Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt- Mỹ

Lời mở đầu T rong những năm gần đây, lĩnh vưc tiền tệ, hoạt động ngân hàng và Thị trường tài chính đã trở thành một trong những lĩnh vực kích thích nhất của toàn bộ nền kinh tế. Thị trường tài chính đang thay đổi nhanh chóng với những phương tiện tài chính mới xuất hiện theo từng ngày, từng giờ. Công nghiệp hoạt động ngân hàng trước kia vốn lặng lẽ, nay trở nên sôi động và thường xuyên được nêu trên các phương tiện thông tin đại chúng, thị trường chứng khoán đã trở thành điểm hẹn chung cho tấ

doc97 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t cả mọi người, mọi thành phần kinh tế và trở thành mạch máu quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các nước phát triển; vấn đề chỉ đạo chính sách tiền tệ là khâu trung tâm trong những cuộc tranh luận về đường lối kinh tế. Bước sang những năm đầu của thế kỷ 21, Thế giới đang chứng kiến những thay đổi căn bản trong sự phát triển kinh tế, chính trị xã hội cũng như quan hệ quốc tế, kinh tế ngày càng giữ vai trò quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia, đồng thời tác động sâu sắc tới chính trị, quân sự, văn hoá, xã hội, dân tộc và môi trường sinh thái. Tổng hoà các tác động đó dẫn đến hai dòng phát triển dường như thuận nghịch là hợp tác và cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Những chuyển động này của toàn cầu tác động mạnh mẽ đến các quốc gia, làm ấm dần quan hệ giữa các quốc gia. Hoà cùng nhịp điệu với xu thế chung của toàn cầu, Việt Nam đã và đang tiến hành mở rộng quan hệ ngoại giao, thương mại với tất cả các nước trong khu vực cũng như trên thế giới theo quan điểm “đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại” do Đảng và Nhà nước đưa ra. Thực hiện đường lối này, đến nay Việt Nam đã đặt quan hệ ngoại giao được với hơn 150 nước và vùng lãnh thổ, nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương đã được ký kết và gần đây nhất phải kể đến là Hiệp định thương mại song phương Việt- Mỹ, Hiệp định đánh dấu một bước ngoặt chiến lược trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam, mở ra nhiều cơ hội mới cho Việt Nam thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững. Để thực hiện thành công các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, nền kinh tế Việt Nam đã và đang phải trải qua quá trình cơ cấu và cơ cấu lại, trong đó phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính được coi là nhiệm vụ quan trọng, có tính cơ sở, bởi tài chính đã từng bước được ví như là mạch máu của một nền kinh tế. Một nền kinh tế muốn phát triển thì các dòng vốn phải được lưu thông tốt và đều đặn, liên tục. Mặc dù những cam kết và quy định giữa hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ về lĩnh vực tài chính trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ là khá khắt khe so với trình độ phát triển của thị trường tài chính Việt Nam nhưng chính những yêu cầu được đặt ra trong Hiệp định sẽ mang lại cho thị trường tài chính Việt Nam cơ hội để tự đổi mới và hoàn thiện mình, từ đó đẩy nhanh sự phát triển của cả nền kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề hiện nay đang được khá nhiều người quan tâm tìm hiểu là: những yêu cầu mà Hiệp định thương mại Việt- Mỹ đặt ra cho thị trường tài chính Việt Nam là gì và thị trường tài chính Việt Nam sẽ phải thay đổi ra sao để đáp ứng được những yêu cầu đó? Để giải đáp một phần vấn đề này, em xin chọn đề tài “Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt- Mỹ” làm chủ đề nghiên cứu cho bài khoá luận của mình. Khoá luận gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về thị trường tài chính và những cam kết về thị trường tài chính trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ. Chương II: Thực trạng thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt- Mỹ. Chương III: Các giải pháp nhằm phát triển thị trường tài chính Việt Nam theo các cam kết đặt ra trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ. Đây là một đề tài có phạm vi rộng lớn, nhưng trong giới hạn của một đề tài khoá luận tốt nghiệp, em chỉ đi sâu khai thác một số khía cạnh trên thị trường tài chính mà em cho là chịu ảnh hưởng nhiều nhất của quá trình hội nhập nền tài chính quốc tế. Cũng thông qua đây, em muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới ThS. Đặng Thị Nhàn, người đã đưa ra nhiều ý kiến quý báu và tận tình hướng dẫn để em có thể hoàn thành tốt khoá luận này. Tuy nhiên, do trình độ cũng như khả năng phân tích và tổng hợp tư liệu của bản thân còn hạn chế, cộng với sự eo hẹp về mặt thời gian nên khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót hạn chế. Em rất mong nhận được sự thông cảm cũng như ý kiến chỉ bảo của các thầy cô nhằm rút ra những kinh nghiệm quí báu phục vụ cho việc hoàn thiện đề tài này cũng như việc học tập và nghiên cứu sau này. Chương I: Tổng quan về thị trường tài chính và những cam kết về thị trường tài chính trong Hiệp định thương mại Việt - mỹ I. Khái niệm thị trường tài chính 1. Khái niệm Thị trường tài chính là thị trường trong đó vồn được chuyển từ những người hiện có vốn dư thừa sang những người thiếu vốn. Nền kinh tế nào cũng đều có nhu cầu to lớn để vận hành và phát triển kinh tế. Vậy thì, vốn lấy từ đâu ra? Nói chung, vốn lấy từ ba nguồn: + Nhà nước- Chủ nhân của xí nghiệp quốc doanh cấp vốn cho các xí nghiệp của mình dưới hình thức cho vay, nhằm đảm bảo sự tăng trưởng của chúng; + Hệ thống ngân hàng và các định chế tài chính- những cơ quan này chấp thuận cho các xí nghiệp và các công ty vay với những điều kiện nhất định; + Qua trung gian thị trường tài chính- một công cụ hết sức quan trọng về phương diện cấp vốn. Một vấn đề được nhiều người thừa nhận là các nền kinh tế của các nước công nghiệp hoá đã phát triển mạnh mẽ, bền vững nhờ sự phát triển ổn định của thị trường tài chính. Thị trường tài chính cấp vốn cho nền kinh tế bằng hai cách: tăng tư bản và cho vay vốn. Vậy điều này diễn ra như thế nào? Một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường bắt đầu vận hành được chủ yếu nhờ số vốn đóng góp ban đầu của các “cổ đông” sáng lập. Dần dần doanh nghiệp phát triển, “ăn nên làm ra”, doanh nghiệp cần thêm vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Có thể lúc đầu bằng tài sản của mình và các khoản lợi nhuận thu được do doanh nghiệp trả, các cổ đông sáng lập có thể góp vốn thêm để xí nghiệp phát triển. Nhưng rồi đến một lúc nào đó khi nhu cầu vốn lớn mãi lên họ sẽ không còn đủ khả năng theo kịp tốc độ tăng trưởng đó. Cơ cấu tài chính xí nghiệp sẽ mất cân đối nghĩa là hoặc các khoản tín dụng ngắn hạn đãvượt quá xa nhu cầu cấp vốn lưu động, hoặc vốn tự có chỉ còn đủ cấp một phần nhỏ cho tài sản kinh doanh, trong khi đó các khoản công ty cho vay không dễ gì thu hồi về nhanh được. Doanh nghiệp có thể bị đe doạ phá sản! Trong tình huống này, một khoản tiền vốn “nóng” rót từ bên ngoài vào là tối cần thiết. Khoản tiền đó có thể lấy từ Thị trường tài chính! Cơ chế huy động vốn thông qua thị trường tài chính được hiểu như sau: Một số tác nhân kinh tế có nhu cầu đầu tư nhiều hơn phần mình tiết kiệm được- và do đó cần đến vốn từ bên ngoài (số này, nói chung, là các xí nghiệp thuộc khu vực sản xuất và Nhà nước). Trong khi đó, một số tác nhân kinh tế khác có khoản tiền tiết kiệm nhiều hơn khoản đầu tư- và do vậy có khả năng cấp vốn (số này thông thường là các hộ gia đình). Một trong số các “công cụ” tổ chức ra việc lưu chuyển vốn từ nơi này đến nơi khác chính là Thị trường tài chính. Việc lưu chuyển này có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau hoặc là các doanh nghiệp trực tiếp mua khoản tiết kiệm này của các hộ gia đình trên Thị trường tài chính (thông thường tại thị trường chứng khoán); hoặc là các doanh nghiệp mua lại khoản vốn đó gián tiếp tại các tổ chức tài chính trung gian. Thị trường chứng khoán chỉ là một trong những công cụ cấp vốn, nhưng là một trong những công cụ cấp vốn hợp lý và hiệu quả nhất. 2. Phân loại Thị trường tài chính 2.1. Phân loại theo phương thức vay Theo cách này Thi trường tài chính (TTTC) được chia ra làm 2 loại là Thị trường nợ và Thị trường vốn cổ phần. Bởi trên thực tế có hai cách để một công ty hay một cá nhân có thể vay vốn trong TTTC. Phương pháp chung nhất là người đi vay sẽ phát hành một công cụ vay nợ- có thể là trái khoán hay một món vay thế chấp- để trao cho người vay nắm giữ. Người đi vay phải trả cho người cho vay những khoản tiền lãi nhất định được ghi trong công cụ nợ. Mức lãi suất này lớn hay nhỏ phụ thuộc vào giá trị tiền vay và thời gian vay. Hết thời hạn cho vay, người đi vay phải thanh toán toàn bộ số tiền bao gồm cả cả vốn lẫn lãi cho người cho vay (nếu lãi chưa được trả hết). Trên thị trường nợ, vị thế của người phát hành ra công cụ nợ rất quan trọng. Vị thế của người phát hành cao thì khả năng thanh toán tiền lãi và hoàn vốn đi vay cao và ngược lại. Một công cụ vay nợ là ngắn hạn nếu kỳ hạn thanh toán của nó là một năm hay ít hơn và là dài hạn nếu kỳ hạn thanh toán của nó là 5 năm trở lên. Công cụ vay nợ có kỳ hạn thanh toán giữa 1 và 5 năm được gọi là trung hạn. Phương pháp thứ hai để vay vốn là phát hành những chứng khoán vốn ví dụ như cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi. Chúng là những chứng thư xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu phần vốn đã góp của cổ đông vào doanh nghiệp, do doanh nghiệp phát hành và được chia lãi (gọi là cổ tức) theo phần vốn đã góp cho doanh nghiệp và được huởng các quyền lợi khác do Điều lệ của doanh nghiệp cổ phần quy định. Sự khác biệt chủ yếu giữa các công cụ nợ và các chứng khoán vốn là ở chỗ người sở hữu các công cụ nợ được thanh toán lãi suất đều đặn, đúng quy định đã thoả thuận giữa công ty và các chủ nợ bất kể là công ty đó làm ăn có lãi hay không. Trong khi đó các cổ đông của công ty lại là những người có quyền đòi hưởng cổ tức sau cùng và mức cổ tức được hưởng này lại tuỳ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của công ty. Nhưng khi lợi nhuận và giá trị tài sản của công ty tăng lên thì các thì các cổ đông lại là những người được hưởng lợi trực tiếp bởi vì họ thực sự là những ông chủ của công ty với mức quyền lợi phụ thuộc số vốn đóng góp của họ. 2.2. Phân loại theo thời điểm phát hành chứng khoán Theo cách này ta có TTTC cấp một và TTTC cấp hai. TTTC cấp một là thị trường phát hành ra những chứng khoán vốn và chứng khoán nợ để huy động vốn hoặc tăng vốn cho doanh nghiệp. TTTC cấp hai là thị trường trong đó diễn ra việc mua đi, bán lại các chứng khoán cũ đã được phát hành trên thị trường cấp một. Thị trường cấp một là loại thị trường mà công chúng không biết rõ bởi vì việc bán chứng khoán cho người đầu tiên mua nó diễn ra trong phòng kín. Các công ty phát hành chứng khoán trên TTTC cấp một nhằm mục đích tăng vốn điều lệ cho công ty. Do TTTC cấp một là một thị trường phát hành nên cơ cấu của nó phải bao gồm đầy đủ các yếu tố tạo lập chứng khoán như hình thức chứng khoán, thủ tục tăng vốn, các nghiệp vụ giao dịch chứng khoán mới, các yếu tố pháp lý có liên quan tới việc đăng ký, lưu thông và bảo quản, cất trữ chứng khoán… Thị trường cấp hai là thị trường mua bán những chứng khoán đã được phát hành từ trước và việc mua bán được tổ chức công khai với nhiều công cụ thiết bị thông tin cập nhật, hiện đại. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường cấp hai không làm tăng vốn của công ty mà chỉ có tác dụng dịch chuyển vốn từ nơi này sang nơi khác, từ người này sang người khác. Những ví dụ về TTTC cấp hai là các Sở Giao dịch chứng khoán, các Thị trường ngoại hối, Thị trường tài chính kỳ hạn. TTTC cấp hai thực hiện hai chức năng: Thứ nhất, nhờ có TTTC cấp hai mà những công cụ tài chính chuyển đổi được ra tiền mặt dễ dàng hơn, nghĩa là nó có tính “lỏng” cao hơn. Điều này làm cho các công cụ tài chính có tính hấp dẫn hơn với công chúng và làm tăng cầu về hàng hoá trên TTTC cấp một. Thứ hai, thị trường cấp hai xác định giá của mỗi chứng khoán mà công ty phát hành bán ở thị trường cấp một. Những hãng mua các chứng khoán ở thị trường cấp một sẽ chỉ thanh toán cho công ty phát hành với giá mà họ cho rằng thị trường cấp hai sẽ chấp nhận cho chứng khoán này. Giá chứng khoán ở thị trường cấp hai càng cao thì giá phát hành ở TTTC cấp một càng cao và ngược lại 2.3. Phân loại theo cơ sở kỳ hạn thanh toán của chứng khoán Trên cơ sở kỳ hạn thanh toán của chứng khoán được mua bán trên thị trường, TTTC được chia ra làm 2 loại là thị trường tiền tệ và thị trường vốn Thị trường tiền tệ là một thị trường tài chính trong đó chỉ có những công cụ nợ ngắn hạn (kỳ hạn thanh toán từ 1 năm trở xuống) được mua bán. Thị trường vốn là thị trường trong đó những công cụ vay nợ dài hạn hơn (kỳ hạn thanh toán lớn hơn 1 năm), và cổ phiếu được mua bán. So với những công cụ vay nợ dài hạn, những công cụ nợ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ có tính thanh khoản cao, dao động giá nhỏ và ít rủi ro hơn cho nên chúng thường được mua bán rộng rãi. Tuy nhiên hoạt động trên thị trường vốn lại thu hút được nhiều nhà đầu tư kinh doanh vốn và các công ty lớn hơn bởi giá trị giao dịch trên thị trường này lớn hơn nhiều so với Thị trường tiền tệ. II. Cơ cấu thị trường tài chính Việc phân tích cơ cấu TTTC được tiến hành dựa trên cơ sở kỳ hạn thanh toán của chứng khoán. Theo cách phân loại này, Thị trường tài chính bao gồm Thị trường tiền tệ và Thị trường vốn. Ngoài ra, cơ cấu TTTC còn có thể phân ra thêm 1 loại nữa là thị trường ngoại tệ hay còn gọi là thị trường ngoại hối. Tại Việt Nam, thị trường này còn ở dạng sơ khai và được đặt trong Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng- tức là một thành phần của Thị trường tiền tệ. Nhưng ở hầu hết các nước phát triển mà Mỹ là một điền hình thì thị trường này hoạt động như một bộ phận TTTC tương đối độc lập. Do đó việc nghiên cứu riêng thị trường ngoại hối là rất cần thiết. 1. Thị trường tiền tệ 1.1. Khái niệm Thị trường tiền tệ Theo nghĩa rộng, Thị trường tiền tệ là thị trường vay vốn ngắn hạn giữa các tổ chức tài chính và khách hàng của họ. Trước đây, Thị trường tiền tệ được hình thành do nhu cầu của các Ngân hàng muốn trao đổi với nhau các khoản vốn tạm thời dư dôi ở một số Ngân hàng với những khoản vốn thiếu ở một số Ngân hàng khác. Do đó, việc tham gia Thị trường tiền tệ chỉ hạn chế trong một số tổ chức tài chính nhất định như các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư. Những năm gần đây, khái niệm Thị trường tiền tệ được mở rộng bao hàm cả không chỉ Ngân hàng và các tổ chức tài chính mà còn cả các doanh nghiệp không phải Ngân hàng. Ngân hàng và các tổ chức tài chính này mua và bán trên thị trường số vốn tạm thời dư thừa nhằm duy trì khả năng thanh toán của mình, cho vay để kiếm lãi, vay vốn để hoạt động. Thị trường tiền tệ kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt là “tiền tệ”. Sự biến động về số lượng, tỷ giá của loại hàng hoá này không chỉ ảnh hưởng tới việc kinh doanh của mỗi cá nhân mà còn tác động tới sự ổn định và tăng trưởng của cả một nền kinh tế. Chính vì vậy, Thị trường tiền tệ luôn được Nhà nước quan tâm và kiểm soát chặt chẽ bằng hệ thống pháp luật. Đối tượng tham gia Thị trường tiền tệ là các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng thực hiện chức năng vay để cho vay với lãi suất cao hơn. Trong công nghệ này, các Ngân hàng thương mại hoạt động trong giới hạn quy định của NHTƯ về khoản dự trữ bắt buộc (khoản này không được trả lãi) và về các khoản vay vốn cho hoạt động tín dụng (NHTƯ khống chế bằng lãi suất chiết khấu). 1.2. Hoạt động của Thị trường tiền tệ Trong nền kinh tế, một số cá nhân, doanh nghiệp thường có lượng tiền nhàn rỗi, ngược lại một số các cá nhân, doanh nghiệp khác lại cần tiền để mua sắm đầu tư. Cũng như sự vận động của bất kỳ hàng hoá nào, tiền vận động từ nơi có tiền đến nơi cần tiền thông qua Thị trường tiền tệ. ở đây, các cá nhân, doanh nghiệp này thường tác động lẫn nhau sao cho người cho vay và người đi vay đều có lợi nhất. Lãi suất trên Thị trường tiền tệ cũng giống như giá cả thị trường của hàng hoá khác phụ thuộc vào cung cầu tiền tệ trên thị trường. Cung tiền tệ trên thị trường là khả năng có thể đáp ứng các nhu cầu về tiền tệ bao gồm các khối lượng tiền tệ sẵn có và tiền tệ có thể cho vay được. Trong nền kinh tế, số tiền đang lưu hành ngoài Ngân hàng, các khoản tiền gửi ở Ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng khác có thể rút ra được đã hình thành nên tổng mức cung. Thông thường, Chính phủ có thể kiểm soát được tổng mức cung tiền tệ trong nền kinh tế. Cầu tiền tệ trên thị trường là nhu cầu về tiền tệ của các cá nhân, doanh nghiệp để mua sắm, đầu tư v.v… Cầu tiền tệ là đại lượng nhạy cảm với lãi suất. Khi lãi suất tăng lên, trong các điều kiện không đổi, cầu thường giảm xuống và ngược lại. Và tác động của cung cầu tiền tệ đến lãi suất diễn ra như sau: Do giá cả hàng hoá tăng lên, nhu cầu về đầu tư sản xuất, mua sắm cũng tăng lên v.v… cầu tiền tệ cũng tăng lên và làm cho lãi suất cũng tăng theo. Tuy nhiên, mức tăng này của lãi suất cũng có một giới hạn nhất định. Sự tăng lên của lãi suất đến một mức độ nào đó, người vay sẽ thấy sử dụng tiền vay không có hiệu quả bằng cho vay, nói cách khác lợi nhuận thu được do sử dụng đồng vốn đi vay nhỏ hơn lãi suất vay, các doanh nghiệp sẽ không vay được nữa hoặc chuyển từ đi vay sang cho vay, kết quả là kéo lãi suất xuống. Tình hình cũng sẽ diễn ra như vậy nếu cung tiền tệ bị giảm đi do các chính sách thắt chặt tiền tệ. Ngược lại, khi cung tiền tệ tăng lên, lãi suất trên thị trường sẽ giảm xuống. Thị trường tiền tệ không phải là nơi có địa điểm “hữu hình” để người mua và người bán đến gặp nhau và thực hiện các giao dịch, mà chỉ là một khái niệm nói lên sự tiếp xúc giữa hai yếu tố cơ bản của thị trường là cung và cầu để hình thành nên các hoạt động cũng như hình thành giá cả tín dụng (lãi suất). Đối tượng của Thị trường tiền tệ là các chứng khoán ngắn hạn thông thường dưới 1 năm, các hối phiếu thương mại, các kỳ phiếu Ngân hàng, các khế ước giao hàng, các tín phiếu Kho bạc ngắn hạn, v.v… Nhưng đây là các công cụ tài chính có khả năng thanh khoản cao và ít rủi ro, đặc biệt đối với những người cần một khoản tiền mặt, thì họ có thể dễ dàng bán các loại phiếu ghi nợ ngắn hạn hơn là bán các loại phiếu ghi nợ dài hạn và chịu phí tổn ít hơn. Hơn nữa, các phiếu ghi nợ ngắn hạn ít bị rủi ro, vì thời gian hoàn vốn ngắn và người chủ nợ có thể tính toán được ngay giá cả và mức lãi suất của nó bằng phép tính đơn giản. Giá cả của các loại phiếu ghi nợ này cũng lên xuống linh hoạt theo quy luật cung cầu. Hoạt động kinh doanh tiền tệ của các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng bị khống chế bởi lãi suất và chịu sự điều tiết của NHTƯ. Mức tăng, giảm lãi suất phụ thuộc vào quan hệ cung cầu về tiền tệ, vào chính sách tiền tệ của NHTƯ và các chính sách của Chính phủ. NHTƯ giữ tiền dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng để đảm bảo cho sự hoạt động an toàn của chúng và các hoạt động tiền tệ, tín dụng nói chung trong nền kinh tế. Do số lượng các tổ chức tín dụng này rất lớn nên NHTƯ chỉ cần sử dụng một phần số tiền dự trữ bắt buộc để dự trữ là đủ. Số còn lại có thể cho các tổ chức tín dụng vay. Vậy, Thị trường tiền tệ đã thực hiện 2 chức năng cơ bản, đó là: Cân đối, điều hoà khả năng chi trả giữa các Ngân hàng; và cân đối các nguồn vốn vay và cho vay giữa các tổ chức tín dụng và NHTƯ. Có thể phân biệt hai loại nghiệp vụ được thực hiện trên Thị trường tiền tệ. Một là, nghiệp vụ cho vay ngắn hạn của NHTƯ cho các Ngân hàng thương mại vay để thực hiện chức năng cung ứng, cân bằng tiền tệ hay người cho vay cứu cánh cuối cùng, hoặc của các tổ chức tín dụng có số dư tạm thời về khả năng chi trả đối với các tổ chức tín dụng đang gặp khó khăn về nguồn vốn huy động. Hai là, nghiệp vụ mua bán các chứng khoán ngắn hạn. Trong nghiệp vụ thứ nhất, đối tượng của Thị trường tiền tệ là hoạt động cho vay và giá cả của khoản tiền cho vay là lãi suất. Các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng đang thiếu vốn cố gắng huy động được chúng với lãi suất càng thấp càng tốt, còn các Ngân hàng cho vay lại cố gắng tìm kiếm lãi suất cho vay cao. Đây là thị trường dành cho các công cụ nợ ngắn hạn: Chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được (negotiable certificates of deposit), thương phiếu, tín phiếu Ngân hàng, trái phiếu kho bạc ngắn hạn, giấy nợ khấu trừ trước (Discount note), số tiền vay mượn giữa các Ngân hàng. Nơi đây những nhà đầu tư như Ngân hàng, công ty uỷ thác, công ty bảo hiểm có số thặng dư tiền mặt tạm thời sẽ cố gắng khai thác số tiền này trong một thời gian rất ngắn, thậm chí chỉ cách một đêm bằng cách cho những người khác vay như kho bạc Nhà nước, NHTM, các công ty cổ phần, các nhà kinh doanh (Dealer), chính quyền địa phương, các công cụ Thị trường tiền tệ ngắn hạn để thanh toán nợ ngắn hạn hay để đáp ứng các quy định về tiền mặt tạm thời. Những người mua bán ở Thị trường tiền tệ liên tục liên lạc với nhau và với những người đi vay và nhà đầu tư (người cho vay) để kiếm lợi nhuận trong các cơ hội mua bán song hành. Việc này làm cho giá cả được thống nhất trên thị trường. Nhà đầu tư bao gồm NHTM, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp phi tài chính, Ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tài chính phi Ngân hàng v.v…ngoài lý do hoa lợi hấp dẫn tụ hợp trong Thị trường tiền tệ còn vì 3 lý do cơ bản sau đây: - Thứ nhất, đây là thị trường có tính linh hoạt cao (dễ chuyển đổi ra tiền mặt) - Thứ hai, có mức độ an toàn vốn cao vì người phát hành (người đi vay) thông thường được đánh giá có khả năng tín dụng cao. Tuy nhiên, nhà đầu tư phải lưu ý rằng có một số loại công cụ tín dụng không thể xem là hoàn toàn không có rủi ro như kỳ phiếu… - Thứ ba, thời gian đáo hạn trong thị trường tiền tệ rất ngắn do đó ít bị rủi ro hơn. 2. Thị trường vốn 2.1. Các quan điểm về Thị trường vốn Thị trường vốn (hay còn gọi là thị trường tư bản) là nơi diễn ra hoạt động mua- bán các chứng khoán và các giấy ghi nợ trung và dài hạn. Liên quan đến quan hệ giữa thị trường vốn và thị trường chứng khoán, hiện nay đang có hai quan điểm chủ yếu sau: Quan điểm thứ nhất, cho rằng thị trường vốn và thị trường chứng khoán là khác nhau vì công cụ của Thị trường vốn ngoài các chứng khoán dài hạn, còn có các giấy ghi nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Quan điểm thứ hai, xuất phát từ định nghĩa chứng khoán là một công cụ tài chính có thể mua bán chuyển nhượng được, cho rằng Thị trường vốn và thị trường chứng khoán chỉ là một. Nhưng đứng trên góc độ của một người đang tìm hiểu và nghiên cứu TTTC trong bối cảnh hội nhập quốc tế, không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia, tác giả ủng hộ quan điểm cho rằng thị trường chứng khoán và thị trường vốn chỉ là một. Bởi lẽ, nếu xét về mặt nội dung, thì Thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua và bán các sản phẩm tài chính. Thị trường chứng khoán là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể phân biệt tách rời nhau, mà nó là thực thể thống nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản. Thực tế trên thế giới, người ta hay nói đến thị trường chứng khoán- hình thức giao dịch vốn, mà ít nói đến thị trường vốn- quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua, bán, chuyển nhượng các giấy tờ có giá. Sở dĩ ở Việt Nam thường hay tách riêng hai khái niệm này là bởi vì thị trường chứng khoán ở Việt Nam còn chưa thực sự phát triển, các hình thức ghi nợ còn nhiều hơn là hình thức mua bán lại các chứng khoán có giá. 2.2. Hoạt động của thị trường vốn Xét bề ngoài, hoạt động trên thị trường vốn không chỉ là các sự việc mua đi bán lại hay chuyển đổi các giấy tờ có giá từ tay chủ thể này sang tay chủ thể khác một cách đơn thuần. Về thực chất, đây chính là quá trình chuyển dịch vốn ở hình thái tiền tệ, hay nói cách khác, nó là quá trình chuyển tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Do đó, các quan hệ mua, bán các chứng khoán và các giấy ghi nợ trung, dài hạn trên thị trường vốn phản ánh sự thay đổi các chủ thể sở hữu về chứng khoán và các giấy ghi nợ trung, dài hạn. Vì vậy, Thị trường vốn, xét về mặt bản chất, phản ánh các quan hệ mua bán không phải một số lượng nhất định các tư liệu sản xuất, các khoản tiền mặt, mà là quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và vốn tiền mặt. Như đã phân tích ở phần 2.1. Các quan điểm về thị trường vốn, thị trường vốn và thị trường chứng khoán từ nay sẽ được coi là một, cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản. Nhắc đến thị trường chứng khoán có nghĩa là chúng ta đang đề cập đến thị trường vốn và ngược lại. Nếu dựa vào nguồn gốc ra đời chứng khoán thì thị trường chứng khoán được phân thành hai loại là thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường chứng khoán sơ cấp (Primary Market) là thị trường mà ở đó là nơi phát hành ra những chứng khoán vốn và chứng khoán nợ, tức là thị trường sản sinh ra hàng hoá của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán sơ cấp có tác dụng huy động vốn hoặc tăng vốn cho các doanh nghiệp và là thị trường phát hành trái phiếu chính phủ để Nhà nước vay tiền của tất cả các thành phần kinh tế quốc dân. Chính vì lẽ đó, thị trường này còn được gọi là thị trường phát hành. Các doanh nghiệp được quyền phát hành chứng khoán để huy động vốn hoặc tăng vốn có thể có nhiều phương thức phát hành, trong các phương thức đó thì việc phát hành thông qua thị trường chứng khoán chiếm một tỷ trọng đáng kể. Do vậy, chức năng của thị trường chứng khoán sơ cấp là góp phần huy động vốn cho các doanh nghiệp và huy động tiền vay cho Chính phủ và cơ quan Chính phủ. Khi huy động vốn bằng tiền cho doanh nghiệp hay Chính phủ, các doanh nghiệp và Chính phủ phải phát hành “giấy chứng nhận góp vốn hoặc vay tiền” cho người đầu tư và người cho vay, các giấy này được gọi là chứng khoán vốn và chứng khoán nợ. Chứng khoán vốn còn được gọi là cổ phiếu- là một chứng thư xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu phần vốn đã góp của cổ đông vào doanh nghiệp do doanh nghiệp phát hành và được chia lãi (gọi là cổ tức) của phần vốn đã góp theo quy định của doanh nghiệp, được hưởng các quyền do Điều lệ của doanh nghiệp cổ phần quy định. Chứng khoán nợ là chứng thư xác nhận một khoản nợ của người phát hành ra nó, trong đó cam kết sẽ trả khoản nợ kèm với tiền lãi trong một thời hạn nhất định. Các chứng khoán này có thể dùng để mua bán, chuyển nhượng, trao đổi v.v… trên thị trường, chúng được gọi là chứng khoán có giá. Vì vậy, thị trường chứng khoán sơ cấp còn có thêm một chức năng thứ hai là tạo ra “hàng hoá” cho thị trường chứng khoán. Công ty cổ phần là doanh nghiệp phát hành chứng khoán vốn và chứng khoán nợ chủ yếu trên thị trường sơ cấp. Có 3 phương thức phát hành như sau: - Một là phát hành trực tiếp tại doanh nghiệp: là phương thức phát hành khá phổ biến có ưu điểm là bán thẳng tận gốc cho các nhà đầu tư cuối cùng, do đó giảm được chi phí phát hành. - Hai là phương thức phát hành qua các trung gian tài chính mà họ có tư cách là người đại lý như Ngân hàng thương mại, Công ty tài chính, Công ty bảo hiểm, Quỹ tương hỗ đầu tư v.v… Theo phương thức phát hành này, các doanh nghiệp có thể tiêu thụ một khối lượng lớn chứng khoán, do đó, huy động vốn tương đối nhanh. Tuy nhiên, chi phí của phương thức phát hành này lại rất cao. - Ba là phương thức phát hành trực tiếp ra công chúng: Theo phương thức này, các doanh nghiệp phát hành trực tiếp chứng khoán ra công chúng dưới hình thức bảo lãnh (Under writing). Người đứng ra ký hợp đồng bảo lãnh chứng khoán gọi là Nhà bảo lãnh. Nhà bảo lãnh có thể là Ngân hàng, Công ty chứng khoán hoặc là những thể nhân chuyên kinh doanh trong lĩnh vực này. Sau khi chứng khoán được phát hành ở thị trường sơ cấp, thì chứng khoán đó đã trở thành một loại hàng hoá đặc biệt, ta gọi là chứng khoán có giá (Securities). Chứng khoán có giá sẽ được mua đi bán lại trên thị trường khác, thị trường này gọi là Thị trường chứng khoán thứ cấp (Secondary Market). Nguồn thu nhập từ việc mua bán chứng khoán này sẽ thuộc về các nhà đầu tư, các nhà kinh doanh chứ không thuộc về các đơn vị phát hành ra chứng khoán đó. Trung tâm của thị trường chứng khoán thứ cấp là Sở giao dịch chứng khoán (Stock Exchange) và thị trường giao dịch qua quầy OTC (Over-The- Counter). Đặc trưng kinh doanh của Sở giao dịch chứng khoán là đấu giá giữa những người mua cạnh tranh và giữa người bán cạnh tranh thông qua người trung gian. Còn đặc trưng của thị trường OTC là giao dịch trên cơ sở thương lượng trực tiếp giữa người bán và người mua chứng khoán. Công việc hàng ngày của bất kỳ thị trường chứng khoán thứ cấp nào đều là việc mua bán các chứng khoán đã phát hành, gồm có cổ phiếu và cổ phần giữa những người đầu tư mà vì một nguyên nhân hoặc mong muốn nào đó, thay đổi quyết định đầu tư của mình. Đây là một thị trường thu hút sự chú ý của dân chúng và nó là nơi giao dịch hàng ngày giữa các nhà môi giới chứng khoán. Một thị trường thứ cấp với bất kỳ một quy mô nào đó đều có một chỉ số theo dõi giá cả được nhiều người biết đến như là “phong vũ biểu của thị trường”. Thị trường chứng khoán sơ cấp và thị trường chứng khoán thứ cấp phụ thuộc lẫn nhau. Hiển nhiên, thị trường chứng khoán thứ cấp sẽ không tồn tại nếu không có sự phát hành chứng khoán có thể chuyển nhượng tại thị trường sơ cấp. Sự thành công của thị trường thứ cấp còn chi phối sự thành công của thị trường sơ cấp. Thị trường chứng khoán sơ cấp thì huy động vốn nhàn rỗi và vốn tiết kiệm trong xã hội để đầu tư vào sản xuất từ đó làm cho quy mô vốn quốc gia tăng lên, góp phần tạo ra các lượng giá trị mới cho xã hội. Thị trường chứng khoán thứ cấp thì góp phần phân phối lại vốn giữa các ngành tạo ra tính lỏng cho Thị trường chứng khoán từ đó tạo ra động lực cho sự phát triển. 3. Thị trường ngoại hối 3.1. Khái niệm thị trường ngoại hối Ngoài hai thị trường cơ bản nói trên còn có thị trường ngoại hối. Thị trường ngoại hối là nơi mà ở đó xảy ra việc mua và bán, trao đổi ngoại hối, trong đó chủ yếu là trao đổi, mua bán ngoại tệ và các phương tiện thanh toán quốc tế. Do tính chất riêng biệt chuyên mua bán ngoại tệ, nên ở nhiều nơi thị trường này hoạt động như một bộ phận thị trường tài chính tương đối độc lập. Tại Việt Nam, thị trường này còn ở dạng sơ khai và được đặt trong Thị trường tiền tệ. Quá trình hình thành và phát triển của thị trường ngoại hối đã hình thành hai hệ thống tổ chức khác nhau. Hệ thống hối đoái Anh- Mỹ và hệ thống hối đoái Châu Âu. Theo hệ thống Anh- Mỹ thì thị trường ngoại hối có tính chất biểu tượng, chỉ giao dịch ngoại hối thường xuyên giữa một số ngân hàng và người môi giới, quan hệ này có thể là trực tiếp, song chủ yếu là thông qua điện thoại, telex. Ngược lại, theo hệ thống lục địa (Pháp, ý…), thì thị trường ngoại hối có địa điểm nhất định, hàng ngày, những người mua cỡ lớn có các chi nhánh, đại lý ở nước ngoài giữ vai trò quan trọng trong thị trường ngoại hối. Các ngân hàng này kinh doanh ngoại hối là chủ yếu, còn các ngân hàng khác đóng vai trò phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh dưới sự chỉ đạo của các ngân hàng thương mại cỡ lớn này. Tham gia vào thị trường ngoại hối gồm._. có: - Các ngân hàng thương mại (NHTM): Các Ngân hàng này được phép tiến hành kinh doanh, giao dịch ngoại hối với tư cách là trung gian được uỷ quyền. Các Ngân hàng tiến hành giao dịch giữa các Ngân hàng với nhau và với các khách hàng khác. - Các nhà môi giới là những trung gian được uỷ quyền giữa các Ngân hàng. Họ là những thành phần đóng góp tích cực vào hoạt động của thị trường ngoại hối bằng cách làm cho cung và cầu tiếp cận nhau theo từng giờ giao dịch và nhờ vào những mối quan hệ của mình, họ thường xuyên đưa lại những thông tin và khả năng tìm thấy bạn hàng nhanh chóng và kịp thời. - Các doanh nghiệp: Các doanh nghiệp tham gia vào thị trường ngoại hối thường là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, thực hiện bán lại ngoại tệ cho ngân hàng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu và mua ngoại tệ của ngân hàng đối với các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá nước ngoài. - Ngân hàng Trung ương (NHTƯ): Sự tham gia vào thị trường ngoại hối của NHTƯ là rất cần thiết. Một mặt để phục vụ khách hàng của Ngân hàng (các cơ quan hành chính, các tổ chức quốc tế…), mặt khác, NHTƯ là cơ quan giám sát hoạt động của thị trường theo quy định của Luật Ngân hàng. Thông qua diễn biến giá trị của đồng tiền trong nước, NHTƯ có thể can thiệp vào thị trường để quản lý tỷ giá hối đoái, hạn chế sự dao động của giá trị đồng tiền. 3.2 Hoạt động của thị trường ngoại hối Có hai loại giao dịch chủ yếu trên Thị trường ngoại hối, đó là: mua bán ngoại tệ và cho vay ngoại tệ. Hai loại giao dịch này làm phát sinh hai bộ phận thị trường tương ứng của Thị trường ngoại hối là thị trường giao ngay (Spot Market) và thị trường giao dịch có kỳ hạn (Forward Market). Thị trường giao ngay là thị trường mà việc mua bán, thanh toán và giao nhận ngoại hối xảy ra đồng thời. Thị trường giao dịch có kỳ hạn là thị trường mà việc ký kết hoạt động mua bán ngoại hối và việc giao nhận ngoại hối không diễn ra đồng thời, có nghĩa là ký hợp đồng hôm nay nhưng giao nhận ngoại hối sau đó và ngày do hai bên thoả thuận. Thị trường ngoại hối có kỳ hạn có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo hiểm ngoại hối, nhằm tránh những rủi ro do tỷ giá ngoại hối biến động gây ra. Các nghiệp vụ cơ bản trên thị trường ngoại hối gồm có: - Nghiệp vụ mua bán ngoại hối có kỳ hạn: là một giao dịch trong đó mọi điều khoản của hợp đồng mua bán được định ra trong hiện tại, song việc thực hiện các điều khoản đó sẽ xảy ra trong tương lai, hay nói cách khác, đó là nghiệp vụ mua bán ngoại hối mà việc giao nhận sẽ tiến hành sau một thời gian nhất định, theo một tỷ giá thoả thuận lúc ký kết hợp đồng. - Nghiệp vụ Arbitrate: là một dạng biến tướng của nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối giao ngay. Nghiệp vụ Artribate theo ý nguyên thuỷ của nó là việc lợi dụng sự chênh lệch về tỷ giá giữa các thị trường ngoại hối khác nhau để thu lời thông qua hoạt động mua và bán. Nội dung của nghiệp vụ này bao gồm việc mua một lượng ngoại hối nhất định tại thị trường ngoại hối rẻ nhất hoặc bán một lượng ngoại hối đắt nhất vào một thời điểm nhất định. Trong trường hợp mua ngoại hối tại thị trường rẻ nhất đồng thời bán số ngoại hối đó tại thị trường ngoại hối đắt nhất thì gọi là Artribate chênh lệch hay Artribate không gian (Space Artribate). - Nghiệp vụ SWAP: Lợi dụng cơ chế tín dụng SWAP, ngân hàng phối hợp mua và bán ngoại tệ giao ngay với mua, bán ngoại tệ có kỳ hạn theo hướng ngược lại nhằm kiếm lãi hoặc bảo tồn vốn. Nghiệp vụ SWAP không những có thể kiếm lãi mà còn có thể tránh được rủi ro tiền tệ biến động. - Giao dịch hợp đồng ngoại hối Future: Trong khi các giao dịch kỳ hạn thường được tiến hành qua điện thoại, thì các giao dịch này thường diễn ra tại một địa điểm cụ thể, chẳng hạn như các sở giao dịch. Tại đây các hợp đồng mua bán ngoại tệ được ký kết thông qua môi giới. Các hoạt động Future có tính tiêu chuẩn hoá rất cao. Tỷ giá trong giao dịch Future thường cao hơn tỷ giá trong các giao dịch kỳ hạn do chi phí giao dịch Future cao hơn. Ngoài ra người đến giao dịch còn phải chịu một khoản phí môi giới được quy định theo tiêu chuẩn cho mỗi loại hợp đồng. Sau khi ký hợp đồng, người mua phải ký quỹ một khoản tiền quy định cho mỗi hợp đồng nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng. Trong giao dịch kỳ hạn, hợp đồng mua bán được kết thúc bằng việc giao nhận thật vào ngày thoả thuận trước (Real Transaction). Còn trong giao dịch Furure, khách hàng có thể kết thúc hợp đồng vào bất cứ lúc nào bằng cách ký một hợp đồng khác mua (nếu hợp đồng trước là hợp đồng bán) hoặc bán (nếu hợp đồng trước là hợp đồng mua) với cùng số tiền và cùng ngày thanh toán. Tất nhiên tỷ giá của hai hợp đồng này không giống nhau. Trên thực tế hầu hết các giao dịch Future (trên 90%) kết thúc theo kiểu này. Đó chính là một dạng giao dịch khống, một công cụ bảo hiểm chống lại rủi ro hối đoái. - Nghiệp vụ quyền lựa chọn mua bán ngoại tệ (Option transaction): Giao dịch quyền lựa chọn mua bán ngoại tệ là một loại giao dịch được thực hiện trên cơ sở ký hợp đồng quyền chọn mua (Call option) hoặc quyền chọn bán (Put option) một số lượng ngoại tệ nhất định, theo một giá quy định và việc thực hiện hợp đồng sẽ xảy ra trong tương lai. Trong giao dịch này, các chủ thể có thể lựa chọn quyền thực hiện hợp đồng hoặc cũng có thể lựa chọn quyền huỷ hợp đồng, nếu có lợi. Tuy nhiên nếu huỷ hợp đồng thì sẽ mất tiền đặt cọc đảm bảo thực hiện hợp đồng. Ngân hàng Trung ương chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ của một nước. Tuỳ theo hệ thống hối đoái mà NHTƯ tác động lên Thị trường ngoại hối của nước đó. Vậy thì NHTƯ tác động vào Thị trường ngoại hối để duy trì tỷ giá hối đoái như thế nào? NHTƯ là một thành viên không thể thiếu trong các phiên ấn định tỷ giá và giành quyền can thiệp vào thị trường với tư cách là người mua hoặc người bán. Nếu tỷ giá có xu hướng giảm (tức là đồng tiền trong nước trở nên có giá trị hơn) thì NHTƯ sẽ mua ngoại tệ vào, nếu tỷ giá có xu hướng tăng (hay là đồng tiền trong nước bị mất giá) thì NHTƯ cần phải sử dụng dự trữ ngoại tệ của mình (tuy nhiên cũng cần phải cân nhắc sao cho không làm cạn kiệt số dự trữ ngoại hối) để tung ra bán. III. Chức năng của Thị trường tài chính 1. Chức năng huy động vốn TTTC tạo nên một chu trình cấp vốn thông qua chức năng của thị trường sơ cấp. Thị trường sơ cấp cho phép “lấy” vốn và trực tiếp chuyển đổi khoản tiết kiệm của các hộ gia đình thành các nguồn vốn dài hạn cho các xí nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đổi lại các khoản vốn thu được tại thị trường này, các công ty phát hành các chứng khoán, chủ yếu là các cổ phiếu và trái phiếu, chứa đựng hay nói cách khác “vật chất hoá” các quyền và quyền lợi của những người “bán vốn” cho họ. Vậy là thị trường sơ cấp thiết lập nên mối quan hệ giữa các tác nhân cần vốn và các tác nhân có khả năng cấp vốn. TTTC thực hiện các chức năng kinh tế cốt lõi trong việc dẫn vốn từ những người thừa vốn (vì họ chi tiêu ít hơn) sang những người thiếu vốn (vì họ muốn chi tiêu nhiều hơn) và việc dẫn vốn được thực hiện theo hai con đường: Tài chính trực tiếp Vốn Vốn Vốn Vốn Những trung gian tài chính Những người cho vay (Người tiết kiệm) 1. Các gia đình 2. Các hãng kinh doanh 3. Nhà nước 4. Người nước ngoài Những người vay (Người chi tiêu) 1. Các hãng kinh doanh 2. Chính phủ 3. Nhà nước 4. Người nước ngoài Các thị trường tài chính Vốn Tài chính gián tiếp Tài chính trực tiếp Vốn Vốn Vốn Vốn Những trung gian tài chính Những người cho vay (Người tiết kiệm) 1. Các gia đình 2. Các hãng kinh doanh 3. Nhà nước 4. Người nước ngoài Những người vay (Người chi tiêu) 1. Các hãng kinh doanh 2. Chính phủ 3. Nhà nước 4. Người nước ngoài Các thị trường tài chính Vốn Tài chính gián tiếp Hình 1: những dòng vốn đi qua hệ thống tài chính - Con đường thứ nhất: Tài chính trực tiếp Trong tài chính trực tiếp (con đường phía dưới đáy ở sơ đồ) những người đi vay vốn trực tiếp từ người cho vay trong các TTTC bằng cách trao đổi với họ “chứng khoán”, những chứng khoán này hoặc là những cổ phiếu (quyền sở hữu) đối với thu nhập hoặc tài sản trong tương lai của người phát hành hoặc trái phiếu (trái quyền) đối với các khoản nợ của người vay. Như vậy, chứng khoán là tài sản có đối với người mua chúng và là tài sản nợ đối với những người phát hành chúng. Do đó ta thấy rằng nếu không có TTTC thì sẽ rất khó chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu tư sang người có cơ hội đầu tư. Sự tồn tại của TTTC cũng có lợi ngay cả khi người đi vay không có mục đích kinh doanh. Thực hiện chức năng chuyển vốn từ những người không có cơ hội đầu tư sang người có cơ hội đầu tư, TTTC giúp nâng cao năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. - Con đường thứ hai: Tài chính gián tiếp Tài chính gián tiếp thông qua các trung gian tài chính. Trên sơ đồ ta có thể thấy tiền có thể chuyển từ người cho vay sang người vay bằng con đường thứ hai (con đường phía trên sơ đồ) được gọi là tài chính gián tiếp vì nó liên hệ thông qua nhân vật thứ ba. Một trung gian tài chính đứng giữa người cho vay và người vay, người tiết kiệm và người chi tiêu đồng thời giúp chuyển vốn từ người này sang người kia. Những trung gian tài chính thực hiện việc kinh doanh chuyển vốn từ người dư vốn sang người cần vốn bằng việc đặt một lãi suất cao hơn cho các món cho vay so với lãi suất của các món mà họ đi vay để thu lợi nhuận. Nhưng điều quan trọng hơn cả ở đây là hoạt động của các trung gian tài chính làm cho lãi suất- còn gọi là giá cả của tiền tệ phản ánh đúng cung cầu thị trường. Như vậy, nhờ hoạt động tài chính gián tiếp (được gọi là sự trung gian tài chính) thị trường tài chính được vận hành. 2. Chức năng luân chuyển vốn Ngoài chức năng huy động vốn vừa nêu trên, TTTC còn thực hiện một chức năng khác đó là luân chuyển vốn. Sự luân chuyển vốn xảy ra trên thị trường thứ cấp. ở đây diễn ra sự mặc cả, mua đi, bán lại các chứng khoán đã phát hành và do vậy luôn có sự chuyển sở hữu vốn kinh doanh từ tay người này qua tay người khác. Vậy là, TTTC cho phép huy động các khoản đầu tư dưới dạng các cổ phiếu và trái phiếu, nhưng đồng thời cũng dành cho người đầu tư khả năng “rút chân” ra khỏi thị trường vốn, nghĩa là rút tiền đã đầu tư ra khi cần. 3. Chức năng định giá trị doanh nghiệp Hệ quả của việc đinh giá, mua bán chứng khoán trên TTTC là sự đánh giá lại các tài sản tài chính của từng tác nhân kinh tế tham gia vào thị trường. Như vậy TTTC ngoài việc cung cấp thường xuyên các chỉ số tài chính cụ thể về trạng thái “sức khoẻ” của nền kinh tế, nó cho phép xác đinh một cách khách quan giá trị của từng doanh nghiệp tham gia vào thị trường. Nhờ chức năng này, người đầu tư có được phương hướng đầu tư vốn rõ ràng hơn, các nhà quản lý có được quyết sách cụ thể hơn để phát triển doanh nghiệp của mình trong tương lai. Còn đối với các Chính phủ, đặc biệt các Chính phủ ở các nền kinh tế chuyển đổi có được căn cứ thực tiễn để tiến hành tư nhân hoá, cổ phần hoá hay thanh lý doanh nghiệp thuộc sở hữu của mình. 4. Chức năng khuyến khích cạnh tranh và tăng hiệu quả kinh doanh Kết quả của biến động chỉ số chứng khoán trên thị trường tác động trực tiếp đến uy tín của doanh nghiệp đã phát hành ra chứng khoán đó. Một cổ phiếu lên giá liên tục không những làm tăng giá trị tài sản của công ty mà còn làm tăng uy tín của nó trên thương trường. Ngược lại, một cổ phiếu xuống giá liên tục không những làm giảm giá trị tài sản mà còn làm giảm uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Chính vì lý do này, để thu hút vốn đầu tư các doanh nghiệp cần phải không ngừng nâng cao uy tín của mình và nâng cao giá trị cổ phiếu. Một cổ phiếu của công ty muốn lên giá thì công ty phải thực sự làm ăn kinh doanh tốt, có hiệu quả. Điều đó dẫn đến sự cạnh tranh không ngừng giữa các công ty để nâng cao hiệu quả kinh doanh và hiệu quả đầu tư vào kinh doanh. IV. Vai trò của thị trường tài chính đối với nền kinh tế quốc dân TTTC có một vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế. Nó cho phép vốn chuyển từ người không có cơ hội đầu tư sinh lợi tới những người có cơ hội như thế. Làm việc này, TTTC đã giúp nâng cao năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Nó cũng trực tiếp cải thiện mức sống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm của họ tốt hơn. Nó cung cấp vốn cho những người trẻ tuổi mua cái họ cần và cuối cùng có đủ khả năng thanh toán trả mà không buộc họ phải chờ cho đến khi họ tiết kiệm đủ món tiền để mua. TTTC lúc đang hoạt động hữu hiệu sẽ cải thiện đời sống kinh tế của mỗi người trong xã hội. Nói một cách chung nhất, TTTC đã khuyến khích người dân tiết kiệm và tạo thói quen để dành tích cực. Bởi vì khả năng sinh lợi của các loại chứng khoán gây ra ý muốn tiết kiệm để đưa tiền vào đầu tư. Mỗi người trong xã hội có một số tiền tiết kiệm bé nhỏ, nhưng tổng số tiền tiết kiệm của cả xã hội sẽ to lớn hơn bất cứ tài sản của cá nhân nào. Đối với một nền kinh tế quốc dân, TTTC là nơi cung cấp vốn một cách hiệu quả cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Một đất nước muốn tiến hành thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì không nên quá trông chờ vào những nguồn vốn ở bên ngoài trong khi nguồn vốn trong nước không được chú ý khai thác triệt để. TTTC đã thực hiện xuất sắc vai trò khai thác mọi khả năng tiết kiệm và tự đầu tư phát triển của nhân dân, của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế… nâng cao các tỷ trọng của nguồn vốn này trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Thông qua TTCK- một bộ phận quan trọng, hiệu quả của TTTC, các chủ thể kinh tế đều có thể trở thành nhà đầu tư trực tiếp vào nền kinh tế quốc dân và trở thành người chủ sở hữu một phần giá trị tài sản của doanh nghiệp. Hơn nữa, nhờ vào trào lưu quốc tế hoá TTTC quốc gia cho nên TTTC còn có vai trò là người dẫn vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước, đồng thời dẫn vốn đầu tư trong nước ra nước ngoài- những nước có cơ hội đầu tư và môi trường đầu tư có lợi hơn. Cuối cùng, TTCK còn có vai trò như chiếc “phong vũ biểu” của nền kinh tế quốc dân. Sở dĩ như vậy là vì một nền kinh tế phát triển thì lợi nhuận đem chia cho các chủ đầu tư tăng lên. Lợi nhuận tăng cũng là một yếu tố làm cho giá cả chứng khoán tăng lên, dung lượng mua bán chứng khoán do đó cũng tăng theo. Ngược lại, kinh tế suy thoái sẽ dẫn đến sự hoạt động sút kém của thị trường. Những nhà hoạch định chính sách quản lý thường quan sát chiếc “phong vũ biểu” này để phân tích và dự đoán, đề ra các chính sách điều tiết kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thích hợp nhằm thông qua TTCK để tác động đến các hoạt động của nền kinh tế quốc dân hoặc ngược lại. v. Giới thiệu chung về Hiệp định thương mại Việt- Mỹ 1. Bối cảnh ra đời Hiệp định thương mại Việt- Mỹ (HĐTMVM) Chúng ta đi vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trùng với thời điểm trên Thế giới đang diễn ra những thay đổi to lớn về chính trị và kinh tế. Xu thế hoà bình, hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia trên Thế giới. Cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất (từ dân đông, nhiều vũ khí và tiềm lực quân sự mạnh sang tiềm lực kinh tế), mục đích của các quốc gia là tạo ra được nhiều của cải vật chất trong quốc gia mình và đạt được mức tăng trưởng cao, cải thiện đời sống nhân dân, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Tiềm lực kinh tế trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các Đảng cầm quyền. Vì thế, các quốc gia đều dành ưu tiên cho phát triển kinh tế. Muốn vậy, cần có môi trường hoà bình, ổn định để hợp tác phát triển. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác giữa các quốc gia, làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá cao độ, phân công lao động quốc tế vượt ra khỏi phạm vi quốc gia. Tình hình đó vừa đặt ra yêu cầu, vừa tạo khả năng tổ chức lại thị trường trong phạm vi toàn cầu, đưa toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế trở thành xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế. Tất cả các nước, để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung và ra sức cạnh tranh kinh tế trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh. Vì sự tồn tại và phát triển của chính mình, các nước đều tiến hành điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Những động thái này làm cho việc trao đổi hàng hoá, luân chuyển vốn và kỹ thuật trên Thế giới ngày càng thông thoáng hơn. Thương mại đã đạt tới bình diện toàn cầu khi những cản trở với giao lưu và hợp tác quốc tế ngày càng giảm đi. Hội nhập quốc tế thực chất là một cuộc đấu tranh phức tạp để góp phần phát triển kinh tế, củng cố an ninh chính trị, độc lập kinh tế và bản sắc dân tộc của mỗi nước thông qua việc thiết lập các mối quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau, đan xen nhiều chiều, ở nhiều tầng nấc với các quốc gia khác. Với những lợi ích được thừa nhận rộng rãi như vậy, tự do hoá thương mại đã trở thành mục tiêu chung của cộng đồng quốc tế, việc dàn xếp các khung quy phạm thương mại quốc tế đã và đang được đưa vào chương trình nghị sự của các hội nghị toàn cầu. Thêm vào đó, các quốc gia ngày nay trong nỗ lực tăng cường hội nhập để phát triển của mình đã không dừng lại ở các Hiệp định thương mại đa biên có tính quốc tế của WTO… mà còn tăng cường sử dụng cả những Hiệp định thương mại song phương. Hoà nhịp với xu thế phát triển chung của toàn cầu, hiện nay Việt Nam đang ra sức đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ học hỏi và vận dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của Thế giới vào việc phát triển kinh tế, rút ngắn thời gian thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu đưa Việt Nam trở thành một nước có nền kinh tế phát triển ngang tầm với nền kinh tế của những nước tiên tiến trong khu vực Châu á- Thái Bình Dương như Indonesia, Malaysia, Philippin… Để đạt được mục tiêu đã đề ra, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện “đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại”. Cho đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN), tham gia với tư cách sáng lập viên của Diễn đàn hợp tác á Âu (ASEM), là thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á Thái Bình Dương… Bên cạnh đó, tính đến ngày 25/10/2000, Việt Nam đã ký được 58 Hiệp định thương mại song phương Báo cáo về phương hướng phát triển ngành thương mại Việt Nam trong thế kỷ tới của BTM, trang 5 , trong đó đáng chú ý là Hiệp định thương mại song phương Việt- Mỹ. 2. Nội dung cơ bản của Hiệp định 2.1. Giới thiệu chung về nội dung của HĐTMVM Với 7 chương với 12 điều và 9 phụ lục, HĐTMVM là một Hiệp định toàn diện mang tính thực chất về kinh tế, gồm các lĩnh vực: thương mại hàng hoá, quyền sở hữu trí tuệ, thương mại dịch vụ, phát triển quan hệ đầu tư, giải quyết tranh chấp… và được phân bổ theo cấu trúc: Chương I: Thương mại hàng hoá (9 điều) Chương II: Quyền sở hữu trí tuệ (18 điều) Chương III: Thương mại dịch vụ (11 điều) Chương IV: Phát triển quan hệ đầu tư (15 điều) Chương V: Tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh (3 điều) Chương VI: Các quy định về tính minh bạch và quyền khiếu kiện (8 điều) Chương VII: Điều khoản chung (8 điều) Kèm theo cuối Hiệp định là các phụ lục A,B,C,D,E,F,G,H,I cùng với thư của Bộ trưởng Thương mại Việt Nam Vũ Khoan và thư của đại diện thương mại Mỹ Charlene Barshefsky. Có thể nói rằng hai nguyên tắc cơ bản xuyên suốt toàn bộ nội dung của Hiệp định là nguyên tắc Đãi ngộ Tối huệ quốc MFN (còn gọi là nguyên tắc đãi ngộ bình thường- NTR) và nguyên tắc đối xử quốc gia NT. Theo nguyên tắc Đãi ngộ Tối huệ quốc MFN thì hai bên cam kết sẽ không có sự phân biệt đối xử giữa hàng hoá dịch vụ nhập khẩu, nhà đầu tư của mỗi bên với hàng hoá và dịch vụ, nhà đầu tư của nước thứ ba (đương nhiên trừ các ưu đãi dành cho các nước trong liên minh thuế quan hoặc khu vực mậu dịch tự do hoặc mậu dịch đường biên mà một bên tham gia). Ví dụ, các nhà đầu tư của Mỹ sẽ được hưởng ưu đãi không kém hơn ưu đãi đối với hàng hoá, dịch vụ, nhà đầu tư của Nhật Bản, EU hay nước thứ ba nào khác và sẽ không được hưởng ưu đãi mà Việt Nam dành cho các nước cùng tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), ngược lại, Việt Nam cũng sẽ không được hưởng những ưu đãi mà Mỹ dành cho các nước trong khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Theo nguyên tắc đối xử quốc gia NT trong HĐTMVM thì mỗi bên phải dành cho hàng hoá, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư của bên kia sự đối xử không kém phần thuận lợi hơn sự đối xử mà mình đã dành cho hàng hoá, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ và đầu tư của mình. Theo WTO thì nguyên tắc này chỉ áp dụng với sản phẩm, nhưng theo HĐTMVM thì diện áp dụng nguyên tắc này rộng hơn rất nhiều, áp dụng cả với công ty và các nhà đầu tư, dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Đối với Việt Nam, HĐTMVM là một Hiệp định có phạm vi rộng, nội dung toàn diện và mức độ phức tạp hơn bất kỳ hiệp định thương mại nào đã ký kết từ trước đến nay, bởi vì: Thứ nhất, về mặt nội dung, so với các hiệp định thương mại hàng hoá Việt Nam đã ký kết trước đây, thì phạm vi điều chỉnh của HĐTMVM không chỉ giới hạn trong lĩnh vực thương mại hàng hoá mà đã mở rộng sang cả lĩnh vực thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ và đầu tư, bao gồm cả đầu tư gián tiếp, tạo thuận lợi cho kinh doanh… Thứ hai, về kết cấu, đây là hiệp định thương mại có nhiều chương, điều và phụ lục nhất. Thứ ba, quá trình đàm phán Hiệp định kéo dài gần 5 năm từ năm 1996 đến năm 2000. Hiệp định được xây dựng trên cơ sở các nguên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế đã được khẳng định trong Hiến chương Liên hợp quốc là: “bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi quốc gia”. Hiệp định này còn tuân thủ các quy tắc và tiêu chuẩn được áp dụng trong Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhưng có tính đến đặc thù của Việt Nam là một nước đang phát triển đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và Thế giới. 2.2. Những cam kết cụ thể về Thị trường tài chính Những cam kết giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về lĩnh vực tài chính trong HĐTMVM không được quy định cụ thể thành chương riêng mà được quy định trong chương III về thương mại dịch vụ dưới hình thức “các dịch vụ ngân hàng và tài chính” cùng với gần 50 hình thức dịch vụ khác như: dịch vụ pháp luật, các dịch vụ kế toán, kiểm toán, các dịch vụ kiến trúc, các dịch vụ giáo dục trong các ngành kỹ thuật, khoa học tự nhiên và công nghệ… Trong chương III này, những nội dung như: khái niệm về hoạt động thương mại dịch vụ, nghĩa vụ của mỗi bên khi tiến hành các hoạt động thương mại dịch vụ,… được quy định khá cụ thể và chi tiết, kèm theo đó là bảng phụ lục G quy định lộ trình cam kết thương mại dịch vụ cụ thể về các nội dung: các lĩnh vực- ngành, các giới hạn về tiếp cận thị trường, các giới hạn về đối xử quốc gia trên cơ sở hai tiêu chí, đó là: các cam kết nền chung và các cam kết về từng lĩnh vực và ngành cụ thể. Theo đó, việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng và tài chính của nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ được quy định như sau: * Những loại hình dịch vụ ngân hàng và tài chính mà nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ được phép kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam bao gồm: (i) Nhận tiền gửi và các khoản tiền từ công chúng; (ii) Cho vay các hình thức, bao gồm tín dụng tiêu dùng, tín dụng thế chấp, bao tiêu và các giao dịch thương mại khác; (iii) Thuê mua tài chính; (iv) Tất cả các giao dịch thanh toán và chuyển tiền, bao gồm các thẻ tín dụng, ghi nợ, báo nợ, séc du lịch và hối phiếu ngân hàng; (v) Bảo lãnh và cam kết thanh toán; (vi) Môi giới tiền tệ; (vii) Quản lý tài sản như: quản lý tiền mặt, quản lý danh mục đầu tư, mọi hình thức quản lý đầu tư tập thể, quản lý quỹ hưu trí, các dịch vụ trông coi bảo quản, lưu giữ và uỷ thác; (viii) Các dịch vụ thanh toán và quyết toán đối với các tài sản tài chính bao gồm các chứng khoán, các sản phẩm tài chính phái sinh và các công cụ thanh toán khác; (ix) Buôn bán cho tài khoản của mình hay cho tài khoản của khách hàng tại Sở giao dịch chứng khoán, trên thị trường chứng khoán không chính thức OTC hay trên các thị trường khác những sản phẩm sau: a, Các sản phẩm của thị trường tiền tệ, bao gồm séc, hối phiếu, chứng chỉ tiền gửi; b, Ngoại hối; c, Các sản phẩm tài chính phái sinh, bao gồm, nhưng không hạn chế ở các hợp đồng giao dịch tương lai (Futures), và quyền chọn (Options); d, Các sản phẩm dựa trên tỷ giá hối đoái và lãi suất, bao gồm các sản phẩm như hoán đổi (Swaps), các hợp đồng kỳ hạn (Forward); e, Các chứng khoán có thể chuyển nhượng; g, Các công cụ có thể thanh toán và các tài sản tài chính khác, kể cả vàng nén; (x) Tham gia vào việc phát hành mọi loại chứng khoán, kể cả bảo lãnh phát hành và chào bán như đại lý (theo cách công khai hoặc theo thoả thuận riêng) và cung cấp các dịch vụ liên quan đến việc phát hành đó. * Những loại hình dịch vụ ngân hàng và tài chính mà chính phủ Việt Nam chưa cam kết cho phép phía Hoa Kỳ được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam gồm: (i) Cung cấp và chuyển thông tin tài chính và xử lý dữ liệu tài chính, và các phần mềm của các nhà cung cấp các dịnh vụ tài chính khác; (ii) Tư vấn, trung gian môi giới và các dịch vụ tài chính phụ trợ khác liên quan đến các hoạt động tại các mục từ (i) đến (ix) được nêu ở phần trên, kể cả tham chiếu và phân tích tín dụng, tư vấn và nghiên cứu đầu tư và danh mục đầu tư, tư vấn về thụ đắc và về chiến lược cơ cấu công ty. * Những hình thức pháp lý mà nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa Kỳ được phép thông qua để cung cấp dịch vụ tại Việt Nam bao gồm: (i) Chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ; (ii) Ngân hàng liên doanh Việt Nam- Hoa Kỳ; (iii) Công ty thuê mua tài chính 100% vốn Hoa Kỳ; (iv) Công ty thuê mua tài chính liên doanh Việt Nam- Hoa Kỳ; F Để thành lập và hoạt động tại Việt Nam, chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ, ngân hàng con của Hoa Kỳ và ngân hàng liên doanh Việt Nam- Hoa Kỳ phải nộp đơn xin giấy phép. F Điều kiện để thành lập chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ tại Việt Nam:  Vốn do ngân hàng mẹ cấp phải tối thiểu là 15 triệu đô la Mỹ; ‚ Ngân hàng mẹ có văn bản đảm bảo chịu mọi trách nhiệm và cam kết của chi nhánh tại Việt Nam. F Điều kiện thành lập ngân hàng liên doanh Việt Nam- Hoa Kỳ hay ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ là vốn điều lệ tối thiểu 10 triệu đô la Mỹ. F Điều kiện thành lập công ty thuê mua tài chính 100% vốn Hoa Kỳ và công ty thuê mua tài chính liên doanh Việt Nam- Hoa Kỳ:  Các chủ đầu tư phải kinh doanh 3 năm liên tục có lãi; ‚ Vốn điều lệ tối thiểu đơn vị được thành lập là 5 triệu đô la Mỹ. Theo bảng phụ lục G, có 7 cột mốc lộ trình cho việc triển khai thực hiện việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng và tài chính của các Nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ tại Việt Nam như sau: Thứ nhất, trong vòng 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, hình thức pháp lý duy nhất thông qua đó các Nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ khác (ngoài ngân hàng và công ty thuê mua tài chính) có thể cung cấp các dịch vụ tài chính tại Việt Nam là liên doanh với đối tác Việt Nam. Sau thời gian đó, hạn chế này sẽ được bãi bỏ. Thứ hai, sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các Ngân hàng Hoa Kỳ được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trong thời gian 9 năm sau đó, các Ngân hàng Hoa Kỳ có thể thành lập ngân hàng liên doanh với đối tác Việt Nam, trong đó phần góp vốn của đối tác Hoa Kỳ không thấp hơn 30% nhưng không vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh. Thứ ba, trong vòng 8 năm đầu kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam có thể hạn chế quyền của một chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam từ các pháp nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo mức vốn pháp định của chi nhánh phù hợp với biểu sau; sau thời gian đó, các hạn chế này sẽ được bãi bỏ. Năm thứ 1: 50% (vốn pháp định chuyển vào) Năm thứ 2: 100% Năm thứ 3: 250% Năm thứ 4: 400% Năm thứ 5: 600% Năm thứ 6: 700% Năm thứ 7: 900% Năm thứ 8: đối xử quốc gia đầy đủ. Thứ tư, trong vòng 10 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam có thể hạn chế quyền của một chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam từ các nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo mức vốn pháp định của chi nhánh ngân hàng phù hợp với biểu sau; sau thời gian đó, các hạn chế này sẽ được bãi bỏ. Năm thứ 1: 50% (vốn pháp định chuyển vào) Năm thứ 2: 100% Năm thứ 3: 250% Năm thứ 4: 350% Năm thứ 5: 500% Năm thứ 6: 650% Năm thứ 7: 800% Năm thứ 8: 900% Năm thứ 9: 1000% Năm thứ 10: đối xử quốc gia đầy đủ. Trong thời hạn bảo lưu, không có năm nào tỷ lệ huy động tiền Đồng cả hai kênh trên đây của chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ vượt mức đối xử quốc gia. Thứ năm, sau 8 năm kể khi Hiệp định có hiệu lực, các định chế tài chính có vốn đầu tư Hoa Kỳ được phép phát hành thẻ tín dụng trên cơ sở đối xử quốc gia. Thứ sáu, chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ không được đặt các máy rút tiền tự động tại các địa điểm ngoài văn phòng của họ cho tới khi các Ngân hàng Việt Nam được phép làm như vậy. Chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ không được lập các điểm giao dịch phụ thuộc. Thứ bẩy, sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam dành đối xử quốc gia đầy đủ đối với quyền tiếp cận ngân hàng Trung Ương trong các hoạt động tái chiết khấu, swap, forward. Hiệp định cũng quy định các Ngân hàng Hoa Kỳ được mua cổ phần của các Ngân hàng quốc doanh của Việt Nam, nhưng Việt Nam có thể hạn chế trên cơ sở đối xử quốc gia, việc tham gia cổ phần của các Ngân hàng Hoa Kỳ tại các Ngân hàng quốc doanh được cổ phần hoá như mức tham gia cổ phần của các Ngân hàng Việt Nam. Ngoài ra, các Ngân hàng 100% vốn Hoa Kỳ hoạt động tại Việt Nam có thể nhận thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn, phụ lục G của HĐTMVM quy định như sau: các đơn vị tài chính ngân hàng 100% vốn của Hoa Kỳ không được nhận thế chấp bằng quyền sử dụng đất, nhưng sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các đơn vị tài chính ngân hàng 100% vốn đầu tư Hoa Kỳ chỉ được quyền nhận tài sản thế chấp bằng quyền sử dụng đất của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và có được quyền sử dụng đất mà được thế chấp cho các khoản vay trong trường hợp mất khả năng thanh toán cho khoản vay, phá sản hay giải thể của xí nghiệp vay nợ đó. Trong giai đoạn hiện nay, để đáp ứng được những cam kết và lộ trình như trên, TTTC Việt Nam đã và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, bởi lẽ: Việt Nam là một nước._.n tiến hành chọn lọc những cán bộ có đủ kiến thức và phẩm chất cần thiết đáp ứng những yêu cầu của công tác quản lý và điều hành hệ thống tài chính quốc gia, tập trung đào tạo các nghiệp vụ mới, kiến thức mới, công nghệ mới và kỹ năng quản lý một ngân hàng hiện đại. - Về lâu dài cần có tiêu chí và chuẩn mực cụ thể về các chức danh công việc, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch đào tạo và tuyển dụng theo yêu cầu của từng loại chức danh. Đây là biện pháp có hiệu quả nhất nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và sử dụng nhân lực, hạn chế việc tuyển dụng không đúng yêu cầu hoặc tăng biên chế không cần thiết. 2. Đối với thị trường ngoại hối Bước sang thế kỷ 21, điều không thể đảo ngược đó là xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên mạnh mẽ; tự do hoá thương mại, đầu tư và tài chính diễn ra với cường độ và quy mô chưa từng có. Sự hội nhập quốc tế của kinh tế Việt Nam thông qua cơ chế thị trường mở là nhu cầu khách quan có tính quy luật tất yếu. Với vai trò như là chiếc cầu nối giữa kinh tế nội địa với kinh tế thế giới bên ngoài, thì việc phát triển và hoàn thiện TTNH Việt Nam theo hướng toàn diện, hiện đại phù hợp với trình độ và chuẩn mực quốc tế là cần thiết. Trong những năm qua, TTNH Việt Nam đã có những bước phát triển đáng ghi nhận như chính sách quản lý ngoại hối đã được hoàn thiện căn bản phù hợp với hướng phát triển kinh tế thị trường mở, bước đầu đã đưa một số các giao dịch kinh doanh ngoại hối vào cuộc sống như giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn… Tuy nhiên, TTNH Việt Nam còn non trẻ và sơ khai về trình độ, quy mô hoạt động cũng như kỹ năng thực hiện nghiệp vụ kinh doanh. Hơn nữa, giữa TTNH Việt Nam và TTNH quốc tế có một khoảng cách xa về tổ chức, quy mô, nghiệp vụ và kỹ năng giao dịch. Để rút ngắn khoảng cách và tiến tới hoà nhập với thị trường ngoại hối quốc tế, đồng thời đáp ứng tốt các cam kết trong HĐTMVM về TTNH, em xin nêu ra dưới đây một số giải pháp nhằm phát triển và hoàn thiện TTNH Việt Nam trong tiến trình hội nhập 2.1. Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá Chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi theo xu hướng thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước của ta hiện nay là khá hoàn chỉnh, tuy nhiên vẫn có một vấn đề lớn cần phải bàn, đó là việc xác định mức tỷ giá hợp lý, phù hợp với động thái kinh tế vĩ mô, giải quyết tốt quan hệ xuất, nhập khẩu trong chiến lược phát triển kinh tế nhanh bền vững và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong những năm vừa qua, đồng Việt Nam lên giá so với USD đã gây rất nhiều tranh luận và bản thân NHNN cũng đã có những lúng túng nhất định trong chính sách tỷ giá. Đối với TTNH Việt Nam, tốt nhất nên xây dựng một cơ chế điều hành tỷ giá theo xu hướng linh hoạt hơn, tỷ giá được hình thành theo quan hệ cung, cầu ngoại tệ trên thị trường. Muốn vậy cần phải có các giải pháp sau: - Khuyến khích các NHTM phát huy vai trò kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, làm thế nào để các NHTM khi thừa ngoại tệ thì tất yếu phải chào bán, khi thiếu ngoại tệ thì tất yếu phải chào mua, không để ngoại hối đóng băng mà luôn vận động để sinh lời, khi đó khối lượng giao dịch trên thị trường ngày càng lớn thì tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng sẽ phản ánh cung cầu ngoại tệ trên thị trường. - Cần nới rộng biên độ dao động tỷ giá, không nên để mức dao động hẹp như trước là +0,1%, nay là ±0,25% mặc dù với mức 0,25% đã là rộng so với 0,1% nhưng cũng vẫn là một biên độ, dễ dẫn đến tỷ giá vận động một chiều, gây căng thẳng cung cầu ngoại tệ. - Không nên quy định tỷ giá gắn với USD dẫn đến tâm lý ưa chuộng USD mà ít quan tâm đến các ngoại tệ khác. Sắp tới Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa với các nước khu vực, với khối EU thì tỷ giá giữa VND với ngoại tệ khác sẽ bị bất lợi hơn nhiều. Vì vậy, cần đưa ra chính sách tỷ giá, trạng thái ngoại hối không phân biệt, không hướng dẫn, để thị trường lựa chọn tỷ giá với các loại ngoại tệ trong khu vực phù hợp với giao dịch thương mại và dịch vụ 2.2.Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Như chúng ta đã biết, nhân tố tỷ giá đóng vai trò quyết định trong việc phát triển TTNH hoạt động hiệu quả. Tỷ giá là giá cả ngoại tệ được hình thành theo quan hệ cung cầu trên TTNH, bao gồm tỷ giá bán buôn và tỷ giá bán lẻ. Tỷ giá bán buôn được hình thành trên TTNTLNH, còn tỷ giá bán lẻ được hình thành trên cơ sở tỷ giá bán buôn cộng với phí bán lẻ của ngân hàng. Đối với những nước có TTNH phát triển, tỷ giá liên ngân hàng luôn là tỷ giá cơ bản và đặc trưng cho quan hệ cung cầu ngoại tệ của cả nền kinh tế. Còn đối với Việt Nam, do trình độ TTNH còn sơ khai, ngoài yếu tố tỷ giá, còn bị ràng buộc bởi nhiều yếu tố can thiệp hành chính, do đó tỷ giá giao dịch bình quân trên TTNTLNH chưa thể là tỷ giá cơ bản và đặc trưng cho cả nền kinh tế. Như vậy, để có một TTNTLNH hoạt động hiệu quả, đảm bảo tỷ giá trên thị trường này phản ánh trung thực cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế thì: - Việc can thiệp của NHNN cần phải diễn ra kịp thời với quy mô thích hợp, có như vậy thì thị trường hoạt động mới thông suốt. Một khi NHNN không tiến hành can thiệp hoặc can thiệp diễn ra chậm hoặc quy mô can thiệp không thích hợp sẽ làm phát sinh tâm lý rụt rè ngóng đợi, khiến cho thị trường rơi vào tình trạng trầm lắng, kích thích đầu cơ và gây áp lực lên tỷ giá. Điều cần lưu ý rằng, sự can thiệp của NHNN ảnh hưởng lên TTNH lớn hơn nhiều so với quy mô can thiệp của chính nó. Như vậy, chỉ cần một động thái khôn ngoan thích hợp của NHNN cũng đủ để thị trường tiếp tục hoạt động thông suốt và hiệu quả. - Tiến hành thiết lập TTNTLNH theo mô hình tổ chức kép, bao gồm TTNTLNH trực tiếp giữa các ngân hàng và thị trường gián tiếp qua môi giới. - Mở rộng số lượng thành viên, tạo ra môi trường và điều kiện để các thành viên tham gia thị trường tích cực, tránh tình trạng giao dịch trên thị trường diễn ra một chiều, nghĩa là một số ngân hàng chuyên đi bán, số khác thì chuyên đi mua, như trong thời gian vừa qua. 2.3. Nâng cao vai trò của NHNN trên thị trường ngoại hối Với vai trò là NHTƯ, NHNN tham gia TTNTLNH với tư cách vừa là thành viên vừa là người tổ chức, quản lý điều hành hoạt động của thị trường này. Do TTNH Việt Nam còn sơ khai, có độ thanh khoản thấp, tỷ giá kém linh hoạt và chưa thực sự trở thành công cụ điều tiết cung cầu ngoại tệ, cho nên sự can thiệp của NHNN trên TTNH đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết cung cầu ngoại tệ, nhằm bôi trơn và giúp cho TTNH hoạt động thông suốt. NHNN cũng đồng thời thực hiện chức năng người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Nhưng, trên thực tế, do dự trữ ngoại tệ của NHNN mỏng, không ổn định, lại qua nhiều tầng nấc quản lý, do đó, NHNN chưa thể làm tốt vai trò là người mua bán cuối cùng trên TTNTLNH, nên tình trạng căng thẳng về ngoại tệ thường xảy ra. Như vậy, để NHNN thực hiện tốt vai trò trên TTNTLNH cần: - Hướng tới một tỷ giá thị trường cân bằng, nhằm biến tỷ giá thành công cụ chủ yếu và hữu hiệu trong việc điều tiết cung cầu ngoại tệ trên TTNH. - Tăng cường dự trữ ngoại tệ vào NHNN, đảm bảo mức dự trữ cần thiết tối thiểu (3-6 tuần nhập khẩu), nhằm tạo đủ nguồn để NHNN can thiệp kịp thời, đủ liều lượng thông qua các biện pháp thị trường, giúp cho hoạt động của TTNH được ổn định và thông suốt. - Tập trung dự trữ ngoại hối nhà nước về một đầu mối là NHNN. 2.4. Hoàn thiện và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ Theo các cam kết giữa hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ trong HĐTMVM thì khi tham gia vào TTNH Việt Nam, các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ sẽ tiến hành cung cấp tất cả các loại hình nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối như Spot, Swap, Forward, Option, Future cho khách hàng. Với một trình độ quản lý, công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm hoạt động lâu năm về lĩnh vực ngoại hối, chắc chắn các nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa Kỳ sẽ gây sức ép cho các chủ thể đang hoạt động trên TTNH Việt Nam. Hơn nữa do TTNH Việt Nam mới ở dạng sơ khai và còn kém phát triển nên những quy định của Nhà nước về các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ vẫn chứa đựng khá nhiều hạn chế, gây ra một số khó khăn nhất định cho các chủ thể trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ trên TTNH, khiến cho TTNH Việt Nam thời gian vừa qua diễn biến thất thường và kém hiệu quả. Để cải thiện được tình trạng này nhằm từng bước phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam theo hướng phù hợp với xu thế phát triển của TTNH quốc tế đồng thời đáp ứng các yêu cầu được đặt ra trong HĐTMVM thì công tác hoàn thiện và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Về nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi Như chúng ta đã biết mục đích chính của việc sử dụng hợp đồng kỳ hạn và hoán đổi là phòng chống rủi ro tỷ giá, bởi vì trong cơ chế thị trường, tỷ giá là đại lượng nhạy cảm với nhiều biến số, do đó biến động khôn lường. Hay nói cách khác, nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi chỉ có thể phát triển theo đúng nghĩa của nó khi tỷ giá được thay đổi theo quan hệ cung cầu trên TTNH. Rõ ràng là, với chính sách tỷ giá cố định trong một biên độ hẹp sẽ không tạo ra môi trường để phát triển các nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi. Điều này nói lên rằng, định hướng trong chính sách tỷ giá của NHNN cần phải tăng dần hàm lượng các biến số thị trường trong việc xác định tỷ giá, có như vậy tỷ giá mới phản ánh thực chất quan hệ cung cầu trên TTNH. Để thúc đẩy nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi, trước mắt nên cho phép các ngân hàng thực hiện các hợp đồng với các kỳ hạn linh hoạt mà không bị khống chế như quy định trong Quyết định số 1198/2001/QĐ- NHNN, ngày 18/09/2001 của Thống đốc NHNN. Bên cạnh đó, từng bước nới rộng tỷ lệ % gia tăng cho phép để các ngân hàng có thể yết giá cạnh tranh tạo cho thị trường có độ thanh khoản cao hơn và sôi động hơn. Tuy nhiên, về lâu dài thì biện pháp quy định tỷ lệ % gia tăng cho phép cũng cần được dỡ bỏ. Về nghiệp vụ quyền chọn Tại Việt Nam nghiệp vụ quyền chọn đã được đưa vào thực hiện thí điểm ở một số ngân hàng từ giữa tháng 2/2003 nhưng mới chỉ giới hạn ở nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ nên chúng ta chưa thể đánh giá được hiệu quả của nghiệp vụ này. Nhưng vì nghiệp vụ quyền chọn rất phức tạp về mặt nội dung nghiệp vụ, do đó cần triển khai từng bước, từ đơn giản đến phức tạp, cụ thể là: - Trước tiên, chỉ thực hiện quyền chọn giữa VND và USD. Sau khi thị trường đã quen thì có thể mở rộng quyền chọn giữa VND và các ngoại tệ khác. Khi TTNH Việt Nam phát triển đạt tới trình độ quốc tế thì mới tiến hành quyền chọn giữa ngoại tệ/ngoại tệ. - Chỉ nên áp dụng quyền chọn kiểu châu Âu, nghĩa là việc thực hiện quyền chọn chỉ xảy ra tại thời điểm hợp đồng đáo hạn. Vì hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ cho phép tiến hành thực hiện quyền chọn tại bất cứ thời điểm nào trong suốt thời gian hiệu lực của hợp đồng, do đó mang nặng tính đầu cơ nên chưa phù hợp với ta ở giai đoạn đầu. Tuy nhiên, khi thị trường đã phát triển ở trình độ cao thì cũng cần xem xét triển khai nghiệp vụ này. - Về mặt thời hạn hợp đồng: để có thể kiểm soát được và tránh tâm lý đầu cơ, thì thời hạn hợp đồng nên quy định ngắn từ 3 tháng trở xuống. Khi thị trường đã phát triển thì thời hạn hợp đồng do ngân hàng và khách hàng tự thoả thuận. - ở các thị trường phát triển, hợp đồng quyền chọn nhằm hai mục đích là phòng chống rủi ro tỷ giá và thực hiện hành vi đầu cơ. Đối với Việt Nam, do tính thanh khoản của TTNH chưa cao, do đó việc mua bán ngay một lượng ngoại tệ nhất định không phải lúc nào cũng thực hiện được, do vậy ngoài mục đích phòng chống rủi ro tỷ giá, thì thông qua hợp đồng quyền chọn phải bảo đảm cho khách hành quyền được mua ngoại tệ. Về nghiệp vụ tương lai Về ý nghĩa, giao dịch tương lai thực chất là một trò chơi cá cược, kích thích đầu cơ. Do đó, tác dụng của nó đối với nền kinh tế là hạn chế, cho nên chưa mở rộng nghiệp vụ này ở Việt Nam. 2.5. Đào tạo cán bộ và trang bị kỹ thuật hiện đại Do TTNH là một thị trường có tính cạnh tranh rất cao, độ thanh khoản lớn, do đó những thông tin về thị trường phải tức thời và đòi hỏi giảm thiểu thời gian giao dịch. Để đáp ứng nhu cầu kinh doanh, thì việc ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng mạng thông tin hiện đại là điều kiện rất quan trọng bảo đảm cho hoạt động kinh doanh được thông suốt và hiệu quả. Mặt khác, thông tin thị trường, một khi được cập nhật lại có tác động thúc đẩy sự phát triển của thị trường. Bởi vậy, phòng kinh doanh ngoại tệ cần được trang bị thiết bị hiện đại để tiếp nhận những thông tin sống trên thị trường, đồng thời để có thể giao dịch kinh doanh trực tiếp với TTNH quốc tế. Do nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ là loại hình kinh doanh mới mẻ đối với Việt Nam và tính chất nghiệp vụ lại phức tạp, do đó, công tác đào tạo và đào tạo lại phải được coi trọng đúng mức và phải được tiến hành thường xuyên; cần đào tạo cả về lý thuyết và thực hành, cả trong nước và ngoài nước, có như vậy cán bộ kinh doanh mới có điều kiện cảm nhận hết tính thị trường của nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối. 3. Đối với thị trường chứng khoán Như chúng ta đã biết, TTCK đóng một vai trò quan trọng trong việc huy động vốn dài hạn cho việc phát triển kinh tế. Một thị trường tài chính hoạt động ổn định, hiệu quả có nghĩa là bản thân mỗi TTTT, TTNH và TTCK cũng phải hoạt động có hiệu quả. Và việc tiến hành phát triển và hoàn thiện TTTC theo xu hướng ngày càng phù hợp với những diễn biến của nền kinh tế thị trường cũng như xu thế phát triển của nền tài chính quốc tế, đảm bảo tuân thủ đầy đủ theo các cam kết trong các hiệp định thương mại song phương và đa phương như HĐTMVM, đồng nghĩa với việc chúng ta thực hiện lành mạnh hoá từng bộ phận cấu thành nên TTTC trong đó có TTCK. ở Việt Nam, TTCK mới ra đời và đang ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển tuy nhiên đã biểu hiện khá nhiều yếu kém và tồn tại. Một loạt vấn đề nổi lên như: sự biến động thất thường của chỉ số VN-Index, sự suy giảm hàng loạt giá các loại cổ phiếu được niêm yết trên TTGDCK, khối lượng chứng khoán giao dịch bình quân liên tục giảm và lòng tin của công chúng đầu tư vào hoạt động của thị trường đang ngày một suy giảm, đã và đang khiến cho các nhà hoạch định đường lối chiến lược phát triển TTCK Việt Nam không khỏi lúng túng. Như vậy, làm thế nào để phát triển TTCK Việt Nam, đảm bảo thị trường đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế trong sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước đồng thời đây nhanh sự hội nhập TTTC quốc gia vào TTTC quốc tế, đang là một yêu cầu cấp thiết. Còn trong tình hình hiện nay, giúp thị trường ra khỏi giai đoạn suy giảm, bước vào giai đoạn ổn định, từ đó đưa thị trường dần phát triển một cách vững chắc là yêu cầu hàng đầu. Muốn vậy, thời gian tới cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau: 3.1. Khôi phục và nâng cao lòng tin của công chúng đầu tư Đây được coi là giải pháp ưu tiên hàng đầu bởi lẽ đầu tư và đặc biệt là đầu tư chứng khoán là dựa trên lòng tin vào sự phát triển, vào khả năng thu lợi trong tương lai. Nếu mất lòng tin của công chúng đầu tư thì TTCK Việt Nam không còn cơ hội phát triển. Điều này chỉ có thể giải quyết một cách cơ bản khi thông tin trên thị trường đáp ứng được yêu cầu hiệu quả, đảm bảo thông tin chính xác, kịp thời và công bằng. Công tác quản lý hoạt động công bố thông tin nói riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung của tổ chức niêm yết phải được phân cấp triệt để cho TTGDCK. UBCKNN cần tổ chức những buổi đối thoại trực tiếp với công chúng đầu tư để nắm bắt kịp thời những ý kiến của nhà đầu tư, nguyện vọng của họ, trực tiếp giải đáp những ưu tư của họ về tương lai của thị trường. Tất cả phải trên quan điểm “nhà đầu tư chính là chủ thể quan trọng nhất của thị trường, lợi ích của họ là lợi ích đầu tiên cần được bảo vệ”. 3.2. Xây dựng một lộ trình rõ ràng trong công tác tăng cường số lượng và chất lượng của các chứng khoán được niêm yết trên TTGDCK Như chúng ta biết, mặc dù TTCK Việt Nam đã đi vào hoạt động được hơn 3 năm song các loại hàng hoá được kinh doanh trên Thị trường còn khá “đơn điệu”, mới chỉ dừng lại ở cổ phiếu của công ty cổ phần, trái phiếu của Chính phủ và trái phiếu của Ngân hàng Đầu tư phát triển. Những loại hàng hoá khác được cam kết trong HĐTMVM như: trái phiếu công ty, séc, hối phiếu, ngoại hối; các sản phẩm tài chính phái sinh như hợp đồng giao dịch kỳ hạn, quyền chọn… vẫn chưa được phép niêm yết và giao dịch tại TTGDCK. Như vậy, để thực hiện tốt các cam kết trong HĐTMVM về lĩnh vực chứng khoán thì công tác tăng cường số lượng và chất lượng của các chứng khoán được niêm yết trên TTGDCK đang ngày càng trở nên cấp thiết. Do vậy, những công việc cần làm trước mắt là: Trước hết, nhanh chóng đưa cổ phiếu của các công ty lớn, tiềm lực tài chính mạnh, có uy tín trên thương trường vào giao dịch trên thị trường tập trung là một nhu cầu cấp thiết. Các ngân hàng thương mại cổ phần, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổng công ty được tổ chức lại theo mô hình công ty mẹ- công ty con là những đối tượng cần được quan tâm hàng đầu. Nâng cao chất lượng các loại cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường tập trung thông qua nâng dần tiêu chuẩn niêm yết là một đòi hỏi khách quan. Tiêu chuẩn cần được quan tâm nâng lên đầu tiên là mức độ lợi nhuận trong một số năm đã qua; nên chăng cần có sự so sánh với vốn kinh doanh của doanh nghiệp qua các năm. Chỉ tiêu này phản ánh tương đối toàn diện tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh, khả năng tổ chức nguồn vốn của công ty trên thương trường. Sẵn sàng loại bỏ những cổ phiếu, trái phiếu không đáp ứng được tiêu chuẩn niêm yết ra khỏi thị trường. Cơ chế đào thải là động lực mạnh mẽ buộc các công ty phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao trách nhiệm trước các cổ đông, các nhà đầu tư. 3.3. Những giải pháp thu hút đầu tư vào TTCK * Miễn giảm thuế, phí, lệ phí đối với các nhà đầu tư có tổ chức trong và ngoài nước, các công ty chứng khoán Để TTCK thực sự là kênh huy động vốn cần đẩy mạnh quy mô giao dịch, tăng cầu thông qua việc thu hút các nhà đầu tư lớn, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức trong nước và nước ngoài. Trong thời gian vừa qua, trên TTCK Việt Nam hầu như vắng bóng các nhà đầu tư lớn có tổ chức, điều đó phần nào gây nên sự kém hấp dẫn và tình trạng ảm đạm của thị trường. Vai trò của các nhà đầu tư có tổ chức đối với TTCK là rất lớn, họ góp phần bình ổn thị trường, tạo sự sôi động của TTCK… Có lẽ hiện nay các nhà đầu tư lớn có tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài không đầu tư vào Việt Nam là do chưa có nhiều chính sách ưu đãi về thuế, còn nhiều vướng mắc về Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Do vậy, nhằm thu hút các nhà đầu tư, kích cầu cho TTCK Việt Nam trước hết cần: + Bổ sung ngành đầu tư chứng khoán vào danh mục A- danh mục ngành nghề thuộc các lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư theo Nghị định 51/1999/NĐ- CP và Nghị định 35/2002/NĐ- CP của Chính phủ. Mức ưu đãi có thể theo một trong hai phương án sau: 1, Được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động mua bán cổ phiếu 4 năm đầu kể từ khi có thu nhập chịu thuế và được giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong thời gian tối đa tiếp theo; 2, Được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 2 năm đầu kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho 2 năm tiếp theo. Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư cổ phiếu là 25% theo Nghị định 51/1999/NĐ- CP và Nghị định 35/2002/NĐ- CP. Hiện nay, mặc dù Chính phủ và Bộ Tài chính đã có các chính sách ưu đãi đối với hoạt động đầu tư chứng khoán, như đối với các tổ chức trong nước thực hiện theo Quyết định số 39/2000/QĐ- TTg ngày 27/03/2000 của Thủ tướng Chính phủ, đối với pháp nhân nước ngoài hoạt động kinh doanh chứng khoán thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định tại Thông tư số 169/TT- BTC, mới đây nhất là Quyết định số 36/2003/QĐ- TTg 36/2003/QĐ- TTg ngày 11/03/2003 về việc ban hành Quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam, nhưng với tình trạng cầu chứng khoán giảm trong khi các nhà đầu tư lại tích luỹ tiền đầu tư vào bất động sản, vàng bạc… thì giải pháp miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ góp phần thu hút được một số lượng lớn các nhà đầu tư có tổ chức vào lĩnh vực mới mẻ này. + Điều chỉnh Điều 2 về thuế GTGT, Quyết định số 39/2000/QĐ- TTg ngày 27/03/2000 của Chính phủ về quy định tạm thời ưu đãi về thuế đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán, gia hạn thêm việc miễn thuế GTGT đối với các công ty chứng khoán tới năm 2005 nhằm khuyến khích các tổ chức trong và ngoài nước tham gia vào TTCK. Bên cạnh đó cũng nên điều chỉnh kịp thời việc ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các công ty chứng khoán góp phần hoàn thành mục tiêu chiến lược phát triển TTCK từ nay đến năm 2010; đạt từ 30- 35 công ty chứng khoán hoạt động trên TTCK Việt Nam. + Bổ sung khoản 1, Điều 3 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam về lĩnh vực được ưu đãi đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài có tổ chức vào TTCK Việt Nam, góp phần tăng thêm tính cạnh tranh cho thị trường này. * Đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá các tập đoàn kinh tế mạnh, cho phép các ngân hàng thương mại cổ phần tham gia TTCK Đối với các nhà đầu tư chứng khoán đơn lẻ thì việc đầu tư chứng khoán phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tâm lý, chính vì vậy để tăng tính hấp dẫn của chứng khoán cần thiết phải cổ phần hoá một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, các tổng công ty, tập đoàn kinh tế mạnh. Nhà nước nên giữ lại một số doanh nghiệp chủ chốt trong nền kinh tế, còn lại tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, có tiềm năng lớn trong các ngành, lĩnh vực kinh tế như: bưu chính viễn thông, hàng dệt may, sản xuất ô tô, tập đoàn xây dựng… Chỉ có sự xuất hiện của các doanh nghiệp mạnh, doanh nghiệp mũi nhọn của Việt Nam trên TTCK thì khi đó mới kích thích được các nhà đầu tư quan tâm hơn tới thị trường và quan hệ cung cầu mới sôi động, chỉ số VN- Index mới phản ánh được thực chất sự tăng trưởng của nền kinh tế. Bên cạnh đó, các NHTM cổ phần tham gia TTCK là rất có ý nghĩa. Đây là đối tượng được công chúng, các nhà đầu tư rất quan tâm. Ngoài ra các NHTM cổ phần tham gia TTCK sẽ thu hút một lượng vốn đầu tư đáng kể trong dân chúng, làm cho các nhà đầu tư quan tâm hơn tới thị trường còn mới mẻ này. Vì vậy, Chính phủ cũng như NHNN cần cho phép các NHTM cổ phần tham gia TTCK để cải thiện, tăng chủng loại và nâng cao chất lượng của chứng khoán trên sàn giao dịch, thu hút các nhà đầu tư. * Tăng cường khuyến khích các nhà đầu tư chiến lược (có vốn, công nghệ, trình độ quản lý, thị trường tiêu thụ) tham gia tích cực vào TTCK, nhằm đổi mới phát triển doanh nghiệp niêm yết bằng các biện pháp: + Kêu gọi các nhà đầu tư chiến lược tham gia thị trường và hoạt động theo đúng Luật Doanh nghiệp, không nên thành kiến và loại bỏ những quan niệm như “tư nhân nắm quyền”, “thôn tính”, “người ngoài doanh nghiệp vào lãnh đạo”… + Đối với những doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt thì cơ quan đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước nên xem xét việc bán hết, hoặc bán bớt cổ phần nhà nước như quy định tại điều 32 của Nghị định số 64/NĐ- CP ngày 19/06/2002 của Chính phủ. Đặc biệt, đối với những DNNN độc lập đã được cổ phần hoá (trực thuộc UBND tỉnh, bộ), thì cần cơ cấu lại phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Việc cơ cấu này nhằm đảm bảo thu hút chất xám từ bên ngoài, thu hút các nhà đầu tư chiến lược tham gia quản lý doanh nghiệp và không nên để tình trạng công chức nhà nước tham gia quản lý doanh nghiệp có quyền quyết định trong doanh nghiệp. Việc cơ cấu lại cổ phần nhà nước sẽ bảo đảm phương thức quản trị chuyên nghiệp hơn, dân chủ hơn. + Thúc đẩy sự ra đời của các công ty quản lý quỹ đầu tư và quỹ đầu tư chứng khoán. Về phía Nhà nước, nên có cơ chế sử dụng một phần tiền bán cổ phần doanh nghiệp nhà nước để góp phần vào các quỹ đầu tư chứng khoán. Nhà nước cần coi đây là các khoản vốn mồi nhằm thúc đẩy sự ra đời của nhiều quỹ đầu tư chứng khoán. 3.4. Hoàn chỉnh khung pháp lý cho hoạt động TTCK Để tạo cho TTCK có được môi trường hoạt động thuận lợi, có hiệu quả, vấn đề đặt ra đối với các nhà quản lý là phải nhanh chóng hoàn chỉnh khung pháp lý theo nguyên tắc bảo vệ nhà đầu tư, đưa ra các quy tắc, kỷ luật của thị trường và ngăn chặn những hành vi gian lận, những vẫn đảm bảo khuyến khích các thành viên tham gia thị trường. Luật pháp về chứng khoán và TTCK cần được thống nhất thành một hệ thống hoàn chỉnh. Thực tế hiện nay, hệ thống văn bản pháp quy về chứng khoán còn chưa hoàn chỉnh và có nhiều chồng chéo với các văn bản thuộc các lĩnh vực khác liên quan; vì vậy, chúng ta cần rà soát và điều chỉnh cho phù hợp. Mặc dù mới đây Nghị định 144/CP đã được ban hành vào ngày 28/11/2003 thay thế cho Nghị định 48/CP song vẫn rất cần phải nghiên cứu và ban hành Luật chứng khoán để thống nhất quản lý việc phát hành (kể cả việc phát hành không niêm yết và phát hành riêng lẻ) và niêm yết, giao dịch chứng khoán (giao dịch tại Sở và trên thị trường phi tập trung OTC) vào một đầu mối là UBCKNN. Các điều kiện phát hành, niêm yết và việc quản lý các thành viên thị trường cũng phải được quy định chặt chẽ hơn như nâng cao yêu cầu về vốn, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng đáp ứng nhu cầu chi trả nợ, năng lực điều hành của lãnh đạo doanh nghiệp… Đồng thời cũng cần sửa đổi bổ sung hai nhóm Luật riêng là: các chế định về công ty chứng khoán, quỹ đầu tư… và các chế định liên quan đến nhà đầu tư. Một vấn đề khác cũng rất quan trọng đó là cần phải thiết lập một môi trường pháp lý chuẩn cho hoạt động kế toán- kiểm toán, thực hiện mục tiêu tiến tới sự công nhận của quốc tế về hệ thống kế toán- kiểm toán Việt Nam, để các nhà đầu tư (đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài) yên tâm và tin tưởng vào các thông tin tài chính được công bố làm cơ sở để đầu tư vào TTCK. Mục tiêu là chúng ta sẽ chuyển từ hình thức “quản lý theo chế độ xem xét chất lượng” sang phương thức “công bố thông tin đầy đủ” như nhiều thị trường tiên tiến đang thực hiện. 3.5. Một số giải pháp về hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật và bộ máy quản lý điều hành hoạt động thị trường Thứ nhất, hoàn thiện một bước cơ sở vật chất, kỹ thuật của thị trường bằng cách nâng cấp, hiện đại hoá hệ thống giao dịch và giám sát thị trường của TTGDCK; tự động hoá một bước hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Xây dựng TTGDCK Hà Nội cho giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cơ sở cho phát triển thị trường OTC. Thứ hai, sắp xếp, hoàn thiện tổ chức bộ máy của UBCKNN, TTGDCK theo tinh thần Nghị định 30/2003/NĐ- CP ngày 1/4/2003 của Chính phủ nhằm nâng cao khả năng quản lý, điều hành, giám sát thị trường một cách linh hoạt, có hiệu quả. Tăng cường quản lý, giám sát thị trường thông qua việc tổ chức và hoàn thiện các hoạt động theo dõi, kiểm tra, thanh tra các hoạt động trên thị trường để kịp thời ban hành chính sách điều chỉnh phù hợp và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Kết luận T hị trường tài chính là một lĩnh vực rất nhạy cảm với các tin tức. Các thông tin về kim ngạch xuất nhập khẩu, tỷ lệ lạm phát, lượng cung ứng tiền tệ, mức thâm hụt ngân sách cũng như tin tức dự đoán về các biến động lớn về kinh tế chính trị trên quốc gia và thế giới đều có thể ảnh hưởng tới phản ứng của các thành viên trên Thị trường tài chính và làm giá cả chứng khoán, lãi suất, tỷ giá hối đoái biến động. Nói như thế để thấy được sự khó khăn phức tạp trong việc tổ chức và vận hành Thị trường tài chính lớn hơn nhiều so với các thiết chế tài chính khác. Việt Nam đang đi những bước đầu tiên trên con đường xây dựng và phát triển Thị trường tài chính theo mô hình của các nước công nghiệp, đáp ứng các yêu cầu được đặt ra trong quá trình hội nhập thị trường tài chính quốc tế cũng như các cam kết trong Hiệp định thương mại song phương và đa phương. Biết bao nhiêu trở ngại và khó khăn còn đang ở phía trước nhưng điều may mắn của chúng ta là chính những cam kết trong các Hiệp định song phương và đa phương về thương mại, đặc biệt là cam kết trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ về lĩnh vực tài chính sẽ là “kim chỉ nam”, là hướng đi cho Thị trường tài chính Việt Nam thực hiện thành công quá trình đổi mới và hoàn thiện để ngày càng phù hợp với xu thế phát triển chung của nền tài chính quốc tế. Tuy nhiên để thực hiện được những mục tiêu đã đề ra thì cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng giữ vai trò quản lý và điều tiết nền tài chính quốc gia và của cả chính chúng ta- những chủ nhân tương lai của đất nước, những thành phần tham gia và đóng góp vai trò không nhỏ trong Thị trường tài chính Việt Nam. Từ những vấn đề lý luận tổng quát về Thị trường tài chính, khoá luận đã phân tích cụ thể thực trạng thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề tồn tại cần giải quyết trong quá trình thực hiện các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ để từ đó rút ra những giải pháp phát triển Thị trường tài chính Việt Nam trong thời gian tới trên cơ sở những những định hướng xây dựng một thị trường tài chính vững mạnh ở Việt Nam theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, đảm bảo tuân thủ theo đúng các chuẩn mực quốc tế về Thị trường tài chính. Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Đình Tài- Sự hình thành và phát triển Thị trường tài chính của nền kinh tế chuyển đổi Việt Nam- NXB chính trị quốc gia- 1999 2. Frederic S. Mishkin- Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính- 1992 3. Hoạt động tài chính trong nền kinh tế thị trường- Ngô Thị Cúc 4. PGS. NGƯT Đinh Xuân Trình- Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương- NXBGD trường ĐHNT- 1998 4. Báo đầu tư chứng khoán các số 173,181,183,190,199 5. Tạp chí tài chính các số 4,8,9/2003 6. Hiệp định giữa CHXHXN Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về quan hệ thương mại- Thời cơ và thách thức- Phan Hữu Thủ- CAND 7. Nguyễn Văn Tiến- Thị trường ngoại hối Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế- 2001. 8. UBCKNN- Báo cáo tổng kết 3 năm hoạt động thị trường chứng khoán. 9. Văn kiện đại hội Đảng VIII- NXB chính trị quốc gia- 1996. 10. Thị trường Tài chính tiền tệ số 3/2003. 11. Tạp chí ngân hàng số 9,13/2003. 12. PGS.NGƯT Đinh Xuân Trình- PTS. Nguyễn Thị Quy- Giáo trình thị trường chứng khoán- NXBGD trường ĐHNT- 1998. 13. Báo cáo thường niên 2001,2002- Ngân hàng Nhà nước. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa luan tot nghiep.doc
  • docBia.doc
  • docMuc luc.doc