Thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam- Những vấn đề đặt ra và giải pháp phát triển

LờI NóI ĐầU Trong xu thế toàn cầu hoá, kinh tế thế giới bước vào thế kỉ 21, chủ động tham gia hội nhập có kết quả và nhanh chóng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế là vấn đề đang được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm ; trong dự thảo báo cáo chính trị Đại Hội IX của Đảng đã chỉ rõ : “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và nâng cao rõ rệt chất lượng sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế ”. Với định hướng mà Đả

doc15 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1307 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam- Những vấn đề đặt ra và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng đã đề ra, để nâng cao hiệu quả của hội nhập và “chất lượng sức cạnh tranh” Việt Nam cần thực hiện những biện pháp hữu hiệu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt thực hiện những giải pháp mở rộng thị trường ngoài nước nhằm tăng cường xuất khẩu, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế của cả nước . Với mục tiêu quan trọng trên và để nghiên cứu rõ về thị trường xuất khẩu của Việt Nam, em đã chọn đề tài : “Thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam- Những vấn đề đặt ra và giải pháp phát triển”. Do điều kiện thời gian và trình độ còn hạn chế cũng như những kinh nghiệm thực tế còn ít nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu xót nhất định . Qua đây em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của thầy cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn . Em xin chân thành cảm ơn ! nội dung i . khái quát chung về thị trường xuất khẩu hàng hoá của việt nam – những vấn đề đặt ra : 1. Tổng quan về xuất khẩu hàng hoá . 1.1. Khái niệm : Xuất khẩu hàng hoá là những việc mua bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ của một nước này với một nước khác và dùng ngoai tệ làm phương tiện trao đổi. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trong nền kinh tế có thương mại quốc tế mở rộng bao gồm cả việc bán sản phẩm hàng hoá ra nước ngoài và nhập sản phẩm từ nước khác. Kinh doanh xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán thuộc phạm vi quốc tế và là hoạt động kinh tế thương mại rất phức tạp. Do đó nó không chỉ là một hành vi bán riêng lẻ mà là cả một quá trình kinh doanh phức tạp bao gồm nhiều khâu khác nhau. 1.2. Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân : Trong thời đại ngày nay, thời đại cùng tồn tại hoà bình, cùng vươn tới ấm no hạnh phúc và cũng là thời đại của sự vươn tới mở cửa và mở rộng giao lưu kinh tế. Do đó xu hướng phát triển của nhiều nước trong những năm gần đây là thay đổi chiến lược kinh tế từ “đóng cưả” sang “mở cửa” và từ “thay thế nhập khẩu” sang “hướng vào xuất khẩu”. Có thể nói đây là con đường đúng đắn cho sự phát triển vượt bậc giúp cho nền kinh tế của mỗi quốc gia ngày càng phát triển. Trên thực tế ta thấy bất cứ một ngành sản xuất hay kinh doanh nào muốn thu hút được kết quả cao đều phải biết khai thác và phát huy triệt để những lợi thế sẵn có ở bên trong cũng như bên ngoài một cách đúng đắn và hợp lý. Đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam cần phải tận dụng các nguồn tiềm năng để mang lại hiệu quả ngày càng cao. Nhận thức rõ được những điều kiện thuận lợi và khó khăn của nước nhà, Đảng và nhà nước ta đã đề ra phương hướng chiến lược phát huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Đáp ứng tốt nhu cầu của sản xuất và đời sống, hướng mạnh vào xuất khẩu, thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả. Mở rộng quan hệ kinh tế đối với các nước, các tổ chức quốc tế, các công ty và các tư nhân nước ngoài, trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò quan trọng trong đổi mới cơ cấu kinh tế, thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Vai trò của xuất khẩu được thể hiện ở các mặt sau : 1.2.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá: ở nước ta, để thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thời gian ngắn, đòi hỏi chúng ta phải có nguồn vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị kĩ thuật và công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn sau: đầu tư nước ngoài, vay nợ hoặc viện trợ, ngoại tệ thu được từ các nguồn khác. Trong các nguồn trên thì các nguồn như vay nợ đầu tư nước ngoài tuy quan trọng nhưng cũng phải trả sau này. Và việc sử dụng chúng một cách thái quá sẽ gây hậu quả cho việc trả nợ về sau. Vì vậy, nguồn từ xuất khẩu là nguồn thu ngoại tệ quan trọng phục vụ cho quá trình nhập khẩu, công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 1.2.2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển : Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản là chưa đủ cho nhu cầu tiêu dùng nếu chỉ thụ động chờ sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. Hai là, coi thị trường đặc biệt là thị trường thế giới, là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm thứ hai chính là xuất phát từ thị trường thế giới để tổ chức sản xuất, từ đó tạo điều kiện cho các ngành có cơ hội phát triển thuận lợi, tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ. 1.2.3. Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của người dân: - Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi tiêu thụ, thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với thu nhập không nhỏ. - Hơn nữa, xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu các vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân hiện nay. 1.2.4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của đất nước: Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại, khi xuất khẩu phát triển nó cũng thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển theo như quan hệ về chính trị và ngoại giao .... 1.3. Các hình thức xuất khẩu : 1.3.1. Xuất khẩu trực tiếp : Là việc xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ do chính doanh nghiệp đó sản xuất ra hoặc mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng thông qua các tổ chức của mình. Xuất khẩu trực tiếp có thể làm tăng rủi ro trong kinh doanh song lại có ưu điểm là giảm bớt chi phí trung gian và từ đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đồng thời phương thức này cũng khiến doanh nghiệp có sự liên hệ trực tiếp với thị trường và khách hàng nước ngoài, gắn doanh nghiệp với nhu cầu của thị trường để có thể sản xuất và xuất khẩu hàng hoá theo đúng yêu cầu của khách hàng. 1.3.2. Xuất khẩu uỷ thác: Là hình thức kinh doanh trong đó đơn vị ngoại thương đóng vai trò là người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành kí kết hợp đồng mua bán ngoại thương, tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá của nhà sản xuất và qua đó thu một số tiền nhất định (thường là tỉ lệ % của lô hàng xuất khẩu). Ưu điểm của phương thức này là mức độ rủi ro thấp, không cần bỏ vốn vào kinh doanh mà có thể thu về một khoản lợi nhuận đáng kể. Ngoài ra trong việc tranh chấp và khiếu nại thuộc về người sản xuất. 1.3.3. Tái xuất khẩu : Là xuất khẩu những hàng hoá mà trước đây đã nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về một khoản ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Giao dịch này luôn luôn thu hút ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. Do đó giao dịch tái xuất còn được gọi là giao dịch ba bên hay giao dịch tam giác. 2. Thực trạng – vấn đề đặt ra đối với xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam : 2.1. Thực trạng: Về tốc độ tăng trưởng: Nhìn chung trong thời kì đổi mới, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh. Năm 1988, một năm sau khi thực hiện cơ chế chuyển sang kinh tế thị trường, khối lượng xuất khẩu tăng 80% so với năm 1987. Bắt đầu từ đó, Việt Nam duy trì mức tăng trưởng xuất khẩu bình quân hơn 20% một năm. Hoạt động nhập khẩu trong 10 năm qua (1989-1999) cũng đi theo một xu hướng tương tự : gia tăng đều đặn nhưng tốc độ chậm hơn tăng trưởng xuất khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu thời kì 1994-1998 đạt 39,14 tỉ USD, tăng 2,31 lần so với thời kì 1986-1990, trong đó xuất khẩu là 17,01 tỉ USD, nhập khẩu là 22,13 tỉ USD. Xuất khẩu đã tăng với tốc độ bình quân 26% một năm, gấp hơn 3 lần mức tăng bình quân của GDP và là một trong những yếu tố quan trọng góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng cao của GDP. Tuy nhiên mức tăng này chưa đủ để bù đắp mức tăng nhập khẩu bình quân 34 % / năm. Năm 1999 tổng kim ngạch XNK đạt 18,399 tỷ USD, bằng 46,4% tổng kim ngạch của cả thời kì 1994-1998. Xuất khẩu đã đạt 7,255 tỷ tăng 33,2% so với năm 1998 và chiếm xấp xỉ 30% GDP nhưng tốc độ tăng trưởng vẫn thấp hơn mức độ tăng nhập khẩu (36,6%). Kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người đã đạt mức trên dưới 95 USD vào năm 1999, gấp hơn 3 lần so với năm 1997(30 USD) và gần 9 lần so với năm 1986 ( 11USD ). Tuy nhiên, con số này còn khá khiêm tốn so với mức 170 USD được thế giới thừa nhận là mức của một nước có nền ngoại thương tương đối phát triển. Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu: Trong những năm gần đây, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đã có những bước thay đổi tích cực. Nhóm hàng xuất khẩu nguyên liệu thô đã giảm từ 91% trong tổng số kim ngạch xuất khẩu vào năm 1994 xuống còn 72% vào năm 1998. Rõ nét nhất là nhóm hàng chủ lực như : dầu thô, than, cao su, thuỷ sản, gạo, cà phê, hạt điều, chè đạt tốc độ tăng bình quân 18%/năm, các mặt hàng khác có mức chế biến cao đạt mức tăng bình quân 41%/năm, nhờ đó tạo ra mức tăng trưởng bình quân các mặt hàng là:26%. Tăng trội hơn cả trong các mặt hàng chế biến là các mặt hàng giầy dép và may mặc tăng tới 100%/năm và 50%/trong năm 1998. Tỷ trọng các mặt hàng chế biến sâu (trong đó có hàng chế tạo) năm 1994 chỉ chiếm 8,5%năm 1997 đã lên đến 25%, năm 1999 đã tăng lên thành 30%. Năm 2001, cơ cấu xuất khẩu tăng tuy chậm nhưng vẫn tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng đã qua chế biến, nhất là chế biến sâu. Tỷ trọng của 4 nhóm hàng dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ tinh chế và điện tử trong kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ 27,8% lên 31,5%, mặc dù các nhóm này đều gặp khó khăn gay gắt trong năm 2001. Nhóm nguyên liệu thô và mặt hàng sơ chế chủ lực (dầu thô, gạo, hải sản, cà phê, cao su, điều nhân) chỉ còn chiếm 45% kim ngạch xuất khẩu (năm 2000 chiếm 50%). Nếu phân theo ngành kinh tế thì nhóm nông, thuỷ sản chỉ còn chiếm 37% kim ngạch xuất khẩu, nhóm sản phẩm công nghiệp (kể cả của công nghiệp khai khoáng) đã chiếm tới 63%. Đây là một bước chuyển tích cực trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam. 2.2. Vấn đề đặt ra đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam: 2.2.1. Chất lượng của hàng hoá xuất khẩu: Ngày nay trên thế giới, một sản phẩm chỉ có thể chiếm lĩnh được thị trường khi hội đủ các yếu tố cơ bản bao gồm sự công nhận của người tiêu dùng, sự tự chứng nhận của nhà sản xuất và mức độ tiêu thụ đạt được, mà một yếu tố vô cùng quan trọng quyết định sự công nhận đó chính là chất lượng sản phẩm. Vậy liệu hàng hoá của Việt Nam có thâm nhập được vào thị trường nước ngoài hay không? Hiện nay nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam còn mắc phải những hạn chế như thiếu thông tin, tư tưởng thụ động, từ đó dẫn đến chất lượng hàng hoá không đồng đều, chính vì vậy khối lượng thành phẩm hoàn chỉnh của Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài chưa cao, chủ yếu vẫn là xuất khẩu nguyên liệu thô (chiếm70% kim ngạch xuất khẩu). 2.2.2. Khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới: Trong xu thế hội nhập, ngày càng có nhiều quốc gia cũng lựa chọn mô hình hướng vào xuất khẩu, do đó cuộc cạnh tranh giành giật thị trường giữa các quốc gia tương đồng về trình độ, cơ cấu sản xuất sẽ quyết liệt hơn. Nếu sức cạnh tranh của hàng hoá không cao thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp khó khăn khi thị trường dần bị thu hẹp. Và một khi tiến trình hội nhập của Việt Nam đi vào thực tế, Việt Nam xuất khẩu nhiều hàng hoá hơn, vào nhiều thị trường hơn và hàng hoá của Việt Nam có sức cạnh tranh cao hơn đe doạ sự tồn tại của hàng hoá các nước thì hệ quả tất yếu của các doanh nghiệp Việt Nam phải đương đầu và chống đỡ rất khó khăn đối với nhiều rào cản thương mại của các nước, ví dụ như việc Hoa Kỳ áp dụng hoặc đe dọa áp dụng thuế bán phá giá với cá tra, cá basa và tôm; EU áp dụng với bật lửa ga và ocid kẽm, và Canada áp dụng với giày có đế chống thấm .v.v.. II . phân tích thị trường nhật bản - LàM THế NàO Để HàNG HOá VIệT NAM THÂM NHậP ĐƯợC VàO THị TRƯờNG NHậT BảN ? 1. những vấn đề chung cần chú ý khi xuất khẩu hàng hoá vào Nhật Bản: 1.1. Nghiên cứu thị trường: “Nhập gia tuỳ tục” là một nguyên tắc không thể thiếu khi tiếp cận bất cứ một thị trường nào. Thị trường Nhật Bản rất đa dạng và năng động, vì vậy các doanh nghiệp khi thâm nhập vào thị trường Nhật nên có sự nghiên cứu, xem xét phong tục, tập quán, văn hoá tiêu dùng, sở thích niềm tin và mức độ chi trả để đưa ra những quyết định nhạy cảm về hàng hoá xuất khẩu hay dịch vụ có thể phù hợp nhanh chóng được với xu hướng của người tiêu dùng. 1.2. Nắm chắc thông tin thị trường: Nắm bắt thông tin một cách thường xuyên, tranh thủ nguồn thông tin từ các tổ chức xúc tiến thương mại, đặc biệt là Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản ( JETRO). 1.3. Tăng cường giới thiệu, quảng bá sản phẩm tại các hội chợ, triển lãm, qua mạng Internet và các phương tiện thông tin khác: Từ sự khác biệt về môi trường văn hoá và công nghiệp nên có một số mặt hàng có thể chưa xuất hiện tại thị trường Nhật Bản. Vì thế việc cung cấp thông tin về công dụng của sản phẩm, cách sử dụng, đặc trưng, chất lượng của sản phẩm trở nên rất quan trọng. Tại Nhật Bản, nhìn chung thông điệp bằng ngôn ngữ hay quảng cáo bằng hình ảnh trên các hệ thống phương tiện thông tin đại chúng như: báo ảnh, tuần báo, đặc san, hệ thống các kênh truyền hình cable... được đánh giá là có hiệu quả vì có thể nhằm vào đúng đối tượng khách hàng. 2. Các nguyên tắc thâm nhập thị trường Nhật Bản : 2.1. Nắm bắt được thị hiếu: - Tính đa dạng của thị trường (4 mùa, lứa tuổi, khu vực v..v) - Sản xuất càng gần với thị trường càng tốt (Market-in). Điều quan trọng là phải có phản ứng nhanh nhạy với khuynh hướng của người tiêu dùng. - Không phải là “có cầu mới có cung” mà phải chuyển sang cách nghĩ “cung tạo ra cầu”. - Chuẩn bị nhiều chủng loại sao cho phong phú cho dù chỉ một mặt hàng. Người tiêu dùng muốn lựa chọn (Ví dụ: to nhỏ, nhiều chức năng, hình thái, .v.v.). 2.2. Định giá thành sản phẩm: Thị trường quyết định giá cả. Người tiêu dùng Nhật Bản có đặc điểm nếu họ thấy cần thiết thì dù đắt cũng mua. Ngược lại những thứ mà thị trường không ưa thì giá dù rẻ cũng không thể bán được. Tuy nhiên, dù giá sản phẩm tai Việt Nam có rẻ đi chăng nữa, song nếu giá vận chuyển và thuế cao sẽ làm cho giá sản phẩm tăng lên và có thể cao hơn so với hàng hoá cùng loại của các đối thủ cạnh tranh. Vì vậy việc định giá chào hàng không nên dựa vào giá bán lẻ tại thị trường Nhật Bản. 2.3. Bảo đảm thời gian giao hàng: Điều tối quan trọng là phải đảm bảo thời hạn mà bên mua yêu cầu. Nếu giao hàng chậm, không đảm bảo được thời hạn giao hàng sẽ làm mất đi cơ hội bán hàng. Nếu mất uy tín, bên mua sẽ không đặt hàng đến lần thứ hai. 2.4. Duy trì chất lượng sản phẩm: - Không nhất thiết mọi chủng loại hàng hoá đều phải có chất lượng cao, mà điều quan trọng là chất lượng hàng hoá ổn định. - Không nên đưa ra những sản phẩm có chất lượng vượt quá yêu cầu sử dụng cần thiết. Vì nếu cố đầu tư để có chất lượng cao sẽ làm tăng giá thành sản phẩm mà người tiêu dùng sẽ không muốn mua nữa. 3. Đánh giá về một số mặt hàng Việt Nam có thế mạnh tại thị trường Nhật Bản: 3.1. Nhóm hàng thuỷ sản /tôm: Nhật Bản là thị trường lớn nhập khẩu các loại hải sản của Việt Nam, trong đó tôm là mặt hàng đầu tiên của Việt Nam đứng hàng thứ tư trong số các nước xuất khẩu tôm vào thị trường này. Thị trường Nhật tiêu thụ 300.000 - 400.000 tấn tôm sú và tôm hùm một năm kể cả hàng trong nước và nhập khẩu. Trong đó tôm hùm chiếm 90%thị trường tôm Nhật Bản. Số lượng đánh bắt trong nước của Nhật chỉ đạt khoảng 7.000 tấn / năm đối với tất cả các loại tôm. Tôm nhập khẩu đạt tới 259.062 tấn (tăng 3,2%) năm 1998 nhưng về giá trị lại giảm so với năm trước. Nhìn chung nhập khẩu tôm giảm từ năm 1995. Lý do chính là giá tôm đông lạnh tăng lên ở các nước xuất khẩu.Tôm sú chiếm tỷ lệ lớn trong tổng lượng tôm nhập khẩu. Mặc dù thuỷ sản được coi là một trong các ngành mũi nhọn và là một trong năm mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao nhất và là một trong 3 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng trong 12 năm qua là 20% năm. Nhưng khối lượng thuỷ sản của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật con khá khiêm tốn. 3.2. Một số mặt hàng khác: Mười mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản chiếm tỷ trọng lớn năm 2001 và 2002 là: hải sản, hàng dệt may, dầu thô, dây điện và cáp điện, sản phẩm gỗ,linh kiện máy vi tính, giày dép, than đá, thủ công mỹ nghệ và sản phẩm nhựa. Trong đó chỉ riêng 3 mặt hàng là dầu thô, hải sản và dệt may đã chiếm tới 10-91%kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản, nhưng chúng chỉ mới đáp ứng một tỷ lệ rất nhỏ nhu cầu của thị trường Nhật đối với các mặt hàng này. Ví dụ: dầu thô của Việt Nam chỉ chiếm 1,8-2%; hải sản chiếm khoảng2,8-3% và may mặc chiếm khoảng 2,9%kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng tương tự của Nhật Bản . Như vậy có thể thấy Nhật Bản là thị trường đầy tiềm năng cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu các mặt hàng chủ lực đó. III. GIảI PHáP PHáT TRIểN THị TRƯờNG XUấT KHẩU HàNG HOá CủA VIệT NAM : 1. Không ngừng nâng cao chất lượng hàng hoá: Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới cũng như trong công cuộc xây dựng nền công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, việc áp dụng thực hiện và được chứng nhận đạt hoặc phù hợp quản lí chất lượng ISO 9000 là vấn đề hết sức cần thiết. ISO 9000được coi là một trong những công cụ quản lí chất lượng tốt nhất, nó có tác dụng tạo đà cho các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Đối với những sản phẩm hàng hoá ở thị trường nhất định việc chứng nhận ISO 9000 không phải là muốn hay không mà nó còn được coi là yêu cầu bắt buộc để làm công tác xuất nhập khẩu, mở rộng hợp tác liên doanh trên thương trường quốc tế. Thấy rõ được ích lợi của và tác dụng của việc thực hiện thực hiện quản lí chất lượng, từ nay đến năm 2004 nước ta phấn đấu có hàng trăm doanh nghiệp sẽ thực hiện quản lí chất lượng theo ISO 9000 để hàng hoá của họ thâm nhập vào thị trường với tốc độ nhanh chóng hơn. 2. Xúc tiến thương mại – tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới: Một kinh nghiệm quan trọng trong việc thúc đẩy xuát khẩu là thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại. Đây là tổ chức phi lợi nhuận có chức năng cung cấp thông tin và tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại, tiến hành nghiên cứu thị trường và tổ chức đưa hàng hoá Việt Nam ra thị trường thế giới trong đó quan trọng nhất là giúp các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào hệ thống phân phối hàng hoá ở các nước. Trung tâm này sẽ có một ngân hàng dữ liệu về các thị trườn các nước, về những nhà cung ứng và người mua hàng trong và ngoài nước, giúp cho các doanh nghiệp của Việt Nam tiếp cận nhanh hơn với thị trường xuất khẩu hàng hoá trên thế giới. 3. Các biện pháp nhằm khuyến khích đầu tư: 3.1. Khuyến khích đầu tư trong nước: Chủ trương khuyến khích phát triển hàng xuất khẩu cần được thể hiện đầy đủ và rõ nét hơn trong luật khuyến khích đầu tư trong nước theo nguyên tắc “sản xuất hàng xuất khẩu phải được đặt ở vị trí ưu tiên số một, các hình thức ưu đãi cao nhất phải được giành cho sản xuất hàng xuất khẩu”. Do vậy, cần đưa đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu về nhóm ưu tiên một . Bên cạnh đó cũng cần xem xét tới sự phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài. Ví dụ doanh nghiệp trong nước phải chịu thuế lợi tức 25 – 35 - 45%, trong khi doanh nghiệp nước ngoài chỉ chịu tối đa 25%. Do vậy, cần xem xét cho việ ưu đãi các doanh nghiệp trong nước phải bằng hoặc cao hơn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà cụ thể là nên điều chỉnh những ưu đãi giành cho doanh nghiệp trong sản xuất hàng xuất khẩu và tiến tới hợp nhất luật đầu tư nước ngoài và luật khuyến khích đầu tư trong nước thành luật đầu tư. 3.2. Thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài: Các biện pháp cơ bản cần tập trung thu hút được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đó là: đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn nước ngoài; ban hành các cơ chế, chính sách nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư; nâng cao hiệu quả và năng lực điều hành hoạt động FDI. 4. Thành lập quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu: Thành lập quỹ này để cấp tín dụng ưu đãi và bảo lãnh tín dụng cho hoạt động xuất khẩu. Do nguồn vốn hạn hẹp, để có thể đẩy nhanh tiến độ hình thành quỹ, tránh chồng chéo. KếT LUậN Xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, xuất khẩu càng đóng vai trò quan trọng hơn đối với một nền kinh tế, nhất là đối với nền kinh tế của các nước đang phát triển như Việt Nam. Việt Nam là một nước đang trên con đường tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá hoà nhập vào khu vực và thế giới. Vì vậy xuất khẩu được coi là một trong những công cụ quan trọng nhất để thực hiện thành công các mục tiêu trên. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn gặp nhiều trở ngại do các yếu tố khách quan và chủ quan gây nên. Vì vậy để giúp hoạt động xuất khẩu vượt qua những khó khăn, thách thức đòi hỏi chúng ta thực hiện các chính sách khuyến khích xuất khẩu của nhà nước phải được đi kèm với các nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu. Và cần thấy một điều quan trọng là các chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu của nhà nước muốn thực sự phát huy tác dụng thì phải được thực hiện nghiêm túc trong thực tế chứ không phải chỉ dừng lại ở giấy tờ. Hy vọng những tiềm lực của Việt Nam cùng với hệ thống chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu đúng đắn của nhà nước ta sẽ là những nhân tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam ngày một phát triển, xây dựng đất nước ngày một phồn vinh. tài liệu tham khảo 1. Tạp chí Ngoại Thương 11-20/5/2003 2. Dự thảo báo cáo chính trị Đại hội XI của Đảng 3. Xuất khẩu sang thi trường Nhật Bản –Nhà xuất bản chính trị quốc gia . mục lục Lời nói đầu 1 Nội dung 2 I. Khái quát chung về thị trường xuất khẩu hàng hoá của việt nam – những vấn đề đặt ra 2 1.Tổng quan về xuất khẩu hàng hoá 2 1.1. Khái niệm 2 1.2. Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân 2 1.3. Các hình thức xuất khẩu 4 2.Thực trạng –vấn đề đặt ra đối với xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam 5 2.1. Thực trạng 5 2.2. Vấn đề đặt ra đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam 6 ii. phân tích thị trường nhật bản - làm thế nào để hàng hoá việt nam thâm nhập được vào thị trường nhật bản ? 7 1. Những vấn đề chung cần nghiên cứu khi xuất khẩu hàng hoá vào Nhật Bản 7 1.1. Nghiên cứu thị trường 7 1.2. Nắm chắc thông tin thị trường 7 1.3. Tăng cường giới thiệu quảng bá sản phẩm 8 2. Các nguyên tắc thâm nhập thị trường Nhật Bản 8 2.1. Nắm bắt được thị hiếu 8 2.2. Định giá thành sản phẩm 8 2.3. Bảo đảm thời gian giao hàng 8 2.4. Duy trì chất lượng sản phẩm 9 3. Đánh giá về một số mặt hàng Việt Nam có thế mạnh tại thị trường Nhật Bản 9 3.1. Nhóm hàng thuỷ sản /tôm 9 3.2. Một số mặt hàng khác 9 iii. giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu hàng hoá của việt nam: 10 1. Không ngừng nâng cao chất lượng 10 2. Xúc tiến thương mại ... 10 3. Các biện pháp nhằm khuyến khích đầu tư 11 3.1. Khuyến khích đầu tư trong nước 11 3.2. Thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài 11 4. Thành lập quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu 11 kết luận 12 Tài liệu tham khảo ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7100.doc
Tài liệu liên quan