Thiết lập cơ chế Quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam

Mục lục Trang Lời mở đầu 4 Chương I: Những vấn đề cơ bản về cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 6 1.1. Khái quát về doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DN-NQD) 6 1.1.1. Khái niệm và phân loại DN-NQD 6 1.1.2. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế 9 1.1.3. Đặc điểm và xu hướng phát triển của DNNQD 10 a) Đặc điểm 10 b) Xu hướng phát triển của DNNQD trong tương lai 12 1.2. Cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD 14 1.2.1 K

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thiết lập cơ chế Quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hái niệm về cơ chế quản lý tài chính 14 1.2.2. Những nội dung chủ yếu trong cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD 16 1.2.2.1. Sự thành lập và đăng kí kinh doanh 16 1.2.2.2. Quản lý vốn và tài sản 17 1.2.2.2.1. Quản lý vốn đối với DNNQD 17 1.2.2.2.2. Quản lý tài sản đối với doanh nghiệp NQD 22 1.2.2.3. Quản lý doanh thu và chi phí đối với doanh nghiệp NQD 28 1.2.2.3.1. Quản lý doanh thu đối với doanh nghiệp NQD 28 1.2.2.3.2. Quản lý chi phí đối với doanh nghiệp NQD 30 1.2.2.4. Quản lý việc phân phối lợi nhuận đối với doanh nghiệp NQD 34 1.2.2.5. Quản lý công tác kế toán kiểm toán và báo cáo tài chính doanh nghiệp NQD 40 1.2.3. Vai trò của cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD 41 1.3 Sự cần thiết phải thiết lập cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD 43 Chương II Thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp NQD ở Việt Nam hiện nay 45 2.1. Khái quát về khu vực kinh tế NQD 45 2.1.1. Quan điểm và đường lối chỉ đạo của đảng và nhà nước về sự phát triển của khu vực kinh tế NQD 45 2.1.2. Sự hình thành và phát triển của khu vực kinh tế NQD ở nước ta trong những năm qua 49 2.2. Thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp NQD ở nước ta hiện nay 57 2.2.1. Khái quát về cơ chế quản lý tài chính khu vực NQD ở nước ta 57 2.2.2. Thực trạng cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD ở nước ta hiện nay 59 2.2.2.1. Quản lý về thành lập và đăng kí kinh doanh 59 2.2.2.2. Quản lý vốn và tài sản 59 2.2.2.3. Quản lý doanh thu chi phí 60 2.2.2.4. Quản lý phân phối thu nhập 63 2.2.2.5. Công tác kiểm toán kế toán và báo cáo tài chính 68 2.3. Đánh giá về cơ chế quản lý tài chính DNNQD 69 2.3.1. Những thành tựu chung đã đạt được 70 2.3.2. Những hạn chế của cơ chế quản lý tài chính DNNQD 71 2.3.3. Nguyên nhân căn bản của những hạn chế trên 72 Chương III Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD ở nước ta 76 3.1. Những quan điểm cần quán triệt trong việc thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với khu vực kinh tế NQD 78 3.2. Giải pháp thiết lập cơ chế quản lý tài chính cho các DNNQD 78 3.2.1. Quản lý vốn và tài sản 80 3.2.2. Quản lý doanh thu chi phí 83 3.2.3 Quản lý thu nhập và phân phối thu nhập 87 3.2.4. Quản lý công tác kế toán, kiểm toán và báo cáo tài chính 89 3.2.5. Các giải pháp hỗ trợ khác 91 3.3. Kiến nghị điều kiện thực thi giải pháp 96 Kết luận 98 Danh mục tham khảo 99 Lời mở đầu Từ Đại hội Đảng VI năm 1986, Đảng và Nhà nước ta xác định chúng ta đang trong thời kì quá độ, tiến lên chủ nghĩa xã hội, trong đó, xây dựng một nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nhiệm vụ trọng tâm xuyên xuốt trong giai đoạn lịch sử này. Để có được bài học đó, chúng ta đã phải trả giá bằng một thời kỳ dài nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp với tất cả những "thói hư tật xấu", vì vậy để thực hiện được đường hướng của Đảng và Nhà nước, chúng ta phải thực hiện một quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế sâu sắc và toàn diện. Kèm theo đó là quá trình đa dạng hóa các thành phần kinh tế, đa dạng hóa các loại hình sở hữu, tận dụng và phát triển mọi nguồn nội lực để phát triển, thực hiện tốt mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh". Chính từ đó, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã ra đời và phát triển, trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đóng góp to lớn vào công cuộc phát triển kinh tế, huy động tối đa các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực kinh tế không thuộc sở hữu nhà nước, chúng vận hành theo cơ chế thị trường, mục tiêu quan trọng nhất là lợi nhuận. Chính vì thế, nhà nước không thể can thiệp trực tiếp, dưới hình thức hành chính hay mệnh lệnh tới các doanh nghiệp này. Đảng và nhà nước cần tạo lập cho khu vực kinh tế NQD một môi trường hoạt động phù hợp, vừa thực hiện đúng định hướng phát triển chung của đất nước, vừa khuyến khích và tận dụng được những ưu việt vốn có của nó. Trong đó, cơ chế quản lý tài chính chính là một trong những vấn đề quan trọng nhất. Thiết lập được một cơ chế quản lý tài chính hiệu quả chính là tiền đề, là điều kiện cơ bản để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ khác. Hiện nay ở nước ta, chưa có một cơ chế quản lý tài chính chính thức và độc lập đối với doanh nghiệp NQD, công tác quản lý tài chính đối với khu vực kinh tế này được thực hiện dựa trên cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp Nhà nước (Nghị định 59/NĐ-CP, và Nghị định 27/NĐ-CP ban hành kèm nghị định 59). Cơ chế này do đó chưa hoạt động thật sự hiệu quả, không phát huy được tối đa tiềm lực của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trong thời gian qua, Chính phủ đang hướng dẫn chỉ đạo Bộ tài chính và các bộ ngành liên quan xây dựng và ban hành một Nghị định tương tự Nghị định 59/NĐ-CP nhưng là cho các doanh nghiệp NQD. Trước thực tế đó, em mạnh dạn đề cập và nghiên cứu đề tài : "Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam". Chuyên đề được chia làm 3 chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh Chương II: Thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp NQD ở Việt Nam hiện nay Chương III: Thiết lập cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD ở nước ta Trong quá trình thực hiện, mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do kiến thức còn hạn chế, nhận thức chưa đầy đủ, thiếu kinh nghiệm thực tiễn và những khó khăn khách quan về tài liệu, số liệu và các tài liệu tham khảo, chuyên đề chắc chắn không thể tránh khỏi sai lầm, thiếu sót. Vì vậy, em mong được thầy cô và các bạn phê bình, bổ sung và đóng góp ý kiến để chuyên đề hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của các cán bộ Cục tài chính doanh nghiệp, nhất là tập thể cán bộ Ban ngoài quốc doanh, những người giàu kinh nghiệm thực tế trong lĩnh vực nghiên cứu của đề tài. Đặc biệt, em xin cám ơn thầy giáo Vũ Duy Hào người trực tiếp hướng dẫn em thực hiện đề tài này. Chương I: Những vấn đề cơ bản về cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 1.1. Khái quát về doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DN-NQD) 1.1.1 Khái niệm và phân loại DN-NQD: Đề cập đến kinh tế ngoài quốc doanh, Nghị quyết Đại hội trung ương Đảng lần thứ V đã công nhận, trong hơn 10 năm thuộc thời kì đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân (kinh tế NQD) bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc sở hữu cá nhân, kinh tế tư bản tư nhân hoạt động dưới các loại hình khác nhau như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH),..., kinh tế hộ gia đình, đã có những bước phát triển nhanh, mạnh và rộng khắp trên cả nước. Kinh tế NQD đã đóng góp to lớn vào sự phát triển chung của đất nước, thông qua việc huy động tối đa các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện mức sống của người dân, đóng góp vào ngân sách nhà nước, góp phần đảm bảo sự ổn định chính trị xã hội trong nước và nhiều mặt tích cực khác. Như vậy rõ ràng phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chính là một chiến lược quan trọng lâu dài, phù hợp với qui luật vận động của nền kinh tế và nằm trong tổng thể các chiến lược chung của đất nước trong thời kì đổi mới. Nhưng vấn đề chính chúng ta cần thảo luận trong phần này chính là khái niệm về khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Doanh nghiệp NQD xét dưới giác độ sở hữu bao gồm tất cả các đơn vị hay tổ chức kinh tế thuộc sở hữu của một người hay một nhóm người. Quyền sở hữu này được xác định dựa trên quá trình huy động hình thành nên nguồn vốn hoạt động cho đơn vị kinh tế đó và được pháp luật thừa nhận. Điều này khác cơ bản với các doanh nghiệp quốc doanh, hay doanh nghiệp nhà nước (DNNN), khi mà nguồn vốn hình thành nên các DNNN được ngân sách nhà nước cấp, nghĩa là từ sự đóng góp của toàn dân(nguồn thu từ thuế). Tuy nhiên, DNNQD không bao gồm tất cả các doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước. Trong nền kinh tế mở, các quốc gia có sự thông thương nhất định, các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh được thành lập, nhưng rõ ràng là không nên xếp chúng vào doanh nghiệp NQD. Thứ nhất, vì chúng không có tính đồng nhất về mặt sở hữu, một doanh nghiệp liên doanh có thể là sự liên doanh giữa hai công dân thuộc hai nước khác nhau, liên doanh giữa hai tổ chức hay liên doanh giữa hai chính phủ, còn doanh nghiệp nước ngoài thì càng không thể khẳng định nó thuộc sở hữu nhà nước hay tư nhân. Thứ hai, tính chất hoạt động và các ảnh hưởng của doanh nghiệp nước ngoài khác so với các doanh nghiệp trong nước, chúng vận hành theo một bộ luật riêng thường là luật đầu tư nước ngoài và ảnh hưởng lên một số khía cạnh đặc thù trong nền kinh tế như cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối, tài trợ xuất nhập khẩu v.v Vì vậy, ở đây chúng ta không xếp các doanh nghiệp nước ngoài như một bộ phận của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Như vậy, DNNQD ở nước ta hiện nay chính là các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp đó là các đơn vị kinh tế tồn tại dưới các hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty cổ phần (CTCP), công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân (DNTN), do một hay nhiều người đứng ra làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình (hữu hạn hay vô hạn) về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Tất nhiên cũng phải kể đến các hộ kinh doanh cá thể với mức vốn pháp định thấp hơn vốn pháp định của doanh nghiệp tư nhân. Đây là loại hình kinh tế hộ gia đình kinh doanh trong một số ngành nghề như nông nghiệp, thủ công, dịch vụ và buôn bán nhỏ. Nhìn chung, bộ phận chính, quan trọng nhất trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chính là các công ty bao gồm Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Công ty trách nhiệm hữu hạn: - Công ty TNHH có hai thành viên trở lên: là doanh nghiệp trong đó thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp (trách nhiệm hữu hạn). Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân số lượng thành viên không quá 50 và không được quyền phát hành cổ phiếu. - Công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn của doanh nghiệp và cũng không được quyền phát hành cổ phiếu. Công ty cổ phần - Doanh nghiệp có vốn điều lệ được chia thành cổ phần, số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng. Công ty hợp danh - Là loại doanh nghiệp có ít nhất hai thành viên hợp danh; ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn, thành viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính của công ty (trách nhiệm vô hạn). Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm trên lượng vốn góp của mình vào doanh nghiệp. Công ty hợp danh không được phát hành chứng khoán. Doanh nghiệp tư nhân - Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, khu vực kinh tế NQD hay khu vực kinh tế tư nhân còn có thể được phân chia theo hiến pháp bao gồm các hình thức kinh tế sau: - Kinh tế cá thể: được hiểu là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay một cá nhân hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao động của chính hộ hay cá nhân đó, không thuê mướn lao động làm thuê. - Kinh tế tiểu chủ: là hình thức kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý và điều hành, hoạt động trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và có sử dụng lao động thuê mướn ngoài lao động của chủ; quy mô vốn đầu tư và lao động nhỏ hơn của các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. - Kinh tế tư bản tư nhân: bao gồm các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần được thành lập theo luật Doanh nghiệp. Trên đây là một số cách phân loại khác nhau về các bộ phận cấu thành nên khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, sở dĩ có những sự phân chia hơi khác nhau như vậy là vì mỗi cách phân loại dựa trên một tiêu thức, một cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, tựu trung lại, chúng ta có thể hiểu doanh nghiệp NQD là các doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước, và tất nhiên là không phải các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (như đã trình bày ở trên). Đây là một bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường, một phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là nhiệm vụ quan trọng để đi đến thắng lợi cuối cùng trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. 1.1.2. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế: Kinh tế tư nhân có thể kinh doanh trong hầu hết các lĩnh vực trong nền kinh tế, tất nhiên trừ một số ít lĩnh vực mà nhà nước giữ độc quyền để kiểm soát tình hình an ninh quốc phòng và ổn định chính trị trong nước. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đã và đang tiếp tục có những đóng góp tích cực và vô cùng quan trọng cần thiết trong công cuộc phát triển đất nước. - Góp phần quan trọng để tạo ra thành tựu tăng trưởng kinh tế chung, đổi mới bộ mặt kinh tế xã hội, tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ cho xã hội. - Là lĩnh vực chính thu hút lao động xã hội, tạo công ăn việc làm cho người lao động. - Giải phóng sức lao động và huy động tối đa các nguồn lực trong dân cư vào công cuộc phát triển kinh tế. - Tạo môi trường cạnh tranh, nâng cao tính năng động hiệu quả cho nền kinh tế. - Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mặc dù có những vai trò tích cực và quan trọng như đã kể trên, nhưng trong quá khứ và ngay cả hiện tại vẫn có những quan điểm không thống nhất về những đóng góp của khu vực kinh tế NQD. Nhiều quan điểm cho rằng kinh tế tư nhân gắn liền với bóc lột, là nguyên nhân của sự phân hoá giàu nghèo, vì vậy phải cải tạo, thu hẹp và từng bước xoá bỏ. Tuy nhiên, một nhà nước xã hội chủ nghĩa với quyền điều hành nền kinh tế của mình có thể có những chính sách làm hạn chế mức độ chênh lệch về thu nhập cũng như sự bóc lột sức lao động. Cần phải quán triệt khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế tư nhân trong chủ nghĩa tư bản khác nhau về căn bản. Vì thế sẽ là không thoả đáng nếu cứ xem các doanh nghiệp tư nhân hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản và là đối tượng phải cải tạo của CNXH. Ngược lại, các hình thức kinh tế tư nhân trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ đóng góp quan trọng lâu dài vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Vấn đề chính yếu là để phát huy được hết tính tích cực của khu vực kinh tế tư nhân trong tiến trình phát triển chung của đất nước, nhà nước phải có những định hướng đúng đắn, nhất quán và những chính sách, đường lối chỉ đạo phù hợp mà cơ chế quản lý tài chính, vấn đề được nghiên cứu ở đây chính là một bộ phận không thể thiếu. 1.1.3. Đặc điểm và xu hướng phát triển của DNNQD: a) Đặc điểm : - Thứ nhất, vốn trong các doanh nghiệp tư nhân xét về quyền sở hữu đều là vốn tự có hoặc đi vay của cá nhân hoặc nhóm cá nhân bất kể doanh nghiệp tư nhân đó hoạt động dưới hình thức nào Công ty TNHH, Công ty hợp danh, Công ty cổ phần hay doanh nghiệp tư nhân. Tại các nước xã hội chủ nghĩa như ở nước ta, nhìn chung các doanh nghiệp tư nhân đều có khả năng tài chính hạn hẹp, chưa phát huy hết thế mạnh, hoạt động mang tính nhỏ lẻ, sự vụ, thiếu những định hướng chiến lược sản xuất kinh doanh lâu dài ổn định, kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, thương mại dịch vụ, hàng thủ công. Sau đó là trình độ khoa học kĩ thuật lạc hậu, đây là một trong những thiệt thòi của doanh nghiệp tư nhân so với doanh nghiệp nhà nước. Trong khi doanh nghiệp nhà nước được cung cấp thiết bị công nghệ tiên tiến, do nguồn vốn lớn từ ngân sách và tài trợ nước ngoài thì các doanh nghiệp tư nhân sử dụng công nghệ lạc hậu hơn, có một số máy móc đã quá cũ kĩ, hết thời gian sử dụng, thậm chí có một số là do doanh nghiệp nhà nước thanh lý. Tiếp theo phải nói đến trình độ quản lý còn nhiều yếu kém, bất cập trong khu vực kinh tế tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân thường có kiến thức và khả năng kinh doanh rất hạn chế, những hiểu biết về khoa học kinh tế hay nghiệp vụ kinh doanh rất sơ sài, bên cạnh đó là nhận thức và kiến thức về pháp luật, thông tin thị trường ngay trong nước chứ chưa nói đến quốc tế còn nhiều thiếu sót và yếu kém. Tất nhiên, tình trạng trên cũng một phần là do các nguyên nhân khách quan mang lại, đó là chiến tranh, thời kỳ bị bao vây cấm vận, thời kì thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp và một số điều kiện kinh tế xã hội khác. Và cũng không phải toàn bộ các doanh nghiệp tư nhân đều lâm vào tình cảnh trên, không thiếu những doanh nghiệp tư nhân làm ăn hiệu quả cao, vươn lên là những điển hình tiêu biểu là tấm gương để các doanh nghiệp khác noi theo phấn đấu. Trình độ phát triển yếu kém của khu vực kinh tế tư nhân như trên chính là một giai đoạn mà nhiều nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đang phát triển như nước ta vẫn thường trải qua. Và việc thiết lập một cơ chế tài chính hoàn thiện hơn cho khu vực kinh tế này chính là một phương cách để rút ngắn thời gian, đẩy nhanh quá trình phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. - Đặc điểm thứ hai cần nhắc đến ở đây là do doanh nghiệp tư nhân là thuộc sở hữu tư nhân, không phải sở hữu nhà nước, quyền sở hữu này được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Cá nhân hay nhóm cá nhân được quyền tổ chức hoạt động cho doanh nghiệp thuộc sở hữu của mình, và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm về hoạt động của doanh nghiệp theo những gì pháp luật quy định. Cũng chính vì thế mà doanh nghiệp tư nhân không chịu sự điều tiết một cách trực tiếp theo cơ chế mệnh lệnh hành chính của nhà nước. Nhà nước không thể can thiệp quá trực tiếp hay thô bạo đến quá trình vận hành và tổ chức hoạt động của các DNNQD. Điều này không giống với các DNNN, và càng khác biệt rõ rệt với những gì mà cơ chế cũ đã thể hiện. Nhưng như vậy không có nghĩa rằng nhà nước không có vai trò gì đối với sự phát triển của DNNQD. Ngược lại, nhà nước ảnh hưởng sâu xắc đến sự phát triển của các DNNQD trên mọi phương diện thông qua các chính sách, định hướng và đường lối chỉ đạo, thông qua hệ thống pháp luật mà cơ chế quản lý tài chính cũng là một bộ phận trong đó. Đây cũng chính là đặc điểm cần hết sức lưu ý khi nghiên cứu để thiết lập một cơ chế quản lý tài chính DNNQD b) Xu hướng phát triển của DNNQD trong tương lai: Xét về mặt định lượng, cơ cấu nền kinh tế theo các khu vực kinh tế đang thay đổi và chắc chắn sẽ còn thay đổi mạnh. Số liệu của Tổng cục thống kê về các "thành phần kinh tế" (không tính lĩnh vực nông nghiệp) cho thấy tình hình như sau: Các khu vực sở hữu Đơn vị 1992 1994 1995 1996 Số cơ sở Cơ sở 1514615 1558627 2078125 224558 DNNN " 7060 6264 5873 5790 DN tập thể " 3231 2275 1867 1760 DN có vốn đầu tư nước ngoài " 515 1054 1399 1648 DNNQD " 5158 15893 18727 21360 Cá thể 1000 cơ sở 1498,6 1533,1 2050,2 2215 Lao động 1000 người 4706,5 5453,4 6368,5 6903,2 DNNN % 38,7 30,3 28,3 26,7 DN tập thể % 3,0 2,5 1,6 1,4 DN có vốn đầu tư nước ngoài % 1,1 1,8 2,3 3,0 DNNQD (cả Cá thể) % 57,2 65,4 67,8 68,8 Nguồn: Tổng cục thống kê:"Báo cáo phân tích thực trạng của thành phần kinh tế tư bản nhà nước và tư bản tư nhân sau 10 năm đổi mới", tháng 6-1997 Theo các số liệu trên, năm 1996 so với khu vực nhà nước thì khu vực tư nhân mới là nơi chủ yếu thu hút lao động xã hội.. Theo các số liệu mới nhất cho thấy trong cơ cấu tổng sản phẩm trong nước năm 1998 (tính theo giá hiện hành), kinh tế nhà nước chiếm 40%, kinh tế tư nhân chiếm 38%, khu vực sở hữu hỗn hợp chiếm 22%, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm gần 10%, kinh tế tập thể và liên doanh trong nước chiếm 12%. Thêm nữa, tốc độ tăng trưởng trong mấy năm gần đây của khu vực kinh tế tư nhân cao hơn của khu vực kinh tế nhà nước, nhưng thấp hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện tại, do phần lớn các cơ sở kinh tế tư nhân có quy mô nhỏ, trang thiết bị giản đơn, phần nhiều là lao động thủ công, nên khu vực kinh tế tư nhân có năng suất lao động thấp. Trong tương lai, nếu được khuyến khích phát triển đúng mức, khu vực kinh tế tư nhân chắc chắn sẽ có năng suất lao động cao và đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Nếu tính rằng năng suất lao động của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước xấp xỉ như nhau, thì với cơ cấu lao động như hiện tại (20% trong khu vực kinh tế nhà nước, còn lại 80% trong khu vực kinh tế tư nhân và hỗn hợp), cơ cấu tổng sản phẩm quốc dân tương ứng là 20% khu vực kinh tế nhà nước và 80% khu vực kinh tế tư nhân và hỗn hợp. Tất nhiên những giả định hay con số nêu trên là không hoàn toàn hợp lý, nhưng đó cũng là những cơ sở nhất định để khẳng định vai trò vị trí ngày càng quan trọng cũng như những triển vọng phát triển ngày một lớn của khu vực kinh tế tư nhân. 1.2. Cơ chế quản lý tài chính đối với DNNQD: 1.2.1 Khái niệm về cơ chế quản lý tài chính: Cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp hiểu một cách chung nhất là tổng thể các hình thức và phương pháp tác động lên hoạt động tài chính của doanh nghiệp, nhờ đó mọi nguồn lực của doanh nghiệp (Vốn, lao động, tài nguyên) được kết hợp chặt chẽ với nhau tạo thành sức mạnh giúp cho doanh nghiệp phát triển tốt nhất, thực hiện được các mục tiêu của riêng doanh nghiệp cũng như mang lại lợi ích chung và thực hiện các mục tiêu chung của xã hội. Hoạt động tài chính trong các doanh nghiệp hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các hoạt động kinh tế, các quan hệ kinh tế trong đó có sự vận động hoặc sự biểu hiện của tiền tệ thông qua các quan hệ tiền tệ. Cốt lõi của các mối quan hệ đó là những quan hệ về giá cả được biểu hiện dưới các sắc thái khác nhau. Hình thức biểu hiện của các hoạt động tài chính trong doanh nghiệp là hết sức đa dạng và linh động, phụ thuộc nhiều yếu tố. Cũng chính vì thế, cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp nếu hiểu theo nghĩa đầy đủ cũng bao hàm rất nhiều thành tố. Tât cả những vấn đề như : Pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và phương pháp quản lý vận hành doanh nghiệp đều nằm trong một khái niệm đó là Cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta có thể tách cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp thành hai phần cơ bản, dựa trên hai giác độ tiếp cận khác nhau đối với việc quản lý tài chính doanh nghiệp đó là giác độ quản lý nhà nước và giác độ quản lý trong doanh nghiệp. Trên giác độ quản lý nhà nước, người ta đặc biệt quan tâm đến hai vấn đề đầu tiên đó là Pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Xây dựng pháp luật về tài chính và tổ chức thực hiện nó chính là nhà nước đã tạo ra một môi trường chính thức, bình đẳng và công khai cho các doanh nghiệp hoạt động. Thông qua đó, nhà nước có thể tác động trực tiếp hay gián tiếp lên các hoạt động tài chính của tất cả các doanh nghiệp nói chung hay một hoặc một nhóm các doanh nghiệp nói riêng. Với những điều chỉnh thích hợp về pháp luật trong từng thời kì, từng hoàn cảnh điều kiện nhất định, nhà nước có thể tạo nên những thay đổi rất căn bản trong cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp hướng đến những mục tiêu: đảm bảo các doanh nghiệp phát triển đúng hướng, nâng cao hiệu quả và đóng góp của các doanh nghiệp đối với đất nước, tạo điều kiện phát triển và hạn chế những tiêu cực trong quá trình tăng trưởng phát triển kinh tế. Và xét cho cùng, nhà nước là thể chế duy nhất thực hiện chức năng quản lý đất nước bằng pháp luật, pháp luật chính là công cụ vô cùng hữu hiệu mà chỉ nhà nước mới có và dùng được. Trên giác độ doanh nghiệp, các doanh nghiệp thực hiện chức năng quản lý tài chính của mình thông qua việc ra các quyết định tài chính như huy động vốn, quản lý thu chi, đầu tư v.v Trong đó mục tiêu quan trọng nhất là tối đa hoá nguồn vốn chủ sở hữu. và tối đa hoá lợi nhuận cho doanh nghiệp. Để thực hiện được các mục tiêu này, mỗi doanh nghiệp có thể có những cách làm khác nhau, một chiến lược riêng, một phương pháp quản lý và hoạt động riêng biệt. Công tác quản lý tài chính trên giác độ này do đó rất đa dạng, linh hoạt phụ thuộc vào những đặc điểm riêng của từng doanh nghiệp. Tuy nhiên, chúng ta phải luôn khẳng định rằng, giữa việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước và quản lý trong mỗi doanh nghiệp có mỗi quan hệ tương hỗ vô cùng mật thiết và chặt chẽ. Một doanh nghiệp nói riêng và cả khu vực kinh tế nói chung chỉ có thể phát triển tốt, thực hiện được các mục tiêu do doanh nghiệp và do xã hội đề ra khi và chỉ khi chúng được hoạt động trong một môi trường pháp luật lành mạnh và phù hợp, cũng như doanh nghiệp có những định hướng phát triển và phương pháp quản lý đúng đắn. Pháp luật có những ảnh hưởng quyết định lên việc ra quyết định của mỗi người đứng đầu doanh nghiệp và ngược lại những quyết định của người đứng đầu trong doanh nghiệp phản ảnh những nhu cầu những thay đổi thích nghi trong từng thời kì của nền kinh tế và qua đó tác động trở lại đối với người hoạch định chính sách, xây dựng cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp cấp nhà nước. Đâu là mối quan hệ hai chiều biện chứng tác động qua lại với nhau rất chặt chẽ. 1.2.2. Những nội dung chủ yếu trong cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp NQD: Trên giác độ quản lý nhà nước, một cơ chế quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng được hình thành thông qua việc quy định và quản lý các mặt sau: + Sự thành lập và đăng kí kinh doanh + Quản lý vốn và tài sản + Quản lý doanh thu chí phí + Quản lý lợi nhuận và phân phối lợi nhuận + Chế độ kế toán kiểm toán và báo cáo tài chính 1.2.2.1. Sự thành lập và đăng kí kinh doanh: Việc thực hiện quản lý sự thành lập và cấp giấy phép kinh doanh cho các doanh nghiệp là sự thừa nhận về mặt pháp lý đối với mọi hoạt động của doanh nghiệp đó. Thông qua việc cấp giấy phép kinh doanh, nhà nước có thể quy định và điều chỉnh những ngành nghề, quy mô, hình thức hoạt động mà doanh nghiệp có thể hoạt động. Khuyến khích những ngành nghề có lợi cho sự phát triển chung của đất nước, hay hạn chế những ngành nghề chưa thực sự phù hợp với điều kiện hiện tại của đất nước. Do đó, những quy định về cấp giấy phép kinh doanh cho doanh nghiệp cần được quy định thành pháp luật, trong đó có những điều khoản nhất định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi đã được pháp luật thừa nhận. Vấn đề đáng lưu ý khi xây dựng một cơ chế cho việc thành lập doanh nghiệp là tình hình phát triển của khu vực kinh tế đó, nhu cầu của đất nước, triển vọng phát triển và trình độ quản lý hiện tại của nhà nước đối với nền kinh tế. 1.2.2.2. Quản lý vốn và tài sản: Vốn và tài sản là hai mặt chính yếu và quan trọng nhất trong sự tồn tại của bất cứ một doanh nghiệp nào, đây là hai mặt của một quá trình thống nhất không thể tách rời. Vốn là nguồn lực cho mọi hoạt động của doanh nghiệp, doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại và hoạt động được khi có vốn. Phía bên kia, tài sản lại chính là sự biểu hiện hình thái và hiện trạng của vốn được đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. 1.2.2.2.1. Quản lý vốn đối với DNNQD: Cơ chế quản lý vốn đối với doanh nghiệp NQD chính là việc xác định và điều chỉnh các hình thức huy động vốn và cơ cấu vốn trong doanh nghiệp. Xét một cách tổng thể trong DNNQD có thể có những hình thức vốn sau: a) Nguồn vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp tư nhân bao gồm các bộ phận sau: Vốn góp ban đầu Lợi nhuận không chia Phát hành cổ phiếu + Vốn góp ban đầu: Đây là loại vốn được hình thành tại thời điểm đầu tiên khi doanh nghiệp được thành lập. Khi nói đến nguồn vốn tự có của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó, hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đăng kí thủ tục thành lập và xin cấp giấy phép kinh doanh, bao giờ cũng phải có một lương vốn tối thiểu theo quy định của pháp luật đó là vốn pháp định. Ngoài ra, doanh nghiệp hoàn toàn có thể có một luợng vốn lớn hơn vốn pháp định mà những chủ sở hữu trong công ty tự thoả thuận về số lượng và tỉ lệ góp vốn, đây là vốn điều lệ. Vốn điều lệ nhìn chung là do tự những người sáng lập nên công ty thoả thuận với nhau miễn là không nhỏ hơn vốn pháp định, tất nhiên đối với một số ngành nghề nhất định, nhà nước cũng có những quy định riêng về lượng vốn điều lệ tối đa. +Vốn từ lợi nhuận không chia: Quy mô của số vốn tự có ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, tuy nhiên trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có lãi thì nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp sẽ được mở rộng, đó là do nguồn vốn từ việc giữ lại lãi trong kinh doanh. Số lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư sẽ làm tăng thêm nguồn vốn của chủ sở hữu, tăng khả năng tài chính của doanh nghiệp, được phản ánh trên bảng cân đối kế toán. Quy mô và tỷ lệ vốn giữ lại từ lợi nhuận phụ thuộc vào tình hình kinh doanh, kết quả hoạt động của thời kỳ đã qua và quyết định của chủ doanh nghiệp. Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia là một phương thức tạo nguồn tài chính và khá hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm bớt được chi phí, giảm bớt phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều công ty coi trọng chính sách tái đầu tư từ số lợi nhuận để lại, họ đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. Tuy nhiên, nên lưu ý với trường hợp các công ty cổ phần, việc giữ lại lợi nhuận có liên quan đến một số yếu tố nhạy cảm. Khi công ty giữ lại lợi nhuận mà không chia cho cổ đông dưới hình thức cổ tức, thì quyền sở hữu vốn cổ phần của các cổ đông sẽ tăng lên. Giá trị sổ sách của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt khuyến khích ._.cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài, nhưng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kì trước mắt, do cổ đông chỉ nhận được một lượng cổ tức nhỏ nhất định. Đấy là còn chưa kể đến những rủi ro khi tỷ suất sinh lời của công ty giảm xuống, không đủ để đáp ứng chi trả một tỷ lệ cổ tức phù hợp. Khi đó, giá cổ phiếu sẽ bị giảm sút hay giá trị thị trường của công ty sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực. Khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư, chính sách phân phối cổ tức của Công ty cổ phần phải lưu ý đến một số yếu tố có liên quan như: - Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ - Tỷ lệ cổ tức các năm trước - Uy tín của cổ phiếu, tính ổn định và tâm lý công chúng trên thị trường cổ phiếu - Hiệu quả của việc tái đầu tư + Phát hành cổ phiếu: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Chúng ta có thể nhắc tới một số loại hình cổ phiếu cơ bản sau: Cổ phiếu thường: Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu thường là mặt hàng quan trọng nhất là được trao đổi mua bán trên thị trường chứng khoán, điều đó cũng đủ để chứng minh tầm quan trọng của nó so với các công cụ tài chính khác. Mặc dù phát hành cổ phiếu thường có nhiều ưu thế so với các phương thức huy động vốn khác nhưng cũng có những hạn chế và các ràng buộc cần được cân nhắc kĩ lưỡng. Giới hạn phát hành là một quy định ràng buộc có tính pháp lý. Lượng cổ phiếu tối đa mà Công ty được quyền phát hành là vốn cổ phiếu được cấp phép. Đây là một trong những quy định của Uỷ ban chứng khoán nhằm quản lý và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động phát hành và giao dịch chứng khoán. Tại nhiều nước, số cổ phiếu được phép phát hành được ghi trong điều lệ của công ty. Muốn tăng vốn cổ phần thì trước hết cần phải được đại hội cổ đông cho phép, sau đó phải hoàn tất các thủ tục quy định khác. Hầu hết, các nước đều sử dụng giới hạn phát hành như một công cụ quan trọng để kiểm soát và hạn chế các rủi ro cho công chúng. Thông thường, một Công ty có thể phát hành số cổ phiếu đã được cấp phép phát hành. Tuy nhiên, trên thực tế, việc quản lý và kiểm soát quá trình phát hành chứng khoán tuỳ thuộc vào chính sách cụ thể của Nhà nước và Uỷ ban chứng khoán nhà nước. Ví dụ như ở nước ta hiện nay, hệ thống văn bản pháp quy về chứng khoán mới được xây dựng và đang trong quá trình hoàn thiện để tạo điều kiện tốt hơn cho hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp và lưu chuyển vốn trong nền kinh tế. Vấn đề chống thôn tính, bảo vệ các công ty hoạt động trong một thị trường chứng khoán còn non trẻ như ở nước ta đang là một trong những nhiệm vụ quan trọng để đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh và lâu dài cho thị trường chứng khoán ở nước ta. Cổ phiếu ưu tiên: Cổ phiếu ưu tiên chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp, việc dùng cổ phiếu ưu tiên là thích hợp. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là thường có cổ tức ổn định. Người chủ sở hữu của cổ phiếu này có quyền được thành toán lãi trước các cổ đông thông thường. Nếu có lãi chỉ đủ chi trả cổ tức cho cổ đông ưu tiên thì cổ đông thông thường sẽ không được nhận cổ tức của kì đó. Việc giải quyết chính sách cho cổ đông ưu tiên thường được quy định rõ trong điều lệ công ty. Một vấn đề quan trọng cần đề cập khi phát hành cổ phiếu ưu tiên là thuế. Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập Công ty, cổ tức được lấy từ lợi nhuận sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên. Mặc dù vậy, như đã đề cập, cổ phiếu ưu tiên vẫn có những ưu điểm đối với cả Công ty phát hành và cả nhà đầu tư. b) Nguồn vốn tín dụng, nợ và huy động nợ: Nguồn vốn tín dụng của DNNQD bao gồm các nguồn chủ yếu sau - Vay Ngân hàng quốc doanh (hạn mức tín dụng, hợp đồng vay mượn...) - Vay Ngân hàng thương mại cổ phần - Vay mượn từ công chúng và các doanh nghiệp khác (tín dụng thương mại, trái phiếu, thương phiếu...) - Vay các tổ chức tài chính phi ngân hàng( tổ chức tín dụng, HTX tín dụng, quỹ tín dụng) - Các nguồn khác (phi chính thức) Khi nhắc đến các nguồn vốn tín dụng, xét trên phương diện pháp lý của thị trường tín dụng đối với khu vực kinh tế tư nhân người ta thường phân chia nó thành thị trường tín dụng chính thức và thị trường tín dụng phi chính thức. Tín dụng chính thức là hình thức huy động vốn và cho vay thông qua các tổ chức trung gian tài chính có đăng ký và hoạt động công khai theo luật, hoặc chịu sự quản lý và giám sát của chính quyền nhà nước các cấp. Hoạt động theo hình thức này chính là các hệ thống ngân hàng nhà nước, kho bạc, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín dụng, các công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, các tổ chức kinh tế có hoạt động ngân hàng, các tổ chức phi chính phủ trong nước và ngoài nước, các tổ chức quốc tế, các chương trình và các dự án của các ngành được thực hiện bằng nguồn vốn tín dụng của chính phủ và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Quỹ Quốc tế và phát triển Nông nghiệp của Liên hiệp quốc (IFDA)v.v. Tất nhiên, sự tiếp cận của các doanh nghiệp tư nhân ở nước ta hiện nay đến các nguồn vốn từ các tổ chức lớn như WB hay IMF là cực kì hạn chế, nhưng bù lại lại có những quỹ đầu tư nước ngoài như Dragon Capital ... lại tập trung đầu tư chủ yếu vào các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tín dụng không chính thức hay tín dụng phi chính thức (trong xã hội nhiều người còn quen gọi là tín dụng ngầm) là hoạt động nằm ngoài khuôn khổ luật định của nhà nước, hoặc không phụ thuộc và không chịu sự quản lý, giám sát của chính quyền nhà nước các cấp. Nó bao gồm hoạt động cho vay của những người cho vay lấy lãi, của các tư thương dưới hình thức bán chịu hàng hoá, của các chủ cửa hàng cầm đồ, các nhóm tự hợp tác tín dụng dưới các hình thức chơi hụi, họ hoặc phường, hình thức cho vay bạn bè anh em, hàng xóm. Như vậy, dù đó là việc đi vay chính thức hay không chính thức thì vấn đề đặt ra cho một cơ chế quản lý tài chính là phải tổ chức xây dựng cho các doanh nghiệp NQD một cơ chế, một khuôn khổ hiệu quả, năng động trong việc tiếp cận các nguồn vốn trong và ngoài nước phục vụ cho sự phát triển. Tuy nhiên quá trình huy động và sử dụng vốn cũng không được diễn ra một cách quá ồ ạt, thiếu tổ chức và giám sát của các cơ quan chức năng, tránh gây nên hiện tượng tiêu cực thiếu lành mạnh, gây nên những hậu quả không tốt cho nền kinh tế. 1.2.2.2.2. Quản lý tài sản đối với doanh nghiệp NQD: Các vấn đề đặt ra đối với việc quản lý tài sản đối với doanh nghiệp NQD bao gồm các vấn đề như: + Quản lý tài sản cố định + Quản lý tài sản lưu động a) Công tác quản lý tài sản cố định: Tài sản cố định trong doanh nghiệp bao gồm các tài sản có giá trị lớn hơn 5 triệu đồng và thời hạn khấu hao hơn 1 năm. Công tác quản lý tài sản cố định của doanh nghiệp NQD bao gồm quản lý 3 mặt chủ yếu sau đây : + Quản lý tài sản cố định hữu hình(TSCĐHH) + Quản lý tài sản cố định vô hình(TSCĐVH) + Quản lý khấu hao tài sản cố định(KHTSCĐ) - Quản lý tài sản cố định hữu hình: TSCĐHH bao gồm các nhóm tài sản như: Thứ nhất là nhóm tài sản nhà xưởng kho bãi, văn phòng, và các công trình xây dựng có mục đích tương tự. Đây là nhóm tài sản tạo ra môi trường, không gian hoặc nơi làm việc. Thời gian thu hồi khấu hao tài sản cố định của nhóm này khá dài, từ 10 đến 30 năm, thậm chí các công trình lớn lên đến 50 năm. Thứ hai là nhóm máy móc thiết bị, hệ thống dây chuyền sản xuất. Thứ ba là nhóm phương tiện vận tải xe cộ, phương tiện cơ giới có chức năng vận chuyển, đối với nhóm này cần chú ý đến chi phí xăng dầu, nhiên liệu và các vấn đề về bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm trách nhiệm dân sự... Thứ tư là nhóm các thiết bị văn phòng, đo lường và kiểm định. Đây là nhóm thiết bị thường xuyên được thay đổi nâng cấp. Gắn liền với nhóm tài sản này là những chi phí liên quan đến công tác bảo mật thông tin, hỗ trợ nghiệp vụ và những bí quyết riêng của mỗi công ty. - Quản lý tài sản cố định vô hình: Đây là nhóm tài sản mang một số thuộc tính đặc biệt, khó xác định hình thái vật chất, thậm chí trừu tượng, nhưng có ảnh hưởng quan trọng đối với sản xuất kinh doanh trong một thời gian tương đối dài. Điển hình là các yếu tố : + Chi phí thành lập, chi phí khảo sát thiết kế + Uy tín lợi thế thương mại + Quyền sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ: Chẳng hạn, nhãn hiệu thương mại, kiểu dáng công nghiệp, bằng phát minh sáng chế, bản quyền, giải pháp công nghệ hữu ích v.v + Đặc quyền khai thác, kinh doanh, quyền đăc nhượng hoặc giấy phép đặc biệt trong một số lĩnh vực. Trong thực tế, rất khó đánh giá chính xác giá trị của một tài sản cố định vô hình vì nó không tồn tài dưới dạng vật chất cụ thể có thể đo đếm hay định giá rõ ràng. Tuy nhiên sự phát triển của các thị trường tài chính, thị trường về quyền sở hữu công nghiệp đã tạo điều kiện hình thành các mức giá thị trường cho tài sản cố định vô hình. Công ty cần hạch toán chính xác các chi phí ngay từ khi bắt đầu thành lập doanh nghiệp hay dự án. Đó là các chi phí như Chi phí khảo sát thiết kế, xây dựng luận chứng kinh tế-kĩ thuật, chi phí cần thiết và hợp lý cho các thủ tục pháp lý như đăng ký kinh doanh, thuế trước bạ, lệ phí chứng thư, ngoài ra còn có các chi phí như mua bán quyền sáng chế, phát minh, hoặc trị giá được thừa nhận của quyền sở hữu công nghiệp. Doanh nghiệp dự tính tuổi thọ hữu ích cho tài sản cố định vô hình, tức là dự tính thời gian tính khấu hao của các tài sản cố định vô hình. Hiện nay, ở nước ta chưa có phương pháp tính chính thức nào được đưa ra, nhưng có thể dùng phương pháp chuyên gia để đánh giá. Mục đích của việc tính toán này không phải là sự chính xác tuyệt đối mà nhằm phản ánh tương đối lợp lý chi phí khấu hao vào giá thành sản phẩm và dịch vụ. - Quản lý KHTSCĐ Trong quá trình sử dụng, các tài sản cố định dần hư hỏng và xuống cấp, đây được hiểu là sự hao mòn. Sự hao mòn đó làm giảm giá trị của tài sản cố định một cách tương ứng. Do đó công ty phải xác định trị giá hao mòn trong từng thời kỳ và hạch toán vào giá thành sản phẩm, đó chính là khái niệm khấu hao tài sản cố định. Quá trình hao mòn bao gồm hai hình thái: Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là sự suy giảm giá trị của tài sản cố định do sự hao mòn, xuống cấp về mặt vật chất. Các hao mòn hữu hình có thể quan sát nhận biết được bằng trực quan, như sự han gỉ, hư hỏng các chi tiết, hiệu suất hoạt động giảm ... Hao mòn hữu hình phụ thuộc vào điều kiện hoạt động, cường độ khai thác, chế độ vận hành bảo dưỡng và tuổi thọ của tài sản cố định. Hao mòn vô hình (HMVH) là sự mất giá tương đối và tuyệt đối của tài sản cố định do tiến bộ khoa học kĩ thuật, do thị hiếu hay do các nhân tố khác. Đây là sự giảm sút giá trị của tải sản không biểu hiện qua bên ngoài của máy móc. Do đó, có những thiết bị còn mới 100% chưa qua sử dụng nhưng lạc hậu về công nghệ thì giá trị bị giảm sút rất nhiều. Khi mua sắm vật tư máy móc dây chuyền sản xuất cần lưu ý vấn đề này. Việc áp dụng phương pháp và tỷ lệ khấu hao có quan hệ trực tiếp đến chi phí sản xuất trong kỳ, do đó liên quan trực tiếp đến thuế thu nhập doanh nghiệp phải đóng. Ngoài ra, KHTSCĐ còn liên quan rất lớn đến việc xác định giá trị doanh nghiệp, giá trị còn lại của tài sản cố định bằng hiệu số giữa nguyên giá trừ đi số khấu hao luỹ kế. Do đó, giá trị còn lại của tài sản phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp và các chế độ khác về khấu hao. Do tầm quan trọng của chế độ khấu hao nên ở các nước đều có cơ chế thể hiện qua các quy định kiểm soát việc khấu hao tài sản cố định của các doanh nghiệp. Nội dung của các quy định nhà nước về khấu hao thường bao gồm một số điểm sau + Cho phép chọn hay ấn định bắt buộc phương pháp tính khấu hao nhất định + Quy định về tỷ lệ khấu hao (khung tỷ lệ về khấu hao) đối với nhóm tài sản cố định nhất định + Quy định về tuổi thọ hữu ích của tài sản cố định + Quy định các nghiệp vụ kế toán liên quan đến việc hạch toán khấu hao tài sản cố định, kế toán đối với tài sản cố định cho thuê tài chính. Vấn đề quản lý quỹ khấu hao tài sản cố định cũng phải được quy định cụ thể. Số khấu hao luỹ kế trích từng kỳ cộng dồn lại và tào thành một nguồn vốn cho doanh nghiệp. Vì vậy vấn đề phân bổ nguồn vốn này như thế nào, khi nào thì phân bổ và phân bổ cho những vấn đề gì cũng cần có những quy định chặt chẽ để tránh những gian lận những hiện tượng sử dụng vốn sai mục đích trong các doanh nghiệp. Tuy nhiên, các quy định về quản lý khấu hao cũng không được quá cứng nhắc hay giáo điều. Vì nếu vậy, sẽ gây ra những khó khăn không đáng có đối với các doanh nghiệp, các doanh nghiệp có thể chậm hay ngại đổi mới, nâng cấp trang thiết bị, không đầu tư vào dây chuyền sản xuất, hạn chế tính tự chủ và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Xu hướng đổi mới là giao cho doanh nghiệp những quyền tự chủ nhất định rộng rãi hơn, thoáng hơn trong việc quản lý sử dụng khấu hao tài sản cố định, làm tăng tính linh hoạt và tính hiệu quả trong vấn đề quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp. b) Quản lý tài sản lưu động: Khác với tài sản cố định, tài sản lưu động phần lớn đóng vai trò là đối tượng lao động, tức là các vật bị tác động trong quá trình chế biến, bởi lao động của con người hay máy móc. Do đó, tài sản lưu động phản ánh các dạng nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, phụ liệu v.v Tuy nhiên cần lưu ý một số loại công cụ lao động nhỏ, dụng cụ nhỏ cũng được coi là tài sản lưu động mặc dù về bản chất chúng thuộc tài sản cố định, vì chúng có giá trị nhỏ và thường xuyên được thay thế. Đối với tài sản lưu động, chúng ta không có khái niệm khấu hao vì giá trị của tài sản lưu động được chuyển một lần và toàn bộ vào sản phẩm trong một chu kỳ sản xuất. Chúng ta có thể cơ cấu và phân loại một số loại tài sản lưu động chủ yếu sau đây: - Tiền: bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền trên các tài khoản ngân hàng và tiền đang chuyển (nội tệ và ngoại tệ) đều thuộc nhóm "tài sản bằng tiền". Đây là loại tài sản phản ánh khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp, một số doanh nghiệp sẽ chịu cảnh lao đao, thậm chí là nguy cơ phá sản nếu thiếu tiền mặt đây cũng là một điểm đáng chú ý khi xây dựng một cơ chế quản lý tài chính cho doanh nghiệp. - Các tài sản tương đương tiền Đây cũng là nhóm tài sản có khả năng chuyển đổi cao, tức là dễ bán, dễ chuyển đổi thành tiền khi cần thiết. Nhóm tài sản này bao gồm các loại chứng khoán nhưng chỉ các loại chứng khoán ngắn hạn hay sắp đến kỳ thanh toán. Ngoài ra cũng phải kể đến một số loại như hối phiếu, kỳ phiếu, chứng từ thanh toán v.v - Chi phí trả trước: Bao gồm các khoản tiền mà Công ty đã trả trước cho người bán, nhà cung cấp hay các đối tượng khác. Một số khoản trả trước có độ rủi ro cao, phụ thuộc vào nhiều yếu tố không dự đoán trước được. - Các khoản phải thu: Các khoản phải thu là một loại tài sản quan trọng của doanh nghiệp, đặc biệt là các Công ty kinh doanh thương mại, mua bán hàng hoá. Hoạt động mua bán chịu giữa các bên làm phát sinh các khoản tín dụng thương mại. Thực ra, các khoản phải thu gồm nhiều khoản mục khác nhau tuỳ theo tính chất của quan hệ mua bán, quan hệ hợp đồng. Trong thực tế, cần có những quy định cụ thể, những chính sách nhất định để quản lý loại tài sản này, đảm bảo khả năng thanh toán và bảo tồn nguồn vốn lưu động cho doanh nghiệp. - Hàng hoá vật tư (Inventory) Hàng hóa vật tư được theo dõi trong một tài khoản gọi là hàng tồn kho. Hàng tồn kho trong khái niệm này không có nghĩa là hàng hóa bị ứ đọng, không bán được, mà thực chất bao hàm toàn bộ các hàng hoá vật liệu, nguyên liệu đang tồn tại ở các nhà kho, quầy hàng hoặc trong xưởng. Trên thực tế, hàng hoá tồn kho có thể bao gồm hàng trăm chủng loại khác nhau. Tuy nhiên, có thể gộp lại thành ngững nhóm sau: nguyên liệu vật liệu chính, vật liệu phụ, thành phẩm, sản phẩm dở dang, công cụ lao động nhỏ, phụ tùng thay thế, sản phẩm hỏng và các loại khác. - Các chi phí chờ phân bổ Trong thực tế hoạt động, một khối lượng nguyên vật liệu và một số khoản chi phí đã phát sinh nhưng có thể chưa được phân bổ vào đánh giá thành phẩm hay dịch vụ. Những khoản này sẽ được đưa vào giá thành trong khoảng thời gian thích hợp. 1.2.2.3 Quản lý doanh thu và chi phí đối với doanh nghiệp NQD: Doanh thu và chi phí là hai chỉ tiêu quan trọng để xác định kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cơ chế quảnlý doanh thu và chi phí của doanh nghiệp là yếu tố quan trọng liên quan đến việc xác định kết quả hoạt động kinh doanh và mức thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp. Do vậy nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của bản thân doanh nghiệp cũng như lợi ích của nhà nước. 1.2.2.3.1 Quản lý doanh thu đối với doanh nghiệp NQD: Doanh thu là chỉ tiêu tài chính phản ánh tổng giá trị được tính bằng tiền của hàng hoá và dịch vụ đã tiêu thụ trong một thời gian nhất định. Doanh thu của một doanh nghiệp gồm doanh thu từ hoạt động kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài chính và doanh thu từ các hoạt động bất thường khác. Doanh thu từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền bán hàng, cung ứng dịch vụ trong kỳ được ghi nhận từ khi khách hàng chấp nhận trả tiền. Doanh thu gộp tức là doanh thu bao gồm cả các khoản giảm trừ. Doanh thu thuần hay doanh thu ròng là hiệu số của doanh thu gộp và các khoản giảm trừ, như hàng hoá bị trả lại, giảm giá hàng bán, chiết khấu bán hàng. Ngoài ra doanh thu từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp còn bao gồm: + Các khoản chi phí thu thêm ngoài giá bán (nếu có), trợ giá, phụ thu theo quy định của Nhà nước mà doanh nghiệp được hưởng đối với hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp đã tiêu thụ trong kỳ + Giá trị các sản phẩm hàng hoá đem biếu tặng, trao đổi hoặc tiêu dùng cho sản xuất trong nội bộ doanh nghiệp. Doanh thu từ hoạt động tài chính là doanh thu phát sinh do việc cho các bên khác sử dụng, thuê tài sản của công ty, lãi phát sinh từ việc đầu tư vào các tài sản tài chính, lãi tiền gửi, trái phiếu, mua bán các loại chứng khoán và từ việc đầu tư vào các dự án và công ty khác. Ngoài ra, doanh thu từ hoạt động tài chính còn bao gồm: Từ hoạt động nhượng bán ngoại tệ hoặc thu nhập về chênh lệch tỷ giá nghiệp vụ ngoại tệ theo quy định của chế độ tài chính; Hoàn nhập số dư dự phòng giảm giá chứng khoán; Tiền cho thuê tài sản đối với doanh nghiệp cho thuê tài sản không phải là hoạt động kinh doanh thường xuyên. Doanh thu khác phát sinh là do các khoản thu từ các hoạt động xảy ra không thường xuyên như: thu từ bán vật tư, hàng hoá, tài sản dôi thừa; các khoản phải trả nhưng không trả được vì nguyên nhân từ phía chủ nợ, thu chuyển nhượng, thanh lý tài sản, nợ khó đòi đã xoá sổ nay thu hồi được, hoàn nhập khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi đã trích vào chi phí của năm trước, hoàn nhập số dư chi phí trích trước về bảo hành hàng hoá, sản phẩm, công trình và hạng mục công trình khi hết thời hạn bảo hành, chi phí trích trước về sửa chữa TSCĐ lớn hơn số thực chi; thu về cho sử dụng hoặc chuyển quyền sử dụng sở hữu trí tuệ, thu về tiền phạt vi phạm hợp đồng kinh tế, thu về chiết khấu thanh toán, thu về chiết khấu thanh toán, các khoản thuế phải nộp (trừ thuế thu nhập doanh nghiệp) được Nhà nước giảm. Chú ý rằng doanh thu thực được ghi nhận khi hàng hoá, dịch vụ được xác định là thực hiện nghĩa là đã giao hàng, đã thanh toán hoặc khách hàng chấp nhận trả tiền. Đây là một cơ sở quan trọng để xác định doanh thu trong doanh nghiệp. 1.2.2.3.2. Quản lý chi phí đối với doanh nghiệp NQD: Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của các yếu tố tiêu hao phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ xác định. Về bản chất, chỉ tiêu chi phí phản ánh sự tiêu hao, sự phí tổn các yếu tố hữu hình và vô hình dưới hình thức tiêu hao lao động sống và lao động quá khứ trong một thời kỳ nhất định. Trong cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp, cần chú trọng hoàn thiện các quy định, các nguyên tắc hạch toán chi phí. Số liệu và thông tin báo cáo sai lệch có thể dẫn đến những quyết định sai. Một trong những nguyên nhân thường gây ra sai sót trong kế toán chi phí, đó là sự lẫn lộn giữa chi phí phát sinh và khoản tiền chi ra của doanh nghiệp trong kỳ kế toán. Ngoài ra, doanh nghiệp được hạch toán chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế phát sinh có chứng từ hợp pháp, hợp lệ, hợp lý. Cơ chế tài chính còn phải phân biệt rõ sự khác nhau giữa chi phí sản xuất kinh doanh thực tế phát sinh và chi phí được thừa nhận để xác định lợi nhuận chịu thuế. Nói cách khác, cơ chế phải làm rõ sự khác biệt giữa nguyên tắc quản lý tài chính doanh nghiệp và các quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (sẽ trình bày rõ hơn ở phần sau). Các chi phí của doanh nghiệp bao gồm các loại chính sau: a) Chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm: Chi phí hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp sản xuất là các chi phí về vật tư, chi phí về hao mòn máy móc thiết bị và các tài sản cố định khác, chi phí về tiền lương và tiền công cho người lao động và các chi phí khác bằng tiền. * Chi phí hoạt động kinh doanh có thể được phân loại theo nội dụng kinh tế như sau: + Chi phí nguyên, nhiên vật liệu (chi phí vật tư) + Chi phí khấu hao tài sản cố định: Là số khấu hao tài sản cố định trích theo quy định đối với toàn bộ tài sản của doanh nghiệp + Chi phí tiền lương: là toàn bộ tiền lương, tiền công chi phí có tính chất lương doanh nghiệp phải trả. + Chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn. + Chi phí dịch vụ mua ngoài là các chi phí trả cho tổ chức, cá nhân ngoài doanh nghiệp về các dịch vụ được thực hiện theo yêu cầu của doanh nghiêp như vận chuyển, điện nước, điện thoại, sửa chữa tài sản cố định, tư vấn, kiểm toán, quảng cáo, bảo hiểm tài sản, đại lý, môi giới, uỷ thác xuất nhập và các dịch vụ khác. + Chi phí bằng tiền khác. * Theo công dụng và địa điểm phát sinh, chi phí kinh doanh được chia thành: + Chi phí vật tư trực tiếp. + Chi phí nhân công trực tiếp. + Chi phí sản xuất chung. + Chi phí bán hàng. + Chi phí quản lý doanh nghiệp. * Căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí kinh doanh và khối lượng hàng hoá bán ra hoặc doanh thu tiêu thụ, chi phí kinh doanh được chia thành chi phí cố định và chi phí biến đổi (còn gọi là định phí, biến phí) Chi phí cố định là những chi phí không bị biến động trực tiếp theo sự thay đổi của khối lượng hàng bán hoặc doanh thu tiêu thụ, bao gồm: + Chi phí khấu hao tài sản cố định. + Chi phí bảo hiểm. + Tiền lương trả cho các nhà quản lý, chuyên gia. + Thuế môn bài. + Chi phí quảng cáo. + Thuê tài chính hay thuê bất động sản. + Chi phí bảo hiểm rủi ro... Chi phí biến đổi là những chi phí biến động trực tiếp theo sự thay đổi của khối lượng hàng bán hay doanh thu tiêu thụ, bao gồm các loại chi phí như: Chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp, tiền hoa hồng bán hàng... b) Chi phí hoạt động tài chính của doanh nghiệp: là các khoản chi phí đầu tư tài chính ra ngoài doanh nghiệp nhằm mục đích sử dụng hợp lý các nguồn vốn, tăng thêm thu nhập và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí hoạt động tài chính gồm các loại chính sau: + Chi phí phát sinh liên quan đến các hoạt động liên doanh, liên kết. + Chi phí cho thuê tài sản. + Chi phí mua bán trái phiếu, cổ phiếu, kể cả khoản tổn thất trong đầu tư nếu có. + Dự phòng giảm giá chứng khoán. + Giá trị ngoại tệ bán ra, chênh lệch tỷ giá ngoại tệ theo chế độ tài chính hiện hành (không bao gồm chênh lệch tỷ giá ngoại tệ thuộc vốn vay để đầu tư xây dựng cơ bản khi công trình chưa đưa vào sử dụng hoặc vốn vay bằng ngoại tệ để góp vốn liên doanh). + Chi phí về số lãi phải trả để huy động vốn sử dụng trong kỳ. + Chi phí triết khấu thanh toán cho người mua hàng hoá dịch vụ khi thanh toán tiền trước thời hạn. + Chi phí khác liên quan đến hoạt động đầu tư ra ngoài doanh nghiệp. c) Chi phí bất thường là cáckhoản chi phí xảy ra không thường xuyên, gồm các loại chính sau: + Chi phí nhượng bán, thanh lý TSCĐ (bao gồm cả giá trị còn lại của TSCĐ khi thanh lý và nhượng bán). + Giá trị tổn thất thực tế sau khi đã giảm trừ tiền đền bù của người phạm lỗi và tổ chức bảo hiểm, trị giá phế liệu thu hồi (nếu có) và số đã được bù đẵp bằng các quỹ dự phòng tài chính. + Chi phí cho việc thu hồi các khoản nợ phải thu khó đòi đã xoá sổ kế toán. + Chi phí vê tiền phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế. + Chi phí để thu tiền phạt. + Các khoản chi phí bất thường khác. d) Chi phí hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp thương nghiệp: Đây là điểm đáng chú ý vì doanh nghiệp thương nghiệp có những đặc điểm khác nhất định so với các doanh nghiệp sản xuất. Chi phí kinhdoanh trong doanh nghiệp thương nghiệp là giá trị mua vào của lượng hàng hoá bán ra và chi phí lưu thông hàng hoá. Chi phí lưu thông hàng hoá thường gồm: + Chi phí khâu mua và dự trữ hàng hoá. + Chi phí bán hàng. + Chi phí quản lý doanh nghiệp Chi phí lưu thông phân bổ cho lượng hàng hoá xuất bán trong kỳ được tính theo công thức sau: Chi phí lưu thông phân bổ cho lượng hàng hoá xuất bán trong kỳ = CPLT phân bổ cho hàng hoá dự trữ đầu kỳ + Tổng CPLT phát sinh trong kỳ - CPLT phân bổ cho hàng hoá dự trữ cuối kỳ CPLT phân bổ cho hàng hoá dự trữ cuối kỳ = CPLT phân bổ cho hàng dự trữ đầu kỳ + Các khoản CPLT phát sinh ở khâu mua hàng và dự trữ hàng hoá X Trị giá hàng hoá dự trữ cuối kỳ Trị giá hàng hoá dự trữ đầu kỳ + Trị giá hàng hoá mua vào trong kỳ Quản lý chi phí được thực hiện trên cơ sở các chi phí thực phát sinh của doanh nghiệp và các quy định của bộ tài chính về chi phí của doanh nghiệp. Đồng thời, tất cả các chi phí của doanh nghiệp đều phải có chứng từ hợp lệ theo đúng quy định của pháp luật. 1.2.2.4. Quản lý việc phân phối lợi nhuận đối với doanh nghiệp NQD: Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất, kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng để đánh giá hiệu quả kinh tế của các hoạt động trong doanh nghiệp. Lợi nhuận là số tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được doanh thu đó. Nội dung lợi nhuận doanh nghiệp bao gồm: - Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh: là số lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp. Đây là bộ phận lợi nhuận chủ yếu của doanh nghiệp. - Lợi nhuận từ hoạt động khác: là số lợi nhuận thu được từ các hoạt động khác, bao gồm từ hoạt động tài chính và bất thường. Các phương pháp cơ bản xác định lợi nhuận của doanh nghiệp: * Phương pháp trực tiếp : Lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định trực tiếp từ kết quả hoạt động của doanh nghiệp như sau: Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh = Doanh thu thuần - Trị giá vốn hàng bán - Chi phí bán hàng - Chi phí quản lý doanh nghiệp Hoặc Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh = Doanh thu thuần - Giá thành toàn bộ sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ tiêu thụ trong kỳ Trong đó: - Doanh thu thuần = Doanh thu tiêu thụ - Các khoản giảm trừ doanh thu - Các khoản doanh thu = Hàng bán bị trả lại, giảm giá hàng bán, thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt Trị giá vốn hàng bán : + Đối với doanh nghiệp sản xuất: Trị giá vốn hàng bán = Giá thành sản xuất của khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ Giá thành SX của khối lượng SP tiêu thụ trong kỳ = Giá thành SX của khối lượng SP tồn kho đầu kỳ + Giá thành SX của khối lượng SP sản xuất trong kỳ - Giá thành SX của khối lượng SP tồn kho cuối kỳ + Đối với doanh nghiệp thương nghiệp: Trị giá vốn hàng bán = Trị giá mua vào của hàng hoá bán ra Trị giá mua vào của hàng hoá bán ra = Trị giá hàng hoá tồn kho đầu kỳ + Trị giá hàng hoá mua vào trong kỳ - Trị giá hàng hoá tồn kho cuối kỳ Lợi nhuận từ các hoạt động khác bao gồm lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận bất thường. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính = Thu nhập HĐTC - Chi phí HĐTC Lợi nhuận hoạt động bất thường = Thu nhập HĐBT - Chi phí HĐBT Tổng số lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp là tổng số lợi nhuận từ các hoạt động trên được xác định như sau: Lợi nhuận trước thuế TNDN = Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh + Lợi nhuận từ hoạt động tài chính + Lợi nhuận từ hoạt đông bất thường Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuần trước thuế - Thuế thu nhập doanh nghiệp Hoặc Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế x (1- Thuế suất thuế TNDN) * Phương pháp xác định lợi nhuận gián tiếp ( xác định qua các bước trung gian) Lợi nhuận của doanh nghiệp được tính dần qua từng khâu hoạt động. Cách tính này cho phép người quản lý nắm được quá trình hình thành lợi nhuận và tác động của từng khâu hoạt động đến kết quả hoạt đông kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp là lợi nhuận sau thuế. Dưới đây là cách xác định lợi nhuận theo phuơng pháp đang được sử dụng ở nước ta hiện nay: 1. Doanh thu bán hàng 2. Cáckhoản giảm trừ - Giảm giá hàng bán - Hàng bán bị trả lại - Thuế xuất khẩu - Thuế tiêu thụ đặc biệt 3. Doanh thu thuần về bán hàng (= 1 - 2) 4. Trị giá vốn hàng bán 5. Lợi nhuận gộp về hoạt động kinh doanh (=3 - 4) 6. Chi phí bán hàng 7. Chi phí quản lý doanh nghiệp 8. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh ( = 5 - 6 - 7 ) 9. Thu nhập hoạt động tài chính 10. Chi phí hoạt động tài chính 11. Lợi nhuận hoạt động tài chính ( = 9 - 10 ) 12. Thu nhập hoạt động bất thường 13. Chi phí bất thường 14. Lợi nhuận bất thường ( = 12 - 13 ) 15. Lợi nhuận trước thuế ( = 8 + 11 + 14 ) 16. Thuế thu nhập doanh nghiệp 17. Lợi nhuận sau thuế ( = 15 - 16 ) *Quá trình phân phối lợi nhuận doanh nghiệp Lợi nhuận làm ra của các doanh nghiệp cần được phân phối và sử dụng một cách đúng đắn và hợp lý. Phân phối lợi nhuận đúng đắn được hiểu là kết hợp hài hoà lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, do vậy nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, khuyến khích người lao động và tạo nguồn thu cho Nhà nước. Lợi nhuận thực hiện trong năm được phân phối theo cách sau (căn cứ trên Nghị định 59/NĐCP và 27/NĐCP về cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp quốc doanh): - Chuyển lỗ theo quy định của Luật._.ng của các cơ sở đó - Đầu tư đồng thời tham gia trực tiếp vào công việc quản lý và giám sát hoạt động của các cơ sở này. - Đầu tư ra nước ngoài theo luật định. - Trường hợp doanh nghiệp sử dụng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh phải thực hiện theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp giá tài sản cố định của doanh nghiệp có sự thay đổi, doanh nghiệp được đề nghị cơ quan đăng kí kinh doanh chỉ định tổ chức có thẩm quyền thực hiện việc đánh giá lại tài sản cố định của doanh nghiệp, nhưng không được thay đổi tỷ lệ vốn góp ban đầu. Giá tài sản cố định phải được xác định dựa trên cơ sở giá trị thị trường tại thời điểm đánh giá lại. Tổn thất tài sản của doanh nghiệp là sự mất mát, hư hỏng tài sản của doanh nghiệp do các nguyên nhân khách quan và chủ quan gây ra - Doanh nghiệp phải xácđịnh rõ nguyên nhân gây tổn thất tài sản, giá trị tổn thất và có phương án xử lý cụ thể. - Đối với những tổn thất do nguyên nhân chủ quan, doanh nghiệp cần phải xác định mức độ thiệt hại và trách nhiệm của những người có liên quan để buộc đền bù thiệt hại - Đối với tổn thất do nguyên nhân khách quan, Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc giám đốc ( đối với doanh nghiệp không có hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên) phải lập phương án xử lý cụ thể. Doanh nghiệp có quyền chủ động nhượng bán thanh lý tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp, chênh lệch giữa số tiền thu được do nhượng bán thanh lý tài sản với giá trị còn lại của tài sản nhượng bán thanh lý và chi phí nhượng bán thanh lý tài sản được hạch toán vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. 3.2.2. Quản lý doanh thu chi phí: Doanh thu của doanh nghiệp bao gồm doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, gia công và doanh thu từ các hoạt động khác. - Doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh và gia công bao gồm: a) Toàn bộ số tiền doanh nghiệp thu về từ việc bán hàng hoá, dịch vụ và tiền gia công sau khi đã trừ đi các khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán và hàng bán bị trả lại. b) Thu từ phần trợ của Nhà nước khi thực hiện việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo đơn đặt hàng của Nhà nước. c) Giá trị các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đem biếu tặng, cho hoặc tiêu dùng trong nội bộ doanh nghiệp. Thời điểm ghi nhận doanh thu hoạt động sản xuất, kinh doanh và gia công là khi hàng hoá, dịch vụ đã được cung cấp, người mua người đặt hàng đã trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán. Doanh thu từ hoạt động khác gồm thu từ hoạt động liên doanh, liên kết; thu từ hoạt động mua bán tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu; thu từ hoạt động cho thuê tài sản; thu lãi tiền gửi, lãi cho vay; thu tiền phạt, nợ phải thu đã xoá nay thu hồi được; thu do hoàn nhập các khoản dự phòng đã trích năm trước nhưng không sử dụng đến và các khoản thu khác. Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế được xác định theo quy định tại Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành luật Thuế thu nhập doanh nghiệp Toàn bộ chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh thực tế phát sinh của doanh nghiệp có chứng từ hợp pháp, hợp lệ được hạch toán vào sổ kế toán. - Chi phí từ hoạt động sản xuất kinh doanh và gia công bao gồm: a) Chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, động lực: là giá trị của nguyên nhiên vật liệu, động lực đã sử dụng và tiêu hao thực tế cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. b) Chi phí tiền lương: là các khoản tiền lương, tiền công, chi phí có tính chất tiền lương doanh nghiệp phải trả cho người lao động tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; tiền ăn giữa ca và các khoản mang tính chất tiền lương, tiền công đã chi. c) Các khoản trích nộp bảo hiễm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn cho người lao động theo quy định thuộc trách nhiệm của doanh nghiệp được sử dụng lao động; d) Chi phí khấu hao tài sản cố định: Là số khấu hao tài sản cố định sử dụng cho hoạt động sản xuât kinh doanh trích trong kỳ; e) Chi phí nghiên cứu khoa học, công nghệ, sáng kiến cải tiến kĩ thuật; f) Chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh; g) Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là các chi phí trả cho tổ chức, cá nhân ngoài doanh nghiệp về các hàng hoá, dịch vụ được cung cấp như : tiền bốc vác, vận chuyển, chi phí điện nước, điện thoại, chi phí thuê sữa chữa tài sản cố định, tư vấn, kiểm toán, quảng cáo, bảo hiểm tài sản, đại lý, môi giới uỷ thác xuất nhập khẩu, chi trả tiền thuê tài sản cố định và các dịch vụ khác. h) Chi phí bằng tiền khác bao gồm: Các khoản thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất phải nộp có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ (trừ thuế thu nhập doanh nghiệp); chi tiếp tân, khánh tiết, giao dịch, đối ngoại; chi bảo hộ lao động trả lãi ngân hàng. i) Các khoản chi cho hoạt động sản xuất kinh doanh khác bao gồm: dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng phải thu khó đòi; Trợ cấp thôi việc cho người lao động theo quy định; chi phí cho thuê tài sản; chi cho công tác bảo vệ môi trường, chi bảo hành sản phẩm. - Chi phí cho các hoạt động khác gồm: chi phí cho việc mua, bán trái phiếu tín phiếu cổ phiếu; dự phòng giảm giá cácloại chứng khoán trong hoạt động tài chính; Chi phí cho hoạt động liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần; chi phí cho việc thu hồi các khoản nợ, chi phí để thu tiền phạt. Doanh nghiệp không được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh các khoản sau đây: + Các khoản chi tiêu không có chứng từ hợp pháp, hợp lệ. + Các khoản chi không liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp như chi trợ cấp khó khăn cho người lao động, chi ủng hộ địa phương, tổ chức và cá nhân. + Các khoản tiền phạt vi phạm pháp luật. + Các khoản lỗ do liên doanh, liên kết, lỗ từ hoạt động khác; + Các khoản thiệt hại được Chính phủ trợ cấp hoặc được các công ty bảo hiểm bồi thường thay cho bên gây thiệt hại. + Các khoản chi thuộc nội dung chi của các quỹ được trích lập sau thuế; + Chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi mua sắm tải sản cố định, các khoản đầu tư khác; Chi phí sản xuất kinh doanh hợp lý được trừ để tính thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp xác định theo quy định tại Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Các doanh nghiệp được lựa chọn phương pháp tính và trích khấu hao tài sản cố định phù hợp với đặc điểm kinh doanh, yêu cầu quản lý và khả năng của doanh nghiệp, nhưng phải ổn định với phương pháp đã chọn. Mức khấu hao tài sản cố định tính vào chi phí sản xuất, kinh doanh hợp lý để tính thu nhập chịu thuế, doanh nghiệp thực hiện theo quy định của Luật thuế và các quy định khác của Nhà nước. Để thu hồi vốn nhanh và tăng khả năng đầu tư, mở rộng sản xuất, doanh nghiệp có thể trích khấu hao lớn hơn mức tối đa theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên trước mắt chỉ nên áp dụng một cách có điều kiện và nên giao cho một cơ quan chức năng có thẩm quyền thẩm định nhu cầu và điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Về chi phí tiền lương, tiền công. Các doanh nghiệp phải thực hiện đăng kí hợp đồng lao động với cơ quan quản lý lao động, cơ quan Bảo hiểm xã hội tại địa bàn. Đối với cơ quan thuế trực tiếp quản lý doanh nghiệp thì khoản tiền lương, tiền công doanh nghiệp trả cho người lao động theo hợp đồng lao động được tính vào chi phí sản xuất, kinh doanh hợp lý để tính thu nhập chịu thuế. Trường hợp doanh nghiệp không thực hiện đăng ký hợp đồng lao động với các cơ quan chức năng, thì tiền lương, tiền công và các khoản mang tính chất tiền lương, tiền công phải trả cho người lao động được tính vào chi phí kinh doanh hợp lý để tính thu nhập chịu thuế căn cứ vào mức tiền lương, tiền công bình quân của từng ngành nghề tại địa phương do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định. Việc trích nộp BHXH vẫn phải căn cứ và dựa trên hợp đồng lao động và tiền lương, tiền công doanh nghiệp trả cho người lao động, đối với các trường hợp doanh nghiệp không lập hợp đồng lao động thì việc trích nộp BHXH được tính dựa trên những quy định do UBND tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương quy định cho từng ngành nghề. Doanh nghiệp có thể được quyền tự xây dựng và thực hiện định mức kinh tế - kỹ thuật (như định mức tiêu hao nguyên, nhiên vật liệu, định mức lao động, định mức các khoản chi phí gián tiếp) phù hợp với tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh và đặc điểm kinh tế kỹ thuật, mức độ trang thiết bị của doanh nghiệp trên cơ sở đảm bảo tiết kiệm, hạ giá thành, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Doanh nghiệp tự quyết định về mức chi tiếp khách, hội họp, giao dịch, đối ngoại nhưng phải đảm bảo hợp lý và phải gẵn với kết quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. 3.2.3 Quản lý thu nhập và phân phối thu nhập Thu nhập của doanh nghiệp là khoản chênh lệch giữa doanh thu trừ các chi phí có liên quan và khoản thuế thu nhập phải nộp. Thu nhập của doanh nghiệp bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập từ hoạt động khác. Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh là khoản chênh lệch giữa doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh trừ đi chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế có chứng từ hợp pháp, hợp lệ của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đã tiêu thụ và khoản thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp ( tính riêng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh). Thu nhập từ các hoạt động khác là khoản chênh lệch giữa thu nhập từ các hoạt động khác trừ đi các chi phí hợp lý, hợp lệ của những hoạt động khác và thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp (tính cho các hoạt động khác) Thu nhập của doanh nghiệp được xác định hàng năm khi kết thúc năm tài chính. Doanh nghiệp phải lập bảng kê khai các loại thuế phải nộp và nộp thuế đầy đủ đúng hạn theo quy định của từng luật thuế. Kết thúc năm tài chính, doanh nghiệp phải quyết toán thuế với cơ quan thuế theo quy định của Pháp luật. Việc phân phối thu nhập sau thuế của doanh nghiệp do người chủ sở hữu quyết định, trừ việc trích lập các Quỹ theo quy định của Pháp luật mà cụ thể là quy định của nghị định. Thẩm quyền quyết định việc phân phối thu nhập đối với các loại hình doanh nghiệp được thực hiện theo nguyên tắc sau: + Đối với Công ty TNHH, Hội đồng thành viên quyết định việc phân phối thu nhập. + Đối với công ty cổ phần, thu nhập của công ty được phân phối theo quy định của điều lệ của công ty (Điều lệ công ty do Đại hội cổ đông thông qua). + Đối với doanh nghiệp tư nhân, chủ doanh nghiệp là người có quyền quyết định việc phân phối thu nhập. + Đối với công ty hợp danh, thu nhập của công ty được phân phối theo quy định tại Điều lệ công ty. Sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập của công ty được phân phối theo hình thức như sau: + Trừ các khoản chi phí thực tế phát sinh nhưng không được tính vào chi phí sản xuất, kinh doanh để tính thu nhập chịu thuế. + Phần còn lại được phân phối, sử dụng như sau: i) Trích lập các quỹ theo luật định: Những doanh nghiệp kinh doanh trong một số ngành đặc thù mà pháp luật quy định phải trích lập các quỹ đặc biệt từ lợi nhuận thì doanh nghiệp phải thực hiện trích lập các quỹ này theo những tỷ lệ quy định. Quỹ dự phòng mất việc làm Quỹ khen thưởng dự tính là 10% thu nhập sau thuế, mức thưởng do doanh nghiệp quyết định. ii) Tuỳ điều kiện và nhu cầu của từng doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể trích lập các quỹ được nhà nước khuyến khích như: Quỹ đầu tư phát triển để sử dụng vào mục đích tăng vốn đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh hoặc đổi mới cải tiến kỹ thuật, thay đổi quy trình công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Đối với phần thu nhập sau thuế được dùng để đầu tư trở lại cho sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp được áp dụng mức khuyến khích đầu tư cao nhất phủ hợp với các quy định tại các Luật thuế, Luật khuyến khích đầu tư trong nước; hay các quỹ dự phòng tài chính và các quỹ khác. iii) Chia thu nhập cho các thành viên góp vốn, các cổ đông nếu có đủ điều kiện quy định tại điều 44,48 và 67 của Luật doanh nghiệp . Nhà nước thực hiện hỗ trợ đối với doanh nghiệp thông qua các chính sách ưu đãi thuế, ưu đãi về đầu tư, ưu đãi về tín dụng, bảo lãnh hỗ trợ tín dụng khi cần. 3.2.4. Quản lý công tác kế toán, kiểm toán và báo cáo tài chính: Doanh nghiệp có trách nhiệm mở sổ kế toán, theo dõi đầy đủ chính xác toàn bộ tài sản, tiền vốn doanh nghiệp đang quản lý, phản ánh kịp thời tình hình sử dụng, biến động tài sản, tiền vốn. Thực hiện kế toán, thống kê theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm việc ghi chép kế toán đầy đủ, kịp thời, đầy đủ căn cứ pháp lý, lập báo cáo tài chính trung thực, khách quan và gửi đầy đủ, đúng hạn theo quy định. Thường xuyên kiểm tra, đối chiếu tình hình công nợ, xác định và phân loại các khoản nợ tồn đọng, đánh giá khả năng thu hồi để có biện pháp xử lý thích hợp./ Thực hiện đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật. Mọi trường hợp các quy định về kế toán, thống kê và các nghĩa vụ tài chính đều bị xử lý theo pháp luật. Cơ quan Đăng ký kinh doanh phối hợp với cơ quan Thuế kiểm tra và xử lý các trường hợp vi phạm theo quy định. Việc ghi sổ kế toán phải thực hiện bằng Đồng Việt Nam. Trường hợp có phát sinh các nghiệp vụ bằng ngoại tệ phải quy đổi thành đồng Việt Nam theo tỷ giá do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm thu, chi ngoại tệ. Việc hạch toán ngoại tệ, xử lý chênh lệch tỷ giá được thực hiện theo quy định pháp luật. Năm tài chính của doanh nghiệp bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 năm dương lịch và kết thúc vào ngày 31 tháng 12 cùng năm. Năm tài chính đầu tiên của doanh nghiệp bắt đầu từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và kết thúc vào ngày cuối cùng của năm đó. Kết thúc năm tài chính doanh nghiệp phải ; + Lập báo cáo tài chính và báo cáo thống kê theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm về tính trung thực, khách quan của báo cáo. + Gửi báo cáo tài chính hàng năm đến cơ quan thuế và cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính. + Đối với các công ty cổ phần và các công ty khác mà pháp luật yêu cầu phải được kiểm toán thì báo cáo tài chính hàng năm phải được kiểm toán hoặc có sự xác nhận của tổ chức kiểm toán trước khi trình Đại hội cổ đông xem xét thông qua. Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm trước khi gửi cho cơ quan thuế và cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc trước khi phân phối thu nhập. Doanh nghiệp phải công bố công khai các thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp, vấn đề này cần được Bộ tài chính và các cơ quan hữu quan có những quy định cần thiết. Tất nhiên, các thông tin liên quan đến việc quản trị, kinh doanh và những thông tin không thuộc phạm vi phải công khai thì doanh nghiệp được quyền giữ bí mật: ví dụ như thông tin về sản phẩm mới, cải tiến kỹ thuật, đầu tư v.v Các công ty cổ phần có cổ phiếu niêm yết tại thị trường chứng khoán tập trung phải thực hiện công khai theo các nội dung quy định của thị trường chứng khoán. 3.2.5. Các giải pháp hỗ trợ khác: Bên cạnh việc nhanh chóng hoàn thiện và ban hành một văn bản pháp luật cấp Nghị định về quản lý tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh như đã nói ở trên, chúng ta cũng phải đồng bộ tiến hành các chính sách và biện pháp khác nhằm phát huy tối đa hiệu lực của nó. Việc triển khai nghiên cứu xây dựng cơ chế tài chính đối với khu vực KTTN đang trở thành nhu cầu ngày một bức thiết và cấp bách trong tình hình hiện nay để quy định một cách rõ ràng, công khai những vấn đề Nhà nước yêu cầu quảnlý thống nhất, có tính nguyên tắc như : trích nộp bảo hiểm xã hội, trích lập các quỹ bắt buộc đối với một số doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực đặc thù… và những hướng dẫn làm căn cứ cho các doanh nghiệp lựa chọn hình thức thực hiện (như huy động vốn, hình thức và phương pháp trả lương, phân phối thu nhập… ). Những quy định này sẽ góp phần tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cả về nghĩa vụ và các ưu đãi của Nhà nước đối với các doanh nghiệp “dân doanh”. Các doanh nghiệp “dân doanh” phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi cho người lao động, trích lập các quỹ dự phòng mất việc làm, thực hiện công khai tài chính một cách thích hợp… Bổ sung, sửa đổi cơ chế, chính sách tài chính đối với khu vực KTTN: Có cơ chế kiểm tra chặt chẽ việc đăng ký kinh doanh và quản lý sau đăng ký, khắc phục tình trạng doanh nghiệp lợi dụng đăng ký dễ dàng để làm ăn phi pháp, buôn bán hoá đơn, trốn thuế. Đề nghị bổ sung, sửa đổi khoản 3 - Điều 118 Luật Doanh nghiệp theo hướng: Một năm doanh nghiệp báo cáo tài chính làm 2 kỳ, báo cáo phải gửi cho cơ quan quản lý Nhà nước về tài chính doanh nghiệp, cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế và thống kê. Chính phủ cần sớm quy định tiêu chí để dánh giá, phân định hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân cho đúng tính chất của từng loại hình kinh doanh, làm cơ sở cho việc áp dụng cơ chế và phương thức quản lý thu thuế, chống gian lận trong kê khai, nộp thuế. Xuất phát từ thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cần xây dựng cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này áp dụng phương thức quản lý tài chính thống nhất, phù hợp với điều kiện của các doanh nghiệp, đồng thời tạo thuận lợi cho công tác quản lý, hướng dẫn của các cơ quan chức năng. Xây dựng cơ sở pháp lý cho việc hình thành, thực hiện, theo dõi, thanh lý, giải quyết tranh chấp các hợp đồng tài chính và xử lý các vấn đề tài chính khi doanh nghiệp phá sản hay giải thể theo quy luật kinh tế thị trường. Chính sách thuế: Có thể nói rằng chính sách thuế luôn có tác động nhạy cảm và là vấn đề mang tính thời sự đối với khu vực KTTN. Xin đưa ra một số giải pháp cải tiến chính sách thuế như sau: Thuế GTGT và TTĐB, về nguyên tắc, Nhà nước khuyến khích các hộ kinh doanh cá thể thực hiện đầy đủ chế độ sổ sách kế toán, không hạn chế đối tượng này được áp dụng phương pháp khấu trừ thuế nếu đầy đủ các điều kiện quy định. Vì vậy, để tháo gỡ, cần thiết phải có biện pháp hỗ trợ nhằm nâng cao trình độ quản lý sản xuất, kinh doanh giúp đỡ các hộ kinh doanh hoạt động theo đúng khuôn khổ luật pháp và môi trường kinh doanh thuận lợi mà Nhà nước tạo ra. Ngoài ra, trong thời gian tới cần kiên quyết loại bỏ quy định về khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào. Đối với thuế TNDN, cần giải quyết tiếp những vướng mắc về vấn đề xác định chi phí hợp lý để tính thuế (chẳng hạn như chi phí tiền lương, tiền công) dẫn đến xác định lợi nhuận không thực tế. Các doanh nghiệp NQD trả lương cho người lao động là tiền lương thực tế, phù hợp với mức sống và đóng góp của họ, nhưng quy định về xác định chi phí tiền lương lại tuân theo nguyên tắc tiền lương thực tế không vượt quá định mức tiền lương của DNNN hoạt động trong cùng lĩnh vực. Một vấn đề khác cần quan tâm là Luật thuế TNDN quy định điều tiết một phần thu nhập đối với hộ gia đình, cá nhân nông dân sản xuất hàng hoá lớn, có thu nhập cao nhưng đến nay (sau gần 3 năm) vẫn chưa thực hiện được. Điều này dẫn đến hiện tượng ở nông thôn, có một số ít hộ, cá nhân giàu lên rất nhanh mà không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước, không đảm bảo công bằng xã hội ( giữa các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, giữa các hộ gia đình, cá nhân nông thôn). Chính sách tín dụng ngân hàng: Ngoài việc khuyến khích cho vay ưu đãi theo loại dự án đầu tư có khuyến khích không kể dự án đó thuộc thành phần kinh tế nào, đối với khu vực kinh tế tư nhân cần phải loại bỏ những hàng rào ngăn cản khu vực này tiếp cận với các loại hình tín dụng trong hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước, đó là mức tín dụng, mức lãi suất và vấn đề về thế chấp, thủ tục xin vay tín dụng. Hiện nay, Ngân hàng chỉ quy định mức lãi suất cơ bản song trên thực tế, khu vực kinh tế tư nhân vẫn phần nào bị phân biệt đỗi xử, do đó, thường được vay vốn với lãi suất cao hơn so với các DNNN. Các điều tra gần đây cũng cho thấy tỷ lệ vay vốn của các doanh nghiệp tư nhân chỉ chiếm một tỷ lệ hết sức khiêm tốn khoảng 2%-5% tổng vốn mà ngân hàng cho các doanh nghiệp trong nước vay. Theo một số ý kiến, nên có chính sách ưu đãi tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua việc cấp tín dụng trung và dài hạn cho các doanh nghiệp này. Hoặc cho các doanh nghiệp tư nhân có quyền thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng. Mở rộng phương thức thanh toán, trước hết, các doanh nghiệp tư nhân có khả năng sản xuất kinh doanh và có uy tín trên thị trường cần mạnh dạn áp dụng phương thức mua, bán trả chậm bằng tín dụng xuất khẩu hoặc áp dụng hình thức cho vay theo tài khoản thấu chi. Phương thức này vừa tạo thuận lợi cho việc kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng vừa giảm được thủ tục và thời gian vay và thanh toán của khách hàng. Nhanh chóng thành lập và đua vào hoạt động các công ty mua bán nợ nhằm giải quyết bớt những khó khăn, nợ nần dây dưa cho các doanh nghiêp tư nhân đang gặp khó khăn về tài chính, tạo điều kiện để vực dậy các doanh nghiệp này. Chính sách khuyến khích đầu tư: Hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với số vốn dưới 5 tỷ đồng. Sau khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực, số lượng các doanh nghiệp tăng lên khá nhanh, nhìn chung các doanh nghiệp mới có số vốn đăng ký trên dưới 1 tỷ đồng. Tuy nhiên vẫn cần những giải pháp thu hút đầu tư nâng mức tín nhiệm tạo thuận lợi cho việc huy động vốn cho các doanh nghiệp. Hiện nay, chưa có tổ chức trung gian đứng ra bảo lãnh tín dụng, nên vấn đề vốn vẫn là một trong những khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp KTTN. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 51/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 quy định chi tiết thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi). Bộ tài chính cũng đã ban hành Thông tư 146/1999/NĐ-CP. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng đối với việc huy động vốn và quản lý, sử dụng các nguồn lực trong xã hội, tuy nhiên, khu vực KTTN mới được phát triển, chưa đủ thời gian để tích tụ vốn nên hầu như chưa có các dự án đầu tư lớn. Chính sách thiết lập các định chế tài chính hỗ trợ Kinh tế tư nhân: Thành lập và sử dụng có hiệu quả các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong đó, đặc biệt là quỹ hỗ trợ phát triển, hàng năm trích khoảng 30% quỹ HTPT để đầu tư vào khu vực kinh tế tư nhân. Tích cực hình thành các ngân hàng đầu tư phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tiếp tục các chính sách thu hút các quỹ, các tập đoàn đầu tư tài chính quốc tế như Dragon Capital, hay Mekong Capital v.v. Thúc đẩy quả trình cổ phần hoá, phát triển hoạt động thị trường chứng khoán. Tăng cường áp dụng hình thức thuê mua tài chính, tạo điều kiện cho doanh nghiệp NQD ít vốn nhưng vẫn có thể được quyền sử dụng các máy móc thiết bị hiện đại, phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, thanh toán nợ dần giống kiểu mua hàng trả góp cho đến khi được sở hữu các máy móc thiết bị hiện đại đó. Chế độ kế toán kiểm toán: Cải tiến chế độ báo cáo tài chính ban hành theo Quyết định 167/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2000 của Bộ tài chính theo hướng đơn giản và phù hợp hơn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện. Tiếp tục đẩy mạnh công tác hướng dẫn, chỉ đạo kiểm tra đôn đốc thực hiện và kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp. Bổ sung, sửa đổi về phân công phân cấp quản lý khu vực KTTN: Căn cứ khoản 2, Điều 115 của Luật doanh nghiệp, đề nghị Chính phủ phân công rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với đoanh nghiệp NQD: Bộ KH-ĐT thực hiện chức năng tiền kiểm trong việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Chỉ đạo thực hiện chức năng này đối với các Sở KH-ĐT của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tổng hợp tình hình hoạt động, giải thể, phá sản của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Bộ tài chính thực hiện nhiệm vụ hậu kiểm, hướng dẫn thực hiện chính sách tài chính, thực hiện nghĩa vụ thu nộp NSNN; Chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ “hậu kiểm” đối với Sở Tài chính - Vật giá các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương; Tổng hợp tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, báo cáo tài chính, tình hình thực hiện nghĩa vụ với NSNN của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, xây dựng cơ chế giám sát hoạt động của các doanh nghiệp NQD. UBND các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm quản lý và tổng hợp tình hình hoạt động của các doanh nghiệp NQD, hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn. Để thúc đẩy KTTN phát triển mạnh mẽ, tương xứng với tiềm năng và góp phần xứng đáng vào việc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đòi hỏi Nhà nước phải tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các cơ chế chính sách, trong đó chính sách tài chính có ý nghĩa quan trọng, theo hướng tăng cường quyền tự do, tự chủ kinh doanh của khu vực KTTN, tạo sân chơi, thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển KTTN trong khuôn khổ luật pháp. 3.3. Kiến nghị điều kiện thực thi giải pháp: Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các giải pháp trên cũng như việc áp dụng có hiệu quả cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp NQD. - Duy trì sự ổn định kinh tế xã hội trong nước. Đây là nhiệm vụ mà có thể nói chúng ta đã thực hiện rất thành công trong những năm qua. Các nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước luôn đánh giá nước ta là một nước có chế độ chính trị ổn định, môi trường phát triển kinh tế lành mạnh và thoáng đạt. Bằng chứng là trong cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam á, và sau đó lan ra toàn cầu, trong khi phần lớn các nước trong khu vực phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề, như Thái lan, Nhật bản và Hàn Quốc nền kinh tế bị kéo lại hàng chục năm thì Việt Nam là một trong những quốc gia vẫn duy trì được một tốc độ tăng trưởng nhất định. Điều này là minh chứng rõ ràng nhất cho tính đúng đắn trong việc phát triển kinh tế của nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Nhiệm vụ đặt ra trước mắt là tiếp tục phát huy thành tựu đó. - Hoàn thiện môi trường pháp lý và quản lý: Cần nghiên cứu ban hành các văn bản pháp luật tạo môi trường phát triển thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, trong đó có khu vực kinh tế tư nhân. Tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp, và kích thích các doanh nghiệp phát triển phù hợp với pháp luật và hiến pháp của nước ta. Các văn bản pháp luật phải đảm bảo tính thống nhất, có hệ thống cao. Bên cạnh đó là tiếp tục đẩy mạnh việc quán triệt và thực hiện pháp luật đến đông đảo dân chúng. Tích cực giáo dục, tuyên truyền phổ biến nội dung và hướng dẫn thực hiện pháp luật như Luật doanh nghiệp, Nghị định về phát triển thị trường chứng khoán v.v - Đây mạnh quá trình cải cách hành chính theo hướng đơn giản, dễ thực hiện. Phân định rõ ràng chức năng và quyền hạn của các cơ quan, thực hiện cơ chế cá nhân chịu trách nhiệm. Thực hiện cơ chế cá nhân chịu trách nhiệm. - Phát triển nguồn nhân lực, trong đó, tập trung phát triển chất lượng nguồn nhân lực. Đẩy mạnh công tác đào tạo các cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, bản lĩnh chính trị vững vàng, khả năng nghiên cứu và làm việc độc lập tốt. Phát huy các sáng kiến, đổi mới trong tư duy, cách nghĩ cách làm, tận dụng tối đa khả năng của mỗi người. Nâng cao chất lượng của đội ngũ những người làm công tác hoạch định chính sách nhất là chính sách kinh tế hiện nay. Kết luận Qua những nghiên cứu tổng hợp trên, chúng ta có thể nhận thấy tiềm năng phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, và sự tiếp tục phát triển lớn mạnh của khu vực kinh tế này là một chân lý không phải bàn cãi vì nó hợp với định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước cũng như được nhân dân ủng hộ. Tuy nhiên, để có thể phát huy hết tiềm năng thế mạnh, phát triển với hiệu quả cao nhất thì vấn đề cấp thiết mang tính thời sự đối với các DNNQD hiện nay là cơ chế quản lý tài chính. Một cơ chế quản lý tài chính độc lập, phù hợp với quan hệ sở hữu, với quy mô và những đặc điểm riêng có của khu vực kinh tế này là vấn đề đặt ra cho tất cả chúng ta phải suy nghĩ mà nhất là những người làm công tác hoạch định chính sách. Trong giới hạn của đề tài nghiên cứu, luận văn đã tập trung nghiên cứu về cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay. Bằng phương pháp tổng hợp, phân tích và diễn giải, đề tài đã đi từ những vấn đề lý luận chung, đến thực tiễn và nêu lên một số giải pháp cụ thể để có thể thiết lập và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên do đây là một vấn đề thực sự khó, phạm vi rộng, là một vấn đề kinh tế nhưng không thể tách rời mối quan hệ phức tạp đến cơ cấu tổ chức xã hội chính trị của quốc gia nên chắc chắn đề tài còn rất nhiều hạn chế, có những vấn đề mâu thuẫn mà bản thân em không giải quyết được. Hy vọng rằng, với thời gian, khi được đào tạo cao hơn em sẽ có thể tiếp tục giải quyết các vấn đề này một cách thấu đáo và triệt để hơn. Cuối cùng, em thực hiện chuyên đề này với niềm tin sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng và khả năng quản lý của Nhà nước. Chắc chắn trong thời gian tới, cùng với sự phát triển chung của đất nước, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ, đạt được những thành công vang dội, đóng góp quan trọng vào quá trình đổi mới kinh tế của đất nước. Danh mục tài liệu tham khảo: - "Báo cáo kinh tế Việt Nam 1998", Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương,3-1999 - "Báo cáo một số nét về thực trạng hiện nay của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam" , Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương,1-1999 - Tổng cục thống kê: Chỉ tiêu kinh tế xã hội ở Việt Nam 1990-1995, Nxb. Thống kê, Hà nội, 1-1997. - Báo cáo kinh tế của Ban kinh tế Trung ương:"Về kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư nhân...", Lê Đăng Doanh, Tổng cục Thống kê, Hà Nội,5-1999 - Tổng cục Thống kê:"Kinh tế xã hội Việt Nam - thực trạng xu thế và giải pháp", Nxb.Thống kê, Hà Nội, 1996, tr 225 - Báo cáo của Ban kinh tế Trung ương:"Một số chỉ tiêu cơ bản của 5 thành phần kinh tế", Lê Đăng Doanh, Tổng cục Thống kê, Hà Nội, 5-1999 - Báo cáo: Vai trò doanh nghiệp vừa và nhỏ trong phát triển kinh tế tư nhân và định hướng doanh nghiệp nhỏ và vừa đến năm 2010, Hà Nội,3-1999. - Các văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần V,VI,VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1982,1987, và 1994 (các năm tương ứng). - Các Tạp chí tài chính 7/2002, 5/2002, 12/2002 - Tạp chí tài chính doanh nghiệp ( Tạp chí chuyên ngành do Bộ tài chính phát hành) các số 9/2000, 10/2000, 4/2001 Và một số các tạp chí và tài liệu có liên quan khác. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5604.doc
Tài liệu liên quan