Nội dung bài viết
I- Sự cần thiết phải nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp.
1. Khái niệm đặc trưng của thị trường.
a. Khái niệm về thị trường
Lịch sử phát triển của xã hội loài người cũng là lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao động xã hội và các hình thái kinh tế xã hội. Trong bất kỳ giai đoạn nào của sự phát triển đó, nền sản xuất xã hội đều phải giải quyết 3 vấn đề cơ bản.
- Sản xuất cái gì? Bao nhiêu?
- Sản xuất bằng cách nào?
- Phân phối sản phẩm cho ai?
18 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thị trường và phương pháp nghiên cứu thị trường của Doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Có nhiều cách giải quyết các vấn đề này, trong đó có hai cách cơ bản là kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc và kinh tế hàng hoá với giai đoạn phát triển cao của nó là kinh tế thị trường.
Nền kinh tế hàng hoá sản xuất ra sản phẩm không phải để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra hàng hoá đó mà để trao đổi nhằm thoả mãn nhu cầu người mua. Hay nói cách khác nền sản xuất hàng hoá ra sản phẩm chủ yếu là để trao đổi trên thị trường. Vì vậy loại sản phẩm, sản lượng suy cho cùng do người mua quyết định, việc phân phối sản phẩm là thông qua quan hệ thị trường. Vậy thị trường là phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng hoá. ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hoá, thì ở đó có thị trường. Trong hệ thống lý luận kinh tế, người ta đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về thị trường.
Có khái niệm cho rằng: “Thị trường là một quá trình, trong đó người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá” hoặc “thị trường là toàn bộ các quan hệ lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ, các giao dịch mua bán và dịch vụ” hay theo Các Mác: “Thị trường được coi là lĩnh vực lưu thông hàng hoá, là nơi gặp gỡ của cung - cầu, là toàn bộ nhu cầu có khả năng thanh toán”...
Các khái niệm về thị trường được miêu tả ở nhiều góc độ khác nhau, song điều cơ bản xét sự hình thành của thị trường đòi hỏi phải có:
- Đối tượng trao đổi: Sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ.
- Đối tượng tham gia trao đổi: Bên bán và bên mua.
- Điều kiện thực hiện trao đổi: Khả năng thanh toán.
Theo đó ta thấy, điều quan tâm của doanh nghiệp là phải tìm ra nơi trao đổi, tìm ra nhu cầu và khả năng thanh toán của những sản phẩm, dịch vụ mà nhà sản xuất dự định cung ứng ra thị trường. Còn đối với người tiêu dùng, họ phải quan tâm đến việc so sánh những sản phẩm, dịch vụ mà nhà sản xuất cung ứng, thoả mãn đúng yêu cầu và thích hợp với khả năng thanh toán của mình đến đâu.
Do vậy, từ nội dung nên trên ta có thể đưa ra định nghĩa tổng quát về thị trường như sau:
“Thị trường là biểu hiện của quá trình mà trong đó thể hiện các quyết định của người tiêu dùng về hàng hoá và dịch vụ cũng như quyết định của các doanh nghiệp về số lượng, chất lượng, mẫu mã của hàng hoá. Đó là những mối quan hệ giữa tổng số cung và tổng số cầu với cơ cấu cung cầu của từng loại hàng hoá cụ thể”
b. Đặc trưng về thị trường.
Vì thị trường là nơi mà người bán và người mua tự tìm đến với nhau qua trao đổi, thăm dò, tiếp xúc để nhận lấy lời giải đáp mà mỗi bên cần biết. Các doanh nghiệp thông qua thị trường mà tìm cách giải quyết các vấn đề:
+ Phải sản xuất loại hàng hoá gì ? cho ai ?
+ Số lượng bao nhiêu.
+ Mẫu mã, kiểu cách , chất lượng như thế nào ?
Để trả lời các câu hỏi này một cách chính xác thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường và hoạch định ra các chiến lược dựa trên kết quả đã nghiên cứu được .
- Trên thị trường mọi người đều mong muốn đạt được lợi ích cá nhân cao nhất mà chi phí thấp nhất.
- Trên thị trường luôn có cạnh tranh, đó chính là động lực thúc đẩy, kích thích các thành viên trong thị trường luôn luôn thích nghi và phát triển của kinh tế xã hội.
- Thị trường luôn đổi mới và tăng trưởng thường xuyên. Do cạnh tranh dẫn đến sự thay đổi về sản phẩm và phương thức phục vụ văn minh. Do đó các phương thức tổ chức hoạt động kinh doanh trong thị trường cũng phải luôn luôn đổi mới để thích nghi với nó.
- Các cá nhân và tổ chức kinh doanh được tự do gia nhập thị trường và tự rút khỏi thị trường.
- Các đơn vị kinh doanh được độc lập đưa ra quyết định về hoạt động kinh doanh của mình.
- Trên thị trường luôn có cơ hội để tìm kiếm lợi nhuận cũng như các rủi ro cho các doanh nhân.
Thị trường của các doanh nhân luôn có xu hướng độc quyền và khủng hoảng.
Từ đây cho ta thấy rằng: Sự nhận thức phiến diện về thị trường cũng như sự điều tiết thị trường theo ý muốn chủ quan, duy ý chí, trong quản lý và chỉ đạo kinh tế đều đồng nghĩa với việc đi ngược lại các hệ thống qui luật kinh tế vốn có trong thị trường và hậu quả sẽ làm cho nền kinh tế khó phát triển.
2. Vai trò và chức năng cơ bản của thị trường đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
a. Vai trò.
Trong sản xuất kinh doanh, thị trường đóng vai trò hết sức quan trọng, nó là yếu tố quyết định sống còn đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp và là một yếu tố quan trọng đối với quản lý của Nhà nước.
Thị trường là khâu tất yếu của quá trình tái sản xuất do quá trình hàng hoá bao gồm sản xuất, phân phối trao đổi và tiêu dùng thị trường là chiếc “cầu nối” giữa sản xuất và tiêu dùng. Thị trường chỉ mất đi khi sản xuất hàng hoá không còn.
Mục đích của sản xuất kinh doanh hàng hoá là bán được hàng và thu được lợi nhuận cao dựa trên cơ sở thoả mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng và hoạt động này chỉ có thể thực hiện được trên thị trường. Do vậy, thị trường là sống còn đối với tất cả các doanh nghiệp, là môi trường sống của họ. Bán được hàng hóa nhanh sẽ tạo ra khả năng quay vồng vốn và lợi nhuận cao nên hoạt động bán được coi là bước nhảy nguy hiểm chết người. Do vậy, còn thị trường mới còn sản xuất, nếu mất thị trường thì sản xuất kinh doanh bị đình trệ. Thị trường phá vỡ ranh giới sản xuất tự nhiên tự cung tự cấp, tự túc để tạo thành thể thống nhất trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Qua trao đổi mua bán giữa các vùng sẽ biến kiểu tổ chức khép kín thành các vùng chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá liên hệ mật thiết với nhau. Chuyển kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng hoá.
Thị trường hướng dẫn sản xuất kinh doanh. Các nhà sản xuất kinh doanh sẽ căn cứ vào cung - cầu, giá cả thị trường để hoạch định các kế hoạch, chính sách, chiến lược đúng đắn trước khi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Thị trường giúp cho các doanh nghiệp đánh giá được thực lực của đối thủ cạnh tranh để từ đó có đối sách thích hợp. Hơn nữa thị trường sẽ giúp cho doanh nghiệp sử dụng đúng đắn và tiết kiệm những nguồn lực lao động để kinh doanh có hiệu qủa nhất đạt mục tiêu đề ra.
Thị trường là nơi kiểm nghiệm về sản phẩm ngành hàng sản xuất và kinh doanh. Thị trường cũng phản ánh tình hình sản xuất giống như “ phong vũ biểu” do thời tiết, thị trường cho biết hiện trong kinh doanh. Nhìn vào thị trường sẽ thấy được tốc độ và trình độ của sản xuất kinh doanh. Trong quản lý kinh tế, thị trường là đánh giá và chứng minh tính đúng đắn của các chủ trương, chính sách và biện pháp kinh tế của Đảng và Nhà nước, các nhà sản xuất, các quan hệ xã hội.
b. Chức năng của thị trường.
Chức năng của thị trường là những tác động khách quan vốn có của nó tới quá trình tái sản xuất và tới đời sống kinh tế xã hội. Thị trường bao gồm 4 chức năng sau:
- Chức năng thừa nhận: Bất cứ một doanh nghiệp nào sản xuất ra sản phẩm hay dịch vụ không phải chỉ để thoả mãn nhu cầu của họ mà là để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Những hàng hoá, dịch vụ bán ra được thông qua chức năng thừa nhận của thị trường, còn hàng hoá không bán được tức là thị trường không thừa nhận. Muốn được thị trường thừa nhận thì hàng hoá đó phải phù hợp với yêu cầu thực tiễn của người tiêu dùng về chất lượng, sản lượng, mẫu mã, về giá cả, khả năng thanh toán và nghệ thuật bán hàng. Vì vậy công việc đầu tiên đối với các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường là phải nghiên cứu kỹ thị trường trước khi thực hiện sản xuất kinh doanh.
- Chức năng thực hiện: Chức năng này thể hiện ở chỗ thị trường là nơi diễn ra các hành vi mua bán, thực hiện tổng số cung và cầu trên thị trường, thực hiện cân bằng cung cầu hàng hoá, thực hiện giá trị.... , thông qua chức năng thực hiện của thị trường mà các hàng hoá hình thành nên giá trị trao đổi của mình, làm cơ sở cho sự phân phối các nguồn lực.
- Chức năng điều tiết kích thích: Thị trường vốn có những quản lý và hoạt động riêng của nó. Các qui luật và cơ chế vận hành đó mà được thị trường thực hiện được là chức năng điều tiết kích thích thông qua sự cạnh tranh vốn có giữa các ngành. Mà đặc biệt là gay gắt của cùng một ngành thị trường điều tiết được sự chuyển vốn từ các ngành có lợi nhuận thấp sang các ngành có lợi nhuận cao nhờ đó một số loại sản phẩm bị giảm về số lượng sản xuất. Sự vận động này tạo nên sự cân bằng cung - cầu hàng hoá dịch vụ. Các doanh nghiệp sử dụng triệt để về lợi thế và cơ hội của mình, nhưng đồng thời phải tính toán kỹ càng về mặt chi phí sản xuất và lưu thông để có thể thu được lợi nhuận siêu ngạch.
- Chức năng thông tin: Thông tin về thị trường có vai trò rất quan trọng đối với quản lý vĩ mô và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc thu thập thông tin có độ chính xác cao bao nhiêu hay làm càng tốt bấy nhiêu thì việc ra quyết định quản lý càng đạt hiệu quả. Không có thông tin thị trường thì không thể ra được quyết định và nếu không đủ thông tin hay thiếu thông tin mà vẫn ra quyết định thì sẽ gây ra những sai lầm, dẫn đến thua lỗ hoặc phá sản. Thông tin thị trường tương đối phong phú và đa dạng về tổng cung, tổng cầu, giá cả, cơ cấu, cung - cầu và hướng phát triển của hàng hoá dịch vụ đó.
Tóm lại bốn chức năng trên của thị trường có quan hệ mật thiết với nhau. Mỗi hiện tượng kinh tế diễn ra trên thị trường đều thể hiện 4 chức năng này của thị trường.
3. Quy luật và phạm trù của thị trường:
a. Quy luật của thị trường.
Trên thị trường có nhiều quy luật kinh tế hoạt động đan xen nhau, có quan hệ mật thiết với nhau. Sau đây là một số quy luật quan trọng.
- Quy luật giá trị: Quy luật này quy định hàng hoá phải được sản xuất và trao đổi trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là chi phí bình quân trong xã hội.
- Quy luật cung cầu: Nêu lên mối quan hệ giữa nhu cầu và khả năng cung ứng trên thị trường. Quy luật này quy định cung và cầu luôn luôn có xu thế chuyển động xích lại với nhau tạo nên sự cân bằng trên thị trường.
- Quy luật giá trị thặng dư: Yêu cầu hàng hoá bán ra phải bù đắp chi phí sản xuất và lưu thông đồng thời phải có một khoản lợi nhuận để tái sản xuất sức lao động và tái sản xuất mở rộng.
- Quy luật cạnh tranh: Quy luật hàng hoá sản xuất ra phải ngày càng có chi phí thấp hơn, chất lượng ngày càng tốt hơn để thu lợi nhuận cao và có khả năng cạnh tranh với các hàng hoá khác cùng loại.
Trong các qui luật trên, quy luật giá trị là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hoá. Quy luật giá trị được biểu hiện qua giá cả thị trường. Quy luật giá trị muốn biểu hiện yêu cầu của mình bằng giá cả thị trường phải thông qua sự vận động của quy luật cung - cầu. Ngược lại quy luật này biểu hiện yêu cầu của mình thông qua sự vận động của quy luật giá trị là giá cả.
Quy luật cạnh tranh biểu hiện qua sự cạnh tranh giữa người bán và người bán, giữa người mua với nhau, và giữa người bán và người mua. Cạnh tranh vì lợi ích kinh tế nhằm thực hiện hàng hoá, thực hiện giá trị hàng hoá. Do đó quy luật giá trị cũng là cơ sở của quy luật cạnh tranh.
b. Các phạm trù của thị trường.
- Phạm trù giá trị thị trường: Là thể hiện của giá trị lao động xã hội. Kết tinh trong những hàng hoá được thị trường chấp nhận, giá trị của thị trường là giá trị trung bình của hàng hoá và dịch vụ trong xã hội.
- Phạm trù giá cả thị trường: Là biểu hiện của giá trị thị trường qua trao đổi thị trường, chứ không phải theo ý chí chủ quan.
- Lợi nhuận: Là khoản dôi ra sau khi đã trừ đi chi phí. Lợi nhuận là động lực, là tiền đề phát triển của mọi người tham gia kinh doanh hàng hoá và dịch vụ, là mục tiêu số một của họ.
- Chi phí: Bao gồm chi phí lưu thông từ giao dịch, vận chuyển, bảo quản hàng hoá... Các khoản chi này đòi hỏi phải hợp lý.
- Tiền tệ: Thị trường bao gồm hàng hoá, tiền tệ; người mua, người bán. Nếu không đảm bảo đủ số lượng tiền tệ cần thiết thì lưu thông hàng hoá sẽ gặp khó khăn cho hoạt động mua bán. Còn nếu lượng tiền tệ vượt quá cần thiết sẽ gây nên tình trạng lạm phát.
- Dung lượng thị trường: Là khối lượng cầu có khả năng thanh toán. Dung lượng thị trường về một nhóm hàng hoá hay một loại hàng gồm nhiều chủng loại khác nhau được tính bằng tổng giá trị của một nhóm hàng hay một loại hàng đó. Đối với một loại hàng hoá nhất định, dung lượng được xác định bằng tổng số lượng cầu có khả năng thanh toán. Dung lượng thị trường chịu tác động của nhiều yếu tố; giá cả, tiền lương, tín dụng... Ngoài ra thị trường còn nhiều phạm trù khác như lợi nhuận siêu ngạch, độc quyền kinh doanh ...
4. Phân loại thị trường
Để thành công trong kinh doanh cần hiểu cặn kẽ về thị trường. Để hiểu rõ các loại thị trường và phục vụ tốt cho công tác tiếp thị cần phải phân loại chúng, có nhiều cách phân loại thị trường. Sau đây chỉ xin nêu một số tiêu thức chủ yếu để phân loại thị trường.
a. Căn cứ vào quan hệ mua bán qui mô quốc gia.
Thị trường được chia thành thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.
- Thị trường trong nước: Là thị trường mà ở đó hoạt động mua bán được thực hiện trong phạm vi quốc gia và chủ yếu do người trong quốc gia đó thực hiện.
- Thị trường thế giới: Là nơi diễn ra các hoạt động mua bán giữa các nước với nhau. Sự phân chia này chỉ có ý nghĩa tương đối khi mà nền kinh tế thế giới đang tiến tới quá trình nhất thể hoá, sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc đã biến nên kinh tế của một nước thành một mắt xích của nền kinh tế thế giới. Do vậy giữa hai thị trường có sự tác động qua lại lẫn nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Thị trường trong nước là toàn bộ bộ phận của thị trường thế giới, ngược lại thị trường quốc gia và khu vực có ảnh hưởng đến thị trường thế giới. Thị trường nội địa có thể được phân chia thành thị trường khu vực và thị trường toàn quốc.
Thị trường khu vực: Là thị trường mà các quan hệ mua bán được diễn ra trong một vùng nhất định.
Thị trường toàn quốc: Là thị trường mà các quan hệ mua bán được diễn ra trên mọi vùng của đất nước.
b. Căn cứ vào vai trò của từng khu vực thị trường là hệ thông tin thị trường.
Người ta chia thị trường thành thị trường chính và thị trường chi nhánh.
- Thị trường chính còn gọi là thị trường trung tâm: Là thị trường có khối lượng hàng hoá tiêu thụ trên tất cả các thị trường. Giá cả trên thị trường có ảnh hưởng rất lớn đến giá cả các thị trường khác. Trên thị trường chính có các nhà kinh doanh lớn và có sự cạnh tranh quyết liệt.
- Thị trường chi nhánh: Là thị trường nhỏ và ở đó khối lượng hàng hoá tiêu thụ chiếm tỷ lệ nhỏ không đáng kể so với tổng khối lượng hàng hoá tiêu thụ và nó chịu ảnh hưởng rất lớn từ thị trường chính là giá cả. Sự có mặt trên thị trường chi nhánh là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng sự cạnh tranh của nó cũng không vì thế mà không cao.
c. Căn cứ vào hình thái vật chất của đối tượng trao đổi.
Người ta phân chia thị trường thành thị trường hàng hoá và thị trường dịch vụ.
- Thị trường hàng hoá: Đối tượng trao đổi là hàng hoá với mục tiêu thoả mãn nhu cầu tiêu dùng về vật chất. Thị trường hàng hoá có thể chia thành các loại khác nhau như:
+ Thị trường tư liệu sản xuất và thị trường tư liệu tiêu dùng. Thị trường tư liệu sản xuất, số người chủ yếu tham gia chủ yếu là các doanh nghiệp, việc mua bán thường được biến thành hình thức bán buôn với khối lượng hàng hoá lớn. Còn với thị trường tư liệu tiêu dùng thì số lượng người mua bán nhiều, nhưng mức độ cạnh tranh không gay gắt như thị trường tư liệu sản xuất. Nhìn chung, quan hệ cung - cầu trên thị trường thường biến động nhanh, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có khả năng thích ứng cao.
- Thị trường dịch vụ: Là thị trường trao đổi các loại dịch vụ như sửa chữa, khách sạn du lịch và dịch vụ khác. Thị trường này thường sử dụng lệnh điều phối trực tiếp.
d. Căn cứ vào vai trò của người mua và người bán, người ta chia thị trường thành thị trường người bán và thị trường người mua.
- Trên thị trường người bán, người bán có vai trò quyết định về giá cả, số lượng hàng hoá bán ra...
- Thị trường người mua thì họ quyết định về số lượng, về giá cả... và có quyền lựa chọn người bán.
Thị trường người bán thường xuất hiện ở những nền kinh tế kém phát triển hoặc ở những nền kinh tế cơ chế quản lý vĩ mô vận hành theo cơ chế tập trung bao cấp. Trên thị trường này, người mua có vai trò thụ động, họ chỉ tiêu dùng cái mà người sản xuất bán ra. Các qui luật của kinh tế thị trường hoạt động trên thị trường này bị hạn chế. Do vậy, nền kinh tế đạt hiệu quả thấp, thị trường của người bán sẽ dần bị xoá bỏ cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Vì lẽ đó, thị trường người mua đang là phổ biến và phát triển. Trên thị trường này người mua là “thượng đế” và người bán muốn bán được hàng thì chỉ bán được cái người mua cần, chứ không phải bán những gì mình có.
e. Căn cứ vào vai trò và số lượng người mua và người bán trên thị trường.
Thị trường được chia thành 3 loại sau:
- Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: Có sự tham gia của nhiều người bán và nhiều người mua, thường xuyên diễn ra sự cạnh tranh giữa họ với nhau. ở loại thị trường này gia nhập hay rút lui là tự do và mức độ cạnh tranh thấp, không quyết liệt.
- Thị trường độc quyền: Là thị trường tham gia của bên bán (bên mua) chỉ có một số ít, hơn nhiều so với bên kia. Khi đó sự cạnh tranh chỉ diễn ra ở bên đông hơn để mua hoặc bán và lúc đó số ít sẽ giành được thế chủ động trên thị trường. ở thị trường này gia nhập và rút lui khỏi thị trường đều rất khó khăn, mức độ cạnh tranh rất quyết liệt.
- Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: Khi bên bán hoặc bên mua có một số người tham gia mà bên bán hoặc bên mua lại có nhiều người tham gia, khi ấy đang xen vào độc quyền là sự cạnh tranh diễn ra thường xuyên để giành được lợi nhuận tối đa.
g. Căn cứ vào quan hệ cung - cầu và khả năng thanh toán.
Thị trường được chia thành thị trường thực tế, thị trường tiềm năng và thị trường lý thuyết.
- Thị trường thực tế: Là thị trường mà trên thực tế đã mua được hàng, yêu cầu của họ được thông qua việc cung ứng hàng hoá. Dịch vụ thị trường tiềm năng bao gồm thực tế cộng với một số bộ phận thị trường có yêu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán nhưng chưa được đáp ứng.
- Thị trường lý thuyết: Bao gồm thị trường tiềm năng và bộ phận thị trường người mua có nhu cầu nhưng chưa có khả năng thanh toán.
5. Những bộ phận cấu thành thị trường.
Ta thấy rằng, xem xét thị trường dưới bất kỳ góc độ nào thì đều thấy cung - cầu là trung tâm của thị trường và giá cả là hạt nhân của thị trường, cạnh tranh là linh hồn của thị trường. Do vậy, thị trường với các yếu tố cơ bản của nó là cung - cầu giá cả, các yếu tố này quan hệ mật thiết với nhau và tác động lẫn nhau để tạo ra sự năng động của kinh tế thị trường. Chính vì vậy khi các yếu tố tác động đến thị trường thì nó sẽ tác động đến cung - cầu và giá cả hàng hoá.
a. Cung hàng hoá.
Là toàn bộ hàng hoá hiện có trên thị trường có thể đưa ra thị trường trong một thời gian nhất định. Có nghĩa là cung gồm những hàng hoá có khả năng sản xuất hay nhập khẩu mà đưa ra thị trường trong một thời gian nhất định, thường là một năm.
Các nhân tố tác động đến cung.
- Qui mô và tốc độ phát triển sản xuất.
- Năng xuất lao động là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Điều kiện tài nguyên thiên nhiên.
- Tiến bộ khoa học kỹ thuật.
- Tình hình chính trị trong nước và thế giới.
- Chính sách kinh tế của Nhà nước.
- Cầu và giá cả tác động rất lớn đến cung.
b. Cầu hàng hoá.
Là nhu cầu có khả năng thanh toán hoặc số lượng hàng hoá mà người mua ở mức giá xác định vào thời gian nhất định.Như vậy, cầu là một phần của nhu cầu đảm bảo bằng tiền trên thị trường; để hình thành cầu phải có 2 điều kiện: Nhu cầu và khả năng thanh toán bằng tiền.
Cầu được coi là cầu nối giữa nhu cầu và người tiêu dùng ở dạng nhu cầu - cầu - tiêu dùng.
Khác với nhu cung, cầu bao giờ cũng được định tính, định lượng cụ thể. Tổng khối lượng cầu (giá trị) tổng sức mua gọi là dung lượng thị trường đối với từng loại hàng hoá, định lượng của cầu biểu hiện chung thị trường hàng hoá.
Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu:
- Giá cả và thu nhập của người tiêu dùng.
- Vị trí địa lý, môi trường và điều kiện giao thông vận tải.
- Yếu tố tâm lý xã hội, cá nhân, gia đình.
- Chính sách hạn chế khuyến khích hay hạn chế tiêu dùng của Nhà nước.
c. Giá cả thị trường.
Là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường. Giá cả hàng hoá thị trường lên xuống xoay quanh giá trị thị trường.
Giá trị thị trường được tạo nên bởi 4 yếu tố:
- Giá trị cá biệt hàng hoá.
- Tác động của quan hệ cung - cầu và qui luật lưu thông tiền tệ.
- Giá trị đồng tiền.
- Cạnh tranh.
Điều này cho thấy, đứng trên giác độ xã hội mà xét thì trạng thái tối ưu tương quan về cung - cầu là sự cân bằng, cân đối, sự phù hợp của chúng về số lượng, cơ cấu mặt hàng trong không gian, thời gian. Cân đối cung - cầu là đặc tính chung nhất cho tất cả các phương thức sản xuất có kinh tế hàng hoá, buộc những người sản xuất, người buôn bán phải năng động, ứng xử kịp thời những tình huống của kinh tế thị trường.
II- Vấn đề nghiên cứu thị trường ở doanh nghiệp nước ta trong thời gian qua và các biện pháp hoàn thiện nghiên cứu thị trường.
Thực tế cho thấy, khi chuyển sang kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự hạch toán lỗ lãi, không còn được bao cấp như trước nữa. Cho nên các doanh nghiệp, dù là doanh nghiệp quốc doanh, tập thể, tư nhân hay doanh nghiệp cổ phần đều phải lấy thị trường làm môi trường sống của mình. Đây là một quan điểm đúng đắn cần được phát huy.
Tuy vậy, song các doanh nghiệp nói chung nhất là các doanh nghiệp nhà nước chưa đề ra được một chiến lược nghiên cứu thị trường cụ thể để giải quyết các vấn đề như:
- Nghiên cứu đặc tính thị trường.
- Nghiên cứu thị trường tiềm năng.
- Sự phân chia thị trường giữa các doanh nghiệp.
- Xác định dung lượng địa bàn sản xuất kinh doanh.
- Nghiên cứu các chiến lược kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp...
Mục tiêu nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp còn đơn giản nên thu thập thông tin và tìm kiếm thông tin như cung - cầu, giá cả hàng hoá còn kém. Những thông tin thu được chủ yếu là qua nhân viên bán hàng, do đó chưa phản ánh được toàn bộ thị trường mà chỉ phản ánh thị trường riêng của doanh nghiệp, điều này khôngcó lợi cho chiến lược kinh doanh lâu dài. Các doanh nghiệp khó có thể xác định được quy mô, cơ cấu, sự vạn động của thị trường, các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh như: Môi trường văn hoá xã hội, môi trường kinh tế công nghệ, môi trường cạnh tranh, môi trường chính trị pháp luật, các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp... Nên doanh nghiệp khó phát huy được hết điểm mạnh và hạn chế điểm yếu.
Nếu nhìn toàn cảnh hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong những năm vừa qua thì so với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân có phần nhanh nhạy và thích ứng kịp thời hơn với sự vận động của thị trường, kết quả sản xuất kinh doanh đạt được cũng cao hơn. Nhưng nhìn chung thì chi phí cho nghiên cứu thị trường còn chưa được hợp lý, các nguồn tin thứ cấp như sách báo, ấn phẩm của Nhà nước cũng ít được quan tâm, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước bộ phận nghiên cứu thị trường còn thiếu cán bộ là Marketing chuyên nghiệp hoặc nghiên cứu thị trường chưa khoa học, xâm nhập và mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài còn yếu, mà chỉ coi các khách hàng truyền thông, các bạn hàng lâu năm là thị trường mục tiêu. Từ đó dẫn đến kết quả sản xuất kinh doanh chưa được cao.
Do vậy, cùng với những phương pháp đã nêu để nghiên cứu thị trường thì các doanh nghiệp cần có những biện pháp sau:
- Cần tổ chức bộ máy chuyên sâu về nghiên cứu thị trường, bộ máy này có thể nằm trong phòng kế hoạch, thống kê, liên doanh, liên kết và có nhiệm vụ tổ chức hoạt động nghiên cứu thị trường cho toàn doanh nghiệp.
- Cần tạo điều kiện cho nhân viên quản lý, bán hàng được học tập, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, có hiểu biết về kinh tế thị trường và có kinh nghiệm trong thu thập và xử lý thông tin năng động, nhiệt tình trong công việc. Coi đó là một bộ phận quan trọng trong nghiên cứu thị trường.
- Cần xác định rõ mục tiêu, bộ phận nghiên cứu thị trường, xây dựng chiến lược và kế hoạch cụ thể như biết cách lựa chọn mục tiêu, xây dựng hệ thống Marketing Mix có hiệu lực.
- Các doanh nghiệp nên kết hợp thu thập cả hai nguồn thông tin thứ cấp và sơ cấp để những thông tin này hỗ trợ cho nhau, hạn chế được nhược điểm và nâng cao ưu điểm của từng nguồn.
- Cần đầu tư cho nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp một cách thích đáng, không nên cho rằng vốn ít không có khả năng đầu tư vì hiệu quả mang lại từ việc đầu tư này là rất lớn. Hơn nữa cần quan tâm đến các biện pháp đòn bẩy kinh tế cho những người làm công việc trực tiếp này cũng như toàn thể cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp để họ toàn tâm toàn ý phục vụ doanh nghiệp, đưa doanh nghiệp trở thành vững mạnh.
Kết luận
Việc nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp là một quá trình phức tạp. Nhưng nó lại rất cần thiết và quan trọng để đi đến thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Do đó, coi trọng công tác nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp cũng có nghĩa là coi trọng sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và như vậy, thành công của các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ thúc đẩy ngành thương mại - dịch vụ phát triển để xứng đáng là một ngành mũi nhọn của nền kinh tế đất nước ./.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34990.doc