Thiết kế phân xưởng crackinh xúc tác, công suất 3,5 triệu tấn/năm

Mục lục Mở đầu Cracking xúc tác là quá trình biến đổi các hợp chất có phân tử lượng lớn trong dầu mỏ dưới tác dụng của xúc tác để nhận sản phẩm nhẹ có giá trị cao. Mục đích của quá trình Cracking xúc tác là nhằm biến đổi các phân đoạn dầu mỏ có nhiệt độ sôi cao (hay có trọng lượng phân tử lớn) thành những phân tử có trọng lượng bé hơn chủ yếu là các cấu tử xăng có chất lượng cao. Ngoài ra còn thu thêm một số sản phẩm phụ khác như gazoil nhẹ, gazoil nặng, khí béo (chủ yếu là khí hydrocacbon c

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1760 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Thiết kế phân xưởng crackinh xúc tác, công suất 3,5 triệu tấn/năm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó cấu trúc nhánh). Quá trình Cracking xúc tác thực chất là cho tiếp xúc nguyên liệu với xúc tác trong điều kiện quy định về chế độ công nghệ. Các phản ứng có lợi xảy ra nhằm tạo được sản phẩm có chất lượng tốt và hiệu suất tăng. ở quá trình này, chủ yếu yêu cầu về trị số octan của xăng trong khi xăng chưng cất từ dầu mỏ lại không cho trị số octan như mong muốn. Quá trình Cracking xúc tác tiến hành ở nhiệt độ thấp song vẫn đạt được tốc độ phản ứng lớn hơn nhiều so với quá trình Cracking đơn thuần dưới tác dụng nhiệt. Quá trình Cracking xúc tác là một trong những công nghệ quan trọng nhất của công nghệ hữu cơ - hoá dầu. Không một nhà máy chế biến dầu nào lại không sử dụng đến quá trình này. Vì đây là một trong các quá trình chính để sản xuất xăng có trị số octan cao. Có nhiều hãng nổi tiếng trên thế giới như : IJOP (Mỹ),IPF (Pháp) và các hãng khác như Stone,Wedsten,… Nhu cầu đặt ra cho đất nước ta là phải tìm một công nghệ sản xuất mà phù hợp với đặc điểm dầu mỏ nước ta. Qua phân tích cho thấy dầu thô Việt Nam là một loại dầu sạch, hàm lượng S ít hơn nhiều so vói các nước Đông Âu nên mức độ biến đổi sâu là không cần thiết, và căn cứ về bề mặt kinh tế; Công nghệ FCC được ưu tiên sử dụng ở nước ta. Qua đây để phân tích sâu hơn em xin giới thiệu về phần đề tài của mình trong cuốn sách này: “Thiết kế phân xưởng Cracking xúc tác năng suất 3,5 triệu tấn / năm ”. Trong khuôn khổ cho phép, tập đồ án này gồm những phần chính sau: 1 . Tổng quan lý thuyết 2 . Dây chuyền công nghệ FCC 3 . Tính toán công nghệ 4 . Thiết kế xây dựng 5 . Tính toán kinh tế 6 . An toàn lao động và bảo vệ môi trường. Chương I. Tổng quan lý thuyết I. Mục đích và ý nghĩa của quá trình Cracking xúc tác [1] Trong công nghệ chế biến dầu mỏ, các quá trình có xúc tác chiếm một vị trí quan trọng, trong dó Cracking xúc tác là điển hình. Xúc tác có tác dụng: - Làm giảm năng lượng hoạt hoá, tăng tốc độ phản ứng. - Làm giảm nhiệt độ cần thiết của phản ứng. - Tăng tính chất chọn lọc (hướng phản ứng theo hướng cần thiết). Lượng dầu mỏ được chế biến bằng Cracking xúc tác chiếm tương đối lớn. Ví dụ, năm 1965, lượng dầu mỏ thế giới biến được 1.500 tấn/ngày thì Cracking xúc tác chiếm tới 800 tấn (53%). Quá trình Cracking xúc tác được xem là một quá trình chủ yếu để sản xuất xăng cho ôtô, một số ít cho máy bay và là một quá trình không thể thiếu được trong bất cứ nhà máy lọc dầu nào. Về phương diện động học, những phản ứng xảy ra khi Cracking nhiệt đều có thể xảy ra trong quá trình Cracking xúc tác (song khi có xúc tác, xúc tác sẽ thúc đẩy chọn lọc các phản ứng có lợi như đồng phân hoá và phân huỷ để tạo ra izo-parafin, hydro cacbon thơm…) Nhờ có xúc tác mà phản ứng được thực hiện ở nhiệt độ thấp hơn. Mục đích của phản ứng Cracking xúc tác là biến đổi các phân doạn dầu mỏ có nhiệt độ cao (hay phân tử lượng lớn) thành các cấu tử xăng có chất lượng cao. Ngoài ra thu thêm một số sản phẩm phụ khác như gazoil nhẹ, gazoil nặng, khí (chủ yếu là phân tử có nhánh, đây là các cấu tử quý cho tổng hợp hoá dầu). Quá trình Cracking xúc tác thực chất là cho nguyên liệu tiếp xúc với xúc tác trong điều kiện chế độ công nghệ. Tóm lại quá trình Cracking xúc tác là một quá trình không thể thiếu trong bất kỳ nhà máy chế biến dầu thô nào trên thế giới, vì quá trình này là một trong những quá trình để sản xuất xăng có trị số octan cao và những nguyên liệu cho quá trình khác. II. Cơ sở hoá học của quá trình Cracking xúc tác. [1, 2, 3] Những biến đổi hoá học xảy ra trong quá trình Cracking xúc tác rất phức tạp. Trong điều kiện nhất định tiến hành quá trình Cracking xúc tác xảy ra một số lượng lớn các phản ứng hoá học, các phản ứng hoá học này quyết định chất lượng và hiệu suất của quá trình. Sau đây là một số phản ứng chính xảy ra như sau: 1. Phản ứng phân huỷ các mạch C-C, phản ứng Cracking. Là phản ứng phân huỷ bẻ gãy mạch những phần tử có kích thước lớn (trọng lượng phân tử lớn) thành những phần tử có kích thước nhỏ hơn (trọng lượng phân tử nhỏ hơn). Đây là phản ứng chính của quá trình. + Phân huỷ parafin tạo olefin và parafin có trọng lượng phân tử nhỏ hơn CnH2n+2 đ CmH2m + CpH2p+2 (n = m + p) + Bẻ gãy mạch olefin tạo olefin nhỏ hơn. CnH2n đ CmH2m + CpH2p (n = m + p) + Hydrocacbon thơm có nhánh bên bị bẻ gẫy tạo thành parafin và hydrocacbon thơm có nhánh nhỏ hơn. AnCnH2n+1 đ AnCmH2m+1 + CpH2p (n = m + p) + Naphten bị bẻ gẫy mở vòng tạo các olefin (trừ hexan) CnH2n đ CmH2m + CpH2p (n = m + p) Naphten olefin olefin CnH2n đ C6H12 + CmH2m + CpH2p (n = m + p +6) Naphten xyclohexan olefin olefin 2. Phản ứng đồng phân hoá (izone hóa) Là phản ứng tạo những hydro cacbon có cấu trúc mạch nhánh (cấu tử làm trị số octan tăng lên). n - olefin đ izo - olefin n - parafin đ izo - parafin 3. Phản ứng chuyển dời hydro dưới tác dụng của xúc tác Nhờ có xúc tác mà có sự phân bố lại hydro cho nên đã làm no được một số hydro cacbon đói, vì vậy làm tăng được tính ổn định hoá học của sản phẩm thu. Naphten + olefin đ hydro cacbon thơm + parafin 4. Phản ứng trùng hợp Chủ yếu xảy ra với hydro cacbon đói CnH2n + CmH2m đ ArCnH2n+1 Hydrocacbon thơm olefin alkyl thơm Phản ứng khử alkyl hoá ngược với phản ứng alkyl hoá. Xảy ra ở nhiệt độ cao và tạo nhiều khí. 5. Phản ứng ngưng tụ hoá cốc Phản ứng này chủ yếu xảy ra đối với các hydro cacbon thơm đa vòng, xảy ra khi nhiệt độ cao. III. Cơ chế của quá trình Cracking xúc tác [1, 3] Có rất nhiều ý kiến tranh luận về cơ chế phản ứng Cracking xúc tác, song phổ biến nhất vẫn là cách giải thích theo cơ chế còn cacboni. Ta hãy lấy ví dụ điển hình là phản ứng Cracking n - alcan. Ví dụ: n - 6H14 n - 7H16 n - C8H18 E (Kcal/mol) 36 29 24 Như vậy, mạch càng dài độ bền của liên kết trong mạch càng yếu, quá trình Cracking càng dễ thực hiện. Theo cơ chế còn cacboni thì quá trình Cracking trên xúc tác aluminosilicat xảy ra theo các giai đoạn sau: 1. Giai đoạn tạo ion cacboni - Từ hydro cacbon parafin: Ion cacboni có thể được tạo thành do sự tác dụng của parafin với tâm axit Bronsted của xúc tác: R1 - CH2 - CH2 - R2 + H+(xt) đ R1- CH2 - +CH - R2 + H2 + xt Ion cacbon cũng có thể tạo ra do sự tác dụng của parafin với tâm axit Lewis: hoặc là: CnH2n+2 + L(H+) đ C+nH2n+1 + LH - Từ olefin: Ion Cacboni tạo ra do sự tác dụng củ olefin với tâm axit Bronsted của xúc tác: Ion Cacboni tạo thành do sự tác dụng củ olefin với tâm axit Lewis: của xúc tác: hoặc là: CnH2n + H+ đ C+nH2n+1 CnH2n + L đ C+nH2n+1 + LH Trong nguyên liệu ban đầu thường không có hydro cacbon olefin, nhưng olefin có thể tạo ra do sự phân huỷ các hydro cacbon parafin có phân tử lượng hoá. Các olefin tạo thành đó lập tức tác dụng với tâm axit rồi tạo ra ion cacboni. Ion cacboni tạo thành trong các phản ứng tuân theo quy tắc nhất định. Như khi olefin tác dụng với H+(xt) thì xác suất tạo alkyl bậc hai lớn hơn alkyl bậc một. Khi olefin có liên kết đôi ở cacbon bậc 3 thì còn cacboni bậc 3 dễ tạo thành hơn ở cacboni bậc 2. - Từ hydro cacbon naphten: Khi hydro cacbon naphten tác dụng với tâm axit của xúc táchay các ion cacboni khác sẽ tạo ra các ion cacboni mới tương tự như quá trình xảy ra với parafin. - Từ hydro cacbon thơm người ta quan sát thấy sự kết hợp trực tiếp của H+ vào nhân thơm: Các hydro cacbon thơm có mạch bên đủ dài thì tạo thành ion cacboni cũng giống như trường hợp parafin. Thời gian sống của các ion cacboni này tạo ra dao động từ phần triệu giây đến hàng phút. Các ion cacboni này nằm trong lớp các phần tử hấp phụ, chúng là những hợp chất trung gian rất hoạt động đối với nhiều phản ứng xảy ra khi Cracking. 2. Giai đoạn biến đổi ion cacboni ở giai đoạn này tạo sản phẩm trung gian. Sự chuyển dời còn cacboni xác định bởi độ ổn định của các ion đó. Theo nguyên tắc: Ion Cacboni C+ tạo ra ở trên sẽ được chuyển dời theo các phản ứng sau: 3. Giai đoạn đứt mạch Sự đứt mạch xảy ra ở vị trí b so với cacbon mạng diện tích để tạo thành một chất trung hoà và một ion cacboni mới có số cacbon nhỏ hơn: Hiện nay, nhóm tác giả C.Nâccche (Pháp) đưa ra cơ chế tạo sản phẩm trung gian là vòng Xyclopropan. Ví dụ, Cracking n - hexan: Giai đoạn 1: tạo ion cacboni: Giai đoạn 2: tạo sản phẩm: đ CH3 - CH3 + H+ Cracking alkyl benzen E (Kcal/mol) C6H5 - C2H5 50 C6H5 - CH2 - CH2 - CH2 – CH3 34 19 17,5 Ví dụ Cracking: Trong dãy đồng đẳng của benzen, khi mạch bên càng dài thì tốc độ đứt mạch xảy ra càng lớn và càng dễ. Các nhóm CH3, C2H5 khó vị đứt ra khỏi nhân thơm (vì năng lượng liên kết lớn, do đó khó tạo +CH3 và +C2H5 (xăng Cracking xúc tác chứa rất nhiều hydrocacbon thơm có mạch nhánh ngắn). Cracking olefin theo C.Naccache: đ R - CH2 - CH = CH2 + [CH+2 - CH2 - R' đ CH2 = CH - R + H+] Đứt mạch có thể xảy ra ngay sau khi phản ứng: CH2 = CH - CH2 - CH2 - CH2 - CH3 + H+ đ CH3 - CH+ - CH2 - CH2- CH3 đ CH3 - CH = CH2 + CH2 = CH2 + H+ Hoặc cũng có thể trùng hợp trước sau đó mới đứt mạch: 2C3= đ C10= đ C3= + C7= C7= đ C3= + C4= Cracking Xyclopafin: Thí dụ, cracking xyclohexan xảy ra theo sơ đồ sau: Như vậy, sau Cracking ta thu được sản phẩm là vòng nhỏ hơn, hoặc vòng đói. IV. Động học cho quá trình Cracking xúc tác [2] Về động học, Cracking xúc tác là một thí dụ điển hình về xúc tác dị thể. Quá trình Cracking xúc tác có thể xảy ra các giai đoạn sau: 1. Quá trình khuếch tán nguyên liệu đến bề mặt xúc tác (khuếch tán ngoài) 2. Khuếch tán hơi nguyên liệu đến các tâm hoạt tính trong lỗ xốp của xúc tác (khuếch tán trong). 3. Hấp phụ nguyên liệu trên tâm hoạt tính xúc tác. 4. Phản ứng hoá học trên bề mặt xúc tác. 5. Khử hấp phụ các sản phẩm Cracking và nguyên liệu chưa tham gia phản ứng ra khỏi bề mặt và ra khỏi lỗ xốp của xúc tác. 6. Tách các sản phẩm Cracking và nguyên liệu chưa tham gia phản ứng ra khỏi vùng phản ứng. Tốc độ chung của quá trình như vậy sẽ được quyết định bởi giai đoạn nào chậm nhất. Phản ứng xảy ra trong vùng động học hay vùng khuếch tán hoàn toàn phụ thuộc vào bản chất của xúc tác được sử dụng, phụ thuộc vào bản chất nguyên liệu và vào chế độ công nghệ của quá trình. Tốc độ phản ứng của Cracking xúc tác, trong đa số các trường hợp được miêu tả bằng phương trình bậc một có dạng: K = V0.n.ln(1 - x) - (n - 1)x ở đây: K: tốc độ của phản ứng (mol/g.h) V0: tốc độ truyền nguyên liệu (mol/h) n: số mol sản phẩm được tạo thành từ 1 mol nguyên liệu x: mức độ chuyển hoá (phần mol) Đối với phân đoạn dầu trên xúc tác zeolit, phương trình bậc 1 lại có dạng sau: K = ở đây V0 là tốc độ thể tích không gian truyền nguyên liệu (m3/m3.h) V. Cracking xúc tác các hợp chất hydrocacbon riêng lẻ và phân đoạn dầu mỏ [2, 6] 1. Cracking xúc tác hydrocacbon parafin Các hợp chất parafin là thành phần quan trọng của phân đoạn gasoil. Các nghiên cứu quá trình Cracking xúc tác parafin sẽ cho phép tiến hành mô hình hoá các hiện tượng chung của quá trình. Năng lượng hoạt hoá của phản ứng Cracking parafin giảm dần nếu chiều dài mạch hydrocacbon parafin tăng. Ví dụ: n - C6H14 n – C7H16 n - C8H18 E, (Kcal/mol) 36 29 24 Vì vậy khi Cracking, mạch hydrocacbon parafin dài, càng dễ bị bẻ gẫy. Ví dụ khí Cracking xúc tác parafin ở nhiệt độ 5500C như sau: n - C5H12 n - C7H16 n - C12H26 n - C16H34 % Cracking 1 3 18 42 Sự phân nhánh và số lượng nhánh của parafin có vai trò rất quan trọng trong quá trình Cracking. Nó có liên quan đến khả năng tạo ion cacboni và do đó sẽ quyết định tốc độ tạo thành sản phẩm. Điều này được chứng minh từ các số liệu % chuyển hoá parafin C6 khi Cracking xúc tác aluminosilicat như dưới đây. Bảng 1. Độ chuyển hoá parafin C6 % chuyển hoá CH3 - CH2 - CH2 - CH2 - CH2 - CH3 14 25 25 32 10 Khi Cracking n-hexan ở nhiệt độ 5500-C trên xúc tác axit. Sự phân bố các sản phẩm xảy ra như sau: H2 CH4 C2 C3 C4 C5 %V 9 12 19 49 8,5 1,6 Sự phân bố này không đôi xứng nhau qua C3. Sự có mặt một lượng H2 và mêtan cho thấy rằng, cùng một lúc xảy ra nhiều phản ứng, có thể có cả phản ứng Cracking nhiệt cùng với các phản ứng của ion cacboni như đã nêu ở trên. Phản ứng chính tạo sản phẩm sẽ phụ thuộc vào tương quan giữa phản ứng Cracking (theo quy tắc b) và phản ứng vận chuyển hydro của ion cacboni Do Cracking xúc tác mà làm giảm kích thước của ion cacboni +R. Các ion có kích thước nhỏ như +CH2 hay +C2H5 sẽ khó tạo ra (do cắt mạch ở vị trí b so với cacbon mang diện tích). Vì thế trong sản phẩm ưu tiên tạo ra C3 hay C4 nhiều hơn C1 và C2 so với quá trình Cracking nhiệt. 2. Cracking xúc tác hydrocacbon olefin Hydrocacbon olefin có mặt trong hỗn hợp phản ứng là do phản ứng Cracking parafin, naphten hay alkyl thơm. Hydrocacbon olefin là những hợp chất hoạt động hơn, trong giai đoạn đầu tiên của quá trình chúng tham gia phản ứng tạo ion cacboni bởi quá trình hấp thụ một proton vào liên kết đôi. Ion cacboni vừa tạo ra sẽ bị Cracking theo quy tắc b, khi đó tạo thành một olefin nhẹ hơn và một ion cacboni bậc 1, ion này có thể để lại proton trên bề mặt của xúc tác hay có thể đồng phân hoá thành ion cacboni bậc 2. Ví dụ: R - CH = CH - CH2 - CH2 - R1 + H+ đ R - CH2 - +CH - CH2 - CH2 - R1 đ R - CH2 - CH = CH2 + +CH2 - CH2- R1đ CH3 - +CH2 - R1 đ đ R1 - CH = CH2 + H2 Các hợp chất olefin nhẹ C2 á C5 vừa được tạo thành ít tham gia vào phản ứng Cracking, chúng thường tham gia vào phản ứng vận chuyển hydro và phản ứng đa tụ, kết quả là dẫn đến tạo ra parafin hay cốc. Khi Craking các olefin từ C5 trở lên, ngoài phản ứng cắt mạch theo quy tắc b, người ta còn quan sát thấy có xảy ra phản ứng dime hoá. Ví dụ khi Cracking penten đã quan sát thấy các phản ứng sau: H+ + CH2 = CH - CH2 - CH2 - CH3 đ CH3 - +CH - CH2 - CH2 - CH3 đ đ CH3 - CH = CH2 + +CH2 - CH3 2C5= đ C10= đ C3= + C7= C7= đ C3= + C4= Chính vì xảy ra các phản ứng trên mà trong sản phẩm có tỷ lệ C3/C4 bằng 2. Phản ứng Cracking penten là phản ứng lưỡng phân tử, trong khí đó phản ứng Cracking hepten lại là phản ứng đơn phân tử, nghĩa là không có sự cạnh tranh của phản ứng dime hoá: C7= đ C3= + C4= với (C3/C4 = 1) Còn đối với hexen, tốc độ của quá trình đơn phân tử không nhanh hơn so với quá trình lưỡng phân tử. Tỷ lệ của tốc độ phản ứng đơn phân tử/ phản ứng đa phân ử đối với penten, hexen, hepten tương ứng bằng 0 : 0,2 : 7. Giá trị ngày cho thấy tốc độ Cracking olefin C7 lớn hơn nhiều lần so với tốc độ Cracking n - heptan, (là parafin). So với quá trình Cracking nhiệt, tốc độ phản ứng của olefin trong Cracking xúc tác lớn hơn rất nhiều. Ngoài phản ứng cắt mạch, olefin còn tham gia phản ứng đồng phân hoá: Tốc độ phản ứng đồng phân hoá tăng khi trọng lượng phân tử của olefin tăng. Các olefin còn tham gia phản ứng trùng hợp tạo ra phân tử có trọng lượng lớn hơn: 2CH3 - CH2 - CH = CH2 đ CH3(CH2)5 - CH = CH2 Các olefin còn phản ứng với hydro để tạo thành parafin: R - CH = CH2 + H2 đ R - CH2 - CH3 Các olefin trong quá trình Cracking xúc tác còn tham gia phản ứng ngưng tụ, đóng vòng tạo hydrocacbon thơm đa vòng và vòng thơm đa tụ là cốc. 3. Sự biến đổi của các hydrocacbon naphten Sản phẩm bậc 1 của quá trình Cracking xúc tác naphten là olefin có cùng số nguyên tử cacbon. Ví dụ với xyclo parafin C3 và C4, sản phẩm đầu tiên quan sát thấy là propen và buten tương ứng. Các naphten có mạch bên dài hơn thường bị cắt nhánh tạo thành xyclohexan và olefin. Sau đó vòng naphten có thẻ bị khử hydro để tạo thành hydrocacbon thơm. Đặc trưng phân bố sản phẩm khi Cracking naphten là tạo thành một lượng lớn các hợp chất có nhánh hydrocacbon thơm so với Cracking parafin: ở đây L là tâm axit Lewis; H là tâm axit Bronsted. Nhìn chung, sản phẩm Cracking naphten có đặc trưng "no" hơn so với khi Cracking parafin. Trong sản phẩm, do phản ứng trên xúc tác mà hydrocacbon có số nguyên tử lớn hơn 3 chiếm phần chủ yếu. Vì vậy khi Cracking xúc tác các hợp chất naphten sẽ cho nhiều sản phẩm lỏng hơn, nghĩa là hiệu suất xăng sẽ cao hơn. Do đó người ta cho rằng naphten là thành phần lý tưởng nhất của nguyên liệu Cracking xúc tác. 4. Sự biến đổi hydro cacbon thơm Trong quá trình Cracking xúc tác, các hợp chất alkyl thơm do vòng thơm có độ bền cao hơn nên trước tiên xảy ra quá trình cắt nhánh alkyl. Nhưng toluen có độ bền rất lớn, vì không thể tách nhóm metyl hay etyl trong điều kiện Cracking. Mạch alkyl càng dài, thì càng dễ bị bẻ gẫy và nếu mạch alkyl lại có nhánh thì tốc độ cắt nhánh còn lớn hơn. Điều này dễ dàng giải tích khi xem xét năng lượng hoạt hoá của các hydrocacbon thơm Bảng 2: Năng lượng hoạt hóa của các hydrocabon thơm Loại hydrocacbon thơm Năng lượng hoạt hoá, Kcal/mol C6H5 - C2H5 50 C6H5 - C4H9 34 C6H5 - CH2 - CH2 - CH3 19 17,5 Vý dụ khi Cracking xúc tác propybenzen, phản ứng xảy ra như sau: C6H5 - CH2 - CH2 - CH3 đ C6H6 + CH3 - CH = CH2 Còn khi Cracking nhiệt lại xảy ra theo hướng khác: C6H5 - CH2 - CH2 - CH3 đ C6H5 - CH3 + CH2 = CH2 Các phản ứng xảy ra trong quá trình Cracking xúc tác hydrocacbon thơm bao gồm: + Đồng phân hoá. Ví dụ: para-xylen meta-xylen ortho-xylen + Phản ứng khép vòng tạo ra hydrocacbon thơm đa vòng và cuối cùng các hydrocacbon thơm đa vòng tham gia phản ứng ngưng tụ tạo cốc. Trong điều kiện Cracking xúc tác, các biến đổi hydrocacbon riêng lẻ có thể tóm tắt như sau: Ngoài ra còn xảy ra các phản ứng bậc 2 như: Naphten + olefin đ Hydrocacbon thơm và parafin Hydrocacbon thơm + olefin đ Sản phẩn ngưng tụ, cốc 5. Sự hình thành cốc Tất cả mọi phản ứng của hydrocacbon xảy ra trên chất xúc tác đều tạo ra một hợp chất cacbon, thường được gọi là cốc. Cốc là một vật liệu được biết không thạt rõ ràng về thành phần và cấu trúc của nó. Cốc không thể tách khỏi bề mặt chất xúc tác bằng cách thổi một dòng nitơ hoặc hơi nước ở nhiệt độ cao. Trong quá trình phản ứng cốc dần dần được tạo ra, che lấp các tâm hoạt động trên bề mặt chất xúc tác, do đó, hoạt tính xúc tác giảm dần và độ chọn lọc phản ứng cũng bị biến đổi. Cho đến nay, sự hình thành và cấu trúc của cốc vẫn là một vấn đề chưa thực sự sáng tỏ. Do đó, chúng ta chỉ nhắc lại một số kết quả rõ ràng đã đạt được về vấn đề này. Nói chung, cốc là vật liệu chứa cacbon và hydro, tỉ số H/C thay đổi trong khoảng 0,3 á 0,1. Dựa vào các số liệu phổ, người ta nhận thấy một số liên kết tỏng vật liệu cốc cũng tương tự như các liên kết trong hydrocacbon aromat. Cốc được hình thành do các phản ứng ngưng tụ, alkyl hoá, đóng vòng và thơm hoá các hydro cacbon. Sau đó chuyển dịch hydro đến các olefin trong pha khí. Nhiều ý kiến cho rằng khả năng tạo cốc của các kiểu hydrocacbon khác nhau là không như nhau. Bảng 3: Lượng của các dạng đồng vị phóng xạ trong cốc Các chất đồng vị phóng xạ Lượng (giá trị tương đối) đồng vị phóng xạ n-Mexadecan 1,00 Propan 0,07 Benzen 0,55 Toluen 1,71 Etylen 1,75 Propylen 2,65 1-penten 8,58 Sự hình thành cốc còn phụ thuộc vào cấu trúc (đường kính mao quản, kiểu hệ mao quản, tỉ số Si/Al…) của chất xúc tác. Thực vậy, Cracking n-hexan-1 trên zeolit HY (đường kính mao quản ~ 7,5 A0, hệ mao quản không gian 3 chiều) và trên zeolit HZSM-5 (đường kính mao quản ~ 5,5 A0, hệ mao quản không gian 3 chiều) dẫn đến các kết quả khác nhau về thành phần của cốc. Hình 1. Tỉ số C/H trong cố phụ thuộc vào độ chuyển hoá trong phản ứng Cracking n-hexen-1 6. Cracking xúc tác phân đoạn dầu mỏ Để Cracking xúc tác phân đoạn dầu mỏ, cho quá trình phức tạp, thực tế không thể miêu tả tất cả các phản ứng xảy ra trong quá trình. Do đó người ta đưa ra sơ đồ khảo sát các hướng phản ứng chính trogn quá trình Cracking xúc tác. Ví dụ khi nguyên liệu là gazoil chưng cất chân không, ta có thể dùng sơ đồ sau: Hình 2 : Phân đoạn dầu mỏ LOC - phân đoạn dầu nhẹ của Cracking xúc tác HCO - phân đoạn dầu nặng của quá trình Cracking xúc tác Nhìn sơ đồ phản ứng chúng ta thấy rằng, các sản phẩm phụ là LCO và HCO cần phải tạo điều kiện thuận lợi để chúng chuyển hoá thành xăng đồng thời cố gắng hạn chế quá trình tạo khí và cốc. Sự hình thành cốc là không mong muốn, vì cốc bám trên tâm hoạt tính của xúc tác, dẫn đến làm giảm hoạt tính của xúc tác. Sản phẩm cốc được tạo ra là một hệ vòng thơm có độ ngưng tụ cao, nên khác với cacbon tự do. Sự hình thành cốc có thể do một số nguyên nhân sau: + Do bản chất của nguyên liệu Cracking; + Do chất xúc tác của quá trình có độ chọn lọc không cao; + Do chế độ công nghệ chưa tối ưu; Cốc được tạo thành trong quá trình có thể phân chia thành ba phần chính sau: + Lượng cốc do phản ứng hoá học; + Lượng cốc do hấp phụ hoá học trên bề mặt xúc tác; + Lượng cốc do nguyên nhân nhã hấp phụ chậm và tỷ lệ % tương ứng giữa chúng là 55 - 75/10 - 20/5 - 10. VI. Xúc tác cho quá trình Cracking xúc tác [1, 2, 3] 1. Các loại xúc tác Xúc tác triclorua nhôm AlCl3 Triclorua nhôm cho phép tiến hành phản ứng ở nhiệt độ thấp: 200 đến 3000C, dễ chế tạo. Nhược điểm là xúc tác bị mất mát do tạo phức với hydrocacbon của nguyên liệu, điều kiện tiếp xúc giữa xúc tác và nguyênn liệu tốt cho hiệu suất và chất lượng xăng thấp. Aluminosilicat vô định hình Ban đầu người ta sử dụng đất sét bentonit, song hiệu suất chuyển hoá thấp. Sau đó dùng aluminosilicat tổng hợp, xúc tác này có hoạt tính cao hơn. Hiện nay chủ yếu sử dụng zeolit hoặc xúc tác aluminosilicat chứa zeolit. ở Mỹ có tới 80% xúc tác chứa zeolit (thường sử dụng loại xúc tác có 20% zeolit trên aluminosilicat). Ưu điểm của loại xúc tác chứa zeolit là giảm được giá thành của xúc tác, do zeolit tổng hợp rất đắt. Dễ dùng tái sinh xúc tác vì trong quá trình phản ứng, cốc tạo thành sẽ bám trên bề mặt của chất mang (là alumino-silitcat), chứ không chui vào mao quản zeolit; điều đó cho phép quá trình đốt cháy cốc xảy ra thuận tiện và triệt để. Hiện nay trong công nghệ sử dụng chủ yếu là zeolit X, Y có kích thước mao quản rộng (8 đến 10 A0) để chế tạo xúc tác dùng cho Cracking các phân đoạn rộng và nặng. Ngoài ra còn sử dụng loại zeolit mao quản trong bình như ZSM-5, ZSM-11. Các xúc tác trên được chế tạo dưới dạng hạt vi cấu để sử dụng cho quá trình Cracking với lớp giả sôi (FCC) hoặc dạng cấu lớn cho thiết bị có lớp xúc tác chuyển động (RCC). 2. Vai trò của xúc tác trong quá trình Cracking xúc tác Xúc tác có tác dụng làm giảm năng lượng hoạt hoá của phản ứng, từ đó dẫn đến tăng tốc độ phản ứng. Ví dụ, khi có mặt xúc tác ở 400 đến 5000C các olefin chuyển hoá nhanh hơn 1.000 đến 10.000 lần so với Cracking nhiệt. Ngoài ra, xúc tác còn có tính chọn lọc, có khả năng làm tăng hay chậm không đồng đều các loại phản ứng, có nghĩa là hướng phản ứng theo chiều có lợi 3. Những yêu cầu đối với xúc tác Cracking Xúc tác cho quá trình Cracking cần phải có những yêu cầu sau: a. Hoạt tính xúc tác phải cao Hoạt tính xúc tác là yêu cầu quan trọng nhất đối với xúc tác dùng cho quá trình Cracking. Vì mục đích của Cracking là nhận xăng, nên phương pháp dùng hiệu suất xăng thu được để đánh giá độ hoạt động của xúc tác sẽ đơn giản hơn, hoạt tính của xúc tác càng cao sẽ cho hiệu suất xăng càng lớn. Do vậy, độ hoạt tính của xúc tác thường được biểu diễn qua chỉ số hoạt tính. Đó là giá trị của hiệu suất xăng (%KL). Khi Cracking nguyên liệu mẫu trong điều kiện phòng thí nghiệm. Hoạt tính xúc tác phụ thuộc vào tính chất lý hoá của xúc tác, mà trước hết là phụ thuộc vào thành phần hoá học của xúc tác cũng như phụ thuộc vào điều kiện công nghệ của quá trình. Trong thực tế sản xuất, dựa vào độ hoạt tính của xúc tác, người ta phân xúc tác thành các loại như sau: + Xúc tác có độ hoạt tính cao, hiệu suất xăng > 45%. + Xúc tác có độ hoạt tính trung bình, hiệu suất xăng từ 30 đến 40%. + Xúc tác có độ hoạt tính thấp, hiệu suất xăng < 30%. Bảng 4. Tính chất của xúc tác FCC Thành phần hoá học, % Oxyt nhôm 13 Oxyt silic 87 Oxyt natri 0,02 á 0,2 Trọng lượng rót, g/cm3 0,8 á 0,9 Độ hoạt tính ổn định 55 á 60 Độ hoạt tính theo áTM 75 á 80 Độ bền do mài mòn, % 94 á 96 Thành phần cỡ hạt, % - đến 20 ms < 2 á 3 - đến 40 mm 15 á 25 - đến 100 mm 96 á 98 Bề mặt riêng, m2/g 400 á 450 b. Độ chọn lọc phải cao Xúc tác cần có độ chọn lọc cao để cho xăng có chất lượng cao và hiệu suất lớn, và trong quá trình Cracking có nồng độ lớn các hydrocacbon có cấu trúc nhánh. Khả năng của xúc tác làm tăng tốc độ của các phản ứng có lợi, đồng thời làm giảm tốc độ các phản ứng không mong muốn được gọi là độ chọn lọc của xúc tác. Trong quá trình Cracking, độ chọn lọc của xúc tác quyết định khả năng tạo các sản phẩm có giá trị của nó, đó là các cấu tử xăng có trị số octan cao. Người ta có thể đánh giá độ chọn lọc bằng cách xác định tỷ lệ giữa hiệu suất xăng và cốc (hay khí) ở cùng một độ sâu biến đổi. Xúc tác thường được đánh giá đồng thời độ hoạt tính và độ chọn lọc của nó so với xúc tác mẫu khi tiến hành trong cùng một điều kiện khi Cracking. Tỷ số giữa hiệu suất xăng và cốc (hay khí) càng lớn thì độ chọn lọc xúc tác càng cao. Sau một thời gian làm việc cả độ hoạt tính và độ chọn lọc của xúc tác đều bị giảm do có những thay đổi về tính chất của xúc tác trong điều kiện làm việc. c. Độ ổn định cao Xúc tác phải giữ được những đặc tính chủ yếu (hoạt tính, độ chọn lọc) sau một thời gian làm việc lâu dài. Độ ổn định xúc tác đặc trưng cho khả năng không thay đổi các tính chất trong quá trình làm việc. Xúc tác có độ ổn định càng cao càng tốt cho quá trình sử dụng. d. Bền cơ, bền nhiệt (để có thể làm việc ở nhiệt độ cao) Trong quá trình làm việc, xúc tác cọ sát với nhau và cọ sát với thành thiết bị làm cho xúc tác dễ bị vỡ, do đó làm mát mát xúc tác lớn. Vì vậy xúc tác phải đảm bảo độ bền cơ học. Khi làm việc nhiệt độ có thể thay đổi, khi nhiệt độ cao quá và nếu xúc tác không có độ bền nhiệt thì có thể bị biến đổi cấu trúc dẫn đến làm giảm các tính chất của xúc tác. e. Độ thuần nhất cao (về cấu trúc, hình dạng, kích thước) Xúc tác đồng nhất về thành phần, về cấu trúc, về hình dạng, về kích thước. Khi kích thước không đồng đều sẽ tạo ra những vòng phân lớp và có trở lực khác nhau và do sự phân lớp theo kích thước nên sẽ phá vỡ chế độ làm việc bình thường của thiết bị. Mặt khắc khi kích thước không đồng đều làm tăng khả năng vỡ vụn dẫn đến mất mát xúc tác. Cấu trúc lỗ xốp không đồng đều sẽ làm giảm bề mặt tiếp xúc dẫn đến làm giảm hoạt tính xúc tác. f. Phải bền với các tác nhân gây ngộ độc xúc tác Xúc tác phải chống lại có hiệu quả tác dụng gây ngộ độc của những hợp chất của nitơ, lưu huỳnh, các kim loại nặng để kéo dài thời gian làm việc của xúc tác. g. Phải có khả năng tái sinh Đây là yêu cầu quan trọng trong quá trình sử dụng xúc tác. Xúc tác có khả năng tái sinh tốt sẽ nâng cao được hiệu quả và năng suất của quá trình, lượng tiêu hao xúc tác cũng giảm xuống. h. Phải dễ sản xuất và giá thực hiện hành Đây là yếu tố quan trọng góp phần định hướng cho các nhà nghiên cứu và sản xuất. Với các yêu cầu trên thì xeolit hoặc xúc tác chứa xeolit tỏ ra có ưu điểm hơn cả. 4. Zeolit và xúc tác chứa zeolit Zeolit là hợp chất của alumino-silic, là chất tinh thể có cấu trúc đặc biệt. Cấu trúc của chúng được đặc trưng bằng mạng các lỗ rỗng, rãnh, rất nhỏ thông với nhau. Các chất zeolit được chế tạo cùng với các xúc tác aluminosilicat hay với đất sét thiên nhiên, rồi sau đó được xử lý bằng phương pháp đặc biệt hợp thành xúc tác chứa zeolit. Xúc tác chứa zeolit này có hoạt tính cao, có độ chọn lọc tốt và lại có giá thành vừa phải. Vì thế ngày nay chúng được sử dụng rất rộng rãi. Về thành phàn hoá học của zeolit người ta có thẻ biểu diễn bằng công thức phân tử sau: Mex/n[Al2O0).(SiO2)y]2.H2O Trong đó: Me - số lượng ion chung của kim loại (hay hydro) x/n: - số cation có khả năng thay thế, có hoá trị n y - số nguyên tử silic z - số phân tử mà khí tách chúng trong zeolit tạo thành các khe nhỏ hay rãnh V cấu tạo, zeolit được tạo thành từ các đơn vị cấu trúc cơ bản gọi là đơn vị cấu trúc sodarit (hình 3). Nếu các đơn vị này nối với nhau theo các mặt 4 cạnh, ta có zeolit loại A. Nếu nối với nhau theo mặt 6 cạnh, ta có zeolit loại Z hoặc Y có cấu trúc tương tự như taurazit. Hình 3. Đơn vị cơ bản của zeolit Ngày nay người ta chế tạo được hàng trăm loại zeolit, chúng được đặc trưng bởi kích thước các cửa sổ "cửa sổ" khác nhau. Ví dụ đặc trưng của một số loại zeolit dùng phổ biến trong cracking xúc tác được dẫn ra ở bảng sau: Bảng 5. Đặc trưng cơ bản của một vài loại zeolit. Zeolit Thành phần hoá học Đưòng kính lỗ trung bình A Na2OAl2O3.SiO2.4,5 H2O 3,6 á 3,9 X Na2O.Al2O3.2,5SiO2.6H2O 7,4 Y Na2O.Al2O3.4,8SiO2.6H2O 7,4 Mordenit Na8O.(Al2O3)8.(SiO2)40.24H2O 6,7 á 7,0 (2,9 á5,7) ZSM-5 và 11 5,4 á 5,6 Khi chế tạo xúc tác Cracking, hàm lượng natri (Na) cần phải giảm tới cực tiểu bởi vì sự có mặt của Na ở nhiệt độ cao và có mặt hơi nước, nó làm giảm đi đáng kể hoạt tính cũng như độ chọn lọc của xúc tác Cracking. Khi thay thế Na bằng các cation kim loại hoá trị lớn hơn hay bằng 2, thí dụ như canxi (Ca), reni hay các nguyên tố đất hiếm, sẽ làm thay đổi đặc trưng cấu trúc của zeolit; kích thước lỗ được tăng lên, đồng thời khi đó lại tạo ra các tâm axit làm hoạt tính của xúc tác tăng lên. Người ta cho thấy rằng zeolit chứa oxyt silic càng nhiều, lượng oxyt nhôm càng ít thì độ axit của nó càng tăng. Đương nhiên khi tăng tỷ số oxyt silic/oxyt nhôm. Không được dẫn đến phá huỷ cấu trúc của zeolit. Hay nói cách khác là tỷ số này cũng chỉ tăng đến một giới hạn nhất định. Tính chất hấp phụ của zeolit xuất hiện sau khi chúng được tách ẩm, bởi vì trong quá trình tổng hợp các lỗ rỗng của tinh thể bị chất đầy bởi các phân tử nước. Nước có thể tách khỏi tinh thể khi ta sấy khô zeolit đến nhiệt độ từ 300 đến 3500C. Lúc này mạng lưới tinh thể của zeolit vẫn được bảo toàn. Sau khi dehydrat, zeolit có dung lượng hấp phụ rất lớn. Độ bền nhiệt cao cũng là một đặc trưng rất quan trọng của zeolit. Thí dụ zeolit NaA bền đến 6500C; NaY bền đến 700 á 7500C, CaY đến 8000C; LaY đến 8500C. Độ bền nhiệt của zeolit tăng khi tăng hàm lượng SiO2 hay tăng kích thước của các cation kim loại. Quá trình Cracking xúc tác thường dùng zeolit loại X, Y có chứa các nguyên tố đất hiếm hay ở dạng đã trao đổi ion và được xử lý bằng các phương pháp đặc biệt, đồng thời kết hợp với các hợp phần làm tăng độ bền cơ, bền nhiệt hay điều chỉnh kích thước lỗ xốp. Zeolit có hoạt tính Cracking lớn, vì thế người ta thường dùng nó ở dạng hỗn hợp với xúc tác vô định hình hay aluminosilicat tinh thể và được gọi là xúc tác chứa zeolit. Trong sản xuất xúc tác người ta thường trộn 10 đến ._.20% khối lượng zeolit, và với hợp phần như vậy, xúc tác cũng đã rất hoạt động, hơn hẳn xúc tác aluminosilicat thông thường. Hơn nữa các chỉ tiêu kinh tế cũng đạt tốt hơn. Trong công nghệ, người ta chế tạo xúc tác chứa zeolit ở hai dạng chính: Xúc tác dạng cầu và xúc tác dạng bột. Xúc tác dạng bột và sau đó cải tiến thành xúc tác vi cầu thường được áp dụng cho quá trình Cracking lớp sôi (FCC), còn xúc tác dạng cầu với kích thước hạt từ 3 đến 5 mm thường dùng cho quá trình Cracking xúc tác chuyển động (TCC). Ngoài yêu cầu về độ hoạt tính cao, xúc tác Cracking còn phải đáp ứng các yêu cầu khác, như phải bền nhiệt, bền cơ, không gây ăn mòn hay mài mòn thiết bị cũng như đảm bảo dễ khuếch tán nguyên liệu tới các tâm hoạt tính và sản phẩm từ bề mặt ra bên ngoài. Đảm bảo sự khuếch tán của Oxy tới bề mặt xúc tác để dễ đốt cốc trong quá trình tái sinh, đồng thời giá thành chấp nhận được. Xuất phát từ yêu cầu trên, người ta phải chọn các hợp phần thích hợp để chế tạo xúc tác. Vì trong zeolit có hai loại kích thước lỗ xốp: kích thước cửa sổ và kích thước lỗ lớn, khi đưa chúng vào trộn với aluminosilicat, chúng ta sẽ điều chỉnh được cấu trúc lỗ của chúng để nhận được kích thước lỗ trong giới hạn thích hợp nhất, nhằm tăng độ chọn lọc của xúc tác. Ví dụ, trong xúc tác chứa zeolit loại A, kích thước lỗ của nó không vượt quá 4 đến 5 A0. Trong các lỗ như vậy, propylen có thể chuyển qua tự do, nhưng điều đó lại không xảy ra đối với izo butylen. Do đó trên xúc tác như vậy, có thể tiên shành quá trình polyme hoá chọn lọc propylen có trong hỗn hợp với izo butylen mà không cần phải phân tách chúng. Hay từ zeolit với kích thước 5A0 có thể dùng làm xúc tác để Cracking chọn lọc n-parafin có trong hỗn hợp với izo-parafin, vì trong điều kiện đó, izo-parafin bị Cracking không đáng kể. Xúc tác chứa zeolit loại X, Y có kích thước lỗ khoảng 8 đến 10A0 được dùng để Cracking nguyên liệu có thành phần phân đoạn rộng (ví dụ gasoil). Khi đó các phân tử lớn của nguyên liệu vẫn có thể dễ dàng tới bề mặt của xúc tác, còn các phân tử nhỏ hơn có thể tiếp xúc với các tâm hoạt tính ở bề mặt trong của xúc tác. Vì cốc là các hợp chất cao phân tử nên chúng thường tập trung ở bề mặt ngoài của xúc tác và do vậy tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đốt cháy cốc khi tái sinh xúc tác. 5. Thành phần và tính chất của xúc tác Cracking công nghiệp Zeolit loại X, Y, ZSM-5 hay 11 là loại có tính chất thích hợp nhất cho quá trình Cracking xúc tác. Thông thường, các zeolit này là loại đã trao đổi cation (H, NH+4 hay cation đã hoá trị), kết hợp với các phương pháp xử lý thích hợp và phối trộn với aluminosilicat vô định hình. Loại xúc tác này có độ hoạt tính cao hơn hàng trăm lần và có độ chọn lọc cao hơn so với xúc tác aluminosilicat thuần khiết. Hiệu suất xăng tăng lên ít nhất là 20%, trong khi đó hiệu suất cốc và khí giảm khi tiến hành quá trình Cracking ở cùng một điều kiện. ở Liên Bang Nga, phổ biến là các loại xúc tác chứa zeolit được chế tạo bởi BHNNHP và TPO3HNN (UEOKAP - 2 và 2a). Còn trên thế giới các chất xúc tác Cracking được nhiều hãng sản xuất đó là: Grace, Engel Grard, Mobil, Filtorl, AK20,… Các đặc trưng cơ bản của xúc tác Cracking là: thành phần, trọng lượng rót, cấu trúc xốp, độ hoạt tính, thành phần cỡ hạt và độ bền. Ngoài những ưu điểm trên, xúc tác chứa zeolit vẫn còn một số nhược điểm như sau: + Giá thành sản xuất chúng cao. + Nếu sử dụng xúc tác zeolit nguyên chất thì tốc độ trao đổi chất của quá trình phục hồi và trao đổi nhiệt bé hơn tốc độ chính bản thân phản ứng xúc tác. Nói tóm lại, xúc tác chứa zeolit cho quá trình Cracking có nhiều ưu điểm hơn hẳn các xúc tác khác, nên hiện giờ ở các nước công nghiệp chế biến dầu mỏ và khí tiên tiến, người ta lần lượt thay thế xúc tác chứa zeolit cho aluminosilicat tổng hợp. Hiện nay người ta sử dụng xúc tác zeolit siêu bền, nó đáp ứng mọi yêu cầu của xúc tác trong quá trình Cracking. 6. Những thay đổi tính chất của xúc tác khi làm việc Xúc tác Cracking trong quá trình làm việc bị giảm hoạt tính và độ chọn lọc. Hiện tượng này người ta gọi là trơ hoá xúc tác. Quá trình trơ hoá xúc tác càng nhanh nếu ta tiến hành ở điều kiện công nghệ khó khăn, độ khắt khe tăng (ví dụ ở nhiệt độ quá cao, thời gian tiếp xúc quá dài, nguyên liệu xấu). Ngoài ra còn xảy ra các quá trình làm tăng tốc độ trơ hoá. Chúng ta có thể phân quá trình trơ hoá xúc tác làm hai quá trình chính, đó là sự trơ hoá do tác dụng của các chất làm ngộ độc xúc tác và sự trơ hoá do tác dụng làm thay đổi các tính chất lý - hoá của xúc tác. Nguyên nhân của sự trơ hoá xúc tác có thể là do: + Tác dụng của các độc tố như NH3, CO2, các hợp chất lưu huỳnh mà đặc biệt là H2S ở nhiệt độ cao. + Sự tích tụ các kim loại nặng dưới dạng các oxyt làm thay đổi chức năng của xúc tác. + Sự tác động của nhiệt độ cao và hơi nước. Các hợp chất khí tác dụng với xúc tác có thể chia làm 3 nhóm: + Nhóm không tác dụng với xúc tác ở nhiệt độ thấp hơn 6200C như CO, CO2, NH3. + Nhóm làm giảm hoạt tính của xúc tác nhưng không làm giảm độ chọn lọc như hơi nước. + Nhóm làm giảm độ chọn lọc của xúc tác (H2S ở nhiệt độ trên 4250C và NH3, SO2, SO3 ở nhiệt độ trên 6200C). Từ kinh nghiệm thao tác công nghệ Cracking cho thấy, hoạt tính của xúc tác có thể được duy trì nếu ta thêm hơi nước vào nguyên liệu, hay việc xử lý trước và sau khi tái sinh xúc tác. Thêm hơi nước khi chế biến nguyên liệu có lưu huỳnh sẽ có tác dụng âm vì khi đó lại làm tăng quá trình ăn mòn thiết bị và sản phẩm của quá trình ăn mòn lại làm nhiễm bẩn xúc tác, dẫn tới làm giảm hoạt tính, độ chọn lọc của xúc tác. Tác dụng đồng thời của nhiệt độ cao và của hơi nước làm giảm hoạt tính tổng cộng của xúc tác. Khi áp dụng ở lớp sôi (FCC), do cần phải duy trì điều kiện để cốc ít lắng đọng trên xúc tác và xúc tác không bị quá nhiệt khi tái sinh, người ta phải đưa vào một lượng nhỏ hơi nước. Hơn nữa, cũng cần phải tránh sự tạo cốc quá ít, vì điều đó dẫn tới phá vỡ cân bằng nhiệt của hệ lò phản ứng và tái sinh, do nhiệt tạo ra trong quá trình tái sinh không đủ để bù nhiệt thu vào của các phản ứng Cracking trong lò phản ứng. Hàm lượng cốc trên xúc tác khi ra khỏi lò phản ứng phụ thuộc vào lượng xúc tác tuần hoàn trong hệ thống. Đối với đa số các quá trình FCC, khi dùng xúc tác zeolit, lượng cốc tạo ra thường chiếm vào khoảng 1,3 đến 1,8% KL xúc tác, còn sau khi tái sinh là 0,1 đến 0,005% KL. Các hợp chất cơ kim và các hợp chất chứa nitơ trong nguyên liệu đều là các phần tử làm già hoá nhanh xúc tác. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, sự có mặt của các hợp chất nitơ trong nguyên liệu làm giảm hiệu suất xăng và các "sản phẩm trắng". Ví dụ, hàm lượng nitơ tăng từ 0,1 đến 0,4% KL, hiệu suất xăng giảm đi tới 2 lần, còn hiệu suất gasoil nhẹ cũng bị giảm, đồng thời làm tăng hiệu suất cặn nặng và gasoil nặng. Khi tăng nhiệt độ, tác dụng có hại của các hợp chất nitơ sẽ giảm. Sự đầu độc xúc tác bởi các kim loại cũng đã được nhiều nghiên cứu đề cập tới và chỉ rõ cơ chế tác dụng của chúng đến hoạt tính của xúc tác. Khi lắng đọng các oxyt của kim loại nặng trên xúc tác, sẽ dẫn tới làm giảm độ sâu Cracking và giảm hiệu suất xăng do tăng quá trình tạo cốc. Khi hàm lượng các hợp chất lưu huỳnh trong nguyên liệu tăng thì hàm lượng các kim loại nặng như niken và vandi cũng tăng theo, vì đa phần chúng thường tập trung ở phần cặn nặng và phân đoạn như asphan. Ví dụ, trong dầu mỏ có lưu huỳnh thì có tới 90% phức chất porphirin chứa vandi, còn trong dầu chứa ít lưu huỳnh thì là phức với niken. 7. Tái sinh xúc tác Xúc tác trong quá trình Cracking làm việc được một thời gian sẽ có một lượng cốc tạo ra do một số phản ứng có hại, cốc sẽ bám lên bề mặt xúc tác làm che phủ các tâm hoạt động của xúc tác. Điều đó dẫn đến làm giảm hoạt tính của xúc tác, vì vậy hiệu quả quá trình Cracking xúc tác bị giảm. Để xúc tác làm việc bình thường (các tính chất của xúc tác không bị thay đổi) thì người ta phải tiến hành tái sinh xúc tác. Để tái sinh xúc tác người ta cần phải tiến hành đốt cốc bằng không khí nóng trong lò tái sinh. Kết quả của quá trình đốt cháy cốc sẽ sinh ra CO và CO2. Các phản ứng này toả nhiều nhiệt. Ngoài ra còn có các phản ứng khử hỗn hợp chất lưu huỳnh. Các phản ứng xảy ra khi tái sinh có thể miêu tả như sau: C + O2 đ CO2 Q = 33,927 á 34,069 MJ/Kg C + O2 đ CO Q = 10,629 á 10,314 MJ/Kg CO + O2 đ CO2 Q = 23,650 á 23,755 MJ/Kg H2 + O2 đ H2O Q = 1210,043 á 1210,252 MJ/Kg S + O2 đ SO2 Q = 1,932 á 9,222 MJ/Kg SO2 + O2 đ SO3 MeO + SO3đ MeSO4 MSO4 + 4H2 đ MeSO4 + H2S + 3H2 Nhiệt lượng toả ra được dùng để cấp nhiệt cho xúc tác mang vào lò phản ứng, ngoài ra còn tận dụng để sản xuất hơi nước dùng trong nhà máy. Khả năng tái sinh có thể đánh giá bằng cường độ cháy cốc, cường độ cháy cốc càng cao, quá trình tái sinh càng nhanh, thể tích thiết bị tái sinh yêu cầu càng nhỏ. Cường độ cháy cốc phụ thuộc vào nhiều yếu tố: nhiệt độ, áp suất riêng phần của oxy, hàm lượng cốc bám trên xúc tác, chất xúc tác, v.v… Yếu tố nhiệt độ ảnh hưởng lên cường độ cháy cốc: Qua nghiên cứu ta thấy nhiệt độ khoảng 540 á 6300C tiến hành tái sinh xúc tác là tốt nhất. Nhiệt độ tái sinh phụ thuộc nhiều vào chất xúc tác được dùng và loại lò tái sinh. Mức độ tái sinh cần phải khống chế chặt chẽ để không chỉ đảm bảo hoạt tính của xúc tác mà còn đảm bảo vấn đề về vệ sinh môi trường. Vì thế không nên có mặt CO trong khí khỏi thải. Hơn nữa, quá trình cháy cũng không để xảy ra ở nhiệt độ quá cao hay tích nhiệt cục bộ dẫn tới phá huỷ xúc tác. Còn nếu nhiệt độ quá thấp thì tốc độ tái sinh sẽ chậm, cốc bám trên xúc tác cháy không triệt để. Sau khi tái sinh, hàm lượng cốc còn lại trên xúc tác phải là cực tiểu (lượng cốc cặn còn lại từ 0,1 đến 0,3% KL xúc tác) để khôi phục tối đa hoạt tính của xúc tác. Tốc độ tái sinh có thể biểu diễn theo phương trình: V = K1.PO2.(1 + K2.OH2O). Trong đó: V - tốc độ tái sinh P02, PH2O - áp suất riêng phần của oxy và hơi nước C - hàm lượng cốc bám trên xúc tác n - bậc phản ứng theo cacbon K1, K2 - hằng số Vậy để tăng tốc độ tái sinh thì ta phải tăng nhiệt độ tái sinh (hiệu quả nhất ở vùng động học), tăng áp suất riêng phần của oxy trong không khí, giảm đường kính các hạt xúc tác. Xúc tác có đường kính lỗ xốp càng lớn và đồng đều thì quá trình tái sinh càng nhanh vì oxy dễ khuếch tán. Tuy vậy điều này bị giới hạn bởi độ bền của xúc tác và một số tính chất khác của nó. Quá trình tái sinh xúc tác bằng phương pháp đốt cốc chưa giải quyết được việc khử các kim loại nặng hấp phụ trên xúc tác. Vì vậy để hoàn thiện quá trình tái sinh người ta tiến hành thêm quá trình trao đổi ion để khử các kim loại nặng, điều này giải quyết được sẽ nâng cao được hiệu quả của quá trình tái sinh xúc tác. 8. Các dạng hình học của xúc tác Xúc tác Cracking thường được sử dụng ở các dạng sau: - Xúc tác dạng bụi: Xúc tác dạng bụi có kích thước từ 1 đến 80 mm. Phần lớn là 40 á 80 mm. - Xúc tác dạng vi cầu: Có kích thước hạt từ 50 đến 150 mm. So với xúc tác bụi, xúc tác vi cầu ít bị mài mòn, do vậy xúc tác ít bị tổn hao. Cả hai loại xúc tác bụi và vi cầu được sử dụng phổ biến trong hệ thống Cracking với lớp xúc tác giả sôi. - Xúc tác dạng cầu lớn: Đường kính hạt xúc tác từ 3 đến 6 mm. Độ bền cơ của loại xúc tác này rất tốt. Trong quá trình làm việc ít bị mài mòn, ít bị vỡ. Dạng xúc tác này thường được sử dụng trong lớp xúc tác chuyển động. - Xúc tác dạng trụ: Có đường kính từ 3 đến 4 mm, chiều cao từ 3 đến 5 mm. Độ bền cơ kém, trong quá trình sử dụng dễ bị vỡ vụn, làm tiêu hao xúc tác. Loại này được sử dụng trong hệ thống xúc tác Cracking với lớp xúc tác tĩnh. Với loại xúc tác này, độ bền cơ học lớn nhất khi chiều cao hình trụ bằng đường kính. VII. Nguyên liệu cho quá trình Cracking xúc tác [2] Nguyên liệu cơ bản cho quá trình Cracking xúc tác là phần cắt chân không của cặn dầu thô khi chưng cất khí quyển. Chúng thường chứa 5 á 10% phân đoạn sôi đến 3500C và có nhiệt độ sôi cuối tới 520 á 5400C. Trong nhiều trường hợp, người ta cũng có thể dùng cả phân đoạn nhẹ của chưng cất khí quyển, phân đoạn kerosen - gazoil của Cracking nhiệt hay cốc hoá và có thẻ cả phần rafinat của quá trình khử asphan mazut và gudron trong sản xuất dầu nhờn hoặc là phân đoạn mazut của dầu ít kim loại. Các đặc trưng quan trọng nhất của nguyên liệu có ảnh hưởng quyết định đến các chỉ tiêu của quá trình Cracking là thành phần phân đoạn, hằng số đặc trưng K, thành phần nhóm hydrocacbon, hàm lượng nhựa - asphan, hàm lượng các tạp chất nitơ, lưu huỳnh, kim loại và cốc hoá. Khi Cracking trên xúc tác chứa zeolit, do có hoạt tính cao mà ảnh hưởng của thành phần phân đoạn của nguyên liệu không phải là yếu tố quan trọng. Quy luật thông thường là khi tăng phần nhẹ (hay còn gọi là độ nhẹ) của nguyên liệu, hiệu suất hydrocacbon loại C3, C4 và xăng dầu tăng lên, còn hiệu suát H2 và cốc giảm xuống. Nếu nguyên liệu là phần chưng cất chân không có ít phân đoạn nặng (< 14 á 15%) sẽ làm tăng trị số octan của xăng cũng như hiệu suất xăng. Còn nếu tăng hàm lượng nhựa - asphan và kim loại sẽ làm xấu đi các chỉ tiêu của quá trình. Hằng số đặc trưng K được dùng để phân loại dầu mỏ và các phân đoạn theo thành phần hoá học. Khi sử dụng nguyên liệu Cracking với K có giá trị cao sẽ cho phép tăng các chỉ tiêu của Cracking xúc tác. Các hợp chất phi hydrocacbon là các chất có hại cho Cracking xúc tác, chúng không chỉ gây độc cho xúc tác mà còn chuyển hoá vào sản phẩm, làm giảm chất lượng sản phẩm. Ví dụ sự phân bố của hợp chất lưu huỳnh vào sản phẩm Cracking như sau (% KL so với nguyên liệu): H2S : 20 đến 30; xăng: 2 đến 5; phân đoạn sôi trên 1950C: 30 đến 60; cốc: 5 đến 10. Trong nguyên liệu Cracking xúc tác không nên có mặt các phân đoạn nhẹ có nhiệt độ sôi < 2000C (vì khi phân huỷ sẽ tạo nhiều khí làm giảm hiệu suất xăng và giảm cả trị số octan của xăng. Nguyên liệu không cho phép chứa hàm lượng lớn hydrocacbon thơm đa vòng (vì trong quá trình dễ ngưng tụ tạo cốc bám trên bề mặt xúc tác), asphan và các tạp chất chứa N và S. Nguyên liệu càng nặng càng chứa nhiều asphan và kim loại, khi Cracking cần phải qua xử lý bằng hydro hoá làm sạch để nhận được nguyên liệu có chất lượng cao cho quá trình Cracking xúc tác. Nói tóm lại, trước khi đưa nguyên liệu vào quá trình Cracking xúc tác, chúng ta phải nghiên cứu kỹ chất lượng của nguyên liệu, loại xúc tác dùng và tuỳ theo điều kiện kỹ thuật, hiệu quả của các phương pháp làm sạch nguyên liệu, yêu cầu nguyên liệu dùng mà người ta quyết định phương pháp làm sạch nguyên liệu cho thích hợp. Trong công nghiệp Cracking xúc tác, người ta có thể sử dụng một trong các nhóm nguyên liệu sau: - Nhóm 1: là nhóm nguyên liệu nhẹ có tên là phân đoạn Kerosen - sola nhận được từ quá trình chưng cất trực tiếp và có giới hạn sôi từ 210 đến 3600C. Chúng có tỷ trọng trung bình từ 0,860 đến 0,830. Trọng lượng phân tử trung bình vào khoảng 190 á 200. Đây là nhóm nguyên liệu tốt nhất dùng để sản xuất xăng ôtô và xăng máy bay. - Nhóm 2: là nhóm nguyên liệu lấy từ phân đoạn gazoil chưng cất chúng không có nhiệt độ sôi từ 300 đến 5000C (hay 5500C). Nhóm này có các đặc trưng là tỷ trọng trung bình từ 0,880 đến 0,920, trọng lượng phân tử trung bình từ 280 đến 330. - Nhóm 3: là nhóm nguyên liệu có thành phần rất rộng, có giới hạn sôi từ 210 á 5000C. - Nhóm 4: là nhóm nguyên liệu có nhiệt độ sôi từ 300 á 4500C Bảng 6. Đặc tính "nhóm nguyên liệu của quá trình Cracking xúc tác Chỉ tiêu Nhóm1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Tỷ trọng 0,830 á 0,820 0,830 á 0,920 0,820 á 0,885 0,820 á 0.875 Thành phần Phân đoạn To sôi đầu (co) 200 á 215 300 á 315 225 á 235 đến 250 To sôi 10% (v) 225 á 240 335 á 355 290 á 305 225 á 300 Tosôi 50% (v) 260 á 220 420 á 445 390 á 400 335 á325 Tosôi 80% (v) 490 á 500 385 á 450 Tosôi 90% (v) 290 á 320 520 á540 Tosôi cuối (0c) 315 á360 540 á 550 515 á 520 420 á 490 Hàm lượng S (%) TL 0.2 á 0.6 0.6 á 1.8 0.35 á 0.25 0.5 á 1.4 Độ cốc % TL 0.2 á 0.9 0.2 á 0.3 0.05 á 0.2 Trong các nhóm nguyên liệu kể trên thì nhóm gazoil chân không là phổ biến nhất trong quá trình cracking xúc tác. Trong những năm gần đây, khi nguyên liệu tốt ngày một cạn dần và nhất là khi chế tạo được xúc tác Cracking mới và công nghệ mới có hiệu quả hơn, người ta tiến tới sử dụng nguyên liệu ngày càng nặng hơn, chất lượng xấu hơn mà vẫn cho phép nhận được xăng với năng suất cao và chất lượng tốt. Đó là xu hướng cải tiến quá trình Cracking xúc tác trong hiện tại và tương lai. VIII. sản phẩm của quá trình Cracking xúc tác [2] Chất lượng của sản phẩm Cracking xúc tác thay đổi trong một khoảng rất rộng và phụ thuộc vào nhiều yếu tố nguyên liệu, loại xúc tác và các thông số công nghệ của quá trình. Trong thực tế quá trình Cracking xúc tác thường nhận được các sản phẩm sau: 1. Khí hydrocacbon Hiệu suất khí Cracking chiếm khoảng 10 á 25% lượng nguyên liệu đem Cracking. Hiệu suất này phụ thuộc vào điều kiện Cracking. Thành phần của khí Cracking phụ thuộc vào bản chất của nguyên liệu và bản chất của xúc tác. Bảng 7. Thành phần khí Cracking Khí hydrocacbon % Khối lượng C1, C2 10 á 25 C3 25 á 30 C4 30 á 50 C5 10 á 20 Sản phẩm khí được đưa đến bộ phận tách khí. Sau khi phân đoạn, khí khô được sử dụng làm nhiên liệu khí, còn phân đoạn propan - propylen và butan - bytylen được dùng làm nguyên liệu cho quá trình alkyl hoá hay nguyên liệu để tổng hợp hoá dầu và hoá học. Phân đoạn C5 được pha vào xăng. Trong phân đoạn C3, hàm lượng propylen có thể đạt tới 70 á 80%. Trong phân đoạn C4, hàm lượng buten là 45 á 55%, hàm lượng 120 - butan là 40 á 60% và hàm lượng n - butan nhỏ, chỉ vào khoảng 10 á 20%. 2. Phân đoạn xăng Xăng là sản phẩm chính của quá trình, hiệu suất xăng Cracking xúc tác thường thu được từ 30 á 55% lượng nguyên liệu đem Cracking. Hiệu suất xăng và chất lượng xăng phụ thuộc vào chất lượng nguyên liệu, xúc tác và chế độ công nghệ. Nếu nguyên liệu có hàm lượng hydrocacbon naphten thì cho hiệu suất xăng và chất lượng xăng cao. Nếu nguyên liệu có hàm lượng lớn parafin thì nhận được xăng có trị số octan thấp. Trong nguyên liệu có hàm lượng lưu huỳnh cao thì xăng nhận được có hàm lượng lưu huỳnh lớn, thường chiếm khoảng 15% trọng lượng lưu huỳnh chứa trong nguyên liệu. Xăng nhận được từ quá trình có tỷ trọng khoảng 0,72 á 0,77. Trị số octan theo phương pháp nghiên cứu (RON) khoảng 87 á 91. Thành phần hoá học của xăng Cracking xúc tác khác hẳn với xăng Cracking nhiệt và xăng chưng cất trực tiếp. Xăng Cracking xúc tác có trị số octan cao hơn, có chứa 9 á 10% trọng lượng hydrocacbon thơm. Nói chung xăng Cracking xúc tác là cấu tử cơ bản để chế tạo xăng thương phẩm. Phân đoạn xăng ở các dây chuyền công nghệ Liên Bang Nga thường có nhiệt độ sôi cuối là 1950C, còn các nước khác thay đổi có thể là 204 hay 2200C. Chúng có tính chất đặc trưng, được trình bày ở bảng sau: Bảng 8. Các tính chất đặc trưng của xăng Cracking 0,72 á 0,77 Hàm lượng S (% KL) 0,01 á 0,20 Trị số octan (sạc) RON 87 á 95 MON 78 á 85 Thành phần hydrocacbon, % Hydrocacbon thơm 25 á 40 Olefin 15 á 30 Naphten 2 á 10 Parafin 35 á 60 (120- - parafin chiếm phần chính) 3. Phân đoạn sôi cao hơn 1950C Phân đoạn này được chia thành: - Phân đoạn 195 á 3500C và phần cặn có nhiệt độ cao hơn 3500C - Phân đoạn 195 á 2700C dùng để chế tạo nhiên liệu kerosen - Phân đoạn 195 á 3500C dùng để chế tạo nhiên liệu dizen - Phân đoạn 270 á 4200C làm nguyên liệu để sản xuất cacbon kỹ thuật. - Phân đoạn lớn hơn 3500C hay lớn hơn 4200C được dùng làm FO hay nguyên liệu cho quá trình cốc hoá. Thành phần và tính chất đặc trưng của phân đoạn kerosen - gazoil được trình bày ở bảng sau: Bảng 9. Thành phần tính chất của phân đoạn kerosen - gazoil Chỉ tiêu Phân đoạn có nhiệt độ sôi, 0C 195 á 270 270 á 350 350 á 420 > 420 0,86 á 0,95 0,86 á 0,97 0,96 á 0,99 1 á 11 Nhiệt độ đông đặc, 0C -40 á -60 -20 á -50 0 á 5 10 á 25 Trị số xentan 20 á 35 Trị số iôt, g/100g 10 á 20 5 á 10 3 á 5 Hydrocacbon thơm, %V 60 á 80 50 á 75 Độ cốc hoá conradson, % KL 0,05 á 1,0 5 á 10 Sản phẩm đặc trưng cho các phân đoạn này là: - Gazoil nhẹ: Gazoil nhẹ của quá trình có nhiệt độ sôi 175 á 3500C. So sánh với nhiên liệu diezen thì nó có trị số xetan thấp hơn và hàm lượng lưu huỳnh khá cao. Chất lượng gazoil nhẹ không chỉ phụ thuộc vào thành phần nguyên liệu mà còn phụ thuộc vào chất lượng xúc tác và chế độ công nghệ. Gazoil nhẹ dùng làm cấu tử pha cho nhiên liệu diezen, có thể làm nguyên liệu sản xuất bồ hóng hay làm cấu tử pha loãng mazut. Gazoil nhẹ có đặc tính sau: Tỷ trọng = 0,83 á 0,940 Thành phần hoá học gồm: Lưu huỳnh 1,7 á 2,4% trọng lượng Hydrocacbon olefin 6% Hydrocacbon thơm 30 á 50% Còn lại là hydrocacbon parafin và naphten. - Gazoil nặng: Là sản phẩm cặn của quá trình. Chất lượng của nó phụ thuộc chế độ công nghệ, nguyền nguyên liệu và chất lượng gazoil nhẹ. Gazoil nặng có nhiệt độ sôi > 3500C, có tỷ trọng = 0,89 á 0,99, nó chứa một lượng lớn tạp chất cơ học. Hàm lượng lưu hùnh trong đó cao hơn khoảng 1,5 lần so với nguyên liệu ban đầu. Dùng làm nguyên liệu cho Cracking nhiệt và cốc hoá hoặc làm nhiên liệu đốt lò. Ngày nay người ta dùng làm nguyên liệu sản xuất bồ hóng. Chương II. Dây chuyền công nghệ CRAC KING xúc tác I. Chế độ công nghệ của quá trình CRACKING xúc tác. [ 2 ] ảnh hưởng đến các chỉ tiêu làm việc của quá trình Cracking xúc tác không chỉ là nguyên liệu và chất xúc tác mà còn là thông số công nghệ của quá trình. Các thông số công nghệ bao gồm: Nhiệt độ, áp suất, tốc độ nạp liệu, không gian thể tích hay trọng lượng ( Còn gọi là tốc độ nạp liệu riêng). bội số tuần hoàn xúc tác và mức độ biến đổi hay độ sâu chuyển hoá. 1. Mức độ chuyển hoá C. Đối với Hydrocacbon tinh khiết, khi tham gia phản ứng mức độ chuyển hoá được đo bằng lượng sản phẩm tạo thành theo thời gian. Nhưng đối với phân đoạn phức tạp như phân đoạn dầu mỏ, trong Cracking xúc tác, người ta lại đo lượng xăng là sản phẩm chính và sản phẩm phụ như khí và cốc. Nếu gọi y là % thể tích của sản phẩm đối với điểm sôi cuối cao hơn điểm sôi cuối của xăng, thì độ chuyển hoá C được tính theo biểu thức. C = 100 - y Đương nhiên cách xác định như vậy chưa xác với thực tế. Để hiệu chỉnh theo sự biến đổi hoá, lý trong quá trình tạo xăng và khí, người ta xác định mức độ biến đổi theo công thức sau: C = 100 - y.( 100- z) Trong dó z là % xăng có trong nguyên liệu. Trong quá trình Cracking xúc tác, ngoài mức độ biến đổi, còn có các thông số quan trọng khác. 2. Tốc độ nạp liệu riêng. Tốc độ nạp liệu riêng (hay tốc độ không gian nạp liệu) là tỷ số giữa lượng nguyên liệu được nạp trong một đơn vị thời gian trên lượng xúc tác trong reactor ( hay tỷ lệ về thể tích của chúng) và được ký hiệu bằng M/H/M hay V/H/V (V/V/H). Nếu P là áp suất trong reactor và được tính bằng at thì độ chuyển hoá C có liên quan với M/H/M theo biểu thức: Phương trình biểu diễn trên áp dụng rất đúng với trường hợp xúc tác cố định. ở đây không xảy ra sự chuyển động rối hay sự xáo trộn của hơi nguyên liệu và sản phẩm. Trong trường hợp Cracking xúc tác với lớp sôi của xúc tác (FFC), độ chuyển hoá C lại phù hợp với công thức sau: ở đây K là hằng số tốc độ tổng cộng của quá trình. Hình 4: ảnh hưởng của tốc độ nạp liệu riêng Khi tăng tốc độ nạp liệu riêng, sẽ làm giảm độ chuyển hoá. Còn khi giảm tốc độ nạp liệu thì độ chuyển hoá tăng, vì rằng tốc độ nạp liệu là đại lượng ngược với thời gian phản ứng. Khi sử dụng xúc tác có độ hoạt tính cao, ta có thể tăng tốc độ nạp liệu và như vạy sẽ tăng được năng suất của thiết bị. Trong thực tế, nếu dùng xúc tác aluminosilicac vô định hình tốc độ nạp liệu thể tích chỉ đạt từ 4 - 5 h-1. Nhưng nếu dùng xúc tác chứa zeolit, tốc độ nạp liệu thể tích là 80 đến 120 h-1 khi tính trong ống đứng của reactor và từ 20 đến 30 h-1 khi tính trong lớp sôi của reactor. Khi tăng tốc độ nạp liệu, nếu ta tăng nhiệt độ phản ứng sẽ tăng trị số octan của xăng và tăng hiệu suất Olefin trong khí. Đó là phương pháp chính để điều khiển chế độ sản xuất Propylen và Buten trong quá trình Cracking xúc tác. 3. Tỷ lệ giữa lượng xúc tác/nguyên liệu (X/RH) hay bội số tuần hoàn xúc tác. Khi dùng xúc tác chứa zeolit, cho phép giảm tỷ lệ X.RH xuống còn 10/1 so với xúc tác vô định hình là 20/1. Nếu khi dùng công nghệ xúc tác chuyển động với kích thước hạt xúc tác từ 3 đến 5 mm. Tỷ lệ X/RH còn thấp hơn nữa. chỉ khoảng 2 đến 5/1. Khi thay đổi tỷ lệ X/RH sẽ làm thay đổi nhiệt độ của reactor, thay đổi thời gian lưu của xúc tác. trong reactor và là tái sinh, đồng thời cũng làm thay đổi cả lượng cốc bán trên xúc tác trong một chu trình. Nếu ở chế độ ổn định, tăng tỷ lệ X/Rh sẽ làm tăng độ chuyển hoá. Tăng hiệu suất cốc/ nguyên liệu, nhưng hàm lượng cốc bán trên xúc tác lại giảm xuống. Điều này được giải thích là do lượng cốc đã được dàn ra ở một lượng xúc tác lớn hơn . Khi giữ tốc độ nạp liệu M/H/M là không đổi, nếu tăng tỷ lệ X/RH thì thời gian tiếp xúc giữa xúc tác và nguyên liệu giảm, và như vậy độ hoạt tính trung bình của xúc tác tăng lên. Đó là lý do đạt hiệu quả cao mà cho phép giảm kích thước của thiết bị. Nhưng dễ dàng nhận thấy rằng, nếu tăng cao quá mức độ tuần hoàn xúc tác, sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình tách hơi bám trên xúc tác và làm ảnh hưởng đến quá trình tái sinh ở lò tái sinh và các trang thiết bị kèm theo. Hình 5: ảnh hưởng của tỷ lệ X/RH. 4. Nhiệt độ trong reactor. Nhiệt độ phản ứng trong reactor thường đạt từ 480 đến 5500C khi tiến hành tăng nhiệt độ, lúc đầu hiệu suất xăng tăng và sau đó đạt đến cực đại rồi giảm xuống. Điều này là do quá trình phân huỷ tăng, làm phân huỷ cả các cấu tử xăng vừa được tạo thành. Khi tăng nhiệt độ, phản ứng phân huỷ tăng nhưng đồng thời các phản ứng bậc 2 như dehydro cũng tăng, làm tăng hiệu suất hydrocacbon thơm và olefin. Khi đó trong sản phẩm khí hàm lượng C1 - C3 tăng, còn C4 giảm, tỷ trọng và tỷ số octan của xăng tăng lên. Các số liệu trong bảng 10 và hình 5 cho thấy rõ điều này. Bảng 10. Độ chuyển hoá C, hiệu suất sản phẩm và thành phần RH của xăng phụ thuộc vào nhiệt độ phản ứng Nhiệt độ, 0C C % KL SP tổng % KL Xăng % KL Khí % KL Cốc % Kl Cặn % Kl Mắt mát, %KL RH no, % KL RH0,%V RHa,%V 400 64,5 81,5 49,2 11,6 3,7 32,3 3,2 66,8 7,7 25,3 420 70,2 76,7 49,7 16,0 4,5 27,0 2,8 61,9 8,5 29,6 435 72,1 74,4 19,1 18,2 4,8 25,3 2,6 56,5 9,6 33,9 450 75,5 69,9 47,5 22,2 5,8 22,4 2,1 50,8 10,8 38,4 470 74,4 61,9 38,6 29,5 6,5 22,5 2,9 39,6 13,9 46,5 485 74,9 59,7 33,2 32,6 7,8 24,7 2,4 28,6 15,0 56,4 500 73,8 52,5 31,3 37,2 7,2 21,0 3,2 28,6 14,8 56,4 Từ số liệu của bảng 10 thấy rằng, hiệu suất xăng giảm nhanh ở nhiệt dộ cao ( 4700C), còn hiệu suất khí và cốc tăng, nhưng riêng hiệu suất cốc ở nhiệt độ cao thực tế là không thay đổi. (470 - 5000C). 5. ảnh hưởng của áp suất. ảnh hưởng của áp suất đến hiệu suất và chất lượng xăng của quá trình Cracking được trình bày ở hỉnh 6. Khi tăng áp suất, hiệu suất xăng tăng lên, hiệu suất khí C1 - C3 giảm, hàm lượng olèin và Hydrocacbon thơm giảm, hàm lượng Hydrocacbon no tăng và do vậy chất lượng xăng giảm trị số octan no giảm. Hình 6. Sự phụ thuộc của hiệu suất sản phẩm Cracking vào các thông số công nghệ. II. Dây chuyền công nghệ Cracking xúc tác [ 2 ,3]. 1. Lịch sử phát triển công nghệ Cracking xúc tác. Năm 1936, dây chuyền Cracking xúc tác đầu tiên được đưa vào công nghiệp chế biến dầu, hoạt động theo phương pháp gián đoạn với lớp xúc tác cố định do kỹ sư người Pháp tên là Houdry thiết kế. Vì tồn tại nhiều nhược điểm như hoạt động gián đoạn và phức tạp trong vận hành nhất là khi chuyển giao giữa hai chu kỳ. Phản ứng và tái sinh xúc tác trong một thiết bị. Dây chuyền này đã được nhanh chóng cải tiến và hiện chỉ còn mang ý nghĩa lịch sử của quá trình Cracking xúc tác. Năm 1941 xuất hiện quá trình Cracking xúc tác với lớp xúc tác chuyển động thay cho quá trình Houdry. Việc tiến hành Cracking và tái xúc tác đã được tiến hành trong các thiết bị riêng biệt. Thiết bị phản ứng vào thiết bị tái sinh và ngược lại hoặc bằng tự chảy, hoặc bằng cưỡng bức; xúc tác đã làm việc có chứa cốc chuyển động vào lò tái sinh, còn xúc tác đã tái sinh vào lò phản ứng tạo thành một chu kỳ liên tục. Các dây chuyền loại này khá phổ biến. Xúc tác thường có dang hình cầuvới đường kính 3 á 5 mm. Dây chuyền loại này ở Nga có tên là loại 43-1 và 43 - 102, còn ở các nước khác có tên là Thermofor (TCC) hay Houdry Flow. Các dây chuyền càng về sau càng được cải tiến so với các dây chuyền ban đầu ở khâu vận chuyển xúc tác (đã dùng vận chuyển bằng hơi thay cho vận chuyển cơ học). Năm 1942, dây chuyền Cracking xúc tác lớp sôi (FCC) đầu tiên được đưa vào hoạt động với công suất 12.000 thùng nguyên liệu/ngày. Loại dây chuyền này có tên gọi là Uplow (model I). Trong dây chuyền xúc tác được đưa ra từ đỉnh của lò phản ứng và lò tái sinh. Sau đó năm 1944. người ta tăng đường kính của thiết bị phản ứng và tái sinh, quá trình tách hơi sản phẩm được thực hiện ngay trong thiết bị phản ứng, tái sinh xúc tác ở dạng tầng sôi và quá trình thổi cũng ngày càng cải tiến để cho xúc tác chuyển động từ dưới và lấy ra ở đáy thiết bị. Dây chuyền hoạt động như vậy có tên là Down Flow (Model II) và đó là dạng nguyên thuỷ của thiết bị phản ứng và thiết bị tái sinh lớp sôi hiện đại ngày nay. Tiếp theo người ta cũng cải tiến ngay cả xúc tác, xúc tác phổ biến có dạng vi cầu, nên giảm được mất mát của xúc tác và sự mài mòn của thiết bị, nâng cao hiệu quả tách của cyclon. Trong dây chuyền model I, tỷ lệ xúc tác / nguyên liệu dầu (X/RH) chỉ đạt giới hạn cực đại là 3, nhưng model II thì tỷ lệ X/RH đã có thể tăng lên từ 3 á 10. Đến năm 1946 Model II là loại cân bằng đã được thiết kế bởi hãng M.W. Kellog. Năm 1947, hãng UOP đã thiết kế loại FCC, trong đó thiết bị phản ứng và thiết bị tái sinh chồng lên nhau cùng một trục. Đến năm 1951. loại Orthor Flow đấu tiên của hãng M.W. Kellog xuất hiện. Sau đó hãng Standard - Oil (New Jersey) đã thiết kế một loại FCC mới gọi là model N. đó là cải tiến của model II và dây chuyền đầu tiên áp dụng vào trong công nghiệp năm 1952. Sơ đồ công nghệ nhiều ưu điểm nhất (FCC) ngày càng được cải tiến đểt có được hiệu suất và chất lượng xăng cao hơn và có thể dùng nguyên liệu ngày càng nặng hơn với chất lượng nguyên liệu ngày càng xấu hơn. Quá trình FCC củ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLe Vy sua.doc
  • dwglotaisinh vy den.dwg
  • dwgdaychuuyensanxuat.dwg
  • docloicamon Vy.doc
  • dwgmat bang phan xuong vy den.dwg
  • docnhiem vu.doc
  • docbia do an vy.doc
Tài liệu liên quan