ tiên có thể bắt tội, làm cho con cháu
ốm đau, bệnh tật, đói khổ. Vì vậy, thờ cúng tổ tiên là việc thờ cúng chủ yếu
trong gia đình. Những ngày mà người Dao Tuyển thờ cúng tổ tiên là ngày
mùng một tết, ngày mùng 6 tháng 6 âm lịch, ngày cúng cơm mới.
*Thờ cúng Bàn Vƣơng
Bên cạnh việc thờ tổ tiên, người Dao Tuyển ở Lào Cai cũng như các
ngành Dao khác còn thờ ông tổ cộng đồng dân tộc Dao là Bàn Vương. Bàn
Vương được thờ cúng chung với tổ tiên gia đình vào các dịp lễ cấp sắc, đám
chay, tết lễ, ngày rằm, mùng một hàng tháng. Ngoài việc thờ cúng hàng ngày
còn có những lễ cúng Bàn Vương riêng. Hình thức cúng Bàn Vương thường
có các nghi lễ như lễ khất, lễ cúng Bàn Vương, lễ tiễn đưa.
*Lễ cấp sắc
Người Dao Tuyển có nghi lễ quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của
người nam giới được tổ chức trang trọng gọi là lễ cấp sắc. Cấp sắc là một nghi
lễ rất phổ biến trong dân tộc Dao. Khi gia đình người Dao Tuyển có con trai
từ 11 đến 17 tuổi cần phải làm lễ cấp sắc. Người được cấp sắc mới được công
nhận là con cháu của Bàn Vương và mới được Bàn Vương phù hộ. Người
không được cấp sắc thì cho dù tuổi già cũng vẫn bị coi là trẻ con và khi chết
hồn không được đoàn tụ với tổ tiên. Tiến trình của lễ cấp sắc có rất nhiều tình
tiết phức tạp, lễ diễn ra suốt ba ngày hai đêm với các nghi lễ chính như: lễ ăn
sư, lễ kêu thầy, lễ công tào, lễ khởi sự, lễ cấp sắc, lễ điệu binh, lễ hợp vũ, lễ
hương hoa, lễ giải tuế, lễ mời thánh, lễ an đòn, lễ tú đăng, lễ hi diên, lễ du
thần, lễ búa nhị, lễ túc bị, lễ tảo chiền, lễ phá ngục, lễ hưởng thực, lễ thiết
điện, lễ đăng chương, lễ tháo lâu, lễ thăng đô, lễ tống thánh. Người Dao
Tuyển tin rằng, người được cấp sắc thì làm ăn mới được may mắn, sinh hoạt
mọi mặt mới được thuận lợi, dòng tộc mới được phát triển. Vì vậy, cho dù tốn
kém, họ vẫn tổ chức bằng được nghi lễ này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
*Nghi lễ đám cƣới
Lễ cưới là phong tục trọng đại của đời người, là một trong những sinh
hoạt văn hoá dân gian đặc sắc, in đậm dấu ấn tín ngưỡng của con người.
Người Dao Tuyển có quy định chặt chẽ về việc cưới, tạo thành những nguyên
tắc trong hôn nhân. Chẳng hạn như nguyên tắc ngoại hôn dòng họ chi phối
mọi quan hệ hôn nhân. Trong phạm vi sáu đời con cháu không được kết hôn,
dựa vào thứ tự hệ thống tên đệm của từng dòng họ, các thành viên của mỗi
dòng họ biết được quan hệ nội tộc và tránh kết hôn cùng dòng họ, không vi
phạm quan niệm loạn luân. Nghi lễ đám cưới ở mỗi nhóm Dao, ở mỗi vùng
có những nét riêng. Lễ cưới người Dao Tuyển ở Lào Cai được chia thành các
nghi thức: lễ so tuổi, lễ dạm hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt.
*Nghi lễ tang ma
Người Dao Tuyển khi chết, con gái phải tắm nước lá thơm cho bố mẹ,
con trai cắt tóc cho người chết. Họ tổ chức khâm liệm cho người chết một
cách chu tất. Trước kia, người Dao Tuyển ở Lào Cai làm hoả táng cho người
chết. Sau khi hoả táng họ lấy tro bỏ vào lọ, đem chôn ở núi đá theo từng dòng
họ. Nhưng ngày nay, người Dao Tuyển tổ chức địa táng. Tuy nhiên, trong một
số phong tục, bài cúng vẫn còn dấu vết hoả táng. Trong lễ tang thầy cúng phải
đọc cuốn sách cúng “Tán Tảng” bài cúng đốt lửa hoả táng được tượng trưng
bằng nến.
Trên đây chỉ là một số hiện tượng tiêu biểu trong truyền thống tôn giáo
tín ngưỡng phong phú, phức tạp và đa dạng của tộc người Dao Tuyển ở Lào
Cai. Qua những hiện tượng này, chúng tôi thấy rằng: Trong cộng đồng người
Dao Tuyển vẫn còn tồn tại những tàn tích của chủ nghĩa đa thần nguyên thuỷ.
Đặc biệt là tam giáo (nổi trội nhất là Đạo giáo), đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời
sống tinh thần, đã ăn sâu vào tư tưởng của họ. Những yếu tố tích cực cần phải
được bảo tồn và phát huy để góp phần làm phong phú bản sắc văn hoá dân tộc
của tộc người này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
1.1.2.3. Một số thể loại văn học dân gian của ngƣời Dao Tuyển
Trải qua một quá trình đấu tranh lâu dài chống lại thiên nhiên khắc
nghiệt và xã hội phong kiến bất công để tồn tại và phát triển, người Dao
Tuyển đã sáng tạo ra những giá trị văn hoá truyền thống giàu bản sắc, đặc biệt
là văn học dân gian. Văn học dân gian của người Dao Tuyển có đầy đủ các
thể loại như: thần thoại, truyện cổ tích, tục ngữ, câu đố, dân ca …,với những
nội dung phong phú phản ánh muôn mặt của cuộc sống, thể hiện khả năng
nhận thức của con người.
*Thần thoại
Khác với các dân tộc anh em cho rằng, nhiều người sáng tạo ra thế giới,
người Dao Tuyển quan niệm chỉ một mình Bàn cổ sinh thế giới vũ trụ:
Bàn Cổ hình ngƣời, lông quỉ, mồm nhƣ cái kim
Đầu ngài là trời
Chân ngài là đất
Mắt trái của ngài là mặt trời
Mắt phải của ngài là mặt trăng [50, tr.45].
*Truyện cổ tích
Đồng bào Dao Tuyển thường kể chuyện cổ tích cho nhau nghe vào
những đêm trăng, những lúc đi đường, trong khi lao động sản xuất… ở đâu có
người tụ họp thì đồng bào lại kể cho nhau nghe. Truyện cổ tích của người Dao
Tuyển khá phong phú, bao gồm cả truyện cổ tích loài vật, truyện cổ tích thần
kì và truyện cổ tích sinh hoạt. Đặc biệt, trong kho tàng cổ tích của người Dao
Tuyển có hệ thống truyện kể về các sự tích trong lễ cưới như sự tích gói muối
trong lễ vật cưới, sự tích vôi ăn trầu trong lễ vật cưới … Mỗi sự tích là một
truyện cổ tích, vừa lí giải các nghi lễ đám cưới, vừa có giá trị giáo dục mọi
người khuyến thiện trừ ác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
* Ca dao - dân ca
Ngay từ khi cất tiếng khóc trào đời đến khi nhắm mắt xuôi tay, người
Dao Tuyển đều tắm mình trong dòng suối dân ca. Ca dao - dân ca của người
Dao Tuyển phong phú, đa dạng, phản ánh mọi lĩnh vực của cuộc sống, gồm
ba loại hình cơ bản: Dân ca giao duyên, dân ca than thân, dân ca nghi lễ và
phong tục.
* Câu đố
Câu đố của người Dao Tuyển được sử dụng rất nhiều trong các sinh hoạt
văn hoá. Căn cứ vào đối tượng, có thể phân chúng ra thành ba loại: Loại câu
đố về tự nhiên (các hiện tượng thiên nhiên, cây cỏ, loài vât), loại câu đố về đồ
dùng (đồ dùng sinh hoạt, sách, vũ khí) và loại câu đố về con người.
* Tục ngữ
Tục ngữ cuả người Dao Tuyển khá phong phú, với nội dung đúc kết kinh
nghiệm sản xuất, kinh nghiệm về cuộc sống, răn dạy cách ứng xử trong xã
hội. Trong ứng xử, tục ngữ đề cao lối ứng xử hoà đồng, đề cao lối sống tình
nghĩa đoàn kết:
Rừng rộng chiêu nhiều thú
Lòng rộng chiêu nhiều khách [50, tr.48].
Ngoài các loại hình văn nghệ dân gian trên, người Dao Tuyển còn có
một loại hình văn nghệ dân gian khác khá độc đáo. Đó là nghệ thuật tạo hình
dân gian. Nghệ thuật tạo hình dân gian của người Dao Tuyển được thể hiện ở
trang phục, ở nghệ thuật vẽ tranh thờ, ở nghệ thuật trang trí bàn thờ trong lễ
cấp sắc…
Người Dao Tuyển ở Lào Cai tuy có dân số không đông, lại cư trú rải rác ở
hầu khắp các huyện nhưng vẫn có một nền văn nghệ dân gian khá độc đáo, góp
phần không nhỏ làm phong phú thêm nền văn hoá truyền thống giàu bản sắc
của dân tộc Dao nói riêng và cả nền văn nghệ dân gian Vịêt Nam nói chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
1.2. Khái quát về thơ ca dân gian của ngƣời Dao Tuyển
1.2.1. Khái niệm thơ ca dân gian
Trước đây, cùng với thuật ngữ Ca dao, giới nghiên cứu khi nói về những
bài hát dân gian thường dùng thuật ngữ Phong dao (những câu hát dân gian
có ý nghĩa giáo huấn đạo lí hoặc có liên quan đến phong tục truyền thống, tập
quán của người dân). Đến đầu những năm 50 của thế kỉ XX, với sự ra đời của
công trình Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan (in lần đầu
năm 1956), song song với thuật ngữ Ca dao, có thêm thuật ngữ Dân ca.
Hiện nay, trong các công trình nghiên cứu về văn học dân gian, các nhà
nghiên cứu vẫn dùng thuật ngữ Ca dao dân ca hoặc Thơ ca dân gian.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Kính, các nhà nghiên cứu quan niệm
về Ca dao và Dân ca như sau: Dân ca bao gồm phần lời (câu hoặc bài), phần
giai điệu (giọng hoặc làn điệu), phương thức diễn xướng và cả môi trường
khung cảnh ca hát. Còn “Ca dao đƣợc hình thành từ dân ca. Khi nói đến ca
dao ngƣời ta thƣờng nghĩ đến lời ca. Khi nói đến dân ca, ngƣời ta nghĩ đến
cả làn điệu và những thể thức hát nhất định”[22, tr.79].
Như vậy, có thể nhận định:“dùng danh từ ca dao để chỉ riêng thành
phần nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ) của dân ca (không kể những tiếng
đệm, tiếng láy, tiếng đƣa hơi)” [70, tr.26].
Theo Hoàng Tiến Tựu: “Thơ ca dân gian là một loại hình văn học dân
gian có đối tƣợng rộng hơn, bao gồm phần lời thơ của tất cả các loại dân ca
và lời thơ trong các hình thức sáng tác dân gian khác” [70, tr.139].
Như vậy, thuật ngữ Thơ ca dân gian người Dao Tuyển bao gồm phần lớn
các bài hát dân ca, các bài hát kể chuyện sự tích… của người Dao Tuyển. Thơ
ca dân gian với hàm nghĩa như trên sẽ là cơ sở để chúng tôi đi sâu tìm hiểu,
nghiên cứu Thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
1.2.2. Sơ lƣợc về thơ ca dân gian ngƣời Dao Tuyển
Ca hát là một trong những sinh hoạt văn hoá văn nghệ truyền thống độc
đáo, đồng thời cũng là nhu cầu sinh hoạt văn nghệ phổ biến của người Dao
Tuyển. Người Dao Tuyển có hai thuật ngữ gọi các sinh hoạt ca hát là “jủng”
và “có”:
“Jủng” là hình thức hát các bài hát ngẫu hứng, người hát tự đặt lời, tự hát
và truyền miệng hoặc ghi chép lại cho các thế hệ. Ví dụ như: “Lô xây jủng”
(hát ru); “Ăy con jủng” (hát đám cưới); “Ăy cỏi mần jủng” (hát đám tang)…
“Có” là hình thức hát các bài hát theo nghi thức, nội dung được ghi chép
trong các sách dạy hát bằng chữ Nôm Dao. Ví dụ như: “Bốn Vôồng có” (Hát
kể về sự tích Bàn Vương), “Trang thấy có”(Tương tư ca),… Muốn học các
bài hát này phải biết tiếng Nôm Dao hoặc nhờ người dạy hát.
Kho tàng thơ ca dân gian Dao khá đồ sộ, nhưng cho đến nay, mặc dù đã
được các học giả trong và ngoài nước dày công sưu tầm, được Đảng và Nhà
nước quan tâm đúng mức nhưng thơ ca dân gian người Dao Tuyển vẫn là một
di sản văn hoá quý báu mang đậm bản sắc tộc người mà chúng ta vẫn chưa
thể nắm bắt hết được cả về số lượng và nội dung. Công tác phân loại thơ ca
dân gian người Dao Tuyển cũng chưa được đề cập nhiều nên chưa thực sự rõ
ràng và thống thất. Tuy vậy, căn cứ vào cách phân loại thơ ca dân gian của
các nhà nghiên cứu văn học dân gian, và dựa vào nội dung các bài thơ ca dân
gian của người Dao Tuyển, chúng tôi đồng tình với cách phân loại của tác giả
Trần Hữu Sơn, tạm thời chia thơ ca dân gian Dao Tuyển thành các loại hình
như sau: Thơ ca lao động, thơ ca nghi lễ phong tục, thơ ca sinh hoạt [51,
tr.24].
1.2.2.1. Thơ ca lao động
Thơ ca phản ánh quá trình lao động sản xuất của người Dao Tuyển tuy
không nhiều so với các loại hình khác nhưng cũng có một số bài rất đáng chú
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
ý như: Các bài ca nông lịch 12 tháng. Tuy chưa có những bài ca phản ánh sự
gắn bó giữa nhịp điệu lao động với cảm xúc của con người trong lao động
nhưng thơ ca lao động của người Dao Tuyển cũng đã gắn công việc lao động
với nội dung phản ánh kinh nghiệm sản xuất, kinh lao động của con người.
Điều đặc biệt là trong các bài ca lao động xuất hiện tương đối nhiều bài ca
đối đáp, trao đổi tình cảm nam nữ mang tính chất giao duyên trên khung
cảnh lao động.
1.2.2.2. Thơ ca nghi lễ phong tục
Người Dao Tuyển quan niệm rằng: cuộc đời của mỗi con người đều phải
trải qua 5 giới (5 thời kì). Giới Nhi (từ khi đứa bé trong bào thai đến 10 tuổi),
Giới Hưng (thời kì từ 10 tuổi đến 50 tuổi), Giới Lão (thời kì ngoài 50 tuổi đến
trước khi chết), Giới Ma (thời kì từ khi chết đến khi giỗ đầu), Giới Tiên (thời
kì sau khi giỗ đầu).
Ứng với mỗi giới lại có nhiều nghi lễ phong tục khác nhau. Trong các
nghi lễ này đều có dấu ấn của thơ ca. Thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở
Lào Cai được sử dụng dưới các hình thức như hát cầu cúng, hát kể lại sự tích
các thần nhằm cảm ơn, ca ngợi các thần thánh cai quản hoặc nhằm mục đích
cầu khẩn cho các lực lượng siêu nhiên phù hộ cho con người.
* Thơ ca trong lễ cúng trẻ sơ sinh
Khi đứa trẻ sinh ra được ba ngày tuổi, người Dao Tuyển tổ chức lễ cúng
hát đặt tên. Trong nghi lễ cúng, người cha đứa trẻ sơ sinh trực tiếp múa và hát
bài hát với nội dung cầu mong thần linh phù hộ cho đứa trẻ được khỏe mạnh,
chiến thắng cái ác, cái xấu.
* Thơ ca trong lễ cấp sắc
Lễ cấp sắc được tổ chức khi con trai người Dao Tuyển chuẩn bị đến tuổi
trưởng thành (khoảng từ 10 đến 17 tuổi). Trong lễ cấp sắc có nhiều lễ khác
nhau như lễ cấp sắc, lễ khai quang, khai khởi kinh đàn… và nhiều nghi lễ bên
Đạo giáo. Trong một số nghi lễ thầy cúng truyền dạy cho đứa trẻ cấp sắc các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
bài kinh dưới dạng thơ ca. Các quyển kinh được đọc và ngâm theo điệu nhạc
có đệm trống, chiêng hay thanh la. “Châu báu tác thành độ nhấn huyền;
Thuyền lướt qua trong luân hồi đó; Khi tụng như cơn mưa xuân nhỏ; Muôn
dân vạn vật nảy sinh sôi…”[51, tr.31].
* Thơ ca trong lễ cƣới
Lễ cưới người Dao Tuyển ở Lào Cai là một hình thức sinh hoạt văn hoá
dân gian độc đáo, được chia thành các nghi lễ: Lễ so tuổi, lễ dạm hỏi, lễ cưới,
lễ lại mặt. Thơ ca đám cưới của người Dao Tuyển chủ yếu gắn chặt với các
nghi lễ ấy. Đó là một hệ thống các bài hát được trình diễn giữa một bên là nhà
trai và một bên là nhà gái từ khi nhà trai đi đón dâu đến khi kết thúc lễ cưới ở
nhà trai. Hệ thống các bài hát này được ghi chép thành tập thơ “Vằn ẳn có”
(Hôn ân ca).
* Thơ ca trong lễ mừng nhà mới
Sau khi tổ chức xong các nghi lễ khánh thành nhà mới, người Dao
Tuyển còn tổ chức lễ hát mừng nhà mới. Mở đầu là những bài hát của nam nữ
trung niên có nhà cửa khang trang, có đủ con trai con gái đứng lên hát đối đáp
chúc mừng gia chủ. Sau đó, chủ nhà trực tiếp hát để cầu mong thần thánh phù
hộ cho gia đình gặp nhiều may mắn, cảm ơn sự giúp đỡ của họ hàng và dân
làng. Cuộc hát được tổ chức đến tận đêm khuya, diễn ra ngay bên mâm rượu,
mọi người đều trong tâm trạng vui vẻ.
* Thơ ca trong tang lễ
Thơ ca là một bộ phận không thể thiếu trong tang lễ của người Dao
Tuyển. Khi có người thân quá cố, gia đình tang chủ phải mời người hát giỏi,
đến hát phụ hoạ cho tiếng khóc than. Đồng thời thầy cúng trong một số nghi
lễ cũng trở thành thầy hát, hát các bài ca nghi lễ. Suốt các nghi lễ trong đám
tang đều có người hát. Nội dung các bài hát đều bày tỏ sự xót thương của
người thân đối với người quá cố.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
* Thơ ca trong các nghi lễ khác
Ngoài các nghi lễ đã nêu trên, người Dao Tuyển còn tổ chức các nghi lễ
tôn giáo khác như lễ cúng thần nông, lễ giải hạn, lễ làm chay…Các nghi lễ ấy
đều được tổ chức trang trọng và các thầy cúng đều diễn xướng các bài ca tôn
giáo. Tuy đây là những bài ca mang tính chất tôn giáo nhưng vẫn lấp lánh ánh
sáng soi rọi vào lịch sử hoặc phản ánh cuộc sống của con người.
1.2.2.3. Thơ ca sinh hoạt
Thơ ca nghi lễ phong tục chủ yếu thể hiện mối quan hệ khách quan
giữa người hát đối với đối tượng, qua đó người hát ít nhiều gửi gắm tình cảm
chủ quan của mình. Khác với thơ ca nghi lễ phong tục, thơ ca sinh hoạt của
người Dao Tuyển chủ yếu thể hiện tình cảm chủ quan của người hát đối với
những đối tượng gần gũi, thân thiết như người mẹ với đứa con trong các điệu
hát ru, những đứa trẻ trong hát đồng dao, các chàng trai, cô gái hát đối đáp
trong các bài ca giao duyên. Vì vậy, thơ ca sinh hoạt của người Dao Tuyển
chủ yếu là do người hát tự đặt lời truyền khẩu nên ít bị gò bó như hát theo
nghi lễ.
* Hát ru
Hát ru của người Dao Tuyển ở Lào Cai khá phong phú với những bài
hát ru của bà ru cháu, mẹ ru con, chị ru em và tuỳ theo thời gian mà có những
bài hát ru buổi sáng, hát ru buổi trưa, hát ru buổi tối. Chức năng chủ yếu của
lời hát ru là tạo nên nhịp điệu êm ái để đưa đứa trẻ vào giấc ngủ, nội dung chủ
yếu là thể hiện tình cảm của người hát ru đối với đứa trẻ. Đặc biệt, người Dao
Tuyển có bài hát ru của bà nội đối với cháu đích tôn “Bồ hôố xây sủn tòn
con” – Bài hát ru cháu trai gốc. Nội dung của nó vừa thể hiện tình cảm yêu
quý của bà nội vừa nhắc nhở trách nhiệm nối dõi tông đường của cháu :
Cháu nội của bà ngủ ngoan
Ôi vàng của bà, bà qúi cháu lắm
Bao nhiêu của quí bà không thích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
Bà yêu cháu vàng nối tổ tông
Bánh trƣng bàn thờ cháu thờ cúng
Đừng quên ông bà và tổ tiên [ 51, tr.44].
* Hát đồng dao
Người Dao Tuyển gọi hát vui chơi của trẻ em là “Ăy đao jủng” có
nghĩa là vừa hát vừa chơi. Hầu hết các trò chơi của người Dao đều có bài hát
phụ hoạ. Các bài hát này thường miêu tả các trò chơi, cách chơi theo qui định
của trẻ em với nhịp điệu dễ hát, phù hợp với nhịp điệu các trò chơi, thể hiện
tính chất hồn nhiên vui vẻ của lứa tuổi thơ.
* Hát giao duyên
Tiếng hát giao duyên là phương tiện chủ yếu giãi bày tình cảm, trò
chuyện tìm hiểu, trao đổi tình yêu của người Dao Tuyển. Hình thức hát giao
duyên của họ khá phong phú nhưng chủ yếu gồm hai hình thức: Hát tự phát
đơn lẻ và hát có lề lối tổ chức. Hát tự phát đơn lẻ là hình thức hát của một nam,
một nữ hoặc một tốp nam nữ tình cờ gặp nhau giữa chợ, trên nương, trên
đường đi chơi, tự cất tiếng hát với nhau. Nội dung những bài hát này do hoàn
cảnh ứng tác và người hát tự quyết định. Hát có lề lối tổ chức là hình thức hát
được hai bên chuẩn bị trước, được thống nhất tổ chức theo những nghi thức
khá chặt chẽ, điển hình như hát hội đầu xuân, hát qua làng, hát xin cốm.
* Tín ca (Thƣ ca)
Ở Lào Cai, có lẽ chỉ có người Dao mới có hình thức thơ ca dân gian
độc đáo này. Thư ca là loại dân ca được ghi chép thành sách (bằng chữ Nôm
Dao) để lưu truyền cho con cháu. Người Dao Tuyển ở vùng thượng nguồn
sông Hồng còn lưu giữ 4 loại thư ca khác nhau. Đó là thư ca giao duyên, thư
ca than thân, thư ca nhờ giúp đỡ và thư ca thiên di. Thư ca than thân và thư ca
giao duyên được gọi là “Chắn”, còn thư ca thiên di và thư ca nhờ giúp đỡ
được gọi là “jủng”. Hai loại này có đặc điểm riêng là : “Chắn” thường có tính
chất giãi bày tâm sự, thiên về tính chất trữ tình, hướng nội. Còn “jủng” thì có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
tính chất kể lể, kêu gọi, thiên về tự sự và hướng ngoại, hướng tới cộng đồng.
Thư ca được sáng tác bằng thể thơ 7 chữ, có thể chỉ do một người viết nhưng
lại được lưu giữ, diễn xướng phổ biến trong cộng đồng người Dao Tuyển và
trở thành bài hát, là tài sản chung của cộng đồng.
1.2.3. Vai trò của thơ ca dân gian trong đời sống tinh thần của ngƣời
Dao Tuyển
Thơ ca dân gian là một thể loại tiêu biểu, là di sản văn hóa phi vật thể có
vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của đồng bào Dao Tuyển ở Lào
Cai. Cùng vời các thể loại văn học dân gian khác như sử thi, thần thoại,
truyền thuyết, truyện cổ tích…thơ ca dân gian người Dao Tuyển đã góp phần
làm phong phú thêm kho tàng văn học dân gian của dân tộc Dao nói riêng,
góp phần tạo nên bản sắc văn hoá người Dao trong bản sắc chung của văn hoá
các dân tộc Việt Nam.
Qua thơ ca dân gian người Dao Tuyển chúng ta có thể thấy được phần
nào bản sắc văn hoá, tôn giáo tín ngưỡng và vẻ đẹp tâm hồn phong phú, đa
dạng của con người. Thơ ca dân gian được diễn xướng trong các lễ hội dân
gian, trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày, trong lao động sản xuất và trong
vui chơi, giải trí, trên đường đi nương, khi khánh thành những ngôi nhà mới,
khi lại thu hút cả bản làng vào những cuộc hát giao duyên như hát hội đầu
xuân, hát qua làng, hát xin cốm…Tất cả những điều đó chứng tỏ rằng: sinh
hoạt thơ ca dân gian là một hình thức sinh hoạt văn hoá giữ vai trò quan trọng
trong đời sống văn hoá tinh thần của người Dao Tuyển.
Thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai là một nguồn tư liệu quý về
phản ánh đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá của người Dao. Đặc biệt là qua thơ
ca (tín ca) người đọc sẽ hình dung ra được lịch sử di cư, nguồn gốc của người
Dao Tuyển. Kho tàng thơ ca dân gian ấy chứa đựng những tri thức về nhiều
mặt như lịch sử văn hoá, địa lí, dân tộc học…và có giá trị văn học nghệ thuật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
vô cùng độc đáo đòi hỏi phải tiếp tục bảo tồn và phát huy những yếu tố tích
cực phục vụ cho cuộc sống hiện tại và tương lai.
Thơ ca dân gian đối với người Dao Tuyển không chỉ thực hiện chức
năng biểu hiện trao gửi tình yêu lứa đôi mà còn soi chiếu phong tục tập quán,
truyền thống tín ngưỡng của đồng bào Dao Tuyển với một thái độ nhân sinh
sâu sắc. Qua diễn xướng thơ ca dân gian biết bao chàng trai cô gái đã nên vợ
nên chồng rồi biết bao đôi lứa khi đã yêu nhau thường muốn mượn lời ca
tiếng hát để bộc bạch tâm sự. Tình cảm của mẹ dành cho con, của bà đối với
cháu, của chị đối với em nhỏ thật thiết tha, sâu nặng nghĩa tình.
* Tiểu kết
Tộc người Dao Tuyển ở Lào Cai có truyền thống lịch sử lâu đời, có nền
văn hoá văn học dân gian khá phong phú và đa dạng. Trong tổng thể văn hoá
dân gian nói chung và văn học dân gian của cộng đồng người Dao Tuyển nói
riêng, thơ ca dân gian giữ một vai trò hết sức quan trọng, phản ánh mọi mặt đời
sống tinh thần, phong tục tập quán, tín ngưỡng của con người. Có thể nói rằng,
thơ ca dân gian người Dao tuyển như một nguồn suối ngọt ngào hoà vào dòng
chung văn hoá văn nghệ dân gian của đồng bào Dao, góp phần làm cho con
người đẹp lên cả về nhân cách và tài năng, khơi dậy niềm vui trong cuộc sống
sinh hoạt, trong lao động sản xuất làm cho bản làng ngày càng tươi đẹp hơn.
Trên đây chỉ là một vài nét khái quát về lịch sử tộc người, đặc điểm
truyền thống văn hoá, văn học dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai,
trong đó có thơ ca dân gian. Những vấn đề đó chỉ mang tính chất giới thiệu,
làm nền cho việc tìm hiểu, nghiên cứu sâu về nội dung và nghệ thuật của Thơ
ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
CHƢƠNG 2. NỘI DUNG THƠ CA DÂN GIAN NGƢỜI DAO
TUYỂN Ở LÀO CAI
Thơ ca dân gian không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con
người. Lấy nguồn cảm hứng từ cuộc sống, thơ ca dân gian được sáng tạo nên.
Nó là cái hay cái thơm của dân tộc. Nhất là đối với người Dao Tuyển ở Lào
Cai, cư trú ở những nơi non xanh, núi biếc, suối sâu, rừng thẳm. Ở những
vùng như thế chỉ có ca hát mới làm cho vui bản, vui làng. Hát để cho cuộc
sống bớt vắng lặng, hát để giãi bày tâm sự, để trao duyên tình tứ, để thể hiện
ước mơ, để hăng say lao động làm cho bản làng ngày càng giàu đẹp hơn. Vì
thế nó phù hợp với mọi lứa tuổi, mọi đối tượng. Các già làng dùng lời ca nghi
lễ để bày tỏ niềm tôn kính đối với các vị thần linh, các em nhỏ mượn lời hát
đồng dao để vui chơi, giải trí, các chàng trai cô gái dùng lời hát giao duyên để
bày tỏ nỗi niềm với nhau. Đó là nhu cầu thiết yếu của con người. Đúng như
Gorki đã từng nhận định: “Con ngƣời không thể sống mà không vui sƣớng
đƣợc, họ phải biết cƣời đùa, họ sáng tạo nên những bài hát vui tƣơi, họ thích
nhảy múa” [69, tr.8]. Trong kho tàng thơ ca các dân tộc Việt Nam, đã có
không ít các lời thơ thể hiện nhu cầu thiết yếu đó. Đây là khúc hát giao duyên
của người Dao:
Bốn bề các bạn hát đều hay
Thua đƣợc cần gì ta cứ say [69, tr.198].
Hay trong thơ ca M.Nông:
Thiếu tiếng đàn tiếng hát
Nhƣ thiếu muối thiếu cơm [18, tr.708].
Thơ ca dân gian người Dao Tuyển có nội dung khá đa dạng, phản ánh
một cách sinh động hiện thực đời sống, thể hiện sâu sắc tư tưởng tình cảm,
tâm hồn, tính cách, phong tục tập quán, đời sống tín ngưỡng, tình yêu lứa đôi
của con người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
2.1. Vài nét khái quát về cuộc sống của ngƣời Dao Tuyển qua thơ
ca dân gian
Như chúng tôi đã trình bày ở chương 1, người Dao Tuyển có nguồn gốc
từ Trung Quốc. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau như chiến tranh, loạn
lạc, do bị bóc lột ức hiếp hoặc do cuộc sống làm ăn khó khăn mà họ đã di cư
đến Việt Nam. Thư ca thiên di người Dao Tuyển ở Lào Cai đã phản ánh rõ nét
quá trình thiên di của tộc người này đến Lào Cai sinh sống với thời gian, niên
đại, các địa danh đi qua, lưu trú… rất cụ thể. Người Dao từ Quảng Tây (
Trung Quốc ) đến Vân Nam rồi theo hướng sông Hồng vào Việt Nam, định cư
ở Châu Thuỷ Vĩ ( Lào Cai ):
Năm Giáp Thân triều Minh kết thúc
Ngƣời Dao li tán khắp nơi nơi
Một đƣờng là núi Nam bộ Quý Châu
Đƣờng thứ hai là đất Giao Chỉ của Việt Nam
Toạ lạc ở núi phƣơng Bắc của Việt Nam
Đƣờng thứ ba trôi theo hƣớng Hải Nam
Đƣờng thứ tƣ đến Vân Nam phân thành hai ngả
Một ngả ở phủ giám biên sông Hồng
Sinh sống theo hƣớng châu Mộng Tự
Cho đến năm Tân Dậu triều Thanh
Đến Hà Khẩu, đến Quỳnh Sơn [51, tr.57].
Đến Lào Cai, người Dao Tuyển mong muốn có một cuộc sống ổn định
ấm no và hạnh phúc. Nhưng là những người đến sau, thiếu đất, thiếu ruộng
nên họ phải cư trú ở những vùng núi cao. Thiên nhiên hùng vĩ nhưng cũng
không kém phần dữ dằn và khắc nhiệt bởi gió mưa, thác lũ, nắng hạn… thêm
vào đó là thú rừng tàn phá nương rẫy, làm cho cuộc sống của họ hết sức vất
vả và khó khăn. Trai gái người Dao Tuyển vẫn thường nhắc lại hình ảnh
những năm trời hạn kéo dài trong khúc hát giao duyên của mình:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
Trời hạn ba năm hoa khô rụng
Nông dân cày cấy chẳng đƣợc mùa
Chợt nghe sấm rền mƣa gió đến
Chín năm ao tù thấy nƣớc trôi [51, tr.177].
Cuộc sống khắc nghiệt khiến cho con người phải đối mặt với trăm bề
thiếu thốn. Thế nhưng với bản tính cần cù chịu khó, với lòng lạc quan yêu
đời, trong sâu thẳm con người vẫn ấp ủ một niềm tin tưởng và hi vọng vào
tương lai tốt đẹp:
Suốt đời làng bản không ánh sáng
Chờ đợi nắng trời soi khắp nơi [51, tr.165].
Mong cho thời tiết đƣợc thuận hoà
Năm năm cày cấy, mùa bội thu
Vạn vật sinh sôi, ngƣời vui vẻ
Nam nữ gọi tình chẳng nghỉ ngơi [51, tr.177].
Trong cuộc sống, mỗi khi gặp khó khăn khắc trở, gặp cảnh ngộ éo le,
con người lại dùng lời ca tiếng hát của mình để bộc bạch tâm sự, để chia sẻ
bớt nỗi niềm, để mọi người thấu hiểu và cảm thông với hoàn cảnh éo le. Khi
xã hội cộng đồng bị phá vỡ thì sự phân hoá giai cấp, phân hoá giàu nghèo
diễn ra. Những kẻ giàu có coi khinh người nghèo không bằng con vật nuôi
trong nhà chúng. Đây là lời bộc bạch của một người nghèo:
Con chó đến làng đƣợc ăn cơm
Ngƣời nghèo đến nhà ngồi ngoài cửa [51, tr. 268].
Cái nghèo đã dẫn đến cảnh bao chàng trai cô gái phải chia lìa đôi lứa.
Bởi tục lệ của người Dao vẫn còn nặng nề với tính chất mua bán rất rõ. Đây là
lời của chàng trai nghèo trước tình yêu lỡ dở:
Phúc mạng không có đời buồn tâm
Bàn tay không tiền là vì số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Chỉ bởi nhà nghèo đau thƣơng lòng
Vì em không lấy đời anh khổ
Trăm nhớ ngàn thƣơng nƣớc mặt rơi [51, tr.267].
Những lời thơ ấy không chỉ phản ánh hiện thực xã hội của người Dao
xưa mà còn là tiếng lòng đầy ai oán, tủi hờn của những con người bất hạnh.
Tiếng hát than thân của người Dao Tuyển là một mảng nội dung đáng được
quan tâm, bởi nó thể hiện ý thức của người Dao về thân phận của mình.
2.2. Thơ ca dân gian ngƣời Dao Tuyển là tiếng ca ai oán của những
ngƣời mồ côi bất hạnh
Hầu hết các tộc người thiểu số ở Lào Cai đều có tiếng hát than thân
như: Người H.Mông có tiếng hát làm dâu nói về nỗi khổ của người làm dâu
(chủ yếu là do bị ép duyên) và tiếng hát mồ côi kể, than về những nhọc nhằn,
cơ cực của kiếp người mồ côi, không nơi nương tựa, với những ước mơ cháy
bỏng có cuộc sống bình thường như bao người bình thường khác; Người Dao
Tuyển có thơ ca than thân (Thằn thỉm chắn), chủ yếu là những tiếng hát than
dành cho những kẻ mồ côi, không nơi nương tựa; Tiếng hát than thân dân tộc
Giáy thể hiện nỗi khổ cực của người con gái bị ép duyên, những người mồ côi
hoặc những người phải chịu cảnh khổ cực khác trong cuộc sống.
Trong phần này, chúng tôi xin được đề cập đến thơ ca than thân của tộc
người Dao Tuyển. Tuy nhiên, trong khuôn khổ hạn hẹp, người viết chỉ đề cập
đến một dạng bài ca - tiếng hát than thân của những kẻ mồ côi.
Tiếng hát mồ côi bao gồm những những bài ca miêu tả nỗi khổ đau, cơ
cực, đa số mang tính chất tự thán của những người mồ côi bất hạnh. Tiếng hát
mồ côi có thể được diễn xướng trong những ngày thường, khi kẻ mồ côi cảm
nhận nỗi buồn khổ, trống vắng, đơn côi mà cất lên tiếng hát than, cũng có khi
được cất lên trong một cuộc hát giao duyên nào đó. Tiếng hát mồ côi không
chỉ có người mồ côi hát mà tất cả mọi người đều có thể hát như là một tiếng
lòng chung vậy, cho nên nó có ý nghĩa xã hội, ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
Về nội dung tiếng hát mồ côi của tộc người Dao Tuyển ở Lào Cai khá
phong phú, tuy nhiên có thể khái quát thành những vẫn đề chủ yếu sau:
2.2.1. Nghịch cảnh của những thân phận mồ côi
Tiếng hát mồ côi thường nêu lên nghịch cảnh của người mồ côi qua đó tố
cáo những ngang trái, bất công trong xã hội cũ. Đây chủ yếu là những bài tự
thán của người mồ côi kể về nỗi khổ của mình. Người thì khi sinh ra không có
cha mẹ hoặc cha mẹ chết sớm :
Khi sinh ra không còn bố mẹ
Bố mẹ chết lúc bò tập lẫy
Khi tập nói gọi bố không thƣa
Khi đói lòng không dòng sữa mẹ [51, tr.263].
Kẻ thì mất cha từ khi còn bé, mẹ đi lấy chồng khác, bỏ lại con bơ vơ
một mình:
Trƣớc kia còn bé bố đã chết
Mẹ lấy chồng khác con bơ vơ
Mẹ vui vẻ đâu biết con đau [51, tr.258].
Sống không nơi nương tựa, thiếu thốn tình thương yêu của mẹ cha,
người mồ côi bị mọi người đối xử tồi tệ, bị anh em xa lánh, thậm chí bị coi
thường, khinh rẻ không bằng những con vật nuôi trong nhà:
Con chó đến làng đƣợc ăn cơm
Ngƣời nghèo đến nhà ngồi ngoài cửa
Trên đời ăn mày thật khổ sở
Anh em mọi ngƣời._.người chết, gia đình tang chủ người Dao Tuyển phải mời người
hát giỏi đến hát phụ hoạ cho tiếng khóc than. Trong một số nghi lễ, thầy cúng
cũng trở thành thầy hát, hát các bài ca nghi lễ và họ đã trở thành nhân vật diễn
xướng. Trong suốt các nghi lễ đều có người hát, người đọc thơ. Tất cả đều
nhằm biểu hiện tình cảm đau thương của người thân với người quá cố và dẫn
dắt linh hồn người chết về với tổ tiên được thanh thản.
Khi nhập quan, con cháu khóc, thầy hát hát bài “Nhập quan ca” phụ
hoạ tiếng khóc:
Sinh thời tình ân nặng nhƣ núi
Một đƣờng tế bội thuận hoà tình
Oán vì trời cho ngƣời số thọ
Trót cho mẹ (cha) sớm thăng thiên
Đa biệt thân sinh lòng gan đứt
Nghìn vàng mua phận chẳng quay về.
Trong lễ khởi trống thầy cúng chính đánh trống, thầy cúng phụ đánh
cồng, con cháu khóc, thầy hát hát phụ hoạ:
Đƣờng hoàng đạn thông thiên đã mở
Vũ lƣu chấn lệnh bạt âm vang
Trống kêu sấm động xuân tiết khí
Chay đàn hoa quả mấy tầng thơm
Nghênh đón các thần về ngự giáng
Tiễn biệt vong linh lên tổ tiên [51, tr.37].
Khi thắp đèn báo ơn, thầy cúng đi quanh quan tài hát, con cháu bò theo
sau khóc lóc thảm thiết. Bài hát kể về linh hồn đến 10 điện Diêm Vương:
Điện thứ nhất là vua Tần Quảng
Trên cầu, Nại Hà hỏi tiền duyên
Ai ai đến đây cũng phải khóc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
Bởi vì tra xét thật vô thƣờng
Đến cầu có cây nghìn thu thụ
Dạ xoa lột áo treo lên cây [51, tr.38].
Trong các bữa ăn dâng cúng cho người quá cố, đều có thầy cúng đọc
những bài thơ dâng cúng, miêu tả quá trình làm ra sản vật, miêu tả vẻ đẹp,
hương thơm, vị ngon của các vật đem dâng cúng, thể hiện niềm thương tiếc
vô hạn của người thân đối với người quá cố:
Một bát cơm dâng trắng phau phau
Chân trâu cốc mễ chồng lên nhau
Gạo trắng kinh qua nƣớc trong tẩy
Đặt vào trong chõ bắc lò sôi
Bốn bên phồng ra binh đinh hoả
Bốn bên lã chã hàng lệ rơi [51, tr.39].
Như vậy, các bài hát, các câu thơ là một bộ phận quan trợng trong diễn
xướng đám ma và trong đời sống tinh thần, phản ánh nhân sinh quan, thế giới
quan phong phú, thể hiện những tình cảm sâu nặng, thuỷ chung trong đời
sống cộng đồng người Dao Tuyển.
3.2.4.3. Diễn xƣớng thơ ca giao duyên
Hình thức diễn xướng thơ ca giao duyên của người Dao Tuyển khá
phong phú, song có thể chia thành hai hình thức chủ yếu: Hát tự phát đơn lẻ
và hát có tổ chức, có lề lối. Hát tự phát là hình thức một nam (nữ) hoặc một
tốp nam nữ tình cờ gặp nhau giữa chợ, trên nương, trên đường đi chơi tự cất
tiếng hát trực tiếp với nhau. Hát có lề lối, tổ chức là hình thức hát được hai
bên chuẩn bị trước, đồng thời được thống nhất tổ chức theo những nghi thức
khá chặt chẽ. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu một số hình thức diễn xướng
thơ ca giao duyên của người Dao Tuyển Lào Cai .
* Hát hội đầu xuân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
Theo tiến sĩ Trần Hữu Sơn và nghệ nhân Hoàng Sĩ Lực: từ ngày mồng
hai tết đến rằm tháng giêng hàng năm, người Dao Tuyển thường tổ chức hát
đầu xuân giữa nam thanh niên làng này với nữ thanh niên làng khác. Muốn tổ
chức hội hát này hai bên đều phải có sự chuẩn bị chu đáo từ trước. Cả làng
chọn một thầy hát giỏi, người này có trách nhiệm vừa dạy hát cho thanh niên
trong làng vừa trực tiếp viết thư mời nữ giới tham gia hát hội đầu xuân. Nội
dung thư mời hát với lời lẽ nhún nhường, mong tổ chức cho “cây lúa nảy
mầm, hoa quả sai trái, trâu lợn đẻ đƣợc nhiều con”. Đồng thời thư hẹn hát
phải nêu rõ thời gian, địa điểm, số lượng người của đoàn khách nam giới đến
hát. Sau khi nhận được thư, trưởng làng sẽ bàn với già làng, bà chủ hát giỏi
của làng, sẽ tuỳ điều kiện nhận lời hay từ chối. Nếu được bên nữ nhận lời, đến
ngày hẹn, trai làng thách hát do ông thầy dạy hát dẫn đầu, mặc trạng phục
ngày tết kéo đến làng nữ (làng nhận hát). Cách cổng làng chừng vài trăm mét,
tốp trai làng thách hát tổ chức hát chào, nêu rõ mục đích hát, chào già làng,
trưởng bản, xin phép cho trai làng đến hát :
Chàu sâu đai rành thảm cạc hu
Mung xa thỉn chỉ anh minh thìn.
(Chắp tay vái lậy ba thầy làng
Cho được mở lòng cùng tiên nữ)
Thầy làng gái sẽ lên tiếng hỏi: “Ai đến làng mà làm ồn ã. Trốn việc làm
lại bỏ đi chơi”. Lúc này chàng trai mới hát tiếp sang ý thứ hai bằng những câu
hát thanh minh, ngộ nghĩnh và đáng yêu:
Dăm chay hàn tì luôn dẻng oa
Lìn vằn chỉn thẳn ủ típ dzầu.
(Không phải ngày thường bỏ đi chơi
Thấy hoa nở rộ bướm bay đến)
Câu trả lời của trai làng thách hát thật ý nhị vừa thể hiện sự thanh minh
không phải lười làm mà đi chơi, mà vì hoa nở, vì mùa xuân về. Lúc này, thầy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
làng sẽ lên tiếng gọi các cô gái ra đón bạn vào làng cùng vui xuân và các
chàng trai lại hát tiếp kiểu hát mở ném còn trực tiếp với các cô gái:
Tạp tau dòng toòng thểu dều tây
Mung xa đào làn anh lấu tàu.
(Bước chân đến làng muôn hoa nở
Ngắm hoa ta hát một đôi lời) [12, tr.8].
Các cô gái làng hát đáp:
Thẳn thôi lồi mành thấy thêu pâu
Tha chằm chuân sỏng pẻ than theng.
(Sấm kêu mưa rơi hoa đua nở
Vườn xuân khoe sắc bướm lựơn vòng) [12, tr.9].
Hát chào xong, đoàn khách nam hát hỏi:
Xin chào!
Đi theo hƣớng gió thổi, đƣờng đƣa đến
Làng trù phú, gái làng đẹp có cho vào?
Bên nữ hồ hởi hát đáp:
Vƣờn xuân! ông chủ đƣa hoa, hƣơng thơm nức
Cửa làng rộng mở. Hƣơng bay cao
Gõ cửa? Đôi lời cùng cất cao ngây ngất
Đón gió tình xuân, đêm nay vui [51, tr.48].
Cuộc hát diễn ra sôi nổi. Ban ngày, không một ai trong đoàn khách nam
được vào nhà, mà họ hát ở những vườn cây, những bãi đất rộng của làng. Bên
thách hát xin được trò chuyện, hẹn ước với các bạn gái, nhiều đôi nam nữ tách
riêng để hát tâm tình với nhau. Đến bữa tối, già làng mời đoàn khách hát nam
và đoàn hát của làng cùng vào ăn cơm, uống rượu. Khi đã no say, lửa được
đốt lên, cuộc hát lại bắt đầu.
Bên nữ cử hai cô gái mở đầu cuộc hát :
Mặt trời đã khuất, sao mọc lên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
Cá con từng đàn đến thăm đồng.
Bên nam cử hai chàng trai hát đáp:
Nghe thấy tiếng sấm vang khắp trời
Trời quang mây tạnh sao có mƣa.
Bên nữ hát cùng:
Bỗng nghe tiếng sấm vang động trời
Mƣa dội ào ào vào thôn em
Từ nay lúa mẩy nhờ tiếng hát của anh
Lợn gà không dịch cũng nhờ anh [51, tr.49].
Không như cách hát ban ngày, hát ban đêm ngân nga chậm rãi hơn, và
tiếng hát âm trầm, sâu lắng hơn.Trai ngoài làng hát:
Quyết không thể rời nơi ngọc lâm
Mong cho cha mẹ kết đôi ta.
Miệng mỉm đáp lời không thấy sắc
Dựng tạm rèm vàng lại không treo.
Những lời hát rất đa dạng và phong phú về nội dung, thể loại, chủ đề. Có
thể hát về ước mơ của mình với cô gái nào đó, có khi lại hát hỏi thi tài về sự
hiểu biết. Bên nữ đáp:
Câu nào cũng thơm tựa ngọt đƣờng
Trên đời uyên ƣơng đôi sánh đôi
Chƣa đến mùa xuân hoa chƣa thắm
Dã từ kí ức hẹn chẳng xa .
Các cô gái, chàng trai vừa hát, vừa uống rượu, họ say sưa. say tình hát
liền qua đêm. Khi thấy trời sắp sáng, hương hoa toả bay, họ sợ cuộc vui phải
tan sớm, phải chia tay nhau khi chưa muốn rời:
Nghe thấy hƣơng thơm đứt lòng ruột.
Khó theo mọi ngƣời thành xoáy đi .
Nhất định bài hát kể không hết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
Gà trống vỗ cánh thì lại kêu.
Năm canh, cửa trời đã sáng tỏ [12, tr.14].
Bên nữ hát:
Trồng cây hoa nở chƣa kết trái.
Chƣa đến trùng dƣơng gà đã gáy.
Đêm ngắn ngày dài sao đã xa.
Một tiếng gà than lệ mƣời dòng.
Bên nam dùng dằng chia tay:
Lời anh nghẹn ngào không thành câu
Lòng anh đau nhƣ cắt từng khúc ruột
Đành phải chia tay em ở đây [51, tr.50].
Khi ra về các chàng trai, cô gái còn lưu luyến tặng vòng cổ, vòng tay cho
nhau quyến luyến, hẹn thề. Chia tay dọc đường, nam hát:
Dù có quay về nơi ta ở
Lƣơng tâm vẫn nhớ hội hát này.
Nữ hát, tiếng hát lưu luyến chưa muốn rời:
Anh có lƣơng tâm đặt vòng tay
Hẹn ƣớc từ đây ta nhớ nhau [12, tr.15].
Trai ra về, gái dấu túi như chưa muốn chia tay. Nam phải hát xin thật
hay, thật giỏi mới được trả túi ra về. Nhờ cuộc hát hội đầu xuân này mà bao
đôi trai gái người Dao Tuyển ở Lào Cai đã nên duyên vợ chồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
* Hát qua làng
Người Dao Tuyển có phong tục đẹp, khi có chàng trai hoặc cô gái qua
làng, nghỉ tại làng thì các chàng trai (hoặc các cô gái) đều tổ chức hát qua
làng. Đây là một biểu hiện của hình thức hát có lề lối có tổ chức trong sinh
hoạt văn hoá của người Dao. Cuộc hát thường diễn ra vào buổi tối, địa điểm
hát là ngôi nhà khách nghỉ trọ. Thanh niên trong làng trước khi vào nhà phải
đứng ngoài cửa hát bài hát chúc gia chủ: “đất hiền lành, người tốt bụng, lúa
ngô nhiều, khoai sắn lắm” và tiếp sau đó hát bài hát hỏi:
Đi làm nƣơng nghe tin con kiến mách
Khi tắm suối lại thấy con cá kêu
Về đến làng, ngƣời già bảo nhà ông
Có ngƣời thân đến chơi
Tin đó đúng hay không đúng?
Sau khi khách hát bài hát hỏi xong, chủ nhà phải hát đáp: “Tin đồn do
con kiến, con cá đưa đến đúng. Có cô em đến chơi xin mời vào nhà”. Vào
trong nhà, chủ nhà rải chiếu ngồi hát đối đáp với khách. Mở đầu cuộc hát, các
chàng trai hát hỏi thăm quê quán, mục đích đến thăm làng…lời hát mộc mạc,
phong phú với nội dung ướm hỏi, làm quen thể hiện sự thiết tha hiếu khách
của chủ nhà. Cô gái khéo léo hát đáp một cách chân tình, tế nhị:
Đi qua làng thấy ngƣời tốt em muốn dừng chân
Thấy con suối trong, bóng cây mát em muốn nghỉ
Thấy ngƣời giỏi cày cuốc, chăm dệt vải em muốn học
Sau đó, các chàng trai phải hát khen:
Khách đến chơi làng nhƣ mặt trời chiếu sáng
Bạn bốn phƣơng sum họp nơi đây.
Trà dẫu không ngon, khách nên uống ngụm
Lời hát dẫu chƣa hay, vẫn mời khách nghe [51, tr.51].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
96
Cứ thế, cuộc hát diễn ra mỗi lúc một sôi nổi, càng lúc càng gần gũi hơn
với những câu hát dường như không dứt. Đến sáng cuộc hát mới tan. Thanh
niên trong làng cảm ơn chủ nhà và khách đã nhiệt tình tiếp đón, các chàng
trai, cô gái quyến luyến tặng quà cho nhau. Sau cuộc hát này, nhiều đôi nam
nữ đã nên vợ nên chồng.
* Hát xin cốm
Hàng năm, vào tháng 9 âm lịch, các làng người Dao Tuyển ở Lào Cai
thường tổ chức giã cốm ăn tết Trùng dương (tết mừng lúa mới). Đây cũng là
một dịp để nam nữ tổ chức hát giao duyên dưới hình thức hát xin cốm. Hát
xin cốm là hình thức hát có lề lối, tổ chức, bởi nó có những quy định về thời
gian, địa điểm, cách thức tiến hành. Về nội dung cũng có phần hát nghi thức:
Chào hỏi chủ nhà, chúc sức khoẻ chúc tết Trùng dương.
Theo nhà nghiên cứu – Tiến sĩ Trần Hữu Sơn, vào buổi tối ngày 8 tháng
9, trong khi các cô gái làm cốm, các chàng trai làng bên đan một số sọt, bên
trong đựng một số cành cây xấu hổ (biểu tượng xấu hổ) và củ khoai sọ (biểu
tượng cho sự cảm ơn). Vì vậy, chiếc rọ xin cốm vừa có ý nghĩa xấu hổ, vừa
có ý nghĩa cảm ơn. Các chàng trai buộc dây và thả rọ vào đầu hồi bếp rồi hát:
Cuối thu se se gió lạnh
Mùi thơm theo gió lan xa
Bƣớm ong mở to đôi mắt
Bay tan đến hội Trùng dƣơng [51, tr.52].
Nghe những lời hát ấy, các cô gái hát mời chàng trai vào nhà, nhưng các
chàng trai đều lấy lá che kín mặt, không vào nhà chủ hát. Các cô gái vừa tổ
chức, vừa rình bắt các chàng trai vào nhà. Cuối cùng, các chàng trai cũng vào
nhà cùng các cô gái và hát đối đáp. Hát xong phần nghi thức, họ hát sang
phần trao đổi tình cảm, tình yêu. Cuộc hát diễn ra thâu đêm, đến tận sáng hôm
sau các chàng trai, cô gái hát bài chia tay, hẹn gặp nhau ở nơi khác, nguyện
ước thành vợ chồng. Các cuộc hát giao duyên chỉ được hát giữa trai làng này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
với gái làng khác. Nghiêm cấm các hiện tượng hát cùng làng hoặc cùng họ
hàng hát giao duyên, bởi ngoài việc thi tài, hát đối đáp giao duyên thường để
làm quen, tìm hiểu và trai gái bày tỏ tình cảm yêu đương.
*Tiểu kết
Giá trị của thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai được thể hiện trên
nhiều phương diện nghệ thuật. Trong luận văn, người viết đã làm rõ một số
phương diện tiêu biểu: thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật, một số biện
pháp nghệ thuật biểu hiện so sánh tu từ, ẩn dụ tu từ và giới thiệu một số hình
thức diễn xướng tiêu biểu trong thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai.
Thời gian nghệ thuật trong thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai
là một hình tượng nghệ thuật sống động gắn liền với việc bộc lộ tâm trạng của
chủ thể trữ tình, thể hiện các cung bậc tình cảm, biểu đạt các trạng thái tâm
hồn của con người. Đó là thời gian hiện tại diễn xướng và thời gian hiện thực.
Tìm hiểu thời gian nghệ thuật trong thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào
Cai không những giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn nội dung tác phẩm mà còn
giúp chúng ta có cái nhìn về một phương diện sáng tạo mang đặc trưng thể
loại: Nếu thời gian trong sử thi mang tính khái quát, thời gian trong cổ tích có
tính chất hoang đường phiếm chỉ, thời gian trong truyền thuyết lịch sử mang
tính chất quá khứ xác định thì thời gian trong thơ ca dân gian là một phương
tiện biểu đạt các trạng thái tâm hồn của con người.Không gian nghệ thuật
trong thơ ca dân gian người Dao Tuyển là một phương tiện để chủ thể trữ tình
bộc lộ tâm trạng. Đó là không gian thiên nhiên đa sắc màu, là không gian sinh
hoạt gần gũi với cuộc sống của đồng bào, đồng thời còn là không gian siêu
nhiên mang dáng vẻ huyền bí biểu hiện quan niệm về tâm linh, tín ngưỡng
của người Dao Tuyển.
Bên cạnh đó, nhờ những biện pháp nghệ thuật biểu hiện như so sánh tu
từ, ẩn dụ tu từ mà chúng ta hiểu rõ hơn đời sống tinh thần, tâm hồn phong phú
nhạy cảm, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của một tộc người thiểu số ở vùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
98
biên ải này. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai được diễn xướng
dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong luận văn, người viết đã giới thiệu một
số hình thức diễn xướng thơ ca dân gian tiêu biểu của người Dao Tuyển: diễn
xướng thơ ca trong đám cưới, diễn xướng thơ ca trong tang lễ, diễn xướng thơ
ca giao duyên (hát hội đầu xuân, hát qua làng, hát xin cốm). Điều đó chứng tỏ
rằng: thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai gắn bó mật thiết với
các mặt sinh hoạt của nhân dân, sinh hoạt lao động sản xuất, sinh hoạt nghi lễ
phong tục, sinh hoạt gia đình và xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
99
KẾT LUẬN
Thơ ca dân gian là một thể loại tiêu biểu, là di sản văn hoá phi vật thể
có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của tộc người Dao Tuyển ở Lào
Cai. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển đã góp phần làm phong phú thêm kho
tàng văn học dân gian dân tộc Dao nói riêng, kho tàng thơ ca dân gian các dân
tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung. Bàn về thơ ca dân gian Dao, từ trước đến
nay đã có không ít công trình nghiên cứu đề cập đến. Tuy nhiên, bàn về thơ ca
dân gian người Dao Tuyển thì con số ấy không hẳn là nhiều. Được sự giúp đỡ
tận tình của các thầy giáo, cô giáo, các nhà nghiên cứu, chúng tôi tiếp nối
cuộc hành trình của những người đi trước bằng việc tìm hiểu Thơ ca dân gian
người Dao Tuyển ở Lao Cai. Chúng tôi xác định, đây là vấn đề khá rộng, đòi
hỏi phải có thời gian và công sức nghiên cứu lâu dài. Tuy nhiên, qua bước
đầu nghiên cứu, chúng tôi xin phép được đưa ra một vài kết luận như sau:
1. Người Dao Tuyển ở Lào Cai có một kho tàng thơ ca dân gian khá phong
phú, phản ánh một cách chân thực hiện thực đời sống, tư tưởng tình cảm,
phong tục tập quán, tín ngưỡng của con người.
Thơ ca giao duyên phản ánh một cách sinh động về hiện thực cuộc
sống, biểu hiện vẻ đẹp tâm hồn, tư tưởng tính cách của người Dao Tuyển. Đặc
biệt là mảng đề tài về tình yêu lứa đôi. Tình yêu lứa đôi ở đây được thể hiện
với đầy đủ các cung bậc, các sắc thái tình cảm: có niềm vui trong buổi đầu
gặp gỡ, có nỗi nhớ khi xa cách, có nỗi buồn đau, đắng cay khi tình yêu tan
vỡ…như thơ ca giao duyên của các dân tộc anh em khác. Tuy nhiên, những
câu hát, bài hát giao duyên của người Dao Tuyển về tình yêu lứa đôi vẫn
mang những nét bản sắc riêng, độc đáo. Điều này xuất phát từ quan niệm về
tình yêu của họ: Tình yêu phải mộc mạc, chân thành, phải mạnh mẽ quyết liệt.
Tình yêu phải gắn liền với hôn nhân và sự thuỷ chung. Tình yêu phải gắn liền
với lao động sản xuất, xây dựng gia đình hạnh phúc ấm no, bản làng giàu đẹp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
100
Qua thơ ca giao duyên chúng ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn và tính cách của
tộc người Dao Tuyển - những con người luôn lạc quan yêu đời, yêu cuộc
sống, luôn coi trọng đạo đức luân lí, sống chân thành phóng khoáng và
mạnh mẽ.
Thơ ca nghi lễ, phong tục của người Dao Tuyển ở Lào Cai khá phong
phú với nhiều tiểu loại khác nhau: thơ ca trong lễ đặt tên con, thơ ca trong lễ
cấp sắc, thơ ca trong lễ cưới, thơ ca trong tang lễ, thơ ca trong lễ gọi hồn lúa,
cúng thần nông…Các tiểu loại ấy là tấm gương phản chiếu đời sống phong
tục, tập quán tín ngưỡng của con người với một quan niệm nhân sinh sâu sắc.
Thơ ca dân gian người Dao Tuyển không chỉ đề cập đến những nghi lễ
tập tục, những cuộc hát giao duyên ướm hỏi tình tứ ... tác giả dân gian còn
thấu hiểu đến cả những cảnh đời bất hạnh, đó là những bài hát than thân cho
những kiếp mồ côi nghèo khổ, cơ cực, bị đối xử nghiệt ngã. Những người
sống trong hoàn cảnh ấy, hát những bài hát hợp với mình để giãi bày những
nỗi lòng trống vắng, đơn côi, hát cho vơi đi nỗi khổ đau cơ cực, hát để hi
vọng sự thương cảm, an ủi, che chở của cộng đồng. Vì vậy, tiếng hát mồ
côi của người Dao Tuyển tràn đầy tư tưởng nhân đạo và có ý nghĩa nhân
văn sâu sắc.
2. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển như một dòng suối ngọt ngào hoà vào
dòng chung văn hoá văn nghệ của đồng bào Dao, góp phần làm cho con
người đẹp lên cả về nhân cách và tài năng, khơi dậy niềm vui trong cuộc sống
lao động sản xuất. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển là sự chắt lọc những gì
tinh tuý nhất trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của đồng bào Dao Tuyển. Nó
chứa đựng những giá trị nghệ thuật độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc qua lối
nói so sánh ví von, ẩn dụ. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển sử dụng chất liệu
quen thuộc, gắn bó với cuộc sống của con người miền núi: thời gian, không
gian… những phương diện diễn tả và biểu hiện ấy góp phần soi rọi những
phẩm chất cao quý, đáng được trân trọng, ngợi ca của tộc người thiểu số ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
vùng biên ải này. Thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai có thể
được diễn xướng trong các lễ hội dân gian, trong cuộc sống sinh hoạt thường
ngày, trên đường đi, khi khánh thành những ngôi nhà mới, khi lại thu hút cả
bản làng vào những cuộc hát giao duyên kéo dài tới thâu đêm, suốt sáng…Tất
cả những điều đó chứng tỏ rằng sinh hoạt thơ ca dân gian giữ một vai trò quan
trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của người Dao Tuyển ở Lào Cai.
3. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai là một nguồn tư liệu quí, phản
ánh đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá của người Dao Tuyển. Kho tàng thơ ca
dân gian ấy chứa đựng những tri thức về nhiều mặt như lịch sử, địa lí, dân tộc
học…và có giá trị văn học nghệ thuật vô cùng độc đáo đòi hỏi phải tiếp tục
được bảo tồn và phát huy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội.
2. Triều Ân (1994), Ca dao Tày Nùng, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
3. Nguyễn Chí Bền (1999), Văn hoá dân gian Việt Nam, Nxb Văn hoá
dân tộc, Hà Nội.
4. Nguyễn Quốc Chấn (2003), Tinh tuyển văn học Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
5. Chu Xuân Diên (2000), “Về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân
gian”, Tạp chí văn học, (5), Hà nội, Tr. 19 – 26.
6. Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến
(1971), Ngƣời Dao ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Bế Biết Đẳng (1994), Về cuộc sống của ngƣời Dao ở Việt Nam, Tư
liệu Viện dân tộc học, Hà Nội.
8. Cao Huy Đỉnh (1976),Tìm hiểu tiến trình Văn học dân gian Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Nịnh Văn Độ (2003), Văn hoá truyền thống các dân tộc Tày-Dao-
Sán Dìu ở Tuyên Quang, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
10. Nguyễn Xuân Đức(2003), Những vấn đề thi pháp văn học dân gian,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Mai Thị Hồng Hải (2003), Góp phần nghiên cứu Xƣờng giao duyên
của ngƣời Mƣờng, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội .
12. Hát hội đầu xuân ngƣời Dao Tuyển, Tư liệu đánh máy của Sở văn
hoá Lào Cai.
13. Diệp Đình Hoa (2002), Ngƣời Dao ở Trung Quốc, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
14. Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý (1999), Văn hoá truyền thống
ngƣời Dao ở Hà Giang, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
15. Vi Hồng (1979), Sli lƣợn- Dân ca trữ tình Tày-Nùng, Nxb Văn hoá,
Hà Nội.
16. Vi Hồng (1985), Một vài quan niệm vũ trụ quan, nhân sinh quan
ngƣời Tày cổ qua một số truyện cổ của họ, Văn học dân gian các dân
tộc miền núi.
17. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đƣờng tìm hiểu Văn hoá dân gian, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
18. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2001), Văn học
dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (1997), Diễn xƣớng dân gian Việt
Nam, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
20. Lộc Bích Kiệm (1999), Đặc điểm dân ca đám cƣới Tày-Nùng, Luận
văn Thạc sĩ, Hà Nội.
21. Nguyễn Xuân Kính, Lê ngọc Canh, Ngô Đức Thịnh ( 1989), Văn hoá
dân gian - những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Nguyễn Xuân Kính (1992),Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
23. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (1995), Kho tàng ca dao ngƣời
Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
24. Đinh Trọng Lạc (1996), 99 biện pháp tu từ Tiếng Việt, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
25. Lời ca tỏ tình (2004), Ban Văn học Việt Nam, Nxb Văn học, H.2004.
26. Hoàng Minh Lường (2001), Quan niệm về nghệ thuật trong văn học
dân gian cổ truyền của các dân tộc thiểu số, Luận án tiến sĩ Ngữ văn,
Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
27. Triệu Hữu Lý(1974), Truyện Đặng Hành và Bàn Đại Hộ, Tạp chí dân
tộc học,( 2), Hà Nội.
28. Triệu Hữu Lý (1990), Dân ca Dao, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
29. Phân Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc thiẻu số Việt nam trƣớc
Cách mạng tháng Tám năm 1945, Hà Nội.
30. Bùi Mạnh Nhị (1999), Văn học dân gian-những công trình nghiên
cứu. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
31. Nhiều tác giả (2003), Tổng tập văn học dân gian ngƣời Việt, Tập 19 -
Nhận định và tra cứu. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
32. Nhiều tác giả (2000), Góp phần nâng cao chất lƣợng nghiên cứu, sƣu
tầm văn hoá, văn nghệ dân gian. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
33. Nhiều tác giả (1999), Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam. Nxb
Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
34. Nhiều tác giả ( 1975), Văn học dân gian Lào Cai, Ty văn hoá Lao
Cai xuất bản.
35. Nhiều tác giả (1999), Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam, Nxb
Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
36. Hà Thị Kim Oanh (1997), Chợ tình của ngƣời Dao Đỏ ở Sa Pa, Tạp
chí dân tộc học, (1), Hà Nội.
37. Vũ Ngọc Phan (2003), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb văn
học Hà Nội.
38. Lê Trường Phát (1997), Đặc điểm thi pháp các dân tộc thiểu số,
Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, Hà Nội.
39. Lê Trường Phát (2000), Thi pháp văn học dân gian, Nxb văn học, Hà
Nội.
40. Mạc Phi (1979), Dân ca Thái, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
41. Đặng Thị Quang (2000), Trang phục cổ truyền của ngƣời Dao Đỏ ở
huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang, luận án thạc sĩ, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
42. Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ (2001), Văn học dân
gian Việt Nam, Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.
43. Hùng Đinh Quý (1994) - Văn hoá truyền thống các dân tộc Hà
Giang, Nxb Văn hoá - Thông tin .
44. Lý Hành Sơn (1991), Vài khía cạnh về tâm lí ngƣời Dao Tiền, Tạp
chi dân tộc học( 4), Hà Nội.
45. Lý Hành Sơn (1996), Nghi lễ ma chay của ngƣời Dao Tiền ở Ba Bể
Bắc Kạn, Tạp chi dân tộc học (4), Hà Nội.
46. Lý Hành Sơn (2002), Lễ cấp sắc và bản sắc Văn hoá ngƣời Dao, Tạp
chí dân tộc học ( 3), Hà Nội.
47. Lý Hành Sơn (2003), Các nghi lễ chủ yếu trong chu kì đời ngƣời của
nhóm Dao Tiền ở Ba Bể Bắc Kạn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
48. Trần Hữu Sơn (1997), Văn Hoá dân gian Lao Cai, Nxb Văn hoá dân
tộc, Hà Nội.
49. Trần Hữu Sơn (1999), Tục ngữ, câu đố dân tộc Dao, Nxb Văn hoá
dân tộc, Hà Nội.
50. Trần Hữu Sơn (2001), Lễ cƣới ngƣời Dao Tuyển, Nxb Văn hoá dân
tộc, Hà Nội.
51. Trần Hữu Sơn (2005), Thơ ca dân gian ngƣời Dao Tuyển, Nxb Văn
hoá dân tộc, Hà Nội.
52. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại. Bộ giáo
dục Đào tạo, Vụ Giáo viên, Hà Nội.
53. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
54. Trần Đình Sử (2000), Văn học và thời gian, Nxb Văn học, Hà Nội.
55. Sự phát triển Văn hoá - xã hội của ngƣời Dao hiện tại và tƣơng lai
(Kỷ yếu hội thảo)(1998), Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn
Quốc gia, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
56. Thèn Sèn, Lù Dín Siềng (1975), Dân ca Giáy, Hội văn học nghệ thuật
Lào Cai.
57. Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Xuân Lạc (2003), Giảng văn văn học dân gian
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
58. Đào Thanh Thái (2002), Đôi điều về hôn lễ nhóm Dao Họ ở Lào Cai,
Tạp chí dân tộc học (1), Hà Nội.
59. Doãn Thanh, Hoàng Thao, Chế Lan Viên(1984), Dân ca H.Mông,
Nxb Văn học, Hà Nội.
60. Doãn Thanh (1985), Truyện cổ Dao, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
61. Hồng Thao (1963), Dân ca Dao, Nxb Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội.
62. Bùi Thiện (2003), Dân ca Mƣờng, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
63. Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Xuân Kính (1990), Văn hoá dân gian -
những phƣơng pháp nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
64. Ngô Đức Thịnh (1990), Quan niệm về Folklore, Nxb khoa học xã
hội, Hà Nội.
65. Bùi Xuân Tiệp (2003), Lễ hội Gầu Tào và dân ca giao duyên dân tộc
Mông. Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn,Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội.
66. Đỗ Bình Trị (1978), Nghiên cứu tiến trình lịch sử của văn học dân
gian Việt Nam, Nxb Khoa học, Hà Nội.
67. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt nam (Tập I), Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
68. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại Văn
học dân gian. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
69. Hoàng Văn Trụ (1997), Dân ca các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb
Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
70. Hoàng Tiến Tựu (1990), Văn học dân gian Việt Nam (Tập II), Nxb
Giáo Dục, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
71. Hoàn Tiến Tựu (1997), Mấy vấn đề về phƣơng pháp giảng dạy,
nghiên cứu văn học dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
72. Nguyễn Khắc Tụng (1997), Trở lại vấn đề phân loại các nhóm Dao ở
Việt Nam, Tạp chí dân tộc học,( 3), Hà Nội.
73. UBND Tỉnh Lao Cai (2002), Qui định thực hiện nếp sống văn minh
trong việc cƣới, việc tang, lễ hội và các hoạt động tín ngƣỡng tại tỉnh
Lào Cai, Công tác tư tưởng – Ban tuyên giáo Tỉnh Uỷ Lào Cai (8).
74. Từ điển Tiếng Việt (1994), Trung tâm từ điển học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
75. Đặng Nghiêm Vạn (2002), Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số
Việt Nam, Nxb Đà Nẵng.
76. Đặng Nghiêm Vạn (1991), Huyền thoại về nguồn gốc các tộc ngƣời,
Tạp chí văn hoá, (2), Hà Nội.
77. Văn kiện Hội nghị lần thứ V - BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam
khoá VIII (1998),Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
78. Lê Trung Vũ (1992), Lễ hội của ngƣời Việt ở Bắc Bộ. Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
79. Lê trung Vũ (2001), Bàn Vƣơng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
80. Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao. Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
PHỤ LỤC
1. Bản đồ hành chính Lào cai
Nơi tập trung người Dao Đỏ Nơi tập trung người Dao Tuyển
Nơi tập trung người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
2. Một số hình ảnh về đời sống tinh thần của ngƣời Dao Tuyển Lào Cai
Một số hình ảnh thiên nhiên thôn Làng Mi, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai
( Ảnh của tác giả đề tài chụp ngày 17 / 2 / 2008)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
110
Hái lúa làm cốm
( Ảnh của Nguyễn Thế Dũng - Trƣờng THPT Nội trú – Lào Cai)
Trang phục ngƣời Dao Tuyển Lào Cai
(Ảnh của tác giả đề tài chụp 28 / 7/ 2007)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
111
Mũ thầy cúng Dao Tuyển Lào Cai
( Ảnh của tác giả đề tài chụp ngày 15/ 11/ 2007)
Miếu thờ trong rừng cấm
( Ảnh của tác giả đề tài chụp ngày 18/2/2008)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
112
Hội hát cốm của ngƣời Dao Tuyển Bảo Thắng – Lào Cai
( Ảnh của tác giả đề tài chụp ngày 8/ 9/ 2007)
Thầy cúng trong đám chay Thầy cấp sắc và ngƣời thụ lễ
( Ảnh của tác giả chụp ngày 15/2/ 2008) ( Ảnh của tác giả chụp ngày 12/2/2008)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
113
Thầy cúng trong đám tang ngƣời Dao Tuyển Bảo Yên – Lào Cai
( Ảnh của tác giả đề tài chụp ngày 7/8/2007)
Thầy cúng đang làm lễ giải hạn tại nhà ông Hoàng Sĩ Lực, thôn Làng Mi, Bảo Thắng, Lào Cai.
( Ảnh của tác giả đề tài chụp ngày 17 / 2 / 2008)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
114
Những ngƣời hát giỏi tại thôn Làng Mi - Bảo Thắng – Lào Cai
( Ảnh của tác giả chụp 28 /2/2008)
Hát đối đáp tại thôn Làng Mi - Bảo Thắng - Lào Cai
( Ảnh của tác giả chụp ngày 28 /2/2008)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
115
Tác giả và nghệ nhân Hoàng Sĩ Lực ( Ảnh của tác giả chụp ngày16/2/2008)
Tác giả đang thực tế tại thôn Làng Mi ( Ảnh của tác giả 16/2/2008)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
116
Tác giả và một số ngƣời hát giỏi thôn Làng Mi - Bảo Thắng – Lào Cai
( Ảnh của tác giả chụp ngày 28/2/2008)
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9486.pdf